Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Một số biện pháp phát huy tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi thông qua hoạt động nặn ở trường mầm non nghĩa ninh thành phố đồng hới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 77 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trân trọng cảm ơn trường Đại học Quảng Bình cùng toàn thể các giảng
viên trong Khoa Giáo dục Tiểu học - Mầm non đã trực tiếp chỉ dẫn cho tôi trong
thời gian tôi học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo ThS. Trần
Công Thoan, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian học tập,
nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cô và cháu trường Mầm non Nghĩa Ninh
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong công tác nghiên cứu.
Bước đầu làm công tác nghiên cứu khoa học nên không thể tránh khỏi
những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy
giáo viên, bạn bè để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
Đồng Hới, tháng 5 năm 2017
Sinh viên: Đinh Thị Thanh Hà

i


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài. .............................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài............................................................................... 2
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ................................................... 2
3.1. Mục đích nghiên cứu. ..................................................................................... 2
3.2. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................... 2
3.3. Phạm vi nghiên cứu. ....................................................................................... 3
4. Giả thuyết khoa học........................................................................................... 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu. ....................................................................................... 3
6. Phương pháp nghiên cứu khoa học. .................................................................. 3
6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu.................................................................... 3


6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn................................................................. 3
6.3. Phương pháp toán thống kê. ........................................................................... 4
7. Những đóng góp khoa học và thực tiễn của khóa luận. .................................... 4
8. Cấu trúc của khóa luận. ..................................................................................... 4
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH SÁNG TẠO CỦA TRẺ MẪU
GIÁO 5- 6 TUỔI QUA HOẠT ĐỘNG NẶN ....................................................... 6
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu tính sáng tạo trẻ mẫu giáo trong hoạt động nặn . 6
1.2. Tính sáng tạo của trẻ mẫu giáo trong hoạt động nặn. .................................... 8
1.2.1. Cơ sở tự nhiên và cơ sở xã hội của sáng tạo ............................................. 11
1.2.2. Trí thông minh và sáng tạo........................................................................ 13
1.2.3. Cảm xúc và sáng tạo.................................................................................. 15
1.2.4. Quá trình sáng tạo ..................................................................................... 16
1.2.5. Tiêu chí sáng tạo ....................................................................................... 17
1.2.6. Nhân cách sáng tạo.................................................................................... 18
1.3. Đặc điểm sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi thông qua hoạt động nặn ..... 19
1.3.1. Khái niệm hoạt động nặn .......................................................................... 19
1.3.2. Bản chất hoạt động nặn của trẻ mẫu giáo ................................................. 20
ii


1.3.3. Đặc điểm ngôn ngữ tạo hình trong sản phẩm nặn của trẻ......................... 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO CỦA TRẺ 5-6
TUỔI QUA HOẠT ĐỘNG NẶN Ở TRƯỜNG MẦM NON NGHĨA NINH-TP
ĐỒNG HỚI. ......................................................................................................... 23
2.1. Thực trạng tính sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động nặn ở trường
Mầm non Nghĩa Ninh- TP Đồng Hới ................................................................. 23
2.1.1.Vài nét về trường Mầm non Nghĩa Ninh-TP Đồng Hới. ........................... 23
2.2. Khái quát về tổ chức nghiên cứu thực trạng ................................................ 24
2.2.1. Mục đích khảo sát ..................................................................................... 24

2.2.2. Đối tượng và thời gian khảo sát ................................................................ 24
2.2.3. Phạm vi khảo sát ....................................................................................... 24
2.2.4. Nội dung khảo sát...................................................................................... 24
2.2.5. Phương pháp khảo sát ............................................................................... 25
2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng sự sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt
động nặn .............................................................................................................. 25
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO CỦA
TRẺ 5-6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NẶN ......................................... 33
3.1. Cơ sở định hướng để xây dựng các biện pháp phát huy tính tích cực sáng
tạo trong giờ học nặn cho trẻ 5 – 6 tuổi .............................................................. 33
3.2. Các biện pháp phát huy tính tích cực sáng tạo trong hoạt động nặn cho trẻ 5
– 6 tuổi ................................................................................................................. 33
3.3.Tổ chức thử nghiệm ...................................................................................... 37
3.3.1. Mục đích thử nghiệm ................................................................................ 37
3.3.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thử nghiệm ............................................. 37
3.3.3 Nội dung thử nghiệm.................................................................................. 37
3.3.4. Quy trình thử nghiệm ................................................................................ 38
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 52
PHỤ LỤC I .......................................................................................................... 53
PHỤ LỤC 2 ......................................................................................................... 71
iii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT

Viết tắt

Ý nghĩa đầy đủ


1

ĐC

Đối chứng

2

GDMN

Giáo dục mầm non

3

GV

Giáo viên

4

MG

Mẫu giáo

5

MGL

Mẫu giáo lớn


6

MN

Mầm non

7



Mức độ

8

TN

Thử nghiệm

iv


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Nhận thức của giáo viên về vai trò của việc phát huy tính sáng tạo
trong hoạt động nặn cho trẻ.
Bảng 2.2. Mức độ thường xuyên tổ chức các hoạt động nặn nhằm phát huy tính
sáng tạo cho trẻ MG 5-6 tuổi.
Bảng 2.3. Nhận thức về lựa chọn hoạt động để phát huy tính sáng tạo cho trẻ
thông qua hoạt động tạo hình.
Bảng 2.4. Vấn đề giáo viên chú ý nhất khi tổ chức hoạt động nặn cho trẻ.

Bảng 2.5. Nhận thức của giáo viên về khả năng thể hiện sự sáng tạo của trẻ
trong sản phẩm nặn.
Bảng 2.6. Nhận thức của giáo viên về mức độ trẻ sáng tạo khi tham gia vào hoạt
động tạo hình.
Bảng 2.7. Các biện pháp mà giáo viên đã áp dụng nhằm phát huy tính sáng tạo
cho trẻ.
Bảng 2.8. Nhận thức của giáo viên về hiệu quả việc phát huy tính sáng tạo cho
trẻ MG 5-6 thông qua hoạt động nặn.
Bảng 3.1. Kết quả khảo sát mức độ sáng tạo của trẻ trước khi thực nghiệm.
Bảng 3.2. Mức độ trẻ tham gia hoạt động nặn một cách thích thú, say mê.
Bảng 3.3. Mạnh dạn, tự tin trả lời các câu hỏi. Biết nói lên ý tưởng và đặt tên
cho sản phẩm của mình.
Bảng 3.4. Mức độ biết sử dụng các kỹ năng khác nhau khi nặn.
Bảng 3.5. Trẻ biết sáng tạo trong bài nặn và biết giữ gìn sản phẩm.
Bảng 3.6. Mức độ sáng tạo của trẻ sau khi thử nghiệm.

v


DANH MỤC BIỂU
Sơ đồ 3.1. Mức độ sáng tạo cho trẻ trước khi thử nghiệm.
Sơ đồ 3.2. Mức độ trẻ tham gia hoạt động nặn một cách thích thú, say mê.
Sơ đồ 3.3. Mạnh dạn, tự tin trả lời các câu hỏi. Biết nói lên ý tưởng và đặt tên
cho sản phẩm của mình.
Sơ đồ 3.4. Mức độ biết sử dụng các kỹ năng khác nhau khi nặn.
Sơ đồ 3.5. Trẻ biết sáng tạo trong bài nặn và biết giữ gìn sản phẩm.
Sơ đồ 3.6. Mức độ sáng tạo của trẻ sau khi thử nghiệm.

vi



PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài.
Hoạt động tạo hình của trẻ là một hoạt động tổng hợp nhiều năng lực và

phẩm chất của hoạt động nghệ thuật, qua đó trẻ bộc lộ các đặc điểm của nhân
cách phát triển tâm lý của trẻ. Hoạt động tạo hình của trẻ có nguồn gốc xã hội,
mang bản chất xã hội và đặc điểm lứa tuổi trẻ mầm non, là quá trình tâm, sinh lý
đang trong giai đoạn phát triển hoàn thiện. Vì vậy, việc chăm sóc giáo dục trẻ
ngay từ những năm đầu tiên của cuộc đời có ý nghĩa rất quan trọng là đặt những
nền tảng đầu tiên cho sự hình thành và phát triển nhân cách toàn diện. Như vậy,
hoạt động tạo hình là phương tiện thích hợp là ngôn ngữ phong phú giúp trẻ
không chỉ tiếp cận thế giới mà còn phản ánh thế giới thông qua nhận thức thể
hiện tình cảm yêu thích, ghét, ước mơ,... Bằng kỹ năng vẽ, xé dán, nặn được
thực hiện theo chương trình giáo dục Mầm non mới cùng với sự tác động của
giáo viên Mầm nongiúp trẻ khả năng cảm thụ, đánh giá cái đẹp hình thành cảm
xúc thẩm mỹ. Giống như hoạt động vẽ, xé dán, hoạt động nặn trẻ được rèn luyện
điều chỉnh hoạt động của mắt, não, các kỹ năng khéo léo, linh hoạt của đôi bàn
tay như kỹ năng thể hiện các đường nét,sử dụng màu, bố cục, trang trí tác phẩm,
đặc biệt chương trình hoạt động nặn là một trong những chương trình dạy trẻ thể
hiện cấu một trúc nặn đẹp của hình khối của mọi vật và thể hiện phương thức
sắp đặt nghệ thuật trong không gian ba chiều, điều này ảnh hưởng đến trí tưởng
tượng sáng tạo của trẻ sau này. Bằng phương pháp “chơi mà học, học bằng
chơi” là phương pháp chủ đạo trong quá trình giáo dục trẻ, giáo viên mầm non
cần biết khai thác các trò chơi dân gian (“tò he”, “đập niêu”) kích thích trẻ chơi
và học với đất. Trong thời kỳ tiền tạo hình ở hoạt động nặn của trẻ thường đi
qua nhanh hơn so với hoạt động vẽ do đặc điểm của vật liệu nặn có hình khối,
dễ nặn, trẻ dễ dàng nhanh chóng tạo ra sản phẩm mong muốn. Vì vậy việc cần

tiếp tục phát huy tính sáng tạo đối với hoạt động nặn là do vai trò tác động khéo
léo của giáo viên. Lôi cuốn sự hứng thú, tích cực sáng tạo của trẻ đối với hoạt
động nặn, thu hút trẻ thích tham gia hoạt động, giúp trẻ nhận ra mối liên hệ giữa

1


các thao tác nặn của giáo viên với sự xuất hiện và biến đổi lý thú của các hình
nặn, kích thích trẻ chơi với đất như một loại đồ chơi.
Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng: hoạt động sáng tạo với đất nặn là một
trong những hoạt động trí tuệ giúp trẻ thông minh hơn vì đây là môn nghệ thuật
giúp trẻ thể hiện ra bên ngoài được những suy nghĩ của mình và cụ thể hóa
những quan sát hay trí tưởng tượng của trẻ về thế giới xung quanh… Do đó,
thường xuyên học nặn sẽ kích thích khả năng tri giác ở nhiều mặt: quan sát giúp
trẻ nâng cao nhận thức và phát triển thị giác, rèn luyện trí nhớ, giúp cho các kỹ
năng vận động chính xác, tăng sự hiểu biết về tỷ lệ, cấu trúc sự vật trong không
gian, phát huy trí tưởng tượng… Tất cả những điều này sẽ thúc đẩy não trẻ phát
triển, giúp con thông minh hơn. Vì vậy nên tôi chọn nội dung nghiên cứu “Một
số biện pháp phát huy tính sáng tạo cho trẻ Mẫu giáo 5- 6 tuổi thông qua
hoạt động nặn ở trường Mầm non Nghĩa Ninh- Thành phố Đồng Hới” hiện
nay.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài.
Qua một thời gian tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy chưa có một đề tài nào

nghiên cứu về vấn đề này. Do vậy, chúng tôi muốn nghiên cứu đề tài nhằm nâng
cao tính sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động nặn ở trường Mầm non,
đây cũng là mảng đề tài được quan tâm hiện nay.
3.


Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

3.1.

Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu thực trạng và một số biện pháp nhằm nâng cao tính sáng tạo cho

trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động nặn, rèn luyện sự khéo léo của đôi bàn tay
và phát triển trí sáng tạo của trẻ bước đầu chuẩn bị cho trẻ học chữ, học viết ở
trường phổ thông.
3.2.

Đối tượng nghiên cứu.
Thực trạng và biện pháp phát huy tính sáng tạo cho trẻ Mầm non 5-6 tuổi

thông qua hoạt động nặn.

2


3.3.

Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu phát huy tính sáng tạo trong hoạt động nặn. Khảo sát trẻ 5-6

tuổi thông qua các giáo viên phụ trách các lớp của trường: Mầm non Nghĩa
Ninh- TP Đồng Hới.
4.


Giả thuyết khoa học.
Việc tìm một số biện pháp kích thích nâng cao tính sáng tạo giúp trẻ phát

triển khả năng tập trung chú ý cao, giúp trẻ tăng cường khả năng phối hợp điều
chỉnh hoạt động của mắt, tay, rèn luyện sự khéo léo linh hoạt của đôi bàn tay,
tạo điều kiện tốt để trẻ học tốt ở trường phổ thông.
5.

Nhiệm vụ nghiên cứu.

-Phân tích và hệ thống hóa một số vấn đề lí luận về hoạt động tạo hình, kỹ năng
nặn của trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi để xây dựng cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề
tài.
-Tìm hiểu thực trạng việc tổ chức hoạt động nặn cho trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi, cách
thức biện pháp tổ chức hoạt động tạo hình nhằm khơi gợi nâng cao tính sáng tạo,
kỹ năng nặn cho trẻ 5-6 tuổi.
6. Phương pháp nghiên cứu khoa học.
6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Đọc, thu thập, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu lý luận có liên
quan đến đề tài nghiên cứu.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
6.2.1. Phương pháp quan sát.
Quan sát hoạt động của cô và trong quá trình tổ chức hoạt động tạo hình.
6.2.2. Phương pháp điều tra.
Điều tra giáo viên mầm non bằng hệ thống câu hỏi nhằm nắm được thực
trạng việc sử dụng một số biện pháp nâng cao tính tích cực cho trẻ trong hoạt
động nặn của giáo viên mầm non.
6.2.3. Phương pháp trò chuyện.

3



Trao đổi với trẻ và giáo viên về nội dung và hình thức nặn và đánh giá mức
độ tượng tưởng sáng tạo của trẻ.
6.2.4. Phương pháp thực nghiệm.
Thực nghiệm các biện pháp được đề xuất để kiểm chứng tính đúng đắn của
giả thuyết.
6.2.5. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động nặn.
Trên cơ sở nghiên cứu hoạt động nặn và sự sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi xác định sự sáng tạo của trẻ qua những đặc điểm:
-

Về nội dung: tên sản phẩm nặn; đặc điểm nội dung sản phẩm nặn.

-

Về hình thức: bố cục, màu sắc.

6.3. Phương pháp toán thống kê.
Xử lý kết quả nghiên cứu bằng các công thức toán học thống kê.
Những đóng góp khoa học và thực tiễn của khóa luận.

7.

Giúp phụ huynh và giáo viên mầm non có thêm cơ sở lý luận khoa học về
mức độ tưởng tượng sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi.
Cung cấp một số giải pháp nâng cao tính sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi qua hoạt động
nặn.
8.


Cấu trúc của khóa luận.
Khóa luận được trình bày ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, danh

mục và các phụ lục thì cấu trúc có 3 phần chính. Phần nội dung có 3 chương.
Phần 1: Phần mở đầu
Phần 2: Nội dung nghiên cứu
Chương I: Cơ sở lý luận về tính sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi qua hoạt động
nặn.
Chương II: Thực trạng phát huy tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
qua hoạt động nặn ở trường mầm non Nghĩa Ninh –TP Đồng Hới.
Chương III: Một số biện pháp phát huy tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo5-6
tuổi trong hoạt động nặn.
Phần 3: Kết luận chung và kiến nghị sư phạm.
Tài liệu tham khảo.
4


Danh mục và các phụ lục.

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH SÁNG TẠO CỦA
TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI QUA HOẠT ĐỘNG NẶN
1.1.

Lịch sử vấn đề nghiên cứu tính sáng tạo trẻ mẫu giáo trong hoạt động

nặn

Khi nói đến lĩnh vực sáng tạo, chúng ta không thể không kể đến các
nghiên cứu của nước Mỹ - một quốc gia có nền khoa học kỹ thuật phát triển cao
nhất thế giới. Các nhà nghiên cứu ở đây có những điều kiện thuận lợi về mặt cơ
sở vật chất để tiến hành nghiên cứu, vì vậy, cũng như nhiều lĩnh vực khoa học
khác, việc nghiên cứu sáng tạo có cường độ mạnh nhất là ở Mỹ. Vào đầu những
năm 1920, công trình nghiên cứu về sáng tạo của Lewis Terman trên những học
sinh giỏi có chỉ số IQ từ 140 trở lên đã được các nhà khoa học học đánh giá cao.
Sau đó, ông còn tiếp tục nhiều công trình nghiên cứu khác cũng về lĩnh vực sáng
tạo, rút ra nhiều kết luận về các vấn đề chung của sáng tạo như: môi trường sáng
tạo, vấn đề nhân cách sáng tạo, sản phẩm sáng tạo…Người ta thường đề cập tới
những thiên tài trong các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật như: Wolfgang
AmadeusMozart, Albert Einstein, Lev Tolstoy, Isaac Newton, Leonardo da
Vinci…, vì vậy vấn đề bản chất và quy luật của hoạt động sáng tạo chưa được đi
sâu nghiên cứu trên cơ sở các hồi ký, tiểu sử, các tác phẩm văn học mang tính tự
thuật của các danh nhân, do vậy, cũng mới chỉ được mô tả, giải thích sơ bộ.
Giữa thế kỷ XIX, với những nghiên cứu đầu tiên và có ý nghĩa lớn về sáng tạo,
các nhà xã hội học đã cho rằng, bản chất của tính tích cực sáng tạo là hoạt động
tưởng tượng.
Quan điểm này gần với quan điểm của các nhà tâm lý học ngày nay. Sang
thế kỷ XX, đây là một thời điểm có tính chất bước ngoặt trong lịch sử phát triển
nhân loại, cùng với những tiến bộ vượt bậc trong các lĩnh vực khoa học, nhiều
ngành khoa học ra đời, nhiều thành tựu khoa học được công bố và lĩnh vực sáng
tạo cũng bắt đầu được quan tâm nghiên cứu. Như một tất yếu, quốc gia nào càng
có nền khoa học kỹ thuật phát triển cao bao nhiêu thì càng tập trung nghiên cứu
về lĩnh vực sáng tạo bấy nhiêu.
6


Vấn đề sáng tạo thực chất chỉ được nghiên cứu có hệ thống từ những năm
50 của thế kỷ XX mà người có công lớn nhất là J.P.Guilfort – nguyên là giáo sư

của một trường đại học tổng hợp ở Miền nam California, được đề cử là Chủ tịch
hội Tâm lý học Mỹ năm 1950. Trong bài phát biểu tại buổi lễ nhận chức, ông đã
dành rất nhiều thời gian để nói về vấn đề sáng tạo. Ông cũng khuyến khích các
nhà tâm lý học tham gia nghiên cứu hoạt động sáng tạo. Từ đó vấn đề sáng tạo
được đầu tư và cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Một số các công trình
nghiên cứu về sáng tạo đã được xuất bản như: May (1961), Mackinon (1962),
Yamamoto (1963), P.Torance (1965)… Nhiều công trình nghiên cứu trong thời
gian này đã được xuất bản nội dung đề cập tới những vấn đề cơ bản của hoạt
động sáng tạo, các thuộc tính của nhân cách sáng tạo, bản chất, quy luật của hoạt
động sáng tạo, các giai đoạn của quá trình sáng tạo, vấn đề kích thích năng lực
sáng tạo… Ngoài ra còn có nhiều tác giả khác ở Mỹ cũng nghiên cứu vấn đề
sáng tạo như: Barron, Blom, Helmholtz, Wallass. Getzels… Vượt ra khỏi nước
Mỹ, các nhà khoa học Liên Xô (cũ) đã có nhiều công nghiên cứu về sáng tạo,
đóng góp cho xã hội, nổi bật như: G.S.Altshuller, V.N. Puskin, B.N. Kedrop,
M.G. Iarosepxki, P.A.Rudich, X.L.Rubinstein, L.X. Vygotsky … Họ cũng đã tổ
chức cuộc hội nghị, hội thảo về sáng tạo vào những năm 1960 – 1980 tại
Matxcơva, Praha, Budapest… Từ những năm 60 – 70 của thập kỷ 20 trở đi,
không chỉ ở Mỹ, Liên xô mà Tây Âu đặc biệt ở Đức, do nhận ra ý nghĩa phát
triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật cũng như ý nghĩa phát triển cá nhân của
sáng tạo mà vấn đề sáng tạo dưới góc nhìn mới của Tâm lý học, Giáo dục học và
Xã hội học đã được quan tâm nghiên cứu thích đáng.
Bên cạnh sự phát triển, nghiên cứu về vấn đề sáng tạo của các nước trên
thế giới thì ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến hoạt động sáng
tạo và các tài năng sáng tạo. Nhiều hoạt động thể hiện sự chăm lo, bồi dưỡng,
khuyến khích những tài năng sáng tạo được tổ chức hàng năm: Hội thi sáng chế
kỹ thuật, tổ chức hỗ trợ sáng tạo khoa học và công nghệ Việt Nam thuộc Viện
Khoa học Việt Nam và Trung tâm sáng chế khoa học kỹ thuật thuộc ĐHQG
TPHCM và nhiều hội thi tài năng được tổ chức trong các trường học. Năm 1990,
7



Viện khoa học giáo dục thuộc Bộ giáo dục và đào tạo là cơ quan khoa học đầu
tiên ở Việt Nam tiến hành nghiên cứu về “khả năng sáng tạo” của học sinh. Các
công trình nghiên cứu này quan tâm tới bản chất, cấu trúc tâm lý của sáng tạo,
phương pháp chẩn đoán, đánh giá khả năng sáng tạo và con đường giáo dục,
phát huy khả năng sáng tạo của người Việt Nam. Mãi cho đến nay, chúng ta
cũng đã có một số công trình nghiên cứu của các Tiến sĩ, Thạc sĩ đóng góp cho
hoạt động sáng tạo như: Luận án Tiến sĩ của Lê Thanh Thủy nghiên cứu “Ảnh
hưởng của tri giác tới tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ 5 – 6
tuổi”; Luận án Tiến sĩ của Trương Thị Bích Hà nghiên cứu về “Tưởng tượng
sáng tạo hành động của sinh viên trường Đại học sân khấu điện ảnh”; Luận văn
Thạc sĩ của Phạm Thị Thu Hương nghiên cứu “Tiềm năng sáng tạo và biểu hiện
của nó trong vận động theo nhạc của trẻ MG 5 – 6 tuổi”, của Trần Thị Nga,
Phạm Thị Thu Hoa nghiên cứu “Khả năng sáng tạo của trẻ MG và học sinh tiểu
học thông qua hoạt động vui chơi và qua môn kể chuyện”; Luận văn Thạc sĩ của
Vũ Thị Kiều Trang nghiên cứu về “Phát huy tính sáng tạo của trẻ MG 5 – 6 tuổi
trong trò chơi lắp ghép xây dựng từ các NVL thiên nhiên và phế liệu”… Ngoài
ra, một số tác giả như: PGS – TS Nguyễn Huy Tú, TS. Đức Uy, TS. Trần Tuấn
Lộ, TS. Vũ Kim Thanh… cũng có nhiều công trình nghiên cứu những nội dung
trên đây.
1.2.

Tính sáng tạo của trẻ mẫu giáo trong hoạt động nặn

Theo quan điểm duy tâm, sáng tạo được xem là một quá trình vô thức,
tiền định, trong đó yếu tố ngẫu nhiên đóng vai trò chủ yếu. Platon coi sáng tạo là
trạng thái tâm linh quyến rũ. Phân tâm học coi bản năng tình dục là nguyên nhân
và động lực của mọi hoạt động sáng tạo của con người. Trong những nghiên cứu
của mình, khái niệm sáng tạo cũng được nhiều nhà Tâm lý học theo quan điểm
Macxit đề cập tới .L.X. Vwgôtxki trong cuốn “Trí tưởng tượng và sáng tạo ở lứa

tuổi thiếu niên” đã khẳng định: “ Sự sáng tạo thật ra không phải chỉ có ở nơi nó
tạo ra những tác phẩm lịch sử vĩ đại, mà còn có ở những nơi mà con người
tưởng tượng, phối hợp, biến đổi để tạo ra một cái gì mới, cho dù cái mới ấy nhỏ
bé đến đâu đi nữa so với những sáng tạo của các thiên tài” [10].
8


Theo X.L. Rubistein thì sáng tạo là hoạt động của con người tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần mới mang ý nghĩa xã hội, hay nói một cách khác thì
đó là một hoạt động tạo ra một cái gì đó mới mẻ, đặc săc, cái mà không chỉ đi
vào lịch sử phát triển bản thân người sáng tạo mà còn đi vào lịch sử phát triển
khoa học kỹ thuật, nghệ thuật trong cuốn Chu Quang Tiềm – Giáo sư Đại học
Bắc kinh văn nghệ định nghĩa: “Sáng tạo là căn cứ vào những ý tưởng đã có sẵn
làm tài liệu rồi cắt xén, gạn bỏ, chọn lọc, tổng hợp để tạo thành một hình tượng
mới”. J.Hlavsa (Tiệp Khắc) lại nhìn nhận sáng tạo dưới góc độ phương pháp
hoạt động: “Sáng tạo là sự lựa chọn và sử dụng những phương tiện mới, cách
giải quyết mới”. Ở Việt Nam, tác giả Phan Dũng trong cuốn “Từ điển triết học”
đã định nghĩa: “Sáng tạo là một quá trình hoạt động của con người tạo ra những
giá trị vật chất, tinh thần mới về vật chất. Các loại hình sáng tạo được xá định
bởi đặc trưng nghề nghiệp như khoa học kỹ thuật, văn học, nghệ thuật, quân sự.
Có thể nói rằng, sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh
thần”.
Bản chất của sáng tạo là một quá trình con người xây dựng các giải pháp
nghiên cứu để tìm ra kết quả. Tóm lại, theo các quan niệm trên, sáng tạo được
hiểu là quá trình hoạt động tạo ra sản phẩm mới mẻ, có giá trị, độc đáo về
phương diện vật chất hoặc tinh thần. Ở đây cái mới, có thể là đối với xã hội,
hoặc cái mới chỉ đối với các nhân.Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi chủ
yếu dựa vào sự khái quát này để tổ chức triển khai quá trình nghiên cứu, đặc biệt
là tổ chức thực nghiệm tác động sư phạm.
Hoạt động sáng tạo là loại hoạt động chỉ có ở con người. Nhưng không

phải hoạt động nào cũng đều dẫn đến một chất lượng sáng tạo. TS Nguyễn Huy
Tú: “Hoạt động sáng tạo là loại hoạt động- Theo PGS đạt đến mục đích không
phải bằng con đường trực tiếp nhờ kinh nghiệm, không bằng những phương tiện
quen thuộc đã biết, mà bằng một giải pháp mới chưa có trong vốn kinh nghiệm
ghi trong trí nhớ”. Ở đây, ta thấy Nguyễn Huy Tú đặc biệt nhấn mạnh đến con
đường dẫn tới mục đích trong hoạt động sáng tạo. Theo tác giả này, chiến lược
mới là tiền đề có ý nghĩa quyết định dẫn tới kết quả mới, độc đáo trong sản
9


phẩm của hoạt động sáng tạo. Chiến lược hành động mới này được xây dựng
trong sự liên hệ với các yếu tố kinh nghiệm một cách gián tiếp. Đối tượng quen
biết đã được nhìn nhận theo một cách mới, hợp lý, tối ưu để tìm ra giải pháp
mới.
Nói về hoạt động sáng tạo, L.X. Vwgotxki trong cuốn “Trí tưởng tượng và sáng
tạo ở lứa tuổi thiếu niên” có đưa ra quan niệm: “Chúng ta gọi hoạt động sáng tạo
là bất cứ hoạt động nào của con người tạo ra được cái gì mới, không kể rằng cái
được tạo ra ấy là một vật của thế giới bên ngoài hay cấu tạo nào đó của trí tuệ
hoặc tình cảm chỉ sống và biểu lộ trong bản thân con người”. Hoạt động sáng
tạo mang bản chất xã hội, như Gơt trong cuốn “Tâm lý học sáng tạo văn học” có
nói: “Đăngtơ là vĩ đại đối với chúng ta, song ông có ở phía sau mình cả một nền
văn hóa của nhiều thế kỷ”. Hay “Những con người như Raphaen không sinh ra
trên một chỗ trống rỗng, họ đều dựa vào nghệ thuật cổ đại và tất cả những gì tốt
đẹp đã được sử dụng trước họ. Nếu như họ không biết sử dụng những ưu thế của
thời đại mình, thì về họ chẳng còn điều gì để nói nữa”. Quan niệm này rất phù
hợp với việc nghiên cứu về hoạt động sáng tạo của trẻ. Năng lực sáng tạo quy
định chiều hướng nảy sinh và diễn biến của hoạt động sáng tạo, kể cả trường
hợp sáng tạo bột phát hay trực cảm “Lóe sáng”. Những trường hợp trực cảm
“Lóe sáng” không phải do tác động của lực siêu nhiên trong nhân cách mà là sự
bộc lộ của tính tích cực tâm lý, sinh lý của chủ thể hoạt động sáng tạo.

Theo J. Guilford: “Năng lực sáng tạo là thuộc tính của cá nhân, có thể được sử
dụng trong các lĩnh vực khác nhau mà không nhất thiết phải gắn liền với một bộ
môn xác định nào đó. Những năng lực chung đó biểu hiện rõ nét ở khả năng tư
duy sáng tạo. Tính đặc thù của tư duy sáng tạo thể hiện ở tính phân kỷ (khả năng
tìm ra nhiều giải pháp cho một vấn đề) được xác định bởi tính mềm dẻo, tính
độc đáo và tính nhuần nhuyễn” [3].
Theo quan niệm của E.P. Torrance thì ai cũng có tiềm năng sáng tạo, chỉ có điều
mức độ sáng tạo của mỗi người là không giống nhau. Nếu có điều kiện thuận lợi
thì tiềm năng này sẽ được bộc lộ một cách tốt hơn.

10


Theo nghiên cứu của Tardif và Sternberg (Mỹ) năng lực sáng tạo nhìn
chung có liên quan đến tính độc đáo, khả năng ngôn ngữ, trí thông minh cao và
khả năng tưởng tượng tốt. Như vậy có thể nói năng lực sáng tạo của cá nhân bao
gồm tất cả các phẩm chất, các thuộc tính tâm lý cho phép cá nhân tiếp cận giải
quyết vấn đề một cách chính xác, linh hoạt, mềm dẻo, độc đáo và với tốc độ
nhanh.
1.2.1. Cơ sở tự nhiên và cơ sở xã hội của sáng tạo
1.2.1.1. Cơ sở tự nhiên của sáng tạo
Năng lực nói chung, khả năng sáng tạo nói riêng không phải do bẩm sinh
hay di truyền mà có. Tuy nhiên, yếu tố bẩm sinh, di truyền là điều kiện, là cơ sở
vật chất, là tiền đề tự nhiên của sự hình thành và phát triển năng lực. Vai trò của
điều kiện bẩm sinh, di truyền, cụ thể là cấu trúc của não bộ, đặc điểm hoạt động
của hai hệ thống tín hiệu và kiểu loại hoạt động thần kinh cấp cao có ảnh hưởng
tới một mức độ nào đó đến sự khác biệt về năng lực nói chung, khả năng sáng
tạo nói riêng giữa người này và người khác, đến tốc độ phát triển năng lực, đến
xu hướng phát triển năng lực trong một số lĩnh vực chuyên biệt. Sự khác biệt về
chức năng của hai bán cầu não được đánh giá bởi các hoạt động của mỗi bán

cầu não:
- Bán cầu não trái là trung tâm điều khiển các chức năng trí tuệ như trí nhớ,
ngôn ngữ, logic, viết, sắp xếp, phân tích, phân loại, tư duy hội tụ.
- Bán cầu não phải là trung tâm điều khiển các chức năng như trực giác, ngoại
cảm, thái độ, cảm xúc, các liên hệ thị giác – không gian, cảm nhận âm nhạc,
nhịp điệu, vũ điệu, các hoạt động và có sự phối hợp cơ thể, các quá trình tư duy
phân kỳ. Tư duy của não phải là tố chất của sự sáng tạo.
- Các chức năng của não trái có đặc điểm là tuần tự và hệ thống, trong khi não
phải có đặc điểm là ngẫu hứng và tản mạn. Não trái có thể ghép các mảnh rời
rạc thành một tổng thể có tổ chức, trong khi não phải theo bản năng nhìn thấy
cái tổng thể trước, sau đó mới đến từng phần nhỏ. Hai bán cầu não cần phải hoạt
động cân bằng và phối hợp với nhau để con người phát triển toàn diện, hài hòa
và sức khỏe tinh thần cũng như thể chất được cân bằng (A.W.Mubzert, 1994).
11


Chúng ta vốn coi trọng những người có tư duy não trái. Điều này thể hiện rõ
nhất trong trường học. Các trường học phần lớn có xu hướng khuyến khích và
ca ngợi những học sinh học thuộc bài và luôn vâng lời thầy cô. Vì vậy, những cá
nhân có tư duy não phải chiếm ưu thế trở nên lạc điệu so với tiếng trống chung
của nhà trường. Thomas Edison Bĩ đánh giá là học kém, Albert Einstein biết đọc
chậm hơn so với hầu hết trẻ em khác và ở trường, ông học hành cũng chẳng giỏi
giang gì. Thầy dạy nhạc của Ludwigvon Beethoven đã từng đánh giá ông là nhà
soạn nhạc đại bại. Nhà tâm lý học John B. Waston cũng bị các thầy cũ cho là
lười và không chịu vâng lời… Tóm lại, các điều kiện bẩm sinh, di truyền có ảnh
hưởng nhất định tới khả năng sáng tạo của cá nhân. Tuy nhiên, yếu tố bẩm sinh,
di truyền của cá nhân không quyết định mức độ sáng tạo của mỗi người. Sáng
tạo là sản phẩm hoạt động của cá nhân dưới sự ước chế của môi trường sống,
đặc biệt là môi trường giáo dục. Để có những cá nhân sáng tạo đáp ứng được
nhu cầu phát triển của xã hội, hơn ai hết, các nhà giáo dục phải là những người

đầu tiên quan tâm tới việc cải cách nội dung, phương pháp giáo dục học sinh.
Đặc biệt là đối với các em nhỏ, ở giai đoạn mới bắt đầu thể hiện khả năng sáng
tạo. Nhà trường, thầy cô giáo cần phải khuyến khích, động viên các em sáng tạo,
tạo môi trường thuận lợi cho các em phát triển khả năng sáng tạo của mình sau
này.
Môi trường tự nhiên bao gồm: Vị trí địa lý, khí hậu, hoàn cảnh thiên
nhiên, nơi con người sinh ra và lớn lên, trưởng thành, sinh sống, làm việc, và các
yếu tố dinh dưỡng như: Không khí, nước, thức ăn…
Các yếu tố thuộc về môi trường tự nhiên trên đều có ảnh hưởng đến sức khỏe
của con người. Kết của nghiên cứu của nhiều tác giả đã chỉ ra rằng: Cường độ
sáng tạo của cá thể phụ thuộc trực tiếp vào sức khỏe của cá thể. Khi khỏe mạnh
con người luôn thấy phấn chấn, dễ đương đầu với khó khăn, hoạt động hiệu quả
cao hơn. Hơn nữa, sáng tạo cũng là kết quả của sự miệt mài lao động, bền bỉ
trong công việc. Nếu như không có sức khỏe con người sẽ không thực hiện được
công việc. Môi trường tự nhiên cũng là điều kiện làm nảy sinh các ứng tác, là
người cộng sự trong việc giải quyết những vấn đề sáng tạo. Như thiên nhiên,
12


phong cảnh núi rừng, đất nước tươi đẹp là nguồn cảm hứng sáng tạo của các nhà
văn, nhà thơ, họa sĩ…
1.2.1.2. Cơ sở xã hội của sáng tạo
Con người trong quá trình phát triển chịu sự chi phối của các nhân tố sinh
học (bẩm sinh-di truyền) và các nhân tố xã hội. Nhân tố xã hội bao gồm: Gia
đình, giáo dục của nhà trường, nền văn hóa của dân tộc…Môi trường xã hội tốt
sẽ thuận lợi cho sự phát triển các thuộc tính tâm lý của cá nhân, trong đó có tính
sáng tạo.
Gia đình là môi trường xã hội đầu tiên có tác động đến sự phát triển thể
chất và năng lực của mỗi cá nhân. Một gia đình hạnh phúc thì đó là điều kiện
thuận lợi để trẻ phát triển tính sáng tạo. Gia đình là nơi trẻ được hưởng đầy đủ

tình yêu thương, có được những niềm vui mà thiếu hụt nó sẽ ảnh hưởng đến đời
sống tinh thần và sự phát triển nói chung của trẻ; Là nơi chăm sóc, dạy dỗ trẻ
phù hợp với đặc điểm riêng của trẻ. Một công trình nghiên cứu được thực hiện
tại trường đại học Chicago (Mỹ) cho rõ: Trí thông minh, khả năng sáng tạo được
phát triển thuận lợi trong những gia đình biết động viên con em học tập và bố
mẹ là chỗ dựa tinh thần vững chắc của các con.
Các nhà nghiên cứugiáo dục cũng đã chỉ ra điều hạn chế trong sáng tạo đó
là sự sợ hãi, sự phê bình quá mạnh mẽ và sự lười biếng. Giáo dục cần phải có
niềm tin rằng: ở mỗi học sinh đều có khả năng sáng tạo, vấn đề là phải biết cách
dạy cho trẻ yêu thích hoạt động, thói quen làm việc kiên trì và nghị lực vượt qua
khó khăn để đạt được mục tiêu đề ra. Sự phát triển năng lực của cá nhân nói
chung, và khả năng sáng tạo nói riêng chịu sự ảnh hưởng to lớn của yếu tố sinh
lý, song những yếu tố xã hội, trong đó có giáo dục đóng vai trò quyết định.
1.2.2. Trí thông minh và sáng tạo
Có nhiều quan niệm về trí thông minh, những quan niệm tuy có khác
nhau, song tựu chung lại: Trí thông minh đó là các phẩm chất thuộc về năng lực
nhận thức và ứng phó của cá nhân trong hoàn cảnh mới ở môi trường xã hội
nhằm đạt được sự thích nghi tối ưu cuả cá nhân.

13


Thông minh là một thành phần quan trọng của trí tuệ cho phép con người
nhận thức được thế giới ngày càng sâu sắc, đầy đủ, hoàn thiện, toàn diện. Còn trí
sáng tạo là thành phần quan trọng khác cuả trí tuệ và có quan hệ chặt chẽ với trí
thông minh. Nhờ có sáng tạo mà người ta đưa ra được các cải tiến, các sáng chế,
tức là đưa ra được cái mới mà trước đó chưa có như các dụng cụ gia đình, các
thiết bị kỹ thuật như đòn bẩy, ôtô, tàu hỏa, máy bay. Hai nhân tố này của quá
trình nhận thức đều đã đo lường và định lượng được. Nhiều nhà Tâm lý học đã
quan tâm nghiên cứu về mối quan hệ giữa chỉ số thông minh và sáng tạo. Những

nghiên cứu về các thuộc tính của nhân cách sáng tạo cho thấy, người có trí tuệ
cao (thường là một nhân tài) thường là người vừa thông minh, vừa sáng tạo.
Nhưng hai phẩm chất này không phải bao giờ cũng ở mức ngang nhau trong một
con người cụ thể. So với trí thông minh thì trí sáng tạo có sự thâm nhập mạnh
hơn của các thuộc tính tâm lý khác nhau như: ý chí, xúc cảm, động cơ…Sáng
tạo không đồng nhất với trí thông minh. Có người vừa thông minh vừa sáng tạo,
có người tuy thông minh nhưng lại ít sáng tạo. Torrance đã tiến hành nghiên cứu
tư duy sáng tạo ở trẻ tuổi mẫu giáo đến tuổi học sinh trung học phổ thông đã cho
rằng: Trí sáng tạo có sự độc lập nhất định với trí thông tuệ.
Những trẻ sáng tạo thì thường cũng rất thông minh, nhưng những trẻ
thông minh thì lại ít sáng tạo, hay nói một cách khác, tỷ lệ trẻ có tính sáng tạo
cao trong số trẻ rất thông minh là không lớn. Kết quả này cũng có thể giải thích
như sau: Các trắc nghiệm IQ chỉ đo tư duy hội tụ của con người. Tư duy hội tụ
được định tuyến theo một mục đích nhất định, mục đích đã có sẵn, nó tiến đến
đích theo một thuật toán logic, trong khi đó trắc nghiệm sáng tạo chỉ đo tư duy
phân kỳ. Tư duy phân kỳ chỉ đi đến đích, không phải đích cụ thể mà là một giải
pháp sáng tạo, độc đáo, tối ưu chưa có trong kinh nghiệm hiện thời, bằng cách
tìm tòi thử nghiệm theo chiều hướng khác nhau, nó ngược lại với tư duy hội tụ.
Do đó cá nhân có chỉ số thông minh rất cao thường có kiểu tư duy không thích
hợp với cách tư duy sáng tạo. Song giữa hai chỉ số này có liên quan đến nhau.
Theo nhà Tâm lý học Mỹ Alfred. Để sáng tạo, chúng ta cần có thông tin, vốn

14


kinh nghiệm, ý tưởng từ trình độ trí tuệ chung, bởi vậy nếu chỉ số thông minh
thấp thì khó có sáng tạo.
1.2.3. Cảm xúc và sáng tạo
Xúc cảm, tình cảm của con người hết sức phong phú và đa dạng, nó thể
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nó ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ các quá

trinh tâm lý nói chung và sáng tạo nói riêng. Piagie cho rằng: Xúc cảm và nhận
thức không thể tách rời nhau, mặc dù chúng khác biệt nhau. Danien
Golemancho rằng, các xúc cảm chỉ đạo trí tuệ. Vì vậy ông đề nghị phải giáo dục
tình cảm cho trẻ ngay từ khi chúng còn nhỏ. Trong thực tiễn, cảm xúc tham gia
vào hoạt động trí tuệ nói chung, sáng tạo nói riêng trên hai phương diện: Là
động lực thúc đẩy hoặc kìm hãm một hành động trí tuê nào đó và là người
hướng đạo cho hành động đó. Vai trò hướng đạo của cảm xúc được thể hiện ít
nhất trên ba phương diện sau:
+ Thứ nhất, cảm xúc như là yếu tố bên trong xâm nhập vào toàn bộ quá
trình hành động trí tuệ từ tri giác sự vật đến các quá trình tư duy trừu tượng.
+ Thứ hai, trong suốt quá trình hành động trí tuệ, ngay từ những thao tác
đầu tiên cho tới thao tác cuối cùng, mỗi khi xuất hiện một thao tác, thì liền ngay
sau đó xuất hiện một cảm xúc tương ứng và cảm xúc này trở thành tâm thế, dẫn
chuỗi thao tác tiếp theo đi theo hướng phù hợp với tâm thế đó.
+ Thứ ba, kết quả của mỗi thao tác, mỗi hành động trí tuệ sẽ mang đến
cho chủ thể một cảm xúc mới. Đến lượt nó, cảm xúc này sẽ chi phối các quyết
định tiếp theo của chủ thể, đặc biệt là trong việc lựa chọn các phương án, các kế
hoạch hành động trí tuệ.
Mọi hành động trí tuệ đều có sư tham gia của cảm xúc,bởi vậy cho nên
cảm xúc có vai trò quan trọng đối với hoạt động trí tuệ nói chung và sáng tạo nói
riêng. Xúc cảm, tình cảm thúc đẩy con người hoạt động. Sự thành công của bất
kì một loại công việc nào phần lớn cũng đều phụ thuộc vào thái độ của con
người đối với công việc đó. Tình cảm có một ý nghĩa đặc biệt trong công việc
sáng tạo. Trong hoạt động sáng tạo, năng lực sáng tạo có liên quan tới tư duy
phân kỳ. Tư duy phân kỳ có tính chất cơ động, linh hoạt, không theo một khuôn
15


mẫu cứng nhắc, nó đi theo chiều hướng khác nhau, có thể đưa ra nhiều cách giải
quyết khác nhau. Vì vậy, hoạt động sáng tạo đòi hỏi con người phải nhạy cảm

với mọi vấn đề có thể nảy sinh. Mỗi vần đề lại có thể làm nảy sinh ra nhiều
hướng tìm tòi về nó. Tính nhạy cảm vấn đề vì vậy mà trở thành yếu tố thúc đẩy
sự tiến triển của hoạt động sáng tạo.
Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật: Các hình tượng được các nhà văn,
nhà thơ xây dựng lên đều được bắt nguồn từ những cảm xúc có thật ở các tình
huống, hoàn cảnh mà người nghệ sỹ, nhà văn, nhà thơ đã từng trải qua, họ đã
đúc kết kho tang kinh nghiệm của mình để xây dựng, sáng tạo nên những hình
tượng nghệ thuật. Từ những cảm xúc về cuộc sống, về những sự kiện xảy ra
trong cuộc sống và làm nảy sinh những sáng tác. Có “cảm xúc” của con người
thì sẽ góp phần tạo nên những phát hiện mớicủa những tác phẩm nghệ thuật
trong hoạt động sáng tạo, cảm xúc là động lực thúc đẩy hoạt động sáng tạo và là
người hướng đạo cho hoạt động đó.
1.2.4. Quá trình sáng tạo
Sáng tạo là sản phẩm hoạt động của con người, là quá trình tạo ra sản
phẩm mới về chất trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, văn hóa văn nghệ và
hoạt động thực tiễn. Các nhà khoa học sau khi nghiên cứu hoạt động sáng tạo có
nhiều quan điểm:sáng tạo là kết quả của cảm hứng, linh cảm hay trực giác. Đại
diện là B.M.Kedrop, V.N.Puskin, K.Chikhomirop, họ cho rằng linh cảm, vô
thức là khả năng con người có thể hành động một cách đúng đắn trước một tình
huống hoặc có thể tạo ra một tác phẩm trong khi không biết chính xác tại sao
mình hoạt động như vậy. Theo quan niệm này, thì linh cảm (trực giác) có liên hệ
với hoạt động vô thức của con người và nó quyết định hoạt động sáng tạo. Các
nhà giáo dục khác cho rằng, tư duy, tưởng tượng là nội dung cơ bản của hoạt
động sáng tạo. Đại diện cho xu hướng này là A.N.Leonchiep, L.X.Vuwgotxki,
X.L.Rubistein. Theo quan điểm này, hoạt động có ý thức của con người có vai
trò quyết định trong hoạt động sáng tạo.
Cả hai quan điểm trên đều đúng nhưng chưa đủ. Trực giác, tư duy, tưởng
tượng là các yếu tố không thể tách rời nhau trong hoạt động sáng tạo. Chỉ một
16



mình yếu tố trực giác tự thân chưa phải là sáng tạo. Chính nhờ có quá trình tư
duy, tưởng tượng tích cực, thậm chí căng thẳng lâu dài mà có được cái gọi là
linh cảm (trực giác), những người có linh cảm lại không biết được nguyên nhân
nên đã gọi là sự may mắn.
Vậy trực giác là kết quả của tư duy, tưởng tượng, là bất ngờ đến nỗi người
ta nhầm tưởng là sự ngẫu nhiên hay may rủi. Theo PGS Trần Trọng Thúy “vô
thức (trực giác, bừng sáng) không phải đối lập, tách rời, không liên quan với ý
thức, mà trái lại nó có quan hệ qua lại với ý thức, tác động và chuyển hoá lẫn
nhau. Trực giác là kết quả của chuyển hóa của ý thức thành vô thức”[7]. Có thể
kết luận rằng, mắt xích trung tâm của hoạt động sáng tạo chính là linh cảm (trực
giác) và tư duy, tưởng tượng.
1.2.5. Tiêu chí sáng tạo
Kết quả của hoạt động sáng tạo là tạo ra sản phẩm (tinh thần và vật chất).
Tuy nhiên, khi nào một hoạt động và sản phẩm của nó được gọi là sáng tạo? Nói
cách khác, những tiêu chí nào để khẳng định một hoạt động và sản phẩm của
hoạt động đó được gọi là sáng tạo.
Nhà nghiên cứu người Nga X.L. Rubistein cho rằng hoạt động sáng tạo là
hoạt động tạo ra những cái mới, cái độc đáo. Cái mới, cái độc đáo này không chỉ
đi vào lịch sử của cá nhân người sáng tạo mà còn đi vào lịch sử khoa học kỹ
thuật, nghệ thuật. Cấu trúc năng lực sáng tạo gồm các yếu tố:
Tính linh hoạt: Là khả năng biến đổi những thông tin đã thu nhận được,
sự thay đổi dễ dàng và nhanh chóng trật tự của hệ thống tri thức. Tính linh của
trẻ được thể hiện : trẻ biết điều chỉnh hoạt động của mắt, não, các kỹ năng khéo
léo, linh hoạt của đôi bàn tay, trẻ thích sử dụng màu sắc sặc sỡ, mỗi sản phẩm
của trẻ mang một nội dung và tên gọi khác nhau.
Tính mềm dẻo: Là năng lực tổng hợp nhanh chóng dẫn tới ý tưởng mới để
kết hợp các yếu tố riêng của tình huống, hoàn cảnh của sự vật, hiện tượng. Tính
mềm dẻo thể hiện:
- Lưu loát trong ý tưởng: Trẻ dễ dàng tìm ra được cách trả lời phù hợp, các giải

pháp của các tình huống.
17


- Lưu loát trong từ ngữ: Từ một số từ, một số chữ, các tổ hợp từ trẻ có thể nhanh
chóng tạo ra được các câu văn.
- Lưu loát trong liên tưởng: Đó là sự nhanh chóng tìm ra mối liên tưởng giữa các
sự vật với hoàn cảnh cho trước. Là khả năng tìm ra nhiều giải pháp khi có một
vấn đề đặt ra nhờ sự liên tưởng đến các giải pháp đã có trong vốn kinh nghiệm.
- Lưu loát trong biểu đạt: Là khả năng sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt các ý
tưởng, các khái niệm một cách chình xác, sinh động và nhanh chóng.
Tính độc đáo: được thể hiện ở sản phẩm và cách giải quyết vấn đề khác
với trẻ còn lại. Tính độc đáo được thể hiện ở hai yếu tố:
- Sự hiếm lạ, duy nhất: Đó là khả năng trẻ lựa chọn những tình huống, những sự
vật để giải quyết vấn đề khác hẳn với mọi người.
- Sự liên tưởng xa: Đó là khả năng trẻ đưa ra các liên tưởng mới lạ đối với sự vật
hiện tượng có quan hệ không gần gũi với nhau.
Tính cấu trúc giải pháp từ những ý tưởng mới, xây dựng cấu trúc mới từ
những thông tin đã có.
Tính nhảy cảm vấn đề: Là sự phát hiện nhanh chóng những sai lầm, mâu
thuẫn, thiếu hụt hay thiếu logic, thiếu ngắn gọn, chưa tối ưu của những vấn đề,
và từ đó nảy sinh ý muốn cấu trúc lại cho phù hợp hơn, hài hòa hơn, thích hợp
hơn để tạo ra cái mới.
Tính định nghĩa lại sự vật, hiện tượng: Là khả năng trẻ tìm ra những dấu
hiệu tương đồng giữa sự vật, hiện tượng để có thể định nghĩa, đặt tên lại cho các
sự vật hiện tượng mà vẫn không làm mất ý nghĩa, bản chất của nó.
Nhìn chung đề cập đến tiêu chí của sản phẩm sáng tạo các tác giả đều đưa
ra chỉ số: Nhanh, mới, độc đáo, linh hoạt. Những điều này đều bộc lộ qua các
quá trình tư duy sáng tạo, hành động sáng tạo, mà sản phẩm của chúng là cái
mới có thể được đánh giá theo các mức độ mức độ này chính là mức độ khả

năng sáng tạo.
1.2.6. Nhân cách sáng tạo
Sáng tạo không chỉ dừng lại ở thông minh mà nó còn có những phẩm chất
khác của nhân cách. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm
18


nhân cách sáng tạo. Mắc Kinnonkhẳng định rằng, những người sáng tạo rất nhạy
cảm với cái đẹp và có khả năng nhận thức linh hoạt ở mức độ cao. Họ độc lập
trong tư duy và hành động, tự cam kết nỗ lực sáng tạo và yêu cầu rất cao ở bản
thân. Họ có xu hướng quan tâm đến hình thức và vẻ đẹp hơn là sự thành công.
Nhà nghiên cứu người Mỹ Stein đưa ra kết luận: Những người sáng tạo
cao ít căng thẳng hơn, họ coi trọng các vấn đề thực tế và có khả năng tự điều
chỉnh hơn những người ít sáng tạo. Trong khi giải quyết vấn đề nhóm những
người sáng tạo ở mức cao thì làm việc chậm và cẩn thận khi phân tích vấn đề và
thu nhập dữ liệu. Nhưng khi đã có những dữ liệu cơ bản và bắt đầu tổng hợp thì
họ tăng tốc độ nhanh.Ngược lại những người kém sáng tạo lại dành ít thời gian
để phân tích vấn đề, nhưng mất nhiều thời gian để tổng hợp dữ kiện. Những
người này dễ phục tùng và có xu hướng tránh né những tình huống khó khăn.
Những nhà nghiên cứu đã tìm ra những quan điểm khác nhau về sáng tạo,
nhưng đều có quan điểm chung là :sáng tạo là quá trình tạo ra hoặc hướng đến
cái mới. Trên cơ sở phân tích một số quan điểm trên, chúng ta có thể đồng ý với
kết luận: “Sáng tạo là quá trình tư duy độc lập, con người đã kết hợp, biến đổi và
xây dựng nên những cái mới trên bình diện cá nhân hay xã hội từ những kinh
nghiệm sẵn có của mình”[5]. Trong hoạt động nghệ thuật tạo hình :sáng tạo là
quá trình cảm thụ một cách sắc bén và nhận thức sâu sắc cuộc sống về sự vật
hiện tượng xung quanh, chọn lọc một cách tinh tế nhất trong vô vàn những tài
liệu thu thập được để xây dựng nên biểu tượng mới mang tính nghệ thuật.
1.3. Đặc điểm sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động nặn
1.3.1. Khái niệm hoạt động nặn

Giống như hoạt động vẽ, xé dán, hoạt động nặn là hoạt độngtrẻ được rèn
luyện điều chỉnh hoạt động của mắt, não, các kỹ năng khéo léo, linh hoạt của đôi
bàn tay như kỹ năng thể hiện các đường nét phối màu, bố cục, trang trí tác
phẩm, đặc biệt chương trình hoạt động nặn là một trong những chương trình dạy
trẻ thể hiện cấu 1 trúc nặn đẹp của hình khối của mọi vật và thể hiện phương
thức sắp đặt nghệ thuật trong không gian ba chiều, điều này ảnh hưởng đến trí
tưởng tượng sáng tạo của trẻ sau này.
19


×