Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN rèn kĩ năng vẽ theo mẫu môn mĩ thuật hay, đầy đủ, chi tiết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.74 MB, 17 trang )

PHẦN MỘT: THÔNG TIN TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
Họ và tên tác giả sáng kiến:
- Ngày, tháng, năm sinh:
- Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên - Trường
- Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm Mĩ thuật.
- Tên sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kỹ năng quan sát cho học sinh trong phân môn
Vẽ theo mẫu.
- Đề nghị xét, công nhận sáng kiến: Cấp trường.
- Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục đào tạo


PHẦN HAI: NỘI DUNG SÁNG KIẾN
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1- Khái quát đặc điểm tình hình cơ quan đơn vị:
1. Đặc điểm tình hình chung:
Trường .............. được xây dựng tại thôn I của xã - trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa của xã ......................, là xã vùng cao vùng đặc biệt khó khăn của
Huyện. Giao thông đi lại còn nhiều khó khăn, chỉ có đường bộ duy nhất. Năm
2005 trường được thành lập có tên là trường trung học cơ sở .................., 4 lớp /4
khối. Đến năm 2011, trường đã được xây dựng thành Trường PTDTBT- THCS :
Hiện nay nhà trường được sử dụng khuôn viên với diện tích trên 6000 m 2. Trường
tập trung ở một khu, nằm ở trung tâm của xã nên thuận tiện cho việc đến trường ở
bán trú của học sinh. Trường có 6 phòng học hai tầng được xây dựng khang trang
và 01phòng học nhà C4, một khu nhà ở bán trú cho học sinh, một nhà ăn tập thể
(nhà tạm), sân trường có nhiều cây xanh thoáng mát. Cảnh quan sư phạm xanh sạch - đẹp tạo niềm vui cho giáo viên và học sinh mỗi khi đến lớp.
Hệ thống tổ chức của nhà trường gồm: Cấp uỷ, Ban giám hiệu, Công đoàn,
Đội thiếu niên và các tổ chuyên môn. Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên của
trường là 28 đồng chí (nữ 14 đồng chí). Số học sinh toàn trường là 443 em được
biên chế vào 12 lớp/ 4 khối. Chất lượng dạy và học ngày càng được khẳng định,
chất lượng học sinh đại trà ngày càng được nâng lên. Nhà trường thường xuyên
chăm lo công tác giáo dục toàn diện cho học sinh, làm tốt công tác xã hội hoá giáo


dục. Nhà trường đã triển khai tốt nhiệm vụ của các năm học đặc biệt là thực hiện
tốt các cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
gắn với cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng
tạo”; phong trào xây “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Được sự quan tâm của các cấp các ngành, sự phối hợp tích cực của các bậc
phụ huynh, các tập thể xã hội trên địa bàn cùng với sự nỗ lực phấn đấu không mệt
mỏi của tập thể thầy và trò trong nhà trường, nhiều năm nhà trường đạt danh hiệu
trường tiên tiến. Tập thể Lao động tiên tiến và Tập thể Lao động xuất sắc. Nhà
trường có nhiều thầy cô giáo dạy giỏi cấp huyện . Chi bộ Đảng nhà trường liên
tục đạt danh hiệu Chi bộ trong sạch vững mạnh, hằng năm Tổ chức Công đoàn
đều đạt Công đoàn cơ sở vững mạnh xuất sắc. Liên đội nhiều năm liền đạt Liên
đội mạnh cấp huyện.


- Khó khăn: Cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu so với nhu cầu, một số
phòng học chức năng chưa có ( phòng MT...) nên phần nào ảnh hưởng đến quá
trình tổ chức các hoạt động dạy học, hiện nhà trường chưa có nhà làm việc hiệu
bộ, phòng ở bán trú cho học sinh chưa đủ, các em còn ở với số lượng đông hs/
phòng. Ý thức một số bậc phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình về
mọi mặt ( học tập, tu dưỡng, kinh phí đóng góp xây dựng cơ sở vật chất) nên công
tác xã hội hóa giáo dục phần nào còn hạn chế.
2- Lý do chọn sáng kiến:
Giáo dục thẩm mĩ nói chung, mĩ thuật nói riêng đã được xác định trong mục
tiêu giáo dục của bậc THCS ở Luật Giáo dục. Chương trình THCS đã đưa các
môn nghệ thuật trở thành môn học bắt buộc, bình đẳng với các môn học khác.
Như vậy tư tưởng chỉ đạo và định hướng đã rõ ràng, thể hiện quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về một nền giáo dục toàn diện, đào tạo con người mới xã
hội chủ nghĩa với đầy đủ Đức- Trí - Thể- Mĩ.
Mĩ thuật là một môn học sáng tạo, phát triển tư duy hình tượng và trí tưởng
tượng, tình yêu cái đẹp và ý thức hành động theo cái đẹp; vì thế rất có ích cho các

em nhỏ và góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người trong
tương lai. Vẽ theo mẫu cũng là một trong những phân môn quan trọng và cần
quan tâm đến trong môn Mĩ thuật ở Tiểu học.
Từ xưa tới nay, nghiên cứu đối tượng có thật trước mắt luôn được các họa sĩ,
các trường đào tạo mĩ thuật quan tâm và coi đó là môn học cơ bản của hội họa,
điêu khắc, và có vai trò quan trọng trong việc học tập và sáng tác. Có nhiều cách
gọi tên phương pháp nghiên cứu đó như: Vẽ hình họa; Vẽ tả thực, Vẽ theo mẫu.
Như vậy, tuy có rất nhiều cách gọi tên phương pháp nghiên cứu đó nhưng về
cơ bản, khái niệm đều giống nhau là vẽ mẫu thật do mắt quan sát được.
Chương trình Mĩ thuật ở bậc THCS ( Chương trình Mĩ thuật Cao đẳng Sư
phạm THCS) gọi là phân môn "Vẽ theo mẫu" với mục đích giúp giáo viên và học
sinh dễ hiểu, dễ tiếp nhận khi dạy và học.
Vẽ theo mẫu là một phân môn cơ bản trong chương trình Mĩ thuật ở bậc
THCS, nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng quan sát, phân tích cấu trúc cũng
như màu sắc, đường nét, ánh sáng...của mẫu. Có được những kỹ năng này, học
sinh sẽ vận dụng để phát triển khả năng vẽ theo mẫu một cách khoa học, từng
bước từ thấp đến cao, chứ không phải là vẽ một cách cảm tính. Đồng thời rèn các


kỹ năng vẽ theo mẫu cũng chính là nền tảng để phát triển các kỹ năng khác như:
Vẽ trang trí; Vẽ tranh đề tài; Nặn tạo dáng; Xem tranh...
Là giáo viên giảng dạy môn Mĩ thuật qua nhiều năm học, tôi luôn suy nghĩ làm
thế nào để các em học tốt phân môn Vẽ theo mẫu, nếu các em luôn có thói quen
quan sát kỹ mẫu để vận dụng vào các bài thực hành, các em sẽ cảm nhận được vẻ
đẹp của mẫu và từ đó ham thích học phân môn này hơn. Vì thế tôi nghĩ đến
phương pháp " Rèn kỹ năng quan sát cho học sinh trong phân môn Vẽ theo mẫu"
để nghiên cứu và áp dụng vào việc dạy học. Và tôi đã thử nghiệm cho học sinh
các khối lớp trong năm học vừa qua, tôi nhận thấy kết quả thu được hết sức khả
quan trong phân môn Vẽ theo mẫu.
3- Mục đích của sáng kiến:

Với việc nghiên cứu thành công sáng kiến này sẽ giúp giáo viên có được kinh
nghiệm sau:
- Chuẩn bị mẫu vẽ.
- Tổ chức lớp học.
- Bày mẫu.
- Hướng dẫn học sinh quan sát mẫu và hướng dẫn vẽ mẫu.
- Hướng dẫn học sinh nhận xét, đánh giá và rút kinh nghiệm cuối tiết dạy.
- Kinh nghiệm khi áp dụng " Rèn kỹ năng quan sát cho học sinh trong phân
môn Vẽ theo mẫu" ở bậc Tiểu học.
4- Cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý có liên quan đến sáng kiến:
Vẽ theo mẫu không phải là vẽ lại mẫu trước mặt một cách tùy tiện theo ý
thích mà phải tiến hành bài vẽ theo trình tự đã được nghiên cứu một cách khoa
học. Từ quan sát mẫu, phân tích cấu trúc mẫu, đến các bước tiến hành bài vẽ theo
mẫu... đều phải có sự rèn luyện từ dễ đến khó. Vẽ theo mẫu yêu cầu người vẽ phải
ghi nhớ, tuân theo những quy định một cách nghiêm túc; đặc biệt đối với học sinh
tiểu học, nếu không dễ sa vào vẽ theo ý thích, vẽ các chi tiết không cần thiết, thậm
chí vẽ sai mẫu hoàn toàn. Bởi vậy việc rèn luyện cho học sinh các kỹ năng quan
sát, phân tích mẫu đối với bộ môn này là rất quan trọng.


CHƯƠNG II: NỘI DUNG
1- Thực trạng của việc rèn kỹ năng quan sát cho học sinh trong phân
môn Vẽ theo mẫu.
Theo quan sát của tôi trong quá trình giảng dạy phân môn Vẽ theo mẫu ở bậc
THCS thì có rất nhiều học sinh không thực hiện bước quan sát, phân tích mẫu
trước khi vẽ. Một số học sinh tự ý sắp xếp bố cục không theo góc nhìn của mình,
hoặc không quan sát, không so sánh tỷ lệ giữa các vật mẫu và hay dựa vào bài
mẫu có sẵn trong vở để chép lại. Bài vẽ của các em thường mất cân đối về bố cục
do kỹ năng thể hiện từng đường nét, từ nhiều đường nét kết hợp thành một hình
đơn giản và cuối cùng là phối hợp nhiều hình đó để thành một hình phức tạp hơn

còn hạn chế.Các em không vẽ mẫu vật giống như mẫu vật bày trước mắt, chẳng
hạn như khi vẽ cái lọ hoa ở dưới đường tầm mắt thì miệng có hình elip nhưng các
em lại vẽ thành hình tròn. Các em thường đặt bút là vẽ ngay, mà không quan sát
theo các bước hướng dẫn, không dựng khung hình hoặc nếu có dựng khung hình
và ước lượng tỉ lệ các vật mẫu thì các em lại dùng thước vẽ một cách vuông vắn
từng khung, rồi mới bắt đầu vẽ chi tiết vật mẫu, hay cả khi vẽ từng cạnh của đồ
vật các em cũng sử dụng đến thước mà không biết rằng đối với vẽ theo mẫu hoàn
toàn phải vẽ bằng tay. Đặc biệt kỹ năng thể hiện đậm nhạt trên mẫu vẽ còn kém,
nguyên nhân do các em chưa vận dụng hết khả năng quan sát kỹ mẫu để thấy
được các độ đậm, đậm vừa và nhạt của mẫu. Trước thực trạng như vậy, bản thân
tôi suy nghĩ và quyết định nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm để dạy tốt môn Mĩ
thuật nói chung và phân môn Vẽ theo mẫu nói riêng.
Vì Vẽ theo mẫu là phân môn đòi hỏi học sinh phải kết hợp quan sát trực tiếp mẫu
vật để vẽ hình , yêu cầu hình vẽ phải có đặc điểm gần giống với mẫu vật. Tôi tự
hỏi làm thế nào để học sinh thích học và học tốt môn Vẽ theo mẫu. từ câu hỏi đó,
tôi đã tìm thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là: các em chưa
hiểu được cụ thể cách vẽ, chưa hiểu trọn vẹn các câu hỏi gợi ý khi phân tích cấu
trúc mẫu, chưa có óc tư duy sáng tạo, chưa vận dụng hết khả năng quan sát kỹ đặc
điểm của mẫu vật một cách tổng hợp sau đó mới quan sát đến chi tiết.
Năm học 2015-2016, bản thân tôi đã nghiên cứu và áp dụng kinh nghiệm"
Rèn kĩ năng Vẽ theo mẫu cho học sinh ở THCS", và đã được áp dụng giảng dạy
vào các khối lớp trong nhà trường. Song thực tế kinh nghiệm đó còn mang tính
chung chung về phương pháp giảng dạy nên hiệu quả giờ dạy chưa cao. Từ đó,
bản thân tôi suy nghĩ và quyết định nghiên cứu kinh nghiệm" Rèn kỹ năng quan


sát cho học sinh trong phân môn Vẽ theo mẫu" và được áp dụng vào giảng dạy tại
các khối lớp trong năm học 2016- 2017.
2- Nội dung:
2.1 Giải quyết vấn đề:

Để rèn luyện cho học sinh kỹ năng quan sát trong phân môn Vẽ theo mẫu,
giáo viên cần phải có những phương pháp cụ thể và hiệu quả như sau:
a) Chuẩn bị mẫu vẽ:
Đối với phân môn Vẽ theo mẫu thì nhất thiết phải chuẩn bị mẫu vẽ. Giáo viên
tự chuẩn bị mẫu vẽ hoặc giao cho các nhóm học sinh chuẩn bị. Nếu mẫu vẽ sơ
sài, đơn điệu sẽ không tạo được hứng thú cho học sinh khi quan sát. Mỗi lớp học
phải có ít nhất hai mẫu vẽ ( nếu có lớp học riêng cần có ít nhất 4 mẫu vẽ cho 4
nhóm). Khi chuẩn bị mẫu cần phải lựa chọn mẫu vẽ có sự đa dạng, phong phú về
kiểu dáng, màu sắc, kích thước...nhằm tạo hứng thú cho học sinh, tránh sự đơn
điệu, nhàm chán. Đặc biệt đối với mẫu vẽ tĩnh vật cần chọn các loại hoa, quả có
hình dáng đẹp, màu sắc phong phú.
Ví dụ: Khi chuẩn bị mẫu vẽ cho bài ( Vẽ theo mẫu: Vẽ quả - Lớp 7), giáo viên
và học sinh cần chuẩn bị các loại quả tròn, bầu dục hoặc các hình dạng khác như:
khế ớt, bí ngô, dứa...những loại quả dễ tìm và có sẵn ở địa phương.

Tuy vậy cũng không nên chọn mẫu quả có nhiều màu sắc đối chọi nhau,vì đó
cũng là nguyên nhân làm cho bài vẽ không có tính chủ đạo.
Với những mẫu vẽ đẹp, học sinh sẽ có hứng thú quan sát, đó cũng chính là
động lực lôi cuốn các em vào các bước tiếp theo của bài vẽ. Như vậy, ngay từ
bước đầu chuẩn bị đồ dùng dạy học, giáo viên đã bước đầu hình thành cho học
sinh kĩ năng quan sát mẫu.
b) Tổ chức lớp học:
Lớp học giờ học Vẽ theo mẫu cần được sắp xếp hợp lí đảm bảo cho tất cả học
sinh đều có thể quan sát mẫu một cách dễ dàng. Có thể sắp xếp thành 4 nhóm
ngồi xung quang mẫu hoặc xếp học sinh ngồi thành 2 hàng dọc hai bên, một dãy
mẫu ở giữa lớp... tùy theo ánh sáng của lớp học. Nếu lớp học quá đông học sinh,


không gian chật chội và chưa có phòng học riêng thì có thể bày mẫu chung cho cả
lớp vẽ hoặc bày mẫu cho học sinh vẽ theo nhóm( tùy theo từng điều kiện thực tế).

c) Bày mẫu:
Giáo viên có thể cùng học sinh chọn vật mẫu, gợi ý cho học sinh đặt vật mẫu
hợp lí và bản thân giáo viên phải chủ động chọn vị trí đặt mẫu vật để tất cả học
sinh trong lớp đều có hướng nhìn mẫu đẹp, mẫu vẽ cần được bày phong phú và
đảm bảo có nhiều góc vẽ đẹp, nhất là phải đặt mẫu thấp so với tầm mắt một chút
để học sinh dễ nhận ra mặt trên của vật mẫu có dạng hình gì. Đặc biệt đối với giờ
Vẽ theo mẫu giáo viên nên yêu cầu học sinh phải tự quan sát mẫu và vẽ mẫu đúng
với góc nhìn của mình.
VD: Cách bày mẫu ở bài ( Vẽ theo mẫu: Mẫu vật có dạng hình trụ và hình
cầu).

d) Hướng dẫn học sinh quan sát mẫu:
*) Cách đặt câu hỏi:
Đối với phân môn vẽ theo mẫu, giáo viên cần phải bám sát mẫu để đặt câu
hỏi cụ thể trên từng mẫu vẽ, không đặt câu hỏi một cách chung chung. Khi đặt câu
hỏi giáo viên cần chỉ vào mẫu để hướng sự chú ý của học sinh vào mẫu vẽ.
Ví dụ : Bài Vẽ theo mẫu: Lọ hoa và quả.
?- Mẫu vẽ gồm có mấy đồ vật?
?- Mẫu vẽ là những vật mẫu nào?
?- Vị trí của các vật mẫu được sắp xếp như thế nào?
?- So sánh tỷ lệ chiều cao của quả so với lọ hoa?
?- So sánh tỷ lệ chiều ngang của quả so với lọ hoa?
?- Lọ hoa bao gồm có những phần nào?
?- So sánh tỷ lệ giữa các phần của lọ hoa?


?- So sánh tỷ lệ giữa chiều cao và chiều ngang của quả?
?- Hướng ánh sáng nào mạnh nhất?
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh phân biệt các độ đậm, đậm vừa và
nhạt...thay đổi trên mẫu.

Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát mẫu trước khi trả lời, như thế mới có thể
phân tích được cấu trúc của mẫu và đưa ra những nhận xét chính xác. Các bước
vẽ theo mẫu là một chuỗi lôgic, nếu không thực hiện tốt bước thứ nhất thì sẽ
không thể thực hiện các bước tiếp theo. Chẳng hạn , nếu không quan sát kỹ mẫu
thì sẽ không hiểu cấu trúc của mẫu, không nhìn ra các độ đậm nhạt, không nắm
được tỉ lệ ...thì không thể phác hình chính xác.
Trong quá trình phân tích mẫu, giáo viên có thể đặt các câu hỏi suy luận( đối
với học sinh khối 7-8 như:
?- Lọ hoa được biến dạng từ khối hình gì?
?- Vì sao miệng ấm lại phải ngang với vòi ấm?
?- Ánh sáng thay đổi trên khối lập phương khác với trên khối cầu như thế
nào?
Song ở lứa tuổi các lớp 6, các em chưa phân tích được cấu trúc của mẫu, giáo
viên chỉ hướng dẫn học sinh quan sát và cảm nhận riêng về hình mẫu hơn là theo
cái nhìn cụ thể. Vì vậy, nên khi vẽ theo mẫu ở các khối lớp này cũng chỉ đặt ra
yêu cầu: vẽ " phỏng" theo mẫu thật hoặc tập vẽ mẫu thật ở mức độ đơn giản. Với
lứa tuổi này giáo viên có thể đặt những câu hỏi có tính chất gợi mở như:
?- Các em cho biết tên của đồ vật, tên của loại hoa quả này là gì?
?- Hình dáng của nó thế nào? Màu sắc ra sao?
?- Em hãy cho biết đồ vật hoặc loại hoa quả này,....có những bộ phận nào?
*) Cách quan sát mẫu:
+ Giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát mẫu từ bao quát đến chi tiết,
không sa vào chi tiết, bộ phận để nhận ra:
- Hình dáng bề ngoài của mẫu ( chiều cao, chiều ngang và những nét cơ bản).
- Đặc điểm chính của mẫu ( qua cấu trúc và các kích thước).
- Các mảng đậm nhạt lớn.
+ Quan sát mẫu để suy nghĩ về bố cục:
- Vẽ hình trong trang giấy ngang hay dọc là hợp lí.
- Hình vẽ bằng nào thì vừa, đặt nó ở giữa hay lệch sang phải, sang trái hoặc
lên trên, xuống dưới trang giấy để có bố cục cân đối.



Ngoài việc quan sát mẫu thật ra, giáo viên cần vẽ minh họa một số góc nhìn
cho một mẫu: chẳng hạn nhìn miệng cốc ở các độ cao khác nhau thì ta sẽ thấy nó
có hình dạng khác nhau: hình tròn, hình elip, thậm chí là một đường thẳng nằm
ngang. Hoặc minh họa nhiều mẫu ở một góc nhìn để học sinh thấy được sự phong
phú của mẫu vẽ, từ đó gợi ý cho các em về cách lựa chọn mẫu cũng như các góc
vẽ đẹp.
Bên cạnh đó giáo viên có thể hỏi học sinh các câu hỏi kiểm tra trí nhớ cũng
như thói quen quan sát hàng ngày của học sinh.
Chẳng hạn:
- Khi đứng ở một điểm cố định nhìn một hàng cây có kích thước bằng nhau
thì càng nhìn xa ta càng thấy nó thay đổi như thế nào?
- Khi nhìn ngôi nhà em đang ở với các góc nhìn khác nhau như: phía trước,
phía sau, mặt bên của ngôi nhà, thì em thấy có sự khác nhau như thế nào?
*) Hướng dẫn học sinh vẽ mẫu:
Khi hướng dẫn học sinh vẽ theo mẫu, giáo viên vẽ minh họa trên bảng lớp đó
là một trong những cách thức của phương pháp dạy học trực quan. Vẽ minh họa
trên bảng có tác dụng gây sự chú ý của học sinh vào bài học, giúp các em nhận
thức nhanh hơn và ghi nhớ lâu bởi tính sinh động của hình vẽ. Vì vậy, khi dạy các
bài vẽ theo mẫu, việc sử dụng phương pháp vẽ minh họa trên bảng là rất cần thiết
bởi nó phát huy được khả năng quan sát trực tiếp của học sinh một cách linh hoạt
hơn. Đối với việc hướng dẫn cách vẽ theo mẫu, mặc dù một số bài đã có hình gợi
ý cách vẽ trong bộ đồ dùng dạy học, nhưng vẽ minh họa trên bảng của giáo viên
sẽ giúp HS quan sát kĩ được các thao tác cũng như trình tự các bước vẽ. Do đó
học sinh sẽ nắm được cách vẽ nhanh hơn để thực hành có hiệu quả hơn. Lưu ý,
khi vẽ minh họa trên bảng cần phù hợp với đối tượng học sinh ở các khối lớp. Cụ
thể:
VD: vẽ minh họa các bước vẽ trên bảng bài ( Vẽ theo mẫu: Vẽ lọ hoa và quảLớp 6).



B1

B2

B3

B4
VD: vẽ minh họa các bước vẽ trên bảng bài ( vẽ theo mẫu: Mẫu có dạng hình
trụ và hình cầu- Lớp 6).

VD: Vẽ minh họa bài Vẽ quả- Lớp 6.
B1
B2
B3

B4
VD: vẽ minh họa bài Vẽ cá- Lớp 6.


Giáo viên cũng cần hướng dẫn minh họa nhanh về cách sắp xếp bố cục. Cụ
thể:

Một
yêu
cầu
nữa đặt
ra
đối
với

giáo
viên khi vẽ các
bước thị phạm trên bảng đó là: Hình hướng dẫn cần vẽ tương đối chính xác, đẹp,
đúng yêu cầu...nếu vẽ sơ sài sẽ phản tác dụng. Trong các bài vẽ theo mẫu thì mĩ
thuật chính là nghệ thuật thị giác, GV thị phạm được hình vẽ trên bảng sinh động,
nét vẽ hoạt có tình cảm, đẹp sẽ gây hứng thú cho học sinh, nhất là đối với HS nhỏ
tuổi. Chẳng hạn: cách phác nét thẳng, cách gạt nét chì khi vẽ các độ đậm nhạt,
cách vẽ nền, cách sắp xếp bố cục...
Trước khi học sinh vẽ thực hành, giáo viên cho các em tham khảo một số bài
vẽ hoàn chỉnh của học sinh khóa trước. Bài vẽ sử dụng làm bài vẽ tham khảo phải
là các bài vẽ được chọn lọc, đạt yêu cầu về hình vẽ, bố cục, màu sắc. Sau khi
hướng dẫn xong, giáo viên xóa các hình minh họa và cất bài mẫu tránh để học
sinh sao chép mà không vận dụng khả năng quan sát mẫu vật vào bài thực hành.
Vậy để phát huy được khả năng của học sinh, hạn chế tình trạng học sinh sao chép
các hình vẽ mẫu sẵn trong vở tập vẽ mà không nhìn và vẽ mẫu thật trước mắt, khi
dạy phân môn Vẽ theo mẫu giáo viên cần phát huy những ưu thế tích cực của
phương pháp dạy học trực quan, trên cơ sở phối hợp linh hoạt với các phương
pháp dạy học khác, nhằm phát huy tối đa khả năng quan sát của học sinh trong
cuộc sống nói chung và trong giờ học vẽ theo mẫu nói riêng để vận dụng vào bài
học đạt kết quả cao nhất.


*) Hướng dẫn học sinh nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm cuối tiết
dạy:
Sau khi học sinh thực hành Vẽ theo mẫu, cuối tiết học giáo viên chọn một số
bà vẽ đạt yêu cầu và chưa đạt yêu cầu để các em quan sát và nhận xét, giáo viên
có thể đánh số các bài vẽ đã chọn và đặt câu hỏi như:
?- Em thích bài số mấy?
?- Theo em bài vẽ này được xếp loại gì?
?- Theo em bài vẽ nào chưa giống mẫu? Bài vẽ nào có bố cục chưa đẹp?

v.v.v...
Như vậy trong suốt tiến trình khi dạy một bài vẽ theo mẫu( từ lúc bắt đầu
cho đến khi kết thúc tiết học), giáo viên liên tục rèn luyện cho học sinh kĩ năng
quan sát ở mọi hoạt động của tiết học. Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát thành
thạo đó đã góp phần tạo nên sự thành công lớn trong phân môn Vẽ theo mẫu và
cũng là nền tảng cho các môn học khác.
2.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến có khả năng áp dụng vào thực tế giảng dạy tại các khối lớp 6- 78- 9 trong nhà trường. Đồng thời có khả năng áp dụng đối với các khối lớp tại các
đơn vị nhà trường khác cùng tương đồng về chuyên môn Mĩ thuật.
2.3. Phạm vi, đối tượng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến kinh nghiệm" Rèn kĩ năng quan sát cho học sinh trong phân môn
Vẽ theo mẫu có khả năng áp dụng tại các khối lớp 6,7,8,9 mà bản thân tôi đang
tham gia giảng dạy tại trường ………………..
2.4. Hiệu quả của sáng kiến:
Trong nhiều năm giảng dạy Mĩ thuật ở tiểu học, đặc biệt trong quá trình
giảng dạy phân môn Vẽ theo mẫu, tôi đã đúc rút được những kinh nghiệm giảng
dạy. Đặc biệt trong việc rèn kĩ năng quan sát cho học sinh ở phân môn Vẽ theo
mẫu và được áp dụng trên mọi đối tượng HS. Sau một học kỳ áp dụng, tôi nhận
thấy khả năng vẽ theo mẫu của học sinh ở các khối lớp đã có chuyển biến khả
quan.
Cụ thể: - HS hứng thú hơn với các tiết học Vẽ theo mẫu.
- HS tiến hành bài vẽ đúng trình tự các bước, quan sát nhận xét kỹ mẫu
trước khi vẽ.
- Các em được nhìn thấy cụ thể những gì các em còn mơ hồ, chưa rõ
ràng qua hình minh họa trực quan của giáo viên.


- Thông qua hình minh họa học sinh còn nắm bắt thêm về cách vẽ, cách
thể hiện bài vẽ. Đặc biệt khi theo dõi giáo viên vẽ minh họa sẽ tạo cho các em
hứng thú hơn trong học tập.

- Bài vẽ của học sinh chất lượng cao hơn: hình vẽ, đậm nhạt, bố cục,
màu sắc đều tốt hơn.
- Hàng ngày các em có thói quen quan sát mọi vật xung quanh, phân tích
và ghi nhớ, khi giáo viên hỏi thì các em trả lời tương đối chính xác.
Có thể nói Vẽ theo mẫu là một phân môn đặc biệt quan trọng của môn Mĩ
thuật, tất cả các phân môn còn lại đều phải sử dụng kiến thức của vẽ theo mẫu.
Bởi vậy việc rèn luyện các kĩ năng của phân môn này là điều nhất thiết phải thực
hiện đối với người học mĩ thuật.
*) Kết quả khảo sát, đánh giá so sánh, đối chiếu kết quả trước khi áp dụng
với sau khi áp dụng sáng kiến ( kết quả định tính và định lượng):
+ Kết quả của học sinh trước khi áp dụng sáng kiến:
Khối lớp
6
7

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

55%
50%

40,7
43%

Chưa
thành

hoàn
4,3%

7%

+ Kết quả của học sinh sau khi áp dụng sáng kiến:
Khối lớp

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

8

65%

45%

Chưa hoàn
thành
0%

CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Để đạt được những mục tiêu trong giờ dạy Vẽ theo mẫu, tôi nhận thấy rằng
cần phải nghiên cứu kĩ tài liệu, xác định rõ trong giờ dạy cần phải sử dụng những
đồ dùng trực quan nào, cách lựa chọn mẫu, cách bày mẫu như thế nào để thu hút
sự chú ý của HS. Đặc biệt là vấn đề rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh, có
được những kĩ năng này, học sinh sẽ vận dụng để phát triển khả năng vẽ theo mẫu


một cách khoa học, từ đó giúp các em thực hiện một giờ học Vẽ theo mẫu nói
riêng và các giờ học khác trong môn Mĩ thuật nói chung đạt kết quả cao hơn.

Đối với phân môn Vẽ theo mẫu thì nhất thiết phải chuẩn bị mẫu vẽ, mẫu vẽ
phải có sự đa dạng phong phú về kiểu dáng, màu sắc đẹp...Như vậy ngay từ bước
chuẩn bị đồ dùng học tập, giáo viên đã bước đầu hình thành cho HS kĩ năng quan
sát. Cách đặt câu hỏi khi hướng dẫn học sinh quan sát cần phải cụ thể, phù hợp
với tâm sinh lí lứa tuổi của các em học sinh ( học sinh lớp 6,7 khác với học sinh
lớp 8). Khi hướng dẫn học sinh vẽ mẫu, giáo viên cần chuẩn bị hình hướng dẫn
các bước vẽ theo mẫu và nên vẽ các bước vẽ mẫu lên bảng, giáo viên thị phạm
được hình vẽ trên bảng sinh động, nét vẽ hoạt, có tình cảm, đẹp sẽ gây hứng thú
cho học sinh, nhất là với học sinh nhỏ tuổi. Giáo viên có thể lựa chọn một số bài
có những yếu tố đẹp của học sinh, trưng bày lại trên bảng để cả lớp tham khảo. Vẽ
theo mẫu là môn học mang tính tự giác và sáng tạo cao. Đa số các em thích vẽ và
có cảm nhận riêng về mẫu vật khi quan sát, chỉ cần giáo viên biết hướng dẫn và
khơi nguồn đúng mạch thì sẽ phát huy được năng khiếu và sự ham thích vẽ theo
mẫu của các em. Khi học sinh hoàn thành bài, giáo viên có thể chọn một vài học
sinh có bài vẽ tốt và chưa tốt để học sinh trong lớp cùng quan sát và rút kinh
nghiệm.
2. Kiến nghị:
Đối với ngành cũng như nhà trường cần quan tâm hơn nữa đến môn Mĩ
thuật, cần đầu tư thêm một số các tài liệu tham khảo có liên quan đến môn Mĩ
thuật để giáo viên tự bồi dưỡng thêm về chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là các
vật mẫu, giá bày vật mẫu để phục vụ tốt hơn cho việc dạy phân môn Vẽ theo mẫu
nói riêng và môn Mĩ thuật nói chung.
Nếu có điều kiện cho phép, có thể dạy học Mĩ thuật ở phòng học riêng đảm
bảo về ánh sáng, không gian phù hợp với môn Mĩ thuật, có thể thay đổi cách bố
trí bàn ghế học sinh ngồi học theo từng phân môn, tạo nhóm cho học sinh hoạt
động được thuận lợi. Có như vậy kết quả giờ học Vẽ theo mẫu nói riêng và giờ
học mĩ thuật nói chung sẽ mang không khí nghệ thuật và đạt hiệu quả cao hơn.
……………, ngày 05 tháng 10 năm 2017
Người thực hiện
Xác nhận của cơ quan,

đơn vị quản lý


…………………….

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT SỬ DỤNG
- Âm nhạc: ÂN
- Mĩ thuật: MT
- Thể dục: TD
- Giáo viên: GV
- Học sinh: HS


- Cơ sở vật chất: CSVC

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Hỏi đáp về dạy môn Mĩ thuật ở THCS - Nhà xuất bản Giáo dục.
2- Giáo trình đào tạo giáo viên Cao đẳng Sư phạm hệ THCS- NXB Giáo dục.
3- Từ điển thuật ngữ Mĩ thuật phổ thông - NXB Giáo dục.
4- Chương trình Mĩ thuật Cao đẳng sư phạm Nhạc Họa - NXB Giáo dục.

MỤC LỤC
Nội dung
Phần một : Thông tin tác giả kinh nghiệm

Trang
1

Phần hai: Nội dung kinh nghiệm.
Chương I. Những vấn đề chung

1. Đặc điểm tình hình cơ quan, đơn vị

2

2. Lý do chọn kinh nghiệm

3

3. Mục đích của kinh nghiệm

4

4. Cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý

4-5

Chương II. Nội dung
1. Thực trạng của kinh nghiệm

6

2. Nội dung kinh nghiệm
2.1. Giải quyết vấn đề

6-13

2.2. Khả năng áp dụng của kinh nghiệm

13


2.3. Phạm vi, đối tượng áp dụng của kinh nghiệm

13

2.4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng kinh nghiệm

13-14


Chương III. Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo

15-16
17



×