Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Trao đổi kinh nghiệm tìm hiểu giải nghĩa từ Hán - Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.18 KB, 15 trang )

Lại trao đổi thêm về cách tìm hiểu , giải nghĩa từ Hán Việt và cách dạy học đối với
các bài Từ Hán Việt trong chơng trình Ngữ Văn 7, tập 1
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam
Độc lập Tự do Hạnh phúc
********
Bản cam kết
I. Tác giả:
- Họ và tên: Nguyễn Hữu Tự
- Sinh ngày: 03/10/1970
- Đơn vị công tác: Trờng THCS Đồng Minh
- Điện thoại: 090.4302.569
II. Sản phẩm:
Tên sản phẩm:

Trao đổi thêm về cách tìm hiểu, giải nghĩa từ Hán

Việt và cách dạy
đối với các bài Từ Hán Việt trong chơng trình Ngữ Văn 7, tập 1

III. Cam kết
Tôi xin cam kết sáng kiến kinh nghiệm này là sản phẩm của cá nhân tôi. Nếu có xảy
ra tranh chấp về quyền sở hữu đối với một phần hay toàn bộ sản phẩm sáng kiến kinh
nghiệm, tôi hoàn toàn chịu trách nhịêm trớc lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo sở GD&ĐT về tính
trung thực của bản cam kết này.

Đồng Minh , ngày 20 tháng
12 năm 2008
Nguyễn Hữu Tự

Nguyễn Hữu Tự. Trường THCS Đồng Minh. Năm học 2008 - 2009
Page 17


Lại trao đổi thêm về cách tìm hiểu , giải nghĩa từ Hán Việt và cách dạy học đối với
các bài Từ Hán Việt trong chơng trình Ngữ Văn 7, tập 1
Phần I
đặt vấn đề
Tiếng Việt là một bộ môn có tính đặc thù trong nhà trờng phổ thông. Nó vừa là đối
tợng của một bộ môn khoa học: ngôn ngữ học; lại vừa là công cụ giao tiếp trong nhà tr-
ờng, với t cách là tiếng mẹ đẻ.
Do sự quyết định của các yếu tố lịch sử, văn hóa trong quá khứ mà Tiếng Việt chịu
ảnh hởng rất nặng từ ngôn ngữ Hán. Trong lợng từ vay mợn của Tiếng Việt, thì ngôn ngữ
Hán chiếm tỷ lệ lớn. Theo các nhà ngôn ngữ học, thì trong từ vựng Tiếng Việt, từ Hán -
Việt chiếm tới trên 60%. Nh vậy có nghĩa rằng: nếu trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Nhà
xuất bản Giáo dục có dung lợng 30.000.000 từ, thì trong đó, từ Hán - Việt chiếm tới
xấp xỉ 20.000.000 từ.
Với lý do đó, việc dạy học môn Ngữ văn, nói chung và phân môn Tiếng Việt, nói
riêng, thì việc dạy và học về kiến thức và kỹ năng sử dụng từ ngữ Hán - Việt là cực kỳ
quan trọng.
Từ nhận thức này, mà bản thân tôi luôn trăn trở về vấn đề tìm giải pháp tối u để có
thể giúp cho bản thân có đợc một vài kiến thức khả dĩ để có thể hiểu và sử dụng tốt
nguồn từ ngữ Hán - Việt có trong Tiếng Việt, từ đó mà giúp cho công tác giảng dạy phân
môn Tiếng Việt của bản thân có kết quả tốt hơn. Và cũng là có chút ý kiến để cùng trao
đổi với đồng nghiệp về phơng pháp dạy học Tiếng Việt, nói chung, và về cách dạy học
Từ Hán Việt, nói riêng.
Qua bài viết nhỏ này, bản thân tôi muốn đề cập tới vấn đề về cách hiểu và giải
nghĩa từ ngữ Hán Việt. Đồng thời, qua đó đề xuất một vài ý kiến về phơng pháp giảng dạy
kiến thức từ ngữ Hán Việt trong chơng trình Ngữ Văn ở bậc học THCS.
Hiện nay, tôi không trực tiếp đứng lớp, mà tham gia làm công tác quản lý trong nhà
trờng THCS, song trong những năm học trớc đây, trong thời kỳ bắt đầu tiến hành thay
SGK mới, bản thân cũng đã tham gia giảng dạy môn Ngữ Văn ở Trờng THCS Đồng Minh
( năm học 2002 - 2003, 2003 - 2004, HKI năm học 2004 - 2005 ). Trong thời gian đó,
tôi cũng đã quan tâm tới vấn đề này và cũng đã thử áp dụng những quan điểm cá nhân vào

quá trình dạy học. Và dù hiện tại không dạy Ngữ Văn 7, song bản thân vẫn suy ngẫm về
các giải pháp giúp HS có thể tiếp thu và vận dụng tốt hơn kiến thức về Từ Hán Việt. Trớc
đây, tôi cũng đã chọn viết đề tài này, song có nhiều khiếm khuyết, nay tôi tiếp tục nghiên
cứu, sửa chữa và bổ sung cho đề tài này đợc hoàn thiện hơn. Xin mạo muội đợc đa ra để
trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp. Rất mong đợc sự góp ý và phê bình.
Phần II
Nội dung
I. cơ sở lý luận:
Trong môn Ngữ văn, phân môn Tiếng Việt có một vai trò đặc biệt quan trọng. Có
thể coi, Tiếng Việt không chỉ là công cụ giao tiếp trong cuộc sống, mà trong nhà trờng, nó
cũng là một thứ công cụ, thứ công cụ t duy và giao tiếp, để giúp học sinh tiếp cận đối với
các phân môn Văn học và Tập làm văn ( cả đối với các bộ môn khác ). Nói một cách khác,

Nguyễn Hữu Tự. Trường THCS Đồng Minh. Năm học 2008 - 2009
Page 17
Lại trao đổi thêm về cách tìm hiểu , giải nghĩa từ Hán Việt và cách dạy học đối với
các bài Từ Hán Việt trong chơng trình Ngữ Văn 7, tập 1
chất lợng dạy học phân môn Tiếng Việt có tính quyết định đến chất lợng hai phân môn :
Văn học và Tập làm văn, nói riêng và bộ môn Ngữ văn, nói chung.
Trớc đây, trong chơng trình giáo dục phổ thông, " Tiếng Việt" đợc xếp với t cách
là một bộ môn riêng biệt, tách biệt với các bộ môn Văn học ( trớc nữa là : Trích giảng
Văn học ) và Tập làm văn. Việc tách biệt ba bộ môn này bị chi phối bởi quan điểm của
các nhà Tu th ( soạn sách) về tính độc lập của ba bộ môn trên với những t cách khu biệt
về chuyên ngành khoa học. Theo đó, Tiếng Việt là đối tợng của chuyên ngành Ngôn ngữ
học đợc khu biệt với Văn Học và Tập làm văn. Từ chỗ đó, kiến thức của bộ môn Tiếng Việt
trong nhà trờng phổ thông chủ yếu đợc giảng dạy là tri thức ngôn ngữ học. Tức là coi
trọng việc cung cấp các kiến thức cơ bản về khái niệm, cấu tạo ngôn ngữ trong hai phân
môn : Từ ngữ và Ngữ pháp. Song không phải tất cả những quan điểm đúng đắn thì có nghĩa
là không có nhợc điểm. Nhợc điểm lớn nhất của quan điểm này là coi Tiếng Việt nh một
chuyên ngành khoa học thực sự để đa ra mổ xẻ, nghiên cứu với hàng loạt các nguyên lý,

quy tắc, khái niệm cứng nhắc mà quên rằng Tiếng Việt có điểm khác biệt rất cơ bản so với
các bộ môn khoa học khác là Tiếng Việt giống nh một thực thể " sống ", luôn luôn vận
động tạo sinh trong cuộc sống giao tiếp của con ngời. Dù rằng, về mặt ngôn ngữ nó có
những quy tắc nhất định, song trong thực tế, Tiếng Việt - với t cách là " lời ăn, tiếng nói"
nó có thể phá vỡ bất kỳ một quy tắc nào ràng buộc nó.
Nói nh vậy có nghĩa là: Dạy học môn Tiếng Việt vừa phải dạy học về tri thức ngôn
ngữ học, vừa dạy học các kỹ năng cần thiết về hoạt động ngôn ngữ trong các tình huống
giao tiếp.
Hiện nay, chơng trình SGK mới đã đặc biệt coi trọng khả năng rèn luyện các kỹ
năng sử dụng ngôn ngữ cho học sinh. Đồng thời, tạo một môi trờng thuận lợi cho các hoạt
động ngôn ngữ bằng cách vận dụng quan điểm dạy học hiện đại theo hớng tích hợp. Đó
là: tích hợp ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn vào trong một bộ môn: Ngữ
Văn.
Đặt trong bối cảnh đó, rõ ràng việc dạy và học Tiếng Việt đang đợc hết sức coi
trọng vì vai trò của nó đối với bộ môn Ngữ văn.
Xét đến mục tiêu của phân môn Tiếng Việt, thì có lẽ hàng đầu vẫn là cung cấp cho
học sinh những kiến thức cơ bản về ngôn ngữ, giúp cho học sinh có đợc những kỹ năng
thuần thục trong việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp ( nói - đọc - viết ).
Bởi lý do đã nêu ở trên về dung lợng từ ngữ Hán Việt có trong từ vựng Tiếng Việt,
thì việc dạy cho học sinh những kiến thức cơ bản về từ ngữ Hán Việt và những kỹ năng cần
thiết để giúp các em có thể hiểu đúng sử dụng thành thạo vốn từ ngữ Hán Việt là nhiệm
vụ không thể coi nhẹ.
Theo nhà ngôn ngữ học Đào Duy Anh ( trong Hán Việt từ điển tái bản 1943 ):
một ngời Việt trởng thành, có mối quan hệ giao tiếp bình thờng, có vốn từ ngữ đủ để giao
tiếp trong cuộc sống hàng ngày, thì anh ta có trong bộ nhớ của mình và có thể sử dụng đ-
ợc một vốn từ ngữ đạt tới khoảng 4 vạn từ ( trong đó từ gốc chiếm 1/3, và từ sinh ngữ -
hay từ ngữ tạo sinh - chiếm 2/3 ). Và đơng nhiên, ngời đó có vốn từ ngữ Hán Việt là
khoảng trên 2 vạn từ ( theo tỷ lệ 60% ). Nh vậy, một ngời Việt bình thờng, dù không qua
một trờng lớp đào tạo về Hán Ngữ, song với vốn từ ngữ Hán Việt nh vậy, ngời đó vẫn có


Nguyễn Hữu Tự. Trường THCS Đồng Minh. Năm học 2008 - 2009
Page 17
Lại trao đổi thêm về cách tìm hiểu , giải nghĩa từ Hán Việt và cách dạy học đối với
các bài Từ Hán Việt trong chơng trình Ngữ Văn 7, tập 1
thể đợc coi là một nhà Hán học. Và thông thờng, với vốn từ ngữ ấy thiết nghĩ đã có thể
nói là đủ dùng.
Nhng vấn đề cần đợc thống nhất về quan điểm ở đây là: Ngời Việt dùng từ ngữ gốc
Hán theo cách của ngời Việt đặt trong mối tơng quan với Tiếng Việt và đã đợc Việt hóa
trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, chứ không phải dùng từ ngữ gốc Hán theo lối sử
dụng của ngời Trung quốc.
Và nhiệm vụ đợc đặt ra đối với ngời giáo viên dạy môn Ngữ văn là: phải giúp học
sinh tự ý thức đợc về vốn kiến thức ngôn ngữ của mình và giúp cho học sinh có thể sử
dụng tốt vốn liếng ấy vào trong học tập và giao tiếp theo tập quán của Ngời Việt ta một
cách có khoa học.
II. thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
Hiện nay, trong nhà trờng phổ thông, chất lợng dạy học đang là một vấn đề nhức
nhối đối với những ngời làm công tác giáo dục, nói riêng, và đối toàn xã hội, nói chung.
Đứng trớc hoàn cảnh đó, ngành giáo dục nớc nhà đang nỗ lực tìm những biện pháp khả dĩ
để giải quyết tận gốc vấn đề này, nhằm từng bớc nâng cao chất lợng giáo dục.
Đặt trong bối cảnh chung, chất lợng dạy học bộ môn Ngữ văn cũng đang xuống
cấp một cách đáng báo động. Những hiện tợng nh một học sinh lớp 8, đợc xếp loại HS
Tiên tiến mà đọc không thông, viết không thạo; hay những sinh viên tốt nghiệp đại học mà
không viết nổi một bản tự thuật hay một đơn xin việc làm... Tuy chỉ là những hiện tợng cá
biệt, song cũng không khỏi khiến chúng ta phải suy nghĩ về chất lợng dạy học môn Ngữ
văn. Thực tế cho thấy, ở các nhà trờng phổ thông, số lợng học sinh có lực học yếu đối
với môn Ngữ văn chiếm một tỷ lệ không nhỏ.
Đối với khả năng hiểu và kỹ năng sử dụng từ ngữ Hán Việt trong một bộ phận giáo
viên và học sinh cũng ở trong tình trạng nh vậy.
Ví dụ về mặt phơng pháp dạy học: không ít giáo viên dạy Tiếng Việt nói chung, và
Từ Hán Việt, nói riêng, chỉ chú ý cung cấp cho học sinh về mặt tri thức ngôn ngữ học. Có

nghĩa là, cho học sinh biết một cách khái quát về khái niệm từ Hán Việt ( đặt trong quan
niệm về từ vay mợn ), cho học sinh nắm đợc một số kiến thức về cấu trúc từ Hán Việt, giới
thiệu cho học sinh một lợng nhỏ từ ngữ Hán Việt thờng dùng. Mà không quan tâm tới việc
rèn kỹ năng sử dụng từ Hán Việt theo quan điểm hoạt động ngôn ngữ. Từ đó, nhiều học
sinh không có khả năng hiểu và vận dụng kiến thức về từ ngữ Hán Việt trong giao tiếp.
Ví dụ về mặt kiến thức từ ngữ Hán Việt: Trong một tiết dạy Từ Hán Việt, khi cho
học sinh lấy ví dụ về từ ngữ Hán Việt có cấu trúc đẳng lập, một học sinh lấy ví dụ là : "
cao thấp ". Thì đ/c giáo viên nọ phê là : Em tìm sai. Từ " cao thấp " không phải là từ Hán
Việt mà là từ thuần Việt. Hoặc, khi giao cho học sinh tìm từ Hán Việt, một học sinh lấy ví dụ
là từ: " linh tinh ". Giáo viên cũng phê là: Đó không phải là từ Hán Việt... ( cha kể, đ/c
giáo viên ấy còn phê bình em học sinh nọ là thiếu nghiêm túc trong giờ học vì không
những không chịu suy nghĩ làm bài, mà còn nói năng, phát biểu " linh tinh ", bày trò cời ).
Hoặc khi chữa bài tập : Xác định các yếu tố Hán Việt trong một số câu văn ngữ liệu, giáo
viên đã cho rằng các yếu tố : " ông " ( trong " ông bà ","cô " ( trong " cô cậu ), " ác "
( trong " kẻ ác " ) ... không phải là yếu tố Hán Việt...

Nguyễn Hữu Tự. Trường THCS Đồng Minh. Năm học 2008 - 2009
Page 17
Lại trao đổi thêm về cách tìm hiểu , giải nghĩa từ Hán Việt và cách dạy học đối với
các bài Từ Hán Việt trong chơng trình Ngữ Văn 7, tập 1
Đối với việc xác định từ láy cũng vậy, đã có giáo viên cho rằng các từ nh: đáo để,
bồi hồi, cơng cờng, tởng tợng, đơn độc... là từ láy ( thuần Việt ) vì có những dấu hiệu hài
thanh mà không hề biết đó hoàn toàn là những từ ghép Hán Việt.
Khả năng hiểu, xác định và sử dụng từ ngữ Hán Việt ở học sinh còn tệ hơn nhiều.
Đặt trong mặt bằng chung về trình độ hiểu và sử dụng từ ngữ Hán Việt của đại đa
số học sinh THCS hiện nay, việc dạy và học phân môn Tiếng Việt và đặc biệt là kiến thức
về từ ngữ Hán Việt là gặp rất nhiều khó khăn. Và vì thế mà tiến độ nâng cao chất lợng
giảng dạy môn học này còn rất chậm chạp.
Cũng còn một khó khăn khác từ phía cấu trúc chơng trình SGK. Đó là số lợng bài
học, tiết học về từ ngữ Hán Việt đợc biên soạn và bố trí trong chơng trình SGK Ngữ Văn

bậc THCS là rất hạn chế. Trong chơng trình Ngữ Văn của bốn năm học, từ lớp 6 đến lớp 9,
chỉ có 02 tiết học về Từ Hán Việt và đợc bố trí học ở chơng trình Ngữ Văn 7 , tập I. Thiết
nghĩ, với số lợng bài học ít ỏi này, học sinh THCS thật khó có đợc một lợng kiến thức vừa
đủ để hiểu và sử dụng tốt lợng từ ngữ Hán Việt đồ sộ trong vốn từ vựng Tiếng Việt.
III. một số biện pháp giúp cho học sinh nâng cao kiến
thức, kỹ năng sử dụng từ ngữ Hán Việt trong nhà tr-
ờng THCS.
1. Tìm hiểu ngữ nghĩa từ hán việt:
1.1.âm tiết hán việt:
Về mặt khái niệm, âm tiết Hán Việt cũng giống nh âm tiết thuần Việt, là một đơn vị
âm thanh ngôn ngữ có nghĩa, tức là một tiếng có nghĩa. Trong một chuỗi âm thanh ngôn ngữ,
thì " một đốt của chuỗi âm thanh " chính là một âm tiết. ở đây tôi dùng thuật ngữ
âm tiết
Hán Việt
đợc hiểu tơng đơng với thuật ngữ
yếu tố Hán Việt
nh trong SGK Ngữ Văn 7, tập
I. Việc dùng thuật ngữ
âm tiết
là để tiện cho việc phân biệt trong cấu tạo từ thuần Việt và
từ Hán Việt ở trong bài viết này.
Có ngời cho rằng: bất kỳ một âm tiết nào có thể hoạt động làm thành từ đơn tiết
đều đợc xem là từ thuần Việt. Nói khác đi, theo cảm nhận ban đầu chủ quan, khi thấy nói,
viết một từ đơn âm tiết thì ngay lập tức cho rằng từ đó là từ thuần Việt. Và nh vậy, sự
phân biệt giữa từ thuần Việt với các từ ngoại lai ( trong đó có từ Hán Việt ) chỉ bắt đầu
căn cứ vào cấu tạo từ ngữ từ song tiết trở lên mà thôi.
Điều này không phải là hoàn toàn vô lý. Xét ở phạm vi từ ngữ Hán Việt, chỉ một bộ
phận rất nhỏ các âm tiết ( yếu tố ) Hán Việt có thể đứng độc lập để tạo thành từ. Ví dụ
nh các âm tiết: hoa, quả, bút bảng, học, tập ( mà SGK Ngữ văn 7 đã lấy ví dụ ), tình, lý,
thông, vạn, triệu, đầu, não, tủy, thân, ông, cô, cậu, thởng, phạt, từ, ngữ, luật, lệ .v.v. Số lợng

âm tiết ( yếu tố ) Hán Việt có thể độc lập tạo thành một từ không nhiều. Số còn lại, chiếm
phần lớn, không đợc dùng độc lập nh một từ mà dùng để kết hợp tạo thành từ ghép Hán
Việt.
Vậy lý do nào đã khiến cho các âm tiết đã lấy ví dụ ở trên có thể độc lập tạo
thành một từ ? Theo tôi nghĩ: đó là vì các yếu tố Hán Việt này không có từ thuần Việt thay
thế. Hay là vì trong từ vựng Tiếng Việt không có các từ chỉ các khái niệm trên. Và vì thế,
các yếu tố Hán Việt có thể dùng độc lập nh một từ đã đợc Việt hóa đến mức đợc dùng

Nguyễn Hữu Tự. Trường THCS Đồng Minh. Năm học 2008 - 2009
Page 17
Lại trao đổi thêm về cách tìm hiểu , giải nghĩa từ Hán Việt và cách dạy học đối với
các bài Từ Hán Việt trong chơng trình Ngữ Văn 7, tập 1
nh từ thuần Việt ( mức độ Việt hóa cao ). Nếu ta xem
Tam thiên tự
, sách dạy chữ Hán cho
trẻ con thủa xa, ta sẽ thấy có nhiều câu giải nghĩa tiếng Hán bằng chính tiếng đó, kiểu nh:
Thánh là thánh, hiền là hiền...
Nếu xét ta sẽ thấy, phần lớn các âm tiết Hán Việt, trừ các trờng hợp đặc biệt nói
trên, sẽ có ba đặc điểm nổi bật sau ( trong SGK Ngữ Văn 7, tập I chỉ đa ra hai đặc điểm,
là không đợc dùng độc lập nh từ và kết hợp vớ yếu tố khác để tạo thành từ ghép ) :
* Đặc điểm thứ nhất: Thờng thì âm tiết Hán Việt không thể làm từ độc lập.
Ví dụ : âm tiết
thiên

trời
và âm tiết
thảo

cỏ
. Ta có thể nói: " Tôi nhìn trời",

chứ không ai lại nói : " Tôi nhìn thiên ", hay có thể nói: " Bò gặm cỏ " chứ không thể nói : "
Bò gặm thảo ".
Chỉ trừ trờng hợp kiểu câu đặc biệt, kiểu thành ngữ: " Của
thiên
, trả
địa
", " Vào
sinh
, ra
tử
"... Với kiểu cấu trúc này, có thể
từ hóa
mọi đơn vị ngôn ngữ.
* Đặc điểm thứ hai: Với một âm tiết Hán Việt có thể kết hợp với một loạt các
âm tiết khác có quan hệ ngữ nghĩa với nó để tạo ra nhiều từ, từ song tiết trở lên ( từ
ghép ).
Ví dụ : Với
thiên

trời,
ta sẽ có:
thiên mệnh, thiên th, thiên định, thiên sứ, thiên đ-
ờng, thiên bẩm, thiên t ....
Với thảo là cỏ , ta sẽ có:
phơng thảo, thảo mộc, thảo dợc, thảo
nguyên, thảo l, thảo dã ...
* Đặc điểm thứ ba: Một âm tiết Hán Việt có thể kết hợp với một âm tiết thuần
Việt để tạo thành một từ độc lập. Theo nhận thức chủ quan của tôi, đây có lẽ là một đặc
điểm rất đặc biệt của Tiếng Việt: Sự kết hợp đồng nhất giữa ngôn ngữ bản địa ( Tiếng
Việt ) với ngôn ngữ ngoại lai ( Hán ngữ ) để tự làm giàu có và phong phú cho mình. Và

hiện tợng này lại khá phổ biến trong Tiếng Việt. Có thể lấy đợc rất nhiều ví dụ cho hiện
tợng này, nh:
ẩn náu, ban khen, bái lạy, cáo lui, cầu xin, chiếu rọi, dụ dỗ, động chạm, cổ x-
a, khiếp sợ, ngu độn, kiêng kỵ, thanh vắng, hung dữ, tài giỏi, chuối tiêu, chăn chiên, công
việc, làng xã, hồ ao, đầu đuôi, thuyền bè, thơ văn, lo liệu, sao chép, nịnh bợ, chiếm đóng,
tranh giành, thì giờ, trí óc, xác thịt.v.v. và .v.v.
Khi xem xét các từ ghép này, ta có thể nhận thấy rằng hầu hết sự kết hợp giữa
yếu tố thuần Việt với yếu tố Hán Việt để tạo thành từ là các yếu tố có tính chất đồng
nghĩa. Ví dụ: âm tiết
bái
( gốc Hán ) có nghĩa là
lạy
,
cầu
có nghĩa là
xin
,
chiếu
có nghĩa là
soi rọi
,
dụ
có nghĩa là
dỗ
,
cổ
có nghĩa là
xa
... Và vì thế đối với loại từ ghép này, học sinh
không biết sẽ phải xếp nó vào loại từ ghép thuần Việt hay từ ghép Hán Việt ?

Cho đến hiện tại, tôi cha đợc đọc một tài liệu hớng dẫn về chuyên môn hoặc nghe
thấy ngời nào có chức trách chỉ đạo về chuyên môn giảng dạy môn Ngữ Văn, hoặc một
cuộc sinh hoạt chuyên môn chuyên đề nào của Sở GD, Phòng GD hay cụm trờng về môn
Ngữ Văn đề cập tới vấn đề này. Và thờng thờng, khi dạy về Từ Hán Việt, giáo viên cũng
không thấy đa hiện tợng này ra để dạy cho học sinh. Đơn giản, chỉ vì trong SGK không
có nói tới.
Theo tôi, khi dạy bài Từ Hán Việt ( Ngữ văn 7, tập I ), giáo viên không thể bỏ qua
hiện tợng này, cho dù SGK không đề cập tới. Nếu không, học sinh sẽ lúng túng, mơ hồ và
ngỡ ngàng khi các em bắt gặp trờng hợp từ ngữ khá phổ biến trong tiếng Việt này.
Đối với việc ra đề kiểm tra ( từ 15' trở lên ) đối với giáo viên và ra đề KSCL, đề
Thi của các bộ phận chuyên môn ở các cấp quản lý giáo dục cũng phải hết sức chú ý đến

Nguyễn Hữu Tự. Trường THCS Đồng Minh. Năm học 2008 - 2009
Page 17

×