Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Vận dụng phương pháp kỉ luật tích cực trong giáo dục đạo đức cho học sinh chưa ngoan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.81 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
Trang
1. PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................2
1.1. Lí do chọn đề tài:...........................................................................................2
1.2. Điểm mới của đề tài:.....................................................................................2
2. PHẦN NỘI DUNG.....................................................................................3
2.1. Thực trạng học sinh lớp chủ nhiệm...............................................................3
2.1.1. Những nguyên nhân dẫn đến học sinh vi phạm nề nếp và đạo đức..........3
2.1.2. Sự cần thiết của việc vận dụng PPKLTC trong việc giáo dục đạo đức
cho học sinh, đặc biệt là những học sinh vi phạm nề nếp, đạo đức....................4
2.2. Tiến trình thực hiện đề tài .............................................................................5
2.2.1. Các bước tìm hiểu......................................................................................5
2.2.2. Các biểu hiện tiêu cực của trẻ khi mắc lỗi và cảm xúc của giáo viên,
vận dụng PPKLTC để xử lí các tình huống trên...................................................6
2.2.3. Một số hoạt động khác...............................................................................7
2.3. Kết quả đạt được:..........................................................................................8
3. PHẦN KẾT LUẬN...................................................................................10
3.1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của đề tài...........................................................10
3.2. Những kiến nghị, đề xuất............................................................................10
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................12


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Bác Hờ vẫn thường nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng”. Giáo dục
đạo đức thực hiện nhiệm vụ “dạy người” trong các trường thuộc bậc học phổ thông,
đặc biệt là ở các trường tiểu học vô cùng quan trọng. Các biện pháp giáo dục truyền
thống lâu nay chúng ta vận dụng thường không mang lại hiệu quả cao, đơi khi cịn đi
ngược lại mục tiêu mà chúng ta đề ra.
Hơn nữa, trong những năm trở lại đây, các em tiếp xúc với công nghệ thông tin,
các phương tiện truyền thơng giải trí khá rộng rãi. Điểm tích cực là các em biết vận


dụng nó vào học tập, bên cạnh đó, rất nhiều em, đặc biệt là các học sinh nam, thiếu sự
quan tâm của gia đình đã sa đà vào các quán in-tơ-nét, bi-a… chơi trò chơi, lười học,
trốn học… dẫn đến năng lực học tập giảm sút, kéo theo đó là tình trạng vi phạm nề
nếp, nội quy lớp học, nhà trường ngày càng tăng cao, một số em có biểu hiện lệch lạc
về đạo đức.
Việc học sinh mắc lỗi, vi phạm nề nếp, đạo đức được coi như lẽ tự nhiên của quá
trình học tập và phát triển. Nhiệm vụ quan trọng của nhà giáo dục là làm thế nào để
học sinh tự nhận thức được bản thân, tự kiểm soát hành vi, thái độ trên cơ sở các quy
định, quy ước đã được xây dựng, thoả thuận giữa người dạy và người học.
Khi học sinh mắc lỗi, giáo viên theo cách ứng xử truyền thống vẫn chọn trừng
phạt là giải pháp để giáo dục học sinh. Việc làm này xúc phạm đến danh dự, nhân
phẩm, thân thể của học sinh, hiện đang là mối quan tâm, bức xúc của toàn xã hội.
Xuất phát từ các lí do trên, tơi đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu và thực hiện
SKKN: “Vận dụng phương pháp kỉ luật tích cực trong giáo dục đạo đức cho học
sinh chưa ngoan”.
1.2. Điểm mới của đề tài
Trong suốt quá trình giáo dục của bản thân, tơi nhận thấy mình và đờng nghiệp gặp
rất nhiều khó khăn trong việc giáo dục học sinh, đặc biệt là đối tượng học sinh chưa
ngoan nếu nhất quán áp dụng theo lối giáo dục truyền thống. Đề tài này là bước “đột
phá” trong tư tưởng, nhận thức và hành động để tôi tiếp cận nhiều hơn, hiểu biết sâu
sắc hơn, xử trí đúng đắn hơn các biểu hiện đạo đức lệch lạc của học sinh một cách tích
cực, chủ động, thân thiện nhưng mang lại hiệu quả tối ưu.

2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng học sinh lớp chủ nhiệm
Lớp gồm 29 học sinh (12 nam, 17 nữ, 01 học sinh khuyết tật). Là lớp cuối cấp, số
học sinh trong một lớp tương đối đông (so với các lớp khác trong trường) nên phần nào
2



cũng gây khó khăn trong công tác giảng dạy cũng như giáo dục của giáo viên, đặc biệt
là giáo viên chủ nhiệm. Học sinh của lớp tương đối ngoan, chấp hành nội quy nhà
trường cũng như của lớp. Song bên cạnh đó cũng có khơng ít em cịn vi phạm nề nếp,
đạo đức biểu hiện lệch lạc ở nhiều khía cạnh, trạng thái khác nhau : gây gỗ bạn, quậy
phá, thiếu nghiêm túc trong học tập, tinh thần học tập không cao, ương ngạnh, không
nghe lời thầy cô giáo, nói tục với bạn bè... Đặc biệt có 01 học sinh mới chuyển đến từ
tháng 10 năm 2014 thuộc đối tượng học sinh chưa ngoan.
Số lượng học sinh vi phạm nề nếp, đạo đức không đông nhưng nó ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động của học sinh và cả giáo viên giảng dạy ở lớp, nhất là giai
đoạn đầu và giữa học kì 1.
2.2. Những nguyên nhân dẫn đến học sinh vi phạm nề nếp và đạo đức
- Do tính hiếu động, sự lôi kéo của bạn bè xấu, sự thiếu quan tâm của gia đình, nhà
trường và xã hội… vơ tình đã thu hút các em vào những việc làm khơng tốt, các em
thường tỏ ra chai lì, khơng cảm thấy xấu hổ khi bị phê bình, có phản ứng gay gắt,
không lành mạnh…
Sau khi đã thực hiện các bước tìm hiểu như trên, giáo viên sẽ phân tích và xác định
nguyên nhân làm cho học sinh trở thành chưa ngoan. Nguyên nhân đó có thể là từ:
+ Bản thân học sinh: học sút, kém một hoặc vài môn học do mất căn bản nên có
tâm lí lơ là, chán học, thích làm việc riêng, chọc ghẹo bạn bè, quậy phá trong giờ
học...; tính hiếu động, tị mị, thích bắt chước theo một số nhân vật nào đó trên phim
ảnh, truyện, sách báo... để chứng tỏ bản thân.
+ Đối với gia đình:
- Bố mẹ mãi lo việc kinh tế, đi làm ăn xa, không chú trọng đến việc giáo dục con
em, phó mặc cho nhà trường.
- Gia đình thường có những xung đột, ảnh hưởng đến việc phát triển cân bằng về
tâm sinh lí ở các em.
+ Đối với nhà trường: Đi học gặp các thầy cô giáo, các em chỉ chào hỏi thầy cơ
trực tiếp dạy mình. Nhiều em không biết dùng những từ “thưa”, “vâng”, “dạ”… khi
nói với người lớn tuổi, với thầy cô giáo. Các em học sinh lớp lớn bắt nạt các em học
sinh lớp bé trên đường đi học về… Một số học sinh chỉ nghe lời của giáo viên chủ

nhiệm, chưa coi trọng lời nói của các giáo viên bộ môn.Bên cạnh đó, việc giáo dục đạo
đức cho học sinh trong nhà trường hiện nay chưa được quan tâm đúng mức. Một số
giáo viên cịn coi nhẹ cơng việc này nên chất lượng các giờ dạy đạo đức chính khóa
chưa cao.
+ Đối với xã hội:
- Cịn tờn tại nhiều điều xấu ảnh hưởng đến hành vi đạo đức của các em.
3


- Văn hố phẩm đời truỵ, phim bạo lực, trị chơi bạo lực trên các bộ phim nước
ngồi, các trị chơi trên in-tơ-nét…ảnh hưởng rất nhiều đến việc phát triển và hình
thành nhân cách, hành vi đạo đức xấu ở các em.
Thông thường các nguyên nhân này đi chung với nhau, chứ không đơn thuần riêng
lẻ từng nguyên nhân.
2.3. Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh chưa ngoan.
a. Phương pháp kỉ luật tích cực (PPKLTC).
- PPKLTC là biện pháp giáo dục giúp học sinh tự nhận thức được bản thân, giúp các
em nhận biết được đúng sai để điều chỉnh hành vi của mình theo hướng tích cực, tự
kiểm sốt hành vi, thái độ trên cơ sở các quy định, quy ước đã được xây dựng. Đây là
biện pháp giáo dục hữu hiệu, hoàn toàn khác với lối giáo dục truyền thống theo kiểu
“đòn roi”, cung cấp cho các em thông tin cần thiết để được giáo dục toàn diện và hỗ trợ
sự phát triển của các em. Tất nhiên biện pháp này không phải là không kỉ luật, mà là
phải kỉ luật nhưng sau kỉ luật sẽ làm cho học sinh xây dựng sự tự tin và lịng ham thích
học tập, giúp các em tiến bộ.
Trong những năm trở lại đây, phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động đã mang lại tín hiệu và hiệu quả
tích cực trong việc khơng ngừng nâng cao tính chủ động, tự giác, tích cực của học sinh
trong một mơi trường học tập an tồn, thân thiện.
Chính vì vậy có thể nói, một số biện pháp giáo dục "truyền thống” khơng cịn
phù hợp. Trước đây và kể cả hiện nay, khơng ít giáo viên vẫn quan niệm, khi học sinh

mắc lỗi, thói quen áp dụng biện pháp “truyền thống”, (nghĩa "truyền thống" ở đây là
việc thường làm khơng phân biệt tích cực hay tiêu cực) như trách phạt, dọa nạt, mắng
mỏ thậm chí đánh đập học sinh khi các em vi phạm nội quy trường lớp. Điều này do
hai nguyên nhân: giáo viên chưa hiểu tâm lí lứa tuổi học sinh "trong xã hội mở" và coi
nhẹ kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ. Các hình phạt thiếu tính tích cực (trừng phạt thân
thể: đánh, véo, kéo tai, giật tóc, quỳ, úp mặt vào tường... và trừng phạt về tinh thần: la
mắng, nhiếc móc, hạ nhục, bỏ rơi, làm cho xấu hổ, chửi rủa...) diễn ra khá phổ biến.
Điều đó gây ra những hệ quả nghiêm trọng, làm các em mất đi sự tự tin, giảm ý thức
kỷ luật, căm ghét trường học, để lại những vết sẹo trong tâm hồn, khiến các em luôn có
thái độ thù địch. Nhận thấy đây là vấn đề cấp bách ảnh hưởng rất nhiều đến tương lai
học sinh, chính vì vậy tôi đã thay đổi tư duy, từng bước thay, thử nghiệm và áp dụng có
hiệu quả biện pháp giáo dục giáo dục kỉ luật tích cực và đề ra các giải pháp phù hợp
trong công tác giáo dục đạo đức, kĩ năng sống, lý tưởng sống cho học sinh.
PPKLTC là một biện pháp giáo dục hoàn toàn khác với lối giáo dục truyền thống
theo kiểu “đòn roi”, giúp học sinh tự nhận thức được bản thân, nhận biết được đúng sai
4


để điều chỉnh hành vi của mình theo hướng tích cực, tự kiểm soát hành vi, thái độ trên
cơ sở các quy định, quy ước đã được xây dựng.
Tăng cường biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực trong nhà trường là biện pháp
giáo dục học sinh không sử dụng đến các hình thức bạo lực, trừng phạt, trong đó giáo
viên, nhà quản lý giáo dục áp dụng các hình thức kỷ luật tích cực, phù hợp để giúp học
sinh giảm thiểu những hành vi không phù hợp, củng cố các hành vi tích cực và phát
triển nhân cách một cách toàn diện, bền vững.
- Giai đoạn này trẻ vẫn rất nhạy cảm với việc bị trừng phạt khi mắc lỗi. Ở lứa tuổi
này, trẻ đang tập thích nghi với trường học. Nếu bị phạt khi mắc lỗi, trẻ dễ thu mình,
cảm thấy khơng an tồn, có thể giảm hứng thú, động cơ học tập hoặc thậm chí khơng
muốn đi học.
- Cha mẹ và thầy cô cần chấp nhận rằng việc trẻ mắc lỗi là bình thường và coi đó là

cơ hội giúp trẻ học tập, không đồng nhất hành vi mắc lỗi với tính cách, con người của
trẻ.
- Cha mẹ và thầy cô có thể ảnh hưởng đến việc hình thành sự thiên lệch về mặt văn
hóa, thái độ của trẻ.
- Kĩ năng làm thành thạo hoặc giỏi một việc gì đó là rất quan trọng cho quá trình
phát triển của trẻ. Trẻ có thể mặc cảm, tự ti nếu thấy mình khơng thể đạt được những gì
người lớn mong đợi. Do đó trẻ cần được nâng đỡ, khích lệ.
b. Các biểu hiện tiêu cực của trẻ khi mắc lỗi và cảm xúc của giáo viên, vận
dụng PPKLTC để xử lí mợt sớ tình h́ng điển hình:
* Thu hút sự chú ý: trẻ thường làm trò hề để gây cười, trò láu cá, ăn mặc khác
thường, khóc lóc, làm ồn, quên, lơ là việc phải làm…
Lúc này, giáo viên cảm thấy khó chịu, tực giận, đôi khi thấy buồn cười vì thấy trẻ
rất nghịch ngợm.
- Cách xử lí:
+ Giảm thiểu hoặc không để ý đến hành vi của trẻ khi có thể, chủ động chú ý đến
trẻ vào lúc khác, những lúc phù hợp và dễ chịu hơn bởi “khi tức giận ta đừng nên làm
gì cả. Có ai chăng b̀m giữa biển khơi lúc giơng bão”.
+ Nhìn nghiêm nghị vào trẻ nhưng khơng nói gì; hướng trẻ vào hành vi có ích hơn;
nhắc nhở cơng việc cụ thể có giới hạn (tên, công việc phải làm) cho trẻ lựa chọn; lập
nội quy riêng cho học sinh đó và thường xuyên giám sát, nhắc nhở em.
* Thể hiện quyền lực: các em có hành vi hung hăng, đánh nhau, trêu ngươi, thách
thức, không nghe lời, không hợp tác, bướng bỉnh, đối đầu…
Giáo viên có cảm giác tức giận, bị khiêu khích, cảm thấy quyền lực của mình bị
thách thức…
5


- Hướng giải quyết:
+ Bình tĩnh, rút khỏi cuộc cãi nhau, xung đột, không tham chiến để trẻ nguôi dần;
khuyến khích trẻ hợp tác (hiểu, thể hiện, chia sẻ cảm xúc với trẻ…) về tình huống xung

đột.
+ Trao đổi, chia sẽ thông tin giữa các bên xung đột để có sự hiểu biết về nhau, dẫn
đến sự thông cảm và chia sẽ lẫn nhau. Tổ chức tiếp xúc, họp mặt và sinh hoạt chung
giữa các bên xung đột để làm dịu căng thẳng. Dàn xếp để đi đến thỏa thuận chung để
mỗi bên tự giải quyết vấn đề theo tinh thần thỏa thuận đã đạt được.
+ Không nhượng bộ với trẻ, quyết định mình sẽ làm gì thay vì bắt trẻ làm gì
- Trả đũa: làm tổn thương bạn bè, hỗn láo, bạo lực, phá phách đờ đạc, nhìn người
khác đầy vẻ hằn học, xúc phạm…
Bị tổn thương sâu sắc, khơng ngờ trẻ có thể làm như vậy với mình và học sinh
xung quanh… là tâm trạng chung của không ít giáo viên khi gặp tình huống này.
- Cách xử lí:
+ Kiên nhẫn, tránh khỏi vịng luẩn quẩn “ăn miếng trả miếng”, tránh trừng phạt trẻ
giống việc trẻ đã từng gây ra.
+ Khích lệ sự hợp tác, xây dựng lịng tin từ trẻ; tâm sự riêng với trẻ để giải quyết
khó khăn; khích lệ, động viên để trẻ thấy được chúng vẫn được tôn trọng, yêu thương.
+ Lập nội quy riêng cho học sinh đó và thường xuyên giám sát, nhắc nhở em.
- Thể hiện sự khơng thích hợp: bỏ cuộc, từ bỏ một việc gì đó một cách dễ dàng,
không cố gắng, không tham gia hoạt động với lớp…
Cảm giác của giáo viên lúc này là chịu đựng, chán nản, thậm chí đơi lúc cảm thấy
tuyệt vọng…
- Hướng xử trí:
+ Khơng phê phán, chê bai, thương hại hay đầu hàng với trẻ; dành thời gian luyện
tập, phụ đạo cho trẻ đặc biệt về mặt học tập
+ Chia nhỏ nhiệm vụ cho trẻ, lưu ý đi từ dễ đến khó, từ ngắn đến dài; tập trung vào
điểm mạnh của trẻ để khích lệ trẻ.
c. Mợt sớ hoạt đợng khác
* Thay đổi cách cư xử trong lớp học:
Ngay từ đầu năm học, tôi đã phối hợp, trao đổi với tổng phụ trách Đội đưa ra một
số quy định về ứng xử trong lớp học:
- Học sinh trong lớp gọi “bạn” xưng “mình”, hoặc gọi tên.

- Ln có thái độ nhường nhịn với các bạn có thể trạng yếu, các bạn nữ
- Giữ thái độ lễ phép với GV, người lớn tuổi; thân thiện, hòa nhã, quan tâm giúp
đỡ bạn bè…
6


* Quan tâm đến học sinh:
Những vấn đề về hành vi có thể khiến trẻ gặp khó khăn trong học tập và những
khó khăn trong học tập có thể gây ra những vấn đề về hành vi. Chính vì vậy tôi luôn
quan tâm đến các biểu hiện hằng ngày của các em, thường xun trị chuyện, tìm hiểu
tâm tư nguyện vọng, điều kiện sinh hoạt và học tập của các em, lập ra hộp thư “điều
em muốn nói” để khuyến khích học sinh “bộc bạch” những tâm tư, tình cảm của các
em.
* Tăng cường sự tham gia của học sinh trong hoạt động xây dựng nội quy lớp học
Học sinh tham gia xây dựng nội quy lớp, quy định chế độ khen thưởng và xử phạt,
giám sát và thực hiện nội quy thông qua tổ chức cho các em nhận xét việc thực hiện
nội quy hàng tuần trong giờ sinh hoạt. Việc học sinh tham gia xây dựng nội quy khiến
các em cảm thấy có trách nhiệm và thực hiện kỷ luật một cách tự giác hơn, giáo viên
không cần nhắc nhở và tránh được những “sự cố” trong lớp học.
* Xây dựng lớp học tự quản, nhóm học tập, đôi bạn cùng tiến
- Để có được tập thể học sinh tự quản, tôi đã nắm được đặc điểm năng lực của
từng học sinh, mối quan hệ mà học sinh tham gia, diễn biến tâm lý của học sinh, những
mục tiêu nhiệm vụ giáo dục của nhà trường và khả năng thực hiện của học sinh lớp chủ
nhiệm, trên cơ sở đó xây dựng đội ngũ học sinh cốt cán. Học sinh cốt cán là những học
sinh có uy tín, có năng lực tập hợp, tổ chức các hoạt động của lớp và do tập thể bầu ra.
Những học sinh này đảm nhận trách nhiệm của bộ máy tự quản, phối hợp với GVCN
và tổng phụ trách Đội thực hiện phương hướng và kế hoạch giáo dục được đề ra, cụ thể
hóa thành chương trình hành động của tập thể học sinh lớp chủ nhiệm nhằm giáo dục
học sinh về mọi mặt.
Hàng tuần giáo viên phân công 2 học sinh của lớp thực hiện nhiệm vụ quan sát

lớp học: thu thập, ghi chép các tông tin từ học sinh về quá trình học tập, thực hiện nội
quy lớp học và các vấn đề nảy sinh trong lớp học. Hằng ngày, trước khi vào học, hai
học sinh đó bào cáo với GVCN; cuối tuần, tại buổi sinh hoạt lớp, báo cáo trước lớp:
điều gì có lợi ích cho việc học tập, điều gì khơng có lợi cho lớp, làm thế nào để cải
thiện tình hình lớp?
- Xây dựng nhóm học tập, đôi bạn cùng tiến dựa vào năng lực sở trường của từng
học sinh trên tinh thần bạn khá giỏi kèm bạn học yếu, các học sinh gần nhà nhau lập
thành nhóm học tập, bầu nhóm trưởng điều hành hoạt động nhóm, thường xuyên báo
cáo tình hình với GVCN
* Đổi mới nội dung và hình thức các buổi sinh hoạt nhằm giúp học sinh thoải mái
bày tỏ suy nghĩ, ý kiến về các chủ đề liên quan đến kỷ luật, đạo đức học sinh.
Hình thức sinh hoạt cần chuẩn bị chu đáo, cụ thể, có phân công rõ ràng. Có thể tổ chức
7


vào giờ sinh hoạt cuối tuần, ngoại khóa... giáo viên chuẩn bị chủ đề, câu hỏi gợi ý, tình
huống và tài liệu, học sinh có thể trao đổi nhóm, góp ý cá nhân... có xen kẽ trò chơi,
tạo hứng thú cho học sinh khi tham gia.
* Giáo dục đạo đức cho học sinh qua hoạt động ngoài giờ lên lớp:
Các buổi chào cờ đầu tuần, các hoạt động tập thể tạo cho các em khơng khí thoải mái,
dễ chịu vừa có tác dụng giáo dục nhẹ nhàng mà hiệu quả, giúp các em hịa đờng hơn,
tích cực hơn trong suy nghĩ và hành động của mình.
* Phối hợp tốt với các GV bộ môn
Thường xuyên trao đổi với GV bộ môn về thông tin học sinh trong lớp để có biện
pháp xử lí kịp thời.
* Phối hợp với phụ huynh học sinh:
Sự trao đổi thường xuyên giữa ban đại diện cha mẹ học sinh với GVCN và nhà
trường là cầu nối tốt giữa nhà trường và gia đình trong cơng tác giáo dục đạo đức cho
học sinh. Sự gắn kết ấy đã tạo thành sự thống nhất và đồng bộ trong giáo dục và đã có
tác dụng rất tốt.

3. Kết quả đạt được:
Tôi luôn nhận thức đúng đắn và sâu sắc về vị trí, vai trị, sự cần thiết của việc vận
dụng PPKLTC trong giáo dục học sinh. Chính vì vậy, kết quả mà những nỗ lực phấn
đấu của tôi mang lại khơng hề nhỏ.
Khơng khí trong các giờ dạy của tơi ln vui tươi, sảng khối; học sinh phấn khởi,
sẵn sàng tham gia tích cực các hoạt động cá nhân, tập thể. Từng học sinh trong tập thể
lớp có ý thức tự hào và giữ gìn, bảo vệ uy tín tập thể xuất phát từ quan niệm về giá trị
của tập thể mình.
Sự đồn kết thân thiết giữa các học sinh trong tập thế lớp. Mỗi học sinh trong tập
thể đều có cảm giác an toàn, được bảo vệ. Học sinh trong tập thể lớp có thói quen tự
kiềm chế, từ tốn trong cử chỉ, lời nói và trong cách biểu lộ cảm xúc. Tập thể học sinh
thực sự phát huy vai trị và thế mạnh của mình.
Trong suốt gần năm học vừa qua, lớp tôi luôn đạt kết quả cao trong các phong
trào, hoạt động do nhà trường, liên đội đề ra:
- Lớp tự quản tôt.
- Học sinh trong lớp chăm ngoan, có tinh thần xây dựng tập thể. Số lượng, mức độ
vi phạm nề nếp và đạo đức của học sinh giảm dần và có chiều hướng hạn chế.
- Em học sinh mới chuyển đến đã tiến bộ rõ, hòa nhập với bạn bè, thực hiện đầy
đủ các chuẩn mực đạo đức.
- Các hoạt động học tập và hoạt động ngoài giờ đạt kết quả cao: đạt giải Nhất, Nhì
trong các phong trào thi đua chào mừng các ngày lễ lớn. Kết quả học tập luôn đứng
8


đầu trong nhà trường.
Qua việc tìm hiểu thực trạng, nghiên cứu cơ sở lí luận, tìm ra biện pháp khắc phục
và áp dụng thực hiện đề tài trong phạm vi lớp chủ nhiệm, tơi thật sự hài lịng về kết
quả thu được. So với tình hình đầu năm, đạo đức của các em đã được từng bước cải
thiện và đạt hiệu quả đáng kể, phong trào học tập và hoạt động của lớp ngày càng đi
lên.


3. phÇn kÕt luËn
3.1. Bài học kinh nghiệm.
Sau một thời gian trực tiếp giảng dạy, giáo dục, với tất cả sự tâm huyết của mình,
bản thân tơi đã tự tìm tịi, tự học hái, tự đúc rút kinh nghiệm thông qua giảng dạy và
thực nghiệm sáng kiến nêu trên, đã từng bước xây dựng lớp 5A ngày càng tiến bộ về
mọi mặt, luôn nhận được sự tín nhiệm, khen ngợi của các giáo viên trong trường, của
quý vị phụ huynh.
Để duy trì hoạt động dạy học, giáo dục theo phương châm “phát huy tính chủ
động, tích cực, sáng tạo” của học sinh có chất lượng, bản thân tôi tự rút ra những bài
học sau:
- GV cần phải tn tõm, nhit tỡnh, yờu thng con tr. Trong mỗi giờ dạy,
người giáo viên phải tạo được sự say mê cho bản thân mình cũng như hứng thú cho
học sinh.
- Trao đổi học tập kinh nghiệm từ đồng nghiệp.
- Không tiết kiệm lời khen với trẻ.
- Tạo không khí lớp sinh động.
- Tìm cách hiểu học sinh thơng qua các hoạt động.
- Tìm sự trợ giúp từ nhiều phía
- Ln tạo hứng thú cho các em trong các gi hc.
- Tuyờn dng, nêu gơng, khen thng kp thi những học sinh có thành tích
tốt trong học tập cũng như hoạt động phong trào
- Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, uèn n¾n học sinh có biểu hiện lệch lạc về
đạo đức, thơng bào với phụ huynh về tình hình học sinh, phối hợp với các cá nhân, tổ
chức khác trong việc giáo dục học sinh..
3.2. Những kiến nghị, đề xuất
Từ sự thành công bước đầu trong việc áp dụng biện pháp giáo dục “kỷ luật tích
cực” trong năm học này, tôi hi vọng bản thân có thể tiếp tục duy trì tìm tịi hơn nữa để
kết quả mang lại có thể cao hơn, học sinh ngày một tiến bộ về đạo đức, các em ngoan
hơn, lễ phép hơn và khơng cịn tình trạng học sinh vi phạm nề nếp, đạo đức như trước

nữa, tơi mạnh dạn nªu ra một vài đề xuất sau:
9


- Về phía giáo viên: Cần cung cấp cho mình đầy đủ thông tin về PPKLTC cũng
như cần bồi dưỡng kiến thức tâm lý lứa tuổi và kỹ năng tư vấn học đường, nắm vững
đặc điểm tâm sinh lí, hồn cảnh gia đình học sinh. Ngồi ra giáo viên cũng nên thay
đổi cách ứng xử. Phương pháp giáo dục này yêu cầu các giáo viên quan tâm hơn đến
những khó khăn của các em, tăng cường vai trò của các em trong việc xây dựng nội
quy của lớp, trường học.
- Về phía nhà trường: Cần tuyên truyền nâng, vận động cao nhận thức cho cán bộ
giáo viên và bồi dưỡng, cung cấp tài liệu sách báo, tổ chức hội thảo, tập huấn
cho họ kiến thức có liên quan. Đề cao vai trị của đội ngũ giáo viên bộ mơn và giáo
viên chủ nhiệm lớp, ngoài việc truyền thụ kiến thức cho học sinh, giáo viên luôn quan
tâm, gần gũi học sinh; tạo một kênh thông tin quan trọng để qua đó nhà trường nắm bắt
được tâm lý hoàn cảnh của học sinh; xây dựng cơ chế khuyến khích việc thực hiện các
biện pháp giáo dục tích cực.
- Về phía phụ huynh: Cần thay thế phương pháp “roi vọt” bằng các phương pháp
dạy con tích cực hơn, dành thời gian quan tâm nhiều đến con cái, thường xuyên trao
đổi với giáo viên về tình hình của con em mình để có biện pháp động viên, can thiệp
kịp thời. Cần phải luôn là chỗ dựa vững chắt cho các em, giúp các em không cảm thấy
cô đơn, lẻ loi, hụt hẫng. Gia đình cần nhận thức đúng đắn về vai trị, trách nhiệm của
mình trong việc giáo dục con cái. Khơng nên quá lo về kinh tế mà bỏ quên việc giáo
dục con em mình. Những thành viên trong gia đình cần ln noi gương tốt cho các em
noi theo.
- Về phía xã hội: Cần quan tâm đến ngành giáo dục nhiều hơn nữa, phối kết hợp
với ban ngành địa phương làm lành mạnh, trong lành mơi trường sống, khơng cịn
những tệ nạn, những thói hư tật xấu…làm ảnh hưởng đến thế hệ trẻ mai sau.
Tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ các bạn đồng nghiệp, ban giám
hiệu nhà trường cũng như quý vị phụ huynh và các em học sinh để đề tài của tơi ngày

càng hồn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xếp loại và xác nhận của HĐKH trường

Lương Ninh, ngày 26/ 4/ 2015
Người viết

Lê Thị Hải Yến

10


4. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SÁCH THAM KHẢO
1). Phan Thương, Kỉ luật không nước mắt – Phương pháp giáo dục trẻ có hiệu
quả, NXB Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 2013
2). Nguyễn Khắc Viện, Nghiên cứu tâm lí, NXB Văn hóa Sài Gịn, Tp Hờ Chí
Minh, 2010.
3). Adele Faber & Elaine Mazlish (Trần Thị Hương Lan dịch), Nói sao cho trẻ
chịu học ở nhà và ở trường, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009.
4). Sổ tay công tác giáo viên chủ nhiệm
2. CÁC TÀI LIỆU KHÁC
1). Dự án Plan Việt Nam, Phương pháp kỉ luật tích cực
3.CÁC TRANG WEB ĐIỆN TỬ
1).
2).

11



12



×