Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn một vài lưu ý GIÚP học SINH lớp 2 học tốt môn LUYỆN từ và câu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.44 KB, 16 trang )

1

1. Tên đề tài: MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP HAI
GIẢI TỐT DẠNG TOÁN CÓ LỜI VĂN
2. Đặt vấn đề:
2.1. Tầm quan trọng của vấn đề:
Toán học có vị trí rất quan trọng trong cuộc sống thực tiễn. Đó cũng là
công cụ cần thiết cho các môn học khác để giúp học sinh nhận thức được thế
giới xung quanh, hoạt động có hiệu quả trong học tập.
Trong chương trình môn Toán ở Tiểu học, giải toán có lời văn giữ một
vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán, các em sẽ biết được nhiều khái
niệm toán học. Đồng thời còn rèn cho học sinh năng lực tư duy, tính cẩn thận,
óc sáng tạo, cách lập luận bài toán trước khi giải, giúp học sinh vận dụng các
kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Giải các bài toán có
lời văn là cách tốt nhất để rèn luyện đức tính kiên trì, tự lực vượt khó, cẩn
thận chu đáo, tính chính xác cho học sinh. Bên cạnh đó, thông qua việc giải
toán của học sinh, giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu
sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những
mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót.
Chính vì thế, việc đổi mới phương pháp dạy toán có lời văn ở cấp Tiểu
học nói chung và ở lớp 2 nói riêng là một việc rất cần thiết. Do vậy mà mỗi
giáo viên Tiểu học cần phải chủ động trong kế hoạch bài dạy thì sẽ có điều
kiện để đảm bảo chất lượng dạy học toán cho học sinh.
Chính vì vậy, việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn là rất cần thiết, nó giúp
học sinh hình thành tư duy lôgích và phương pháp làm việc khoa học. Đồng
thời giúp các em nắm vững hơn mối quan hệ toán học( số học, hình học, đại
lượng…) và ứng dụng vào tìm hiểu mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng
tự nhiên trong xã hội. Từ đó, có cách giải quyết công việc linh hoạt và sáng
tạo.
2.2. Thực trạng:
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở khối lớp 2, tôi nhận thấy “Giải


toán có lời văn” là mạch kiến thức khó nhất đối với học sinh. Việc học
sinh học toán và giải toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập
khác. Các em thường có một thói quen không tốt đó là: đọc đề bài qua loa,
sau đó giải bài toán ngay. Vì vậy, các em còn lúng túng trong việc xác định
dạng toán và tóm tắt đề toán. Khi giải bài toán học sinh ít tư duy, còn máy
móc, nếu đề cho nhiều hơn là làm phép tính cộng, ít hơn là làm phép tính trừ,
gấp là làm phép tính nhân, kém là làm phép tính chia. Các em ít để ý đến dữ
kiện của bài toán đã cho nên nhiều khi chọn phép tính không đúng dẫn đến
kết quả sai. Bên cạnh đó, các em còn chưa biết đặt câu lời giải cho phép tính
các em vừa tìm. Nhiều em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng


2

không tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt
ra. Cũng có em làm đúng cả lời giải và phép tính nhưng không xác định được
tên đơn vị. Làm xong không cần kiểm tra lại kết quả, khi trả bài các em mới
biết là mình sai.
2.3. Lí do chọn đề tài:
Với những thực trạng trên, tôi nhận thấy việc giải toán có lời văn của
lớp là vấn đề đáng quan tâm. Điều đó làm tôi trăn trở rất nhiều là làm sao tìm
ra biện pháp để giúp các em có kĩ năng giải tốt dạng toán có lời văn. Tôi tự
đặt ra cho mình một số câu hỏi:
- Làm thế nào để giúp học sinh lựa chọn cách tóm tắt bài toán hợp lý?
- Giúp các em tìm được lời giải đúng bằng cách nào?
- Làm sao để các em chọn được phép tính đúng?
- Bằng cách nào để các em chọn đơn vị của phép tính chính xác?
- Hình thành kĩ năng, kĩ xảo giải toán có lời văn bằng con đường nào?
Để làm tốt những định hướng mà mình đặt ra, tôi đã suy nghĩ và tìm:
"Một vài biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải tốt dạng toán có lời văn". Đó

cũng là đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi trong năm học này.
2.4. Giới hạn đề tài:
* Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 2A năm học 2016-2017 Trường
Tiểu học Hồ Phước Hậu
* Phạm vi nghiên cứu: Chương trình Toán lớp 2, trọng tâm là dạng
"Giải toán có lời văn”
3. Cơ sở lí luận:
Dạy toán có lời văn ở bậc Tiểu học nói chung và ở khối lớp 2 nói riêng
nhằm giúp các em có kiến thức ban đầu về số học, các đại lượng, các yếu tố
về hình học đơn giản. Nó hình thành kĩ năng thực hành, tính toán để phát triển
năng lực trí tuệ. Ngoài ra, dạy toán có lời văn còn góp phần rèn luyện phương
pháp học tập, làm việc khoa học và hình thành những tố chất của con người
lao động sáng tạo.
Giải toán có lời văn là điều kiện để học sinh vận dụng tổng hợp các kĩ
năng của tất cả các môn học và sự hiểu biết trong cuộc sống thực tế. Nó thể
hiện sự khéo léo, linh hoạt và kĩ năng tổng hợp, suy luận. Giải toán có lời văn
có mối liên hệ chặt chẽ với việc học các môn học khác. Các em giải toán tốt
sẽ học các môn khác tốt hơn. Đây là yêu cầu cao nhất đối với môn Toán.
Từ cơ sở trên, bản thân tôi đã dựa vào những công văn, những chỉ thị,
những quyết định, những nội dung của Bộ Giáo dục - Đào tạo, Sở Giáo dục -


3

Đào tạo Quảng Nam, Phòng Giáo dục và Đào tạo Đại Lộc ban hành để viết
nên sáng kiến này. Cụ thể:
- Theo quyết định 16/2006 QĐ-BGDĐT ngày 5 tháng 5 năm 2006 của Bộ
trưởng BGDĐT về chương trình SGK mới thì giải toán có lời văn là mạch kiến
thức rất quan trọng và chiếm tỉ lệ rất lớn trong môn Toán;
- Chuẩn kiến thức kĩ năng của Bộ Giáo dục và đào tạo;

- Công văn 896 thực hiện đổi mới phương pháp dạy học có nói đến giao
quyền tự chủ cho GV trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học;
- Công văn số 5842/BGDĐT-VP ngày 01 tháng 9 năm 2011 của Bộ
Giáo dục và đào tạo về việc hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học các môn
học cấp Tiểu học;
- Thông tư số 03/VBHN-BGDĐT ngày 28/9/2016 Ban hành quy định đánh
giá học sinh tiểu học;
4. Cơ sở thực tiễn:
Đối với nhận thức của học sinh Tiểu học nói chung, của lớp tôi nói
riêng, đa số các em giải toán có lời văn còn yếu do nhiều nguyên nhân. Trong
đó, vẫn là do các em thường vội vàng hấp tấp, đơn giản hoá vấn đề. Đôi khi,
các em chưa hiểu rõ đề bài nên dẫn đến kết quả nhiều lúc bị sai, thiếu hoặc
đúng nhưng chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, do các em thiếu cơ sở lí luận, không
tự tin vào khả năng của mình mà thích giống bài của bạn nên dẫn đến những
sai sót giống nhau. Thậm chí có khi làm bài đúng rồi nhưng lại bỏ đi, chép lại
cho giống bài của bạn. Đó là một thực tế mà người giáo viên đứng lớp ai cũng
gặp phải, nhất là trong quá trình dạy giải toán có lời văn. Chính vì vậy, tôi đi
sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu một số giải pháp tốt nhất để giúp các em có kĩ
năng giải toán có lời văn, nhằm nâng cao chất lượng dạy học của lớp.
5. Nội dung nghiên cứu:
5.1. Khảo sát học sinh ngay từ đầu năm kết hợp với bàn giao chất
lượng, phân loại đối tượng học sinh
Muốn học sinh giải toán có lời văn tốt, trước hết tôi tìm hiểu tình hình
học toán của lớp mình như thế nào? Các em thường sai ở bước nào trong một
bài giải? Mức độ sai ra sao? Vì vậy, tôi đã tìm hiểu các thông tin về học sinh
thông qua: nhận bàn giao chất lượng, giáo viên chủ nhiệm của năm học trước,
hồ sơ học bạ. Sau đó, tôi tiếp tục điều tra trình độ các em qua bài khảo sát.
Tôi nhận thấy ngoài một số em làm bài tốt, vẫn còn một số em chưa thực hiện
được các bước trong bài toán giải. Thậm chí có em còn bỏ hẳn bài toán giải.
Kết quả cụ thể như sau:

TSHS
33

Tóm tắt bài toán

Chọn và thực hiện
đúng phép tính

Đạt

Đúng

Chưa đạt

Sai

Lời giải và đáp số

Đúng

Sai

Bỏ
hẳn


4

Số
lượng


13

18

17

14

15

16

2

Tỉ lệ

39,4%

54,5%

51,5%

42,4%

45,5%

48,5%

6,1%


Qua bài khảo sát, tôi nhận thấy nhiều em không đạt điểm bài toán có lời
văn là do những nguyên nhân sau:
* Nguyên nhân chủ quan:
+ Đối với học sinh :
- Nhận thức của học sinh chưa đồng đều.
- Việc xác định đề toán của các em chưa thành thạo.
- Một số em còn chủ quan, chưa đọc kĩ đề bài.
+ Đối với giáo viên:
- Việc giảng dạy của giáo viên đôi khi chưa phát huy hết được tính tích
cực, chủ động sáng tạo của các em.
- Trong quá trình tổ chức cho học sinh thực hành giải toán có những
lúc chưa thật sự linh hoạt.
- Trong quá trình tổ chức tiết học, giáo viên đôi lúc chưa quan tâm sâu
sát đến từng đối tượng học sinh. Ví dụ: Học sinh năng khiếu cần những câu
hỏi nâng cao, học sinh chậm cần những câu hỏi dễ hiểu và sát thực với đề bài.
*Nguyên nhân khách quan:
- Vốn Tiếng Việt của một số em còn hạn chế nên nhiều khi việc hiểu
nghĩa của từ trong toán học đối với các em là rất khó, dẫn đến học sinh trả lời
không chính xác.
Đó là những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy học
giải bài toán có lời văn
5.2. Giúp học sinh nắm được phương pháp chung, hình thành kĩ
năng, kĩ xảo về “giải toán có lời văn”
Từ những nguyên nhân trên, để giúp cho học sinh giải tốt các bài toán
có lời văn, tôi đã tiến hành thực hiện các bước sau:
Bước 1: Đọc kĩ đề toán, tìm hiểu nội dung bài toán.
Khi dạy giải bài toán có lời văn, tôi thường yêu cầu học sinh phải hiểu
đề. Do đó cần đọc đề bài nhiều lần trước khi làm. Từ đó hình thành cho các
em thói quen đọc kỹ đề bài trước khi giải. Trong quá trình đọc, tôi thường yêu

cầu các em phải xác định được cái đã cho, cái cần tìm và dạng toán. Tránh
thói quen xấu là vừa đọc xong đề đã làm ngay. Việc đọc kĩ đề toán giúp các


5

em hiểu chắc chắn một số từ khoá quan trọng như: “ ít hơn”, “nhiều hơn”,
“tất cả”…
Nếu trong đề toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần
hướng dẫn các em hiểu được nghĩa của từ đó. Đối với những học sinh kĩ năng
đọc hiểu còn chậm, giáo viên cần dùng phương pháp giảng giải kèm theo các
đồ vật, tranh minh hoạ để các em tìm hiểu, nhận xét nội dung, yêu cầu của đề
toán. Qua đó, dựa vào câu hỏi của bài, các em nêu miệng câu lời giải, phép
tính, đáp số rồi các em tự trình bày bài giải vào vở bài tập.
Bước 2: Lựa chọn cách trình bày tóm tắt hợp lý
Như chúng ta đã biết, tóm tắt bài toán không phải là một phần trong
khâu trình bày bài giải, nhưng lại rất quan trọng, giúp học sinh có cái nhìn
tổng thể về toàn bộ nội dung bài toán. Từ đó, các em tìm được mối liên hệ cần
thiết giữa cái đã cho và cái phải tìm, biết lựa chọn phép tính thích hợp. Đối
với lớp 2 (cũng như đối với học sinh Tiểu học nói chung), sử dụng sơ đồ đoạn
thẳng để tóm tắt là hợp lí nhất. Sơ đồ đoạn thẳng không những giúp các em có
một cái nhìn khái quát về bài toán mà còn giúp các em nhận ra cái đã biết, cái
phải tìm và mối liên hệ giữa chúng. Trong những trường hợp không thể sử
dụng được sơ đồ đoạn thẳng thì ta mới dùng quy ước bằng lời, bằng biểu
tượng,... để tóm tắt. Để tóm tắt được đề toán, giáo viên hướng dẫn bằng cách
đặt câu hỏi đàm thoại: Bài toán cho gì? - Bài toán hỏi gì? và dựa vào tóm
tắt để nêu đề toán…Mặt khác, để học sinh làm tốt các bài toán hợp sau này thì
ngay bây giờ giáo viên nên rèn luyện tốt kĩ năng giải các bài toán đơn. Vì vậy,
học sinh thuần thục khâu tóm tắt các bài toán đơn ở lớp 2 (bằng sơ đồ đoạn
thẳng) là không thể thiếu. Việc làm này không những giúp học sinh nhanh

chóng tìm ra lời giải, mà nó còn là cơ sở giúp các em có kĩ năng tóm tắt và
giải các bài toán hợp ở các lớp trên.
Với mỗi dạng toán, sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, xác định
dạng, tôi thường hướng dẫn các em tóm tắt như sau:
*Dạng "Bài toán về nhiều hơn"
Ví dụ: Nam có 10 viên bi, Bảo có nhiều hơn Nam 5 viên bi. Hỏi Bảo có
bao nhiêu viên bi?
10 viên bi
Nam:

5 viên bi

Bảo:
? viên bi
*Dạng "Bài toán về ít hơn"


6

Ví dụ : Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn
nhà Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam?
17 cây cam
Vườn nhà Mai:
Vườn nhà Hoa:

7 cây cam
? cây cam

* Dạng “ Tìm tổng của hai số”
Ví dụ: Mẹ hái được 38 quả bưởi, chị hái được 16 quả bưởi. Hỏi mẹ và

chị hái được tất cả bao nhiêu quả bưởi?
38 quả bưởi
Mẹ:

? quả bưởi

Chị:
16 quả bưởi
* Dạng " Tìm một số hạng trong một tổng"
Ví dụ: Lớp học có 35 học sinh, trong đó có 20 học sinh trai. Hỏi lớp
học đó có bao nhiêu học sinh gái?
35 học sinh

20 học sinh trai

? học sinh gái

...
Khi hướng dẫn vẽ sơ đồ, giáo viên cần lưu ý học sinh dóng thẳng các vị
trí đầu mút có giá trị so sánh. Các đoạn thẳng tỉ lệ được chia đều trên sơ đồ
chỉ mang tính ước lệ song cũng phải đảm bảo được sự chính xác tương đối
(ước lượng bằng mắt).
Bên cạnh việc luyện cho học sinh kĩ năng tóm tắt đề toán, giáo viên
cũng cần chú trọng luyện cách nêu bài toán theo tóm tắt rồi giải. Chẳng hạn:
Nêu bài toán theo tóm tắt sau rồi giải:
15 người
Đội 1:
Đội 2:

2 người



7

? người
Học sinh có thể nêu thành bài toán:
Đội Một có 15 người, đội Hai có nhiều hơn đội Một 2 người. Hỏi đội
Hai có bao nhiêu người?
Khi đã hiểu được rõ nội dung của sơ đồ như vậy thì học sinh sẽ chọn
được ngay phép tính cộng để giải bài toán.
Bước 3: Tìm cách giải bài toán
a. Chọn phép tính thích hợp:
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán, để xác định cái đã cho
và cái phải tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Thông
thường, chọn “ phép cộng” nếu bài toán yêu cầu “nhiều hơn” hoặc “gộp”,
“tất cả”. Chọn “phép trừ” nếu “bớt” hoặc “tìm phần còn lại” hay là “ít
hơn”…
Ví dụ: Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn
nhà Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam?
Để giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa
cái đã cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông qua
các câu hỏi gợi ý như:
+ Bài toán cho biết gì? (Vườn nhà Mai có 17 cây cam)
+ Bài toán còn cho biết gì nữa? (Vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà
Mai 7 cây)
+ Bài toán hỏi gì? (Vườn nhà Hoa có bao nhiêu cây cam)
Tuy nhiên đối với những bài toán nâng cao dành cho học sinh năng
khiếu, bài toán có từ khoá “nhiều hơn” nhưng không thực hiện phép cộng
hoặc bài toán có từ khoá “ít hơn” nhưng không thực hiện phép trừ.
Ví dụ 1: Nam có 10 viên bi, Nam có nhiều hơn Bảo 3 viên bi. Hỏi Bảo

có mấy viên bi?
Ví dụ 2: Mai xếp được 8 bông hoa, Mai có ít hơn Ngọc 2 bông hoa.
Hỏi Ngọc xếp được mấy bông hoa?
Với những dạng toán này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh suy luận
ngược để biết Bảo có ít hơn Nam 3 viên bi. Từ đó học sinh tìm cách giải.
Tương tự như vậy với ví dụ 2.
b. Đặt lời giải thích hợp


8

Việc đặt lời giải ở các bài toán đơn không có gì khó khăn. Tuy nhiên,
giáo viên cần hướng dẫn học sinh thấy rõ nội dung lời giải thường có 2 phần:
Phần 1 ghi cái cần tìm, phần 2 ghi phạm vi cái cần tìm.
Ví dụ:

Số cây cam
Cái cần tìm

vườn nhà Hoa có là:
Phạm vi cái cần tìm

Khi hướng dẫn học sinh đặt lời giải, nhiều giáo viên không chú ý đến
điều này nên không có quy định cụ thể. Vì vậy mới xảy ra tình trạng học sinh
viết lời giải theo cảm tính, lúc thế này, lúc thế khác. Đương nhiên, trừ những
trường hợp nội dung câu trả lời chỉ có một phần (Phần 1), thường thì mỗi
phép tính có 2 cách trả lời, có thể đặt phần 2 lên trước, phần 1 để sau (hoặc
ngược lại). Để có sự nhất quán, giáo viên cần hướng dẫn học sinh (và quy
định rõ ràng) là đặt phần 1 (cái cần tìm) lên trước rồi mới đến phần 2 (phạm
vi cái cần tìm).

Ví dụ: Cách 1: Số cây cam vườn nhà Hoa có là:
Cách 2: Vườn nhà Hoa có số cây cam là:
Cách trả lời nào cũng đúng, nhưng trả lời theo cách thứ nhất không
những khúc chiết, rõ ràng hơn mà còn giúp học sinh ghi đúng ngay tên đơn vị
(danh số) sau khi thực hiện phép tính. Khi viết lời giải, giáo viên lưu ý học
sinh không được viết tắt các tên đơn vị (VD: Không được viết “kg” mà phải
viết là “ ki - lô - gam”, không viết “ l” mà phải viết là “ lít”,…), các đơn vị
này chỉ viết tắt khi đứng sau kết quả của phép tính và đáp số (VD: 5kg, 10l,
…).
Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh viết lời giải đúng, giáo viên cũng
cần lưu ý cho các em cách viết tên đơn vị (danh số) ở kết quả phép tính và ở
đáp số cho phù hợp. Các danh số thường là một đơn vị kép (chỉ lượng và chỉ
tên) như: con gà, cái thuyền, kg gạo,…Khi ghi danh số sau kết quả mỗi phép
tính, ta chỉ cần ghi đơn vị chỉ lượng đứng trước là: con, cái, kg,…nhưng khi
ghi đáp số ta cần phải ghi đầy đủ là con gà, cái thuyền, kg gạo,…
Bước 4: Trình bày bài giải:
Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi tóm
tắt, sau gần tóm tắt là trình bày bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở
(có gạch chân)
Giáo viên luôn luôn nhắc nhở, rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ viết số đúng mẫu - đẹp. Việc kết hợp giữa chữ viết đẹp và cách trình bày đúng
cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong vấn đề giải toán có
lời văn của các em.
Ví dụ: Nam có 10 viên bi, Bảo có nhiều hơn Nam 5 viên bi. Hỏi Bảo có
bao nhiêu viên bi?


9

Đến nay, không cần hướng dẫn, học sinh lớp tôi thực hiện được ngay
cách làm như sau:

Bài 3:
Tóm tắt:
10 viên bi
Nam:

5 viên bi

Bảo:
? viên bi
Bài giải:
Số viên bi Bảo có là:
10 + 5 = 15 (viên)
Đáp số: 15 viên bi
Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải
Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, tôi nhận thấy học sinh thường
coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Nhưng
khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng
túng vì chưa kiểm tra lại bài làm của mình. Nên việc kiểm tra, đánh giá kết
quả phải trở thành thói quen đối với học sinh. Vì vậy, sau khi làm bài, tôi luôn
hướng dẫn các em kiểm tra lại bài làm thông qua các bước:
- Đọc lại lời giải để kiểm tra xem giữa lời giải và phép tính đã phù hợp
chưa?
- Kiểm tra phép tính, tên đơn vị có đúng không?
- Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa?
*Để hình thành cho học sinh có kĩ năng, kĩ xảo “giải toán có lời văn”
theo 5 bước trên, đòi hỏi người giáo viên phải thực hiện thường xuyên và liên
tục. Tuy nhiên tùy theo từng đối tượng học sinh chúng ta áp dụng cho phù
hợp. Có thể mở rộng thêm hoặc làm kĩ từng bước. Đối với học sinh chậm
tiến, tôi làm kĩ hai bước đầu để các em hiểu rõ đề bài, có như vậy các em mới
làm tốt được bài toán đã cho. Còn với học sinh năng khiếu, sau khi giải xong

bài toán và thử lại đúng kết quả, tôi cho các em tự phát hiện cách giải khác
(nếu bài giải có nhiều cách giải).
Ví dụ: Tính chu vi hình tam giác có độ dài mỗi cạnh là 4cm.
Thông thường học sinh giải:


10

Chu vi hình tam giác là:
4 + 4 + 4 = 12 (cm)
Đáp số: 12cm
Học sinh năng khiếu có cách giải nhanh gọn hơn:
Chu vi hình tam giác là:
4 x 3 = 12 (cm)
Đáp số: 12cm
Việc đi sâu vào tìm hiểu nhiều cách giải khác nhau có vai trò rất lớn
trong việc rèn kĩ năng, phát triển trí thông minh và óc sáng tạo cho học sinh.
Trong khi cố gắng tìm ra các cách giải khác nhau, học sinh hiểu sâu hơn về
mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Các em sẽ lựa chọn được cách
giải hay hơn và tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm để giải toán. Biết tự
tìm thêm cách giải mới cho bài toán giúp phát triển tư duy phân tích, tổng hợp
lôgích.
5.3. Thay đổi hình thức tổ chức dạy học:
Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên, tôi nhận thấy lớp đã
có những chuyển biến rõ rệt về chất lượng giải toán có lời văn. Tuy nhiên, để
tạo sự hứng thú hơn trong giờ học cho các em thì tùy theo nội dung mỗi bài
dạy, tôi đã linh hoạt thay đổi hình thức tổ chức dạy học như: làm việc độc lập
từng cá nhân trên bảng con, thi đua làm nhanh giữa các nhóm ở bảng học
nhóm, cho học sinh độc lập suy nghĩ làm bài vào vở có sự trợ giúp của giáo
viên đối với học sinh chậm tiến,... Việc thay đổi hình thức tổ chức dạy học

làm cho không khí lớp học sôi nổi, tạo cho học sinh say mê trong học tập.
Bên cạnh đó, giáo viên cần chấm trả bài thường xuyên để nhận ra sự
tiến bộ của học sinh, biểu dương những em đã làm tốt, khích lệ những em còn
thụ động, rụt rè tham gia vào giờ học bằng những lời khen, lời động viên
thích hợp nhằm giúp cho các em mạnh dạn, tự tin hơn.
*Ngoài những biện pháp nêu trên, để giúp học sinh giải toán có lời văn
thành thạo, tôi luôn luôn chú ý rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho các
em qua các môn học. Bởi vì đọc thông, viết thạo là yếu tố “đòn bẩy” giúp học
sinh hiểu rõ đề và tìm cách giải bài toán một cách hợp lý, chính xác.
6. Kết quả nghiên cứu:
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng trong việc hướng dẫn
học sinh lớp mình giải tốt dạng toán có lời văn. Gần một năm thực hiện, tôi
nhận thấy chất lượng bài làm của lớp tăng lên rõ rệt. Từ chỗ học sinh giải
những bài toán đơn giản còn chưa thạo đến nay đa số các em đã giải được
những bài tập nâng cao cùng dạng, các em đều có ý thức làm bài. Điều quan
trọng là khả năng phân tích, tổng hợp, khả năng suy luận lôgích của các em đã


11

được nâng lên. Nhờ phát triển những khả năng tư duy như thế nên các em giải
các dạng toán khác cũng nhanh hơn, dễ dàng hơn. Kết quả khảo sát qua từng
giai đoạn cụ thể như sau:
Giai đoạn T/s học sinh
Đầu năm

33

Giữa kì I


33

Cuối kì I

33

9-10

7-8

5-6

Dưới 5

10

9

8

6

29,4%

29,4%

23,6%

17,6%


16

10

5

2

41,2%

32,4%

17,6%

8,8%

22

6

5

55,9%

26,5%

17,6%

0


Qua kết quả tổng hợp như đã nêu ở trên, tôi rất phấn khởi vì thấy trong
giờ học toán, học sinh không những say mê học tập, lớp học rất sôi nổi mà kĩ
năng giải toán của các em đã được nâng lên. Tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt rất
cao, không còn học sinh chưa hoàn thành. Đây cũng là niềm khích lệ lớn với
những người đứng lớp như chúng ta.
7. Kết luận:
Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh Tiểu học nói chung và
cho học sinh lớp 2 nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa
đối với mỗi giáo viên Tiểu học. Nếu có biện pháp và kế hoạch dạy học tốt,
hợp lý sẽ giúp học sinh giải toán tốt hơn. Từ đó nâng cao chất lượng môn
Toán của học sinh trong lớp. Để quá trình rèn kĩ năng giải toán cho học sinh
đạt hiệu quả, tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Các bài toán có lời văn nội dung đa dạng phong phú. Do đó, phải yêu
cầu học sinh đọc kỹ đề toán để xác định được dạng bài và tìm ra hướng giải
đúng.
- Khi dạy bài toán có lời văn, giáo viên nên tổ chức cho học sinh tóm tắt
bài toán, hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ để các em vận dụng công thức
giải được chính xác, linh hoạt.
- Đối với những bài toán có lời văn phức tạp, cần hướng dẫn học sinh
một số phương pháp (sơ đồ đoạn thẳng, suy luận,... ) để đưa bài toán về dạng
điển hình.
- Khi hướng dẫn giải các bài toán có lời văn, giáo viên cần khuyến
khích, động viên học sinh giải bằng nhiều cách khác nhau (nếu có thể) và lựa
chọn cách giải hay nhất.
- Giáo viên cần:


12

+ Dự kiến những khó khăn sai lầm của học sinh.

+ Tìm cách hướng dẫn học sinh tháo gỡ khó khăn và gợi ý để học sinh
tìm được cách giải hay.
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần có sự động viên, tuyên dương
khuyến khích đúng lúc, kịp thời đối với học sinh.
- Ngoài ra đòi hỏi ở mỗi giáo viên sự kiên trì, linh hoạt và sáng tạo
trong mỗi tiết dạy.
8. Đề nghị:
Qua thời gian áp dụng đề tài, tôi có một số yêu cầu như sau:
- Khi hướng dẫn học sinh giải bài toán có lời văn, giáo viên cần kiểm
tra thường xuyên bằng nhiều hình thức và nhiều đối tượng. Từ đó rút ra được
những mặt mạnh, yếu để có kế hoạch bồi dưỡng, phụ đạo cụ thể đối với từng
đối tượng học sinh.
+ Đối với học sinh năng khiếu cần ra bài tập, bài làm phù hợp với năng
lực của các em.
+ Đối với học sinh chậm tiến: Kiểm tra thường xuyên bằng mọi hình
thức, phát hiện ra chỗ hổng để phụ đạo kịp thời tạo cho các em hứng thú, tự
giác học tập.
- Dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp 2 không thể nóng vội mà
phải hết sức bình tĩnh, nhẹ nhàng, tỉ mỉ, nhưng cũng rất cương quyết để hình
thành cho các em một phương pháp tư duy học tập. Đó là tư duy khoa học, tư
duy sáng tạo, tư duy lôgích.
Hy vọng rằng với một chút kinh nghiệm trên đây sẽ mang lại đôi điều
bổ ích cho mỗi giáo viên chúng ta.
Trong quá trình giảng dạy của bản thân tôi cũng như quá trình nghiên
cứu và áp dụng đề tài, chắc chắn không tránh khỏi sự khiếm khuyết. Tôi rất
mong sự đóng góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo, để tôi
giảng dạy được tốt hơn, góp phần đưa sự nghiệp giáo dục đi lên.
Xin chân thành cảm ơn!
Đại Đồng, ngày 15 tháng 2 năm 2017
Người viết


Nguyễn Thị Hiền


13

9. Phụ lục:
Kết quả khảo sát học sinh đầu năm (trước tác động) và qua các đợt
kiểm tra (sau tác động) của lớp 2A năm học 2016- 2017:
Số
TT

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18

19
20
21

Họ và tên học sinh

Nguyễn Thùy Vân An
Võ Nguyễn Hoàng Châu
Trương Thanh Cường
Huỳnh Công Danh
Đinh Đạt
Phạm Thúy Diễm
Nguyễn Thị Mỹ Diệu
Nguyễn Thị Thu Dung
Nguyễn Văn Hà
Nguyễn Đăng Hiếu
Đoàn Thị Hoa
Nguyễn Thị Xuân Hoa
Nguyễn Thị Thanh Hoài
Đỗ Phú Bảo Hoàng
Từ Văn Huy
Ngô Hồng Khải
Trần Văn Khang
Nguyễn Hào Kiệt
Từ Thị Họa My
Trần Văn Phúc
Hứa Viết Phương

Khảo sát
đầu năm


9
9
8
9
7
4
8
6
7
7
6
6
10
7
9
6
9
9
4
9
4

Điểm kiểm tra
GKI
CKI

9
9
9

9
7
4
9
7
8
8
8
7
10
8
9
6
9
9
4
9
6

10
10
9
10
8
6
9
8
9
9
9

8
10
9
9
7
9
10
6
10
7


14

22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34

Đoàn Ngọc Quốc
Từ Văn Minh Quốc

Lê Văn Thành
Trần Thị Mai Thi
Nguyễn Tấn Thuận
Trương Thanh Thúy
Huỳnh Thị Bích Trâm
Từ Văn Triều
Phan Thanh Trường
Huỳnh Tấn Vũ
Trần Nguyễn Anh Vy
Trần Chí Vỹ
Trương Thị Kim Yến

7
4
8
9
9
4
8
6
5
6
5
6
4

7
6
9
10

9
4
9
7
6
7
6
7
6

8
6
9
10
10
6
9
7
6
8
7
7
6

10. Tài liệu tham khảo:
1/ Đỗ Đình Hoan (chủ biên) - Sách giáo khoa Toán 2 - Nhà xuất bản
Giáo dục - 2004
2/ Đỗ Đình Hoan (chủ biên) - Sách giáo viên Toán 2 - Nhà xuất bản
Giáo dục - 2004
3/ Đỗ Đình Hoan (chủ biên) - Vở bài tập Toán 2 tập 1, 2 - Nhà xuất bản

Giáo dục - 2004
4/ Phó Giáo sư Tiến sĩ Đào Tam (Chủ biên) - Thực hành phương pháp
dạy học Toán ở Tiểu học (Giáo trình dùng trong các trường Đại học Đào tạo
và Giáo viên Tiểu học) - Nhà xuất bản Đà Nẵng - 2005
5/ Vũ Dương Thụy (chủ biên) - Toán nâng cao lớp 2 - Nhà xuất bản
Giáo dục - 2004
6/ Phạm Đình Thực - Phương pháp dạy Toán bậc Tiểu học (tài liệu
dành cho giáo viên và PHHS) - Nhà xuất bản Đại học sư phạm - 2003.
7/ Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học lớp 2Nhà xuất bản Giáo dục - 2009


15

11. Mục lục:
Thứ tự

Tiêu đề

Trang

1

TÊN ĐỀ TÀI

1

2

ĐẶT VẤN ĐỀ


1

- Tầm quan trọng của vấn đề

1

- Tóm tắt thực trạng liên quan đến vấn đề

1

- Lí do chọn đề tài

2

- Giới hạn

2

3

CƠ SỞ LÍ LUẬN

2

4

CƠ SỞ THỰC TIỄN

3


5

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

3

5.1. Khảo sát, phân loại đối tượng học sinh

3

5.2. Giúp HS hình thành kĩ năng, kĩ xảo, nắm
phương pháp chung về giải toán có lời văn

5
5

5.3. Thay đổi hình thức tổ chức dạy học

12

6

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

12

7

KẾT LUẬN


13

8

ĐỀ NGHỊ

14

9

PHỤ LỤC

15


16

10

TÀI LIỆU THAM KHẢO

17

11

MỤC LỤC

18




×