Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

Nghiên cứu hoàn thiện mô hình quản lý dự án xây dựng công trình hạ tầng NTM tại xã nghĩa minh, huyện nghĩahưng, tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.33 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI

NGUYỄN NGỌC TĨNH

NGHIÊN CỨU HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ
DỰ ÁN XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH HẠ TẦNG
NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ NGHĨA MINH,
HUYỆN NGHĨA HƯNG, TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI, NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI

NGUYỄN NGỌC TĨNH

NGHIÊN CỨU HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ
DỰ ÁN XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH HẠ TẦNG
NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ NGHĨA MINH,
HUYỆN NGHĨA HƯNG, TỈNH NAM ĐỊNH

Chuyên ngành: Quản lý xây dựng
Mã số: 60 58 03 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:



HÀ NỘI, NĂM 2016

PGS. TS Lê Văn Hùng


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tác giả. Các kết quả nghiên cứu và các
kết luận trong luận văn là trung thực, không sao chép từ bất kỳ một nguồn nào và dưới bất kỳ hình
thức nào.Việc tham khảo các nguồn tài liệu (nếu có) đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu
tham khảo đúng quy định.
Tác giả luận văn

Nguyễn Ngọc Tĩnh

3


LỜI CẢM ƠN
Đề tài: “Nghiên cứu hoàn thiện mô hình quản lý dự án xây dựng công trình hạ
tầng NTM tại xã Nghĩa Minh, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định” được hoàn
thành tại trường Đại học Thuỷ lợi - Hà Nội. Trong suốt quá trình nghiên cứu, ngoài sự
phấn đấu nỗ lực của bản thân, tác giả đã nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của
các thầy giáo, cô giáo, của bạn bè và đồng nghiệp.
Tác giả xin chân thành cám ơn PGS.TS. Lê Văn Hùng, người trực tiếp hướng dẫn tác
giả hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và cán bộ Trường Đại học Thuỷ lợi
đã giảng dạy và giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành khóa học và luận văn.
Đồng thời, xin dành sự biết ơn tới gia đình, Bố, Mẹ và đồng nghiệp trong cơ quan vì
những chia sẻ khó khăn và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn tốt

nghiệp.
Vì thời gian thực hiện Luận văn có hạn nên không thể tránh được những sai sót, Tôi
xin trân trọng và mong được tiếp thu các ý kiến đóng góp của các Thầy, Cô, bạn bè và
đồng nghiệp.

4


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH
Hình 2.1 Sơ đồ biểu đạt nội dung dự án đầu tư xây dựng

32

Hình 2.2 Mô hình chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án................................

45

Hình 2.3. Mô hình chủ nhiệm điều hành dự án.........................................

46

Hình 2.4. Mô hình chìa khóa trao tay........................................................

47

Hình 2.5. Mô hình Ban quản lý dự án tổ chức quản lý dự án theo các bộ phận chức
năng.........................................................................................


48

Hình 2.6. Mô hình Ban quản lý dự án tổ chức quản lý dự án theo kết cấu tổ chức dạng
dự án.....................................................................................

50

Hình 2.7. Mô hình Ban QLDA tổ chức quản lý dự án theo kết cấu tổ chức dạng ma
trận……………………………………………………….

52

Hình 3.1: Mô hình quản lý dự án xây dựng CT HT NTM giai đoạn ban
đầu...........................................................

65

Hình 3.2: Mô hình đề xuất quản lý dự án xây dựng công trình hạ tầng
NTM...................................................................................................

68

5


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất của xã Nghĩa Minh năm 2010.............

57


Bảng 3.2 Hiện trạng các công trình hạ tầng theo báo cáo thống kê của xã Nghĩa Minh
năm 2010........................................................................

58

Bảng 3.3 Danh sách Ban quản lý xây dựng NTM tại xã Nghĩa Minh....

63

6


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Ký hiệu viết tắt

Nghĩa đầy đủ

CNH-HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CTHT

: Công trình hạ tầng

CTXH

: Chính trị xã hội


DĐĐT

: Dồi điền đổi thửa

QHXD

: Quy hoạch xây dựng

KT-XH

: Kinh tế-Xã hội

NTM

: Nông thôn mới

UBND

: Uỷ ban Nhân dân

THCS

: Trung học Cơ sở

THPT

: Trung học Phổ thông

7



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo các số liệu nghiên cứu và thống kê, nông thôn Việt Nam là một khu vực rộng lớn
và đông dân nhất, là nơi đa dạng thành phần về tộc người, về văn hóa, là nơi bảo tồn,
lưu giữ các phong tục tập quán của cộng đồng, là nơi sản xuất quan trọng, làm ra các
sản phẩm cần thiết cho cuộc sống con người.
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước
ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với
tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năm suất, chất lượng và hiệu
quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực Quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu
chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới.
Về cơ bản, kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ,
ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng KT-XH
được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh
thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm
nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường.
Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng
giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất;
nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn
chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng
nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc
đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ
chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hoá.
Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng KT-XH còn yếu
kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn
nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ

hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu,

8


nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã
hội bức xúc.
Để khắc phục những yếu kém trên, thúc đẩy nông thôn tiến nhanh, tiến mạnh và tiến
vững chắc trên con đường CNH – HĐH đất nước, thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW
Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày
16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM;
Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010 – 2020.
Trong chương trình xây dựng NTM, cơ sở hạ tầng nông thôn giữ một vai trò tiền đề
quan trọng thiết yếu nên được các địa phương ưu tiên dành nhiều nguồn lực để đầu tư
xây dựng. Đây được coi là yếu tố quan trọng nhất để cải tạo bộ mặt nông thôn, tạo đà
cho phát triển KT-XH – văn hóa – an ninh và đặc biệt là tăng hưởng thụ trực tiếp cho
người dân.
Các dự án xây dựng công trình cơ sở hạ tầng NTM đòi hỏi yêu cầu kĩ thuật cao, kinh
phí đầu tư lớn. Trong khi chủ đầu tư là chính quyền cấp xã trình độ quản lý về tài
chính và kĩ thuật còn non yếu. Vậy quản lý như thế nào, để tránh thất thoát, lãng phí,
tham nhũng và quản lý bằng cách gì, để đảm bảo các yêu cầu về kĩ thuật và chất lượng
công trình. Đây là hai vấn đề lớn đặt ra hết sức nặng nề cho Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân các xã trên con đường xây dựng NTM tại địa phương mình. Để khắc phục và
hạn chế tiêu cực của hai vấn đề trên, các xã (chủ đầu tư các công trình xây dựng NTM)
vừa làm vừa rút kinh nghiệm nên mới dừng lại ở cách làm chưa xây dựng được mô
hình quản lý các dự án xây công trình hạ tầng NTM nên hiệu quả đạt được chưa cao.
Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả chọn đề tài: “Nghiên cứu hoàn thiện mô hình quản
lý dự án xây dựng công trình hạ tầng NTM tại xã Nghĩa Minh, huyện Nghĩa

Hưng, tỉnh Nam Định” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành Quản lý
xây dựng.
Thực hiện đề tài này luận văn nhằm trả lời các vấn đề nghiên cứu sau :
+ Tại sao phải xây dựng NTM và quản lý dự án xây dựng công trình cơ sở hạ tầng
NTM như thế nào để trở thành mô hình quản lý đảm bảo hiệu quả ?
+ Xã Nghĩa Minh dã làm gì để xây dựng thành công xã NTM.

9


2. Mục đích của đề tài
Đề xuất giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý dự án xây dựng công trình hạ tầng NTM
phù hợp hiệu quả.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu:
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình hạ tầng NTM bao gồm cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
cơ sở hạ tầng xã hội và cơ sở hạ tầng môi trường.
- Các cách quản lý xây dựng công trình hạ tầng NTM.
+ Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là chính sách và thực tiễn xây dựng NTM, trọng tâm là
công tác quản lý dự án xây dựng công trình hạ tầng NTM.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
+ Ý nghĩa khoa học của đề tài
Trên cơ sở tổng quan các lý luận và thực tiễn về phong trào xây dựng NTM, phát triển
kết cấu hạ tầng KT – XH NTM, nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về dự án và
quản lý dự án xây dựng cơ sở hạ tầng NTM, nghiên cứu hoạt động thực tiễn của quản
lý dự án xây dựng công trình hạ tầng NTM ở xã Nghĩa Minh, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh
Nam Định, từ đó đề xuất ra mô hình quản lý dự án xây dựng cơ sở hạ tầng NTM phù
hợp hiệu quả.
Kết quả nghiên cứu của đề tài này là nội dung tham khảo hữu ích trong phong trào xây

dựng NTM và sử dụng trong nghiên cứu, học tập và giảng dạy về xây dựng NTM.
+ Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được xem như một gợi ý quan trọng trong công
tác quản lý dự án xây dựng công trình hạ tầng NTM cho các xã và thị trấn trên địa bàn
huyện Nghĩa Hưng. Để tiến tới năm 2020 huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định sẽ trở
thành huyện NTM
5. Kết quả dự kiến đạt được
- Đề xuất hoàn thiện mô hình quản lý dự án xây dựng công trình hạ tầng NTM phù
hợp với các xã trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
- Nâng cao hiệu quả công tác quản lý dự án xây dựng công trình hạ tầng NTM.

10


1
TỔNG QUAN VỀ PHONG TRÀO XÂY DỰNG NTM , PHÁT
TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG KT-XH NTM VÀ QUẢN LÝ XÂY DỰNG
CÔNG TRÌNH HẠ TẦNG NTM
1.1 Khái quát về xây dựng NTM
1.1.1 Mô hình NTM
1

Khái niệm nông thôn

Xét dưới nhiều góc độ khác nhau chúng ta có nhiều cách định nghĩa về nông thôn khác
nhau. Dựa trên hoàn cảnh sống, môi trường, phong tục tập quán, nghề nghiệp, cấu trúc
không gian,... nơi tập hợp các cư dân sinh sống người ta chia ra hai khái niệm nông
thôn và thành thị để khu biệt với nhau.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Nông thôn là vùng lãnh thổ của một
nước hay một số đơn vị hành chính nằm ngoài lãnh thổ đô thị, có môi trường tự nhiên,

hoàn cảnh kinh tế xã hội điều kiện sống khác biệt với thành thị và dân chủ yếu sống
làm nông nghiệp” [1].
Như vậy khái niệm nông thôn được xây dựng dựa trên sự khu biệt với khái niệm thành
thị. Chẳng hạn mật độ dân số thành thị đông đúc hơn nông thôn. Các công trình kiến
trúc do con người xây dựng ở thành thị có mật độ gia tăng nhiều hơn so với nông
thôn...hay nói cách nông thôn là khu vực có những yếu tố như lãnh thổ, môi trường tự
nhiên, hoàn cảnh kinh tế,...khác với thành thị.
Theo định nghĩa trên cư dân nông thôn làm nông nghiệp là chủ yếu. Tuy nhiên trong
thực tế có rất nhiều làng nghề ở vùng nông thôn người dân đã không sống chủ yếu
bằng nghề nông. Ví dụ làng nghề chạm khắc gỗ La Xuyên (xã Yên Ninh,Ý Yên, Nam
Định) có 80% số hộ làm nghề chạm khắc gỗ, 15% số hộ làm nghề nông, còn lại 5% số
hộ làm các nghề phi nông nghiệp khác. Làng nghề La Xuyên hiện đang phát triển theo
hướng tập trung, mở rộng quy mô sản xuất ; xây dựng, khẳng định thương hiệu ở trong
và ngoài nước. Ông Phạm Ngọc Tuấn, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề La Xuyên cho
biết:“ Năm 2012, hơn 25 công ty, doanh nghiệp nằm trên địa bàn La Xuyên phát triển,
hoạt động kinh tế tương đối đều. Có những công ty doanh nghiệp phát triển lớn, tổng
thu nhập mỗi năm khoảng 25-30 tỉ, công ty doanh nghiệp thấp nhất, một năm tổng thu
nhập từ 3-4 tỉ, (theo Báo VOV: “Hướng phát triển cho một làng nghề truyền thống”,

11


năm 2012). Như vậy, dân cư làng nghề La Xuyên sống chủ yếu bằng nghề chạm khắc
gỗ - một nghề phi nông nghiệp nhưng La Xuyên vẫn được coi là vùng nông thôn chứ
không phải là thành thị. Như vậy khái niệm nông thôn chỉ hiểu một cách tương đối vì
yếu tố “ dân cư chủ yếu làm nông nghiệp” trong định nghĩa không tuyệt đối đúng.
Theo cơ quan quản lý nhà nước về nông thôn, tại Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ra ngày 21-8-2009, có định nghĩa nông
thôn như sau: “Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành
phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban Nhân dân xã”.

Tại Thông tư này, khái niệm nông thôn cũng được xây dựng từ khái niệm thành thị.
Khái niệm này phân loại nông thôn và thành thị dựa trên cơ sở quản lý hành chính,
trong khái niệm không đề cập đến yếu tố dân cư.
Từ những khái niệm trên có thể định nghĩa: Nông thôn là vùng lãnh thổ không thuộc
nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, có tập hợp dân cư sinh sống. Tập hợp dân cư
này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường trong một thể
chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác.
2

Bản chất của mô hình NTM

NTM là nông thôn có đầy đủ các đặc trưng của nông thôn nói chung và có tính kế
thừa, phát huy những ưu việt của nông thôn truyền thống.
Mô hình NTM là tổng thể, những đặc điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông
thôn theo tiêu chí mới đáp ứng yêu cầu về sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đặt ra cho
nông thôn. Theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TƯ của Trung ương, NTM là khu vực
nông thôn có kết cấu hạ tầng KT-XH từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ; gắn
phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định,
giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trận tự được
giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với tinh thần đó, Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 20102020 bao gồm 5 đặc trưng sau :
1.Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng
cao.
2.Nông thôn phát triển theo quy hoạch, cơ cấu hạ tầng, kinh tế, xã hội hiện đại, môi
trường sinh thái được bảo vệ.
12



3.Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy.
4.An ninh tốt, quản lý dân chủ.
5.Chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao.
Những nội dung trên quan hệ chặt chẽ với nhau nên trong quá trình thực hiện cần phải
giải quyết đồng bộ và toàn diện. Thực hiện phong trào xây dựng NTM là khơi dậy và
phát huy tốt vai trò của nông dân trong công cuộc xây dựng NTM ở nước ta nhằm mục
tiêu phát triển nông thôn ngày càng văn minh, hiện đại đáp ứng được yêu cầu CNHHĐH đất nước.
3

Chương trình xây dựng NTM

Chương trình xây dựng NTM là chương trình mục tiêu Quốc gia được bắt đầu bằng
Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đây cũng là một
Nghị quyết toàn diện nhất về nông thôn từ trước tới nay với trọng tâm, xuyên suốt toàn
bộ nghị quyết là phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nó là chương trình
khung, tổng thể phát triển nông thôn với 11 nội dung lớn, tổng hợp của 16 chương
trình mục tiêu quốc gia và 14 chương trình hỗ trợ có mục tiêu đang triển khai ở địa bàn
nông thôn trên phạm vi cả nước. Xây dựng NTM thực chất là chương trình do nhân
dân lựa chọn, đóng góp công sức thực hiện và trực tiếp hưởng lợi. Chương trình xây
dựng NTM có ý nghĩa rất lớn cả về kinh tế - chính trị - xã hội vì nó mang lại lợi ích
thiết thân cho cư dân nông thôn (chiếm khoảng 70% dân số cả nước), thông qua đó,
chương trình sẽ điều hòa lợi ích, thành quả công cuộc đổi mới cho người dân khu vực
nông thôn. (Nguồn: )
Ngay trong những năm đầu triển khai, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng
NTM đã nhanh chóng trở thành phong trào của cả nước. Nhiệm vụ về xây dựng NTM
được xác định rõ trong nghị quyết đại hội Đảng các cấp từ Trung ương đến địa phương
tỉnh, huyện và xã. Ban Bí thư Trung ương khóa X đã trực tiếp chỉ đạo Chương trình thí
điểm xây dựng mô hình NTM cấp xã tại 11 xã điểm ở 11 tỉnh, thành phố đại diện cho
các vùng, miền. Bộ máy quản lý và điều hành Chương trình xây dựng NTM đã được
hình thành từ Trung ương xuống địa phương. Các bộ, ngành đã ban hành 25 loại văn

bản hướng dẫn địa phương về tổ chức bộ máy quản lý, điều hành, quy hoạch NTM. Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã triển khai cuộc vận động “Toàn dân
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư gắn với xây dựng NTM”. Ngày 08-6-2011,

13


Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phát động thi đua “Cả nước chung sức xây dựng
NTM”.
Phong trào xây dựng NTM đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trên cả nước, thu
hút sự tham gia của cả cộng đồng, phát huy được sức mạnh của cả xã hội. Quá trình
triển khai xây dựng NTM, Ban Chỉ đạo xây dựng NTM các cấp đã tập trung chỉ đạo
công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về xây dựng NTM cho mọi tầng lớp
nhân dân, tập trung chỉ đạo công tác quy hoạch và lập đề án xây dựng xã NTM đây là
những tiền đề thiết yếu để thực hiện thắng lợi chương trình xây dựng nông thôn mới ở
từng địa phương. Để thực hiện Chương trình xây dựng NTM thắng lợi trong điều kiện
nguồn lực có hạn, Ban Chỉ đạo đã thống nhất các xã lựa chọn những tiêu chí mà đa số
người dân thấy cần thì tập trung làm trước, khuyến khích triển khai những công việc
từng thôn, xóm, từng hộ dân có thể tự làm được, tập trung cao cho nhiệm vụ phát triển
sản xuất, dồn điền, đổi thửa, tập chung ruộng đất gắn với quy hoạch đồng ruộng, cơ
giới hóa các khâu trong quá trình sản xuất, chế biến và đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất.
Chương trình xây dựng NTM đã huy động tổng lực các nguồn vốn cho xây dựng
NTM. Ngoài nguồn vốn Trung ương hỗ trợ, các địa phương đã rất chú trọng huy động
các nguồn vốn khác, như từ ngân hàng, doanh nghiệp và xã hội, đặc biệt là huy động
nội lực trong nhân dân thể hiện qua các việc làm như : đóng góp công lao động, hiến
đất, vật liệu, tiền, đóng góp tinh thần và động viên người thân có điều kiện kinh tế
thành đạt tham gia ủng hộ kinh phí. Bên cạnh đó, Chương trình xây dựng NTM cũng
quan tâm tới công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo hướng nâng cao kỹ
năng tay nghề; giải quyết việc làm cho nông dân theo cả hai hướng phi nông nghiệp và
nông nghiệp; quan tâm tới chất lượng các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa; xây dựng

tình làng nghĩa xóm; giữ gìn vệ sinh môi trường và an ninh nông thôn; đồng thời, chú
trọng tuyên truyền phát động và tổ chức rộng khắp phong trào thi đua “Cả nước chung
sức xây dựng NTM”.
Kết quả sau 5 năm thực hiện Chương trình xây dựng NTM, diện mạo nhiều vùng nông
thôn được đổi thay, hạ tầng KT-XH thiết yếu được nâng cấp, đời sống đa số nông dân
được cải thiện, hộ nghèo giảm, nhiều nét đẹp văn hóa được phát huy, tình làng nghĩa
xóm được vun đắp, đội ngũ cán bộ trưởng thành một bước. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện cũng có nhiều vấn đề đòi hỏi cần phải giải quyết trước mắt cũng như lâu dài

14


mới đáp ứng được mục tiêu yêu cầu của Chương trình. Vì vậy Chương trình xây dựng
NTM là quá trình lâu dài và liên tục, là một trong những nội dung quan trọng cần có
sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt từ Trung ương đến địa phương nhằm đưa nông
thôn nước ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến lên vững chắc trên con đường CNH-HĐH đất
nước.
4

Các nhóm và tiêu chí chủ yếu của mô hình NTM

Ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 491/QĐ-TTg ban hành
“Bộ tiêu chí quốc gia về NTM” bao gồm 19 tiêu chí, các tiêu chí này được chia thành
5 nhóm. Đây là căn cứ để xây dựng nội dung Chương trình xây dựng NTM ở từng địa
phương. Luận văn này sẽ đề cập một số tiêu chí cơ bản nhất trong các nhóm dưới đây:
1.Nhóm Quy hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển.
Quy hoạch là bố trí, sắp xếp địa điểm, diện tích sử dụng các khu chức năng trên địa
bàn xã; khu phát triển dân cư (bao gồm cả chỉnh trang các khu dân cư hiện có và bố trí
khu mới); hạ tầng phát triển; kinh tế, xã hội, các khu sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ… theo chuẩn nông thôn mới.

Để có mô hình NTM mang tính kế thừa, bổ sung và phát triển theo hướng CNH-HĐH,
vấn đề quy hoạch được đặt lên hàng đầu. Nếu quy hoạch không đi trước một bước
hoặc quy hoạch không có chất lượng thì xây dựng NTM sẽ gặp khó khăn và không đi
đến đích. Bởi vậy quy hoạch NTM là khâu quan trọng, có ý nghĩa tiên quyết trong vấn
đề xây dựng NTM ở từng địa phương.
Quy hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển trong Bộ tiêu chí xây dựng NTM gồm ba
nội dung: (1) Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông
nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ: xác định nhu cầu sử
dụng đất cho bố trí vùng sản xuất và hạ tầng kỹ thuật thiết yếu phục vụ sản xuất hàng
hóa nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ…(2) Quy hoạch phát
triển hạ tầng kinh tế, xã hội, môi trường theo chuẩn mới: có khu thể thao xã, nhà văn
hóa và khu thể thao thôn, bãi xử lý rác, hệ thống cấp nước sạch, hệ thống thoát nước
thải, công viên cây xanh, hồ nước sinh thái…(3) Quy hoạch phát triển các khu dân cư
mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có theo hướng văn minh, bảo tồn được bản sắc
văn hóa dân tộc.
2.Nhóm phát triển hạ tầng KT-XH.
Hạ tầng KT-XH là các công trình được xây dựng để phục vụ cộng đồng có ý nghĩa
kinh tế và xã hội nhằm nâng cao đời sống cộng đồng nơi đó. Phát triển hạ tầng KT-XH
15


nông thôn có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội ở nông thôn.
Bởi khi một khu vực nông thôn có phát triển về hạ tầng kinh tế như có nhiều khu sản
xuất tập trung, đường giao thông thuận tiện cho thông thương… sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho phát triển kinh tế. Hay tại vùng đó có các cơ sở hạ tầng văn hóa như y tế, văn
hóa, giáo dục… thì sẽ góp phần nâng cao đời sống của người dân.
Các chỉ tiêu chính về cơ sở hạ tầng KT-XH của NTM là:
- 100% đường trục từ xã đến ngõ xóm thôn được bê tông hóa hoặc cứng hóa
- 85% chiều dài kênh mương được kiên cố hóa
- 99% số hộ được sử dụng điện thường xuyên, an toàn.

- 100% số trường học các cấp (từ Mầm non đến THCS) có cơ sở vật chất đạt chuẩn
quốc gia.
- 100% số thôn có nhà văn hóa và khu thể thao.
- 90% số hộ có nhà ở kiên cố.
- Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông và có mạng Internet.
3.Nhóm Phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất.
Phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất là mục tiêu cơ bản của đề án NTM. Phát triển
kinh tế nhằm giúp người nông dân có đời sống ấm no, sung túc hơn.
Các chỉ tiêu chính về phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất của NTM là:
- Thu nhập bình quân đầu người/năm cao hơn 1,4 lần so với mức bình quân chung của
tỉnh.
- Tỷ lệ hộ nghèo dưới 6%.
- Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp nhỏ hơn
30%.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo lớn hơn 35%.
- Có tổ hợp tác xã hoặc hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.
Phát triển văn hóa – xã hội và bảo vệ môi trường
- Đạt phổ cập giáo dục trung học
- 85% học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ túc, học
nghề)
- 30% số người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế
- Y tế xã đạt chuẩn quốc gia
- Trên 70% số thôn, bản đạt tiêu chuẩn làng văn hóa
- 85% số hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn quốc gia
- Các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường .
4.Nhóm hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh.
- Đảng bộ, chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh” và các tổ chức
đoàn thể chính trị của xã đều đạt danh hiệu tiên tiến trở lên.
- An ninh, trật tự xã hội được giữ vững.


16


1.1.2 Sự cần thiết phải xây dựng NTM
5

Xây dựng NTM là phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng hiện đại

Thực tiễn nông nghiệp nước ta hiện nay chưa phát triển được theo chiều sâu, chủ yếu
phát triển theo bề nổi dựa trên những ưu đãi có sẵn của tự nhiên. Những người làm
nông nghiệp chủ yếu là người dân có trình độ thấp, quanh năm “bán mặt cho đất, bán
lưng cho trời”, mức đầu tư vào công nghệ ít, hàm lượng kỹ thuật chế biến trong sản
phẩm còn thấp trong đó chi phí sản xuất cao, do đó các sản phẩm nông nghiệp nước ta
giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và luôn gặp khó khăn khi vượt qua các rào
cản kỹ thuật hết sức khắt khe của các nước công nghiệp. Mặc dầu, khi gia nhập WTO,
theo các hiệp định song phương, đa phương chúng ta sẽ được hưởng các ưu ái thuế
quan nhưng chúng ta lại gặp các hàng rào phi thuế quan như vệ sinh an toàn thực
phẩm, các tiêu chuẩn về môi trường, sức khỏe cộng đồng… khắt khe khiến hàng hóa
nông sản của chúng ta nhiều khi đã vượt qua các rào cản thuế quan vẫn bị trả lại. Mặt
khác, hàng hóa xuất khẩu phải có chứng chỉ an toàn để chứng minh mặt hàng nông sản
luôn đảm bảo an toàn vệ sinh, chẳng hạn như chứng chỉ xác định nguồn gốc, chứng chỉ
báo cáo chất lượng… Đây thực sự là một trở ngại cho nông nghiệp Việt Nam. Vì vậy
một trong những nội dung xây dựng NTM là: tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào
sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và thu
nhập cho người dân; xây dựng các chương trình, đề án, nhân rộng các mô hình sản
xuất nông nghiệp có ảnh hưởng rộng, tính ứng dụng cao; xây dựng và phát triển
thương hiệu các sản phẩm nông nghiệp thế mạnh của từng địa phương; mở rộng diện
tích sản xuất hàng hóa áp dụng các tiêu chuẩn an toàn. Đồng thời chú trọng phát triển
các hình thức tổ chức sản xuất, liên kết sản xuất, chế biến, bao tiêu sản phẩm; bảo tồn

và phát triển các làng nghề, ngành nghề nông thôn; triển khai có hiệu quả Chương
trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Đây là nội dung phát triển nông nghiệp,
nông thôn theo hướng hiện đại tiến tới hòa nhập với thế giới.
6

Xây dựng NTM để có quy hoạch phân bổ và sử dụng nguồn tài nguyên (đất
đai, nguồn nước…) hợp lý và hiệu quả.

Do chiến tranh, do trình độ quản lý nên quy hoạch phân bổ các nguồn tài nguyên nông
thôn vẫn còn hạn chế. Các quy hoạch về đất, mặt nước cho sản xuất lúa gạo, cây công
17


nghiệp ngắn ngày, cây dài ngày, chăn nuôi và thủy sản… chưa rõ ràng, chưa đủ cụ thể
để quản lý chặt chẽ theo yêu cầu của sản xuất từng loại cây trồng, vật nuôi. Tình trạng
quy hoạch sản xuất nông, lâm, thủy sản liên tục bị phá vỡ tạo ra sự hỗn loạn trong sản
xuất, hao phí vốn đầu tư của người nông dân, gây khó khăn cho đời sống của họ.
Quy hoạch đất để sản xuất nông, lâm, thủy sản lâu dài, đất chuyển sang làm kết cấu hạ
tầng nông thôn và tạo mặt bằng để phát triển các hoạt động công nghiệp, dịch vụ,
thương mại nông thôn vẫn chưa được xác định. Vì thế xây dựng NTM với các tiêu chí
rõ ràng nhằm quy hoạch phân bổ và sử dụng nguồn tài nguyên nông thôn hợp lý và
hiệu quả.
7

Xây dựng NTM để tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất,tinh thần của
người nông dân nông thôn, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn
và thành thị.

Theo báo cáo về tình hình nông dân và hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam, nông
dân hiện nay vẫn đa số là những hộ sản xuất quy mô nhỏ, có tới 36% số hộ có dưới 0,2

ha đất canh tác. Thu nhập bình quân cư dân nông thôn chỉ bằng 76,6% bình quân
chung cả nước. 85% hộ nghèo của cả nước sống ở nông thôn. Khoảng cách thu nhập
của cư dân thành thị và nông thôn quá xa và càng ngày càng rộng ra. Theo số liệu của
Tổng cục Thống kê Việt Nam, nếu như khoảng cách thu nhập trung bình giữa người
giàu và người nghèo ở Việt Nam là 8,9 lần trong năm 2008 thì đến năm 2011 mức này
là 9,2 lần. Các vấn đề xã hội ngày càng phát triển gay gắt. Tình trạng ô nhiễm và suy
thoái môi trường ngày càng gia tăng. Làng nghề và các khu công nghiệp nông thôn
gây ô nhiễm đất, nước và không khí, làm cạn kiệt tài nguyên môi trường do khai thác
tự phát. Chương trình xây dựng NTM tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất,tinh
thần của người nông dân nông thôn, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn
và thành thị.
8

Xây dựng NTM để thay đổi diện mạo nông thôn, thay thế nông thôn truyền
thống bằng nông thôn hiện đại.

Hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH là điều kiện vật chất quan trọng, có tính quyết định
đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Tuy nhiên, sau gần 30 năm thực hiện
đường lối đổi mới, nền nông nghiệp Việt Nam vẫn chưa đạt được nhiều thành tựu
tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Bởi lẽ:

18


Hệ thống các công trình hạ tầng KT-XH nông thôn trong thời gian qua đã sự phát triển
đáng kể về số lượng và về chất lượng, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của tiến
trình CNH, HĐH nông thôn. Về căn bản hệ thống hạ tầng KT-XH nông thôn ở nước ta
chưa đạt được tiêu chuẩn quốc tế, còn mang đậm sắc thái hạ tầng KT-XH của những
nước có nền kinh tế chậm phát triển.
Hầu hết các công trình hạ tầng KT-XH nông thôn đều đã được xây dựng từ lâu, tập

trung chủ yếu ở thời kỳ đổi mới. Theo kiểu “thiếu đâu xây đó”, đáp ứng được nhu cầu
trước mắt thiếu tính lâu dài, không tuân theo quy hoạch. Nên các công trình hạ tầng
KT-XH nông thôn chưa làm thay đổi căn bản tình trạng lạc hậu, kém phát triển của hệ
thống hạ tầng KT-XH, mới chỉ là một bước cải thiện hệ thống hạ tầng KT-XH cũ và
đến nay đã xuống cấp.
Do đặc tính phục vụ cộng đồng, vì vậy việc duy trì bảo dưỡng các công trình hạ tầng
KT-XH nông thôn, việc phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn đòi hỏi nguồn vốn lớn,
trong khi nền kinh tế nước ta luôn trong tình trạng thiếu nguồn vốn để đầu tư phát triển
hạ tầng KT-XH nông thôn. Vì vậy phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn là do nỗ lực
của từng vùng, từng làng xã, do có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh
tế, xã hội… nên phát triển hạ tầng nông thôn đều mang tính địa phương, đậm tính tự
phát, tuỳ tiện, thiếu một quy hoạch tổng thể. Vì vậy trên thực tế đã biểu hiện: Không
kết hợp được các loại hạ tầng trong một khối thống nhất và đồng bộ; mang tính ngắn
hạn không phù hợp với tiến trình CNH, HĐH và đô thị hoá; khai thác nguồn vốn đầu
tư bằng quan hệ xin, cho; tuỳ tiện huy động đóng góp của dân; sử dụng tuỳ tiện đất
công… Vì vậy, cần xây dựng một NTM, khắc phục được những hạn chế, yếu kém
trên.
1.1.3 Những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng và phát triển nông thôn ở Việt
Nam và một số nước trên thế giới.
9

Phong trào đổi mới nông thôn ở Hàn Quốc

Hàn Quốc vào những năm 60 của thế kỷ XX là một nước nghèo. Nông thôn lạc hậu
sản xuất lương thực không đủ dùng, phần lớn người dân còn thiếu ăn. Sau trận lụt lớn
năm 1969, khi đi thị sát tình hình dân chúng, Tổng thống Hàn Quốc Park Chung Hy
nhận ra rằng viện trợ của chính phủ là vô nghĩa nếu người dân không nghĩ cách tự cứu
lấy mình. Cần khuyến khích người dân tự hợp tác và giúp đỡ nhau là điểm mấu chốt

19



để phát triển nông thôn. Những ý tưởng này chính là nền tảng của phong trào
“Saemaulundong” (Phong trào đổi mới nông thôn) được đích thân Tổng thống Park
phát động vào ngày 22/4/1970. Phong trào đổi mới nông thôn đã đề cao “Tinh thần
Saemaul” gồm 3 thành tố: “Chăm chỉ - Tự lực - Hợp tác”. Sự ra đời kịp thời của
“Saemaulundong” đúng lúc nông thôn Hàn Quốc đang trì trệ trong đói nghèo đã tạo ra
sự bứt phá mạnh mẽ và nhanh chóng đạt được những kết quả khả quan. Tới năm 1974,
chỉ sau 4 năm phát động “Saemaulundong”, sản lượng lương thực tăng đến mức Hàn
Quốc đã tự túc lương thực. Việc chú trọng phổ biến kiến thức nông nghiệp đã tạo nên
một cuộc cách mạng trong trồng trọt và chăn nuôi khiến thu nhập một năm bình quân
của một hộ nông dân (674 nghìn won tương đương 562 USD) cao hơn so với bình
quân một hộ ở thành thị (644 nghìn won tương đương 537 USD). Đến năm 1980, bộ
mặt nông thôn Hàn Quốc đã hoàn toàn thay đổi. 100% các làng quê nông thôn Hàn
Quốc đã có đầy đủ điện, đường, nước sạch, công trình văn hóa,… “Saemaulundong”
từ một phong trào ở nông thôn đã lan ra thành một phong trào đổi mới toàn xã hội Hàn
Quốc. (NongNghiep.vn, 2011)
10

Xây dựng và phát triển nông thôn ở Malaysia

Trên con đường phát triển thịnh vượng, Malaysia không chỉ quan tâm phát triển các
khu đô thị, các khu công nghiệp tập trung mà còn chú trọng quan tâm đến phát triển
nông thôn kể cả những vùng xa xôi hẻo lánh. Chính phủ nước Malaysia cho rằng cơ sở
của phát triển nông thôn là phát triển vốn xã hội (giáo dục, sức khỏe), tăng cường quản
trị cấp địa phương, đầu tư nghiên cứu và khuyến nông, cung cấp các thể chế hỗ trợ như
giao thông, tài chính,... Đặc biệt, chính phủ đã xác định nông dân là nền tảng phát triển
Quốc gia. GS Ibrahim Ngah - Đại học Công nghệ Malaysia cho biết, phát triển nông
thôn luôn được coi là chương trình nghị sự quan trọng của Malaysia. Rất nhiều nỗ lực
và nguồn lực đã được đầu tư để cải thiện phúc lợi của người dân nông thôn, bao gồm

phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất. Kinh nghiệm của Malaysia cũng chỉ ra rằng,
các phương pháp tiếp cận và các mô hình phát triển nông thôn cần được triển khai đặc
thù theo địa phương với thời gian phụ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị, nguồn lực
tài chính. ( />
20


11

Chính sách cải cách nông thôn ở Trung Quốc

Để xóa bỏ tình trạng nghèo nàn lạc hậu ở nông thôn, từ năm 1978, Trung Quốc đã thực
hiện nhiều chính sách cải cách nông thôn. Đến năm 2009, thu nhập bình quân của cư
dân nông thôn, lần đầu tiên đạt mức trên 5.000 NDT, tăng 8,5% so với 5 năm trước.
Cũng trong năm 2009, Trung Quốc đầu tư làm mới và sửa chữa khoảng 300.000 km
đường bộ nông thôn; hỗ trợ trên 46 triệu người nghèo đảm bảo đời sống tối thiểu; triển
khai thí điểm ở 320 huyện về bảo hiểm dưỡng lão xã hội nông thôn. Chính phủ căn cứ
vào các đặc điểm tự nhiên, xã hội, tình hình cụ thể ở các vùng nông thôn, đưa ra các
chính sách, biện pháp chỉ đạo đầu tư linh hoạt, thích hợp. Ngân sách nhà nước chủ yếu
dùng làm đường, công trình thủy lợi…, một phần dùng để xây nhà ở cho dân. Đối với
nhà ở nông thôn, nếu địa phương nào ngân sách lớn, nông dân chỉ bỏ ra một phần, còn
lại là tiền của ngân sách.
Công cuộc cải cách nông thôn của Trung Quốc qua nhiều dấu mốc. Trong đó, những
mốc quan trọng là xóa bỏ công xã nhân dân; xác lập thể chế kinh doanh hai tầng kết
hợp, lấy kinh doanh bao thầu gia đình làm cơ sở; mở cửa toàn diện thị trường nông
sản; xóa bỏ thuế nông nghiệp, và thực hiện trợ cấp trực tiếp cho nông dân. Trung Quốc
thực hiện nội dung hai mở, một điều chỉnh, là mở cửa giá thu mua, thị trường mua bán
lương thực; một điều chỉnh là chuyển từ trợ cấp gián tiếp qua lưu thông thành trợ cấp
trực tiếp cho nông dân trồng lương thực.
Trung Quốc thực hiện hạn chế lấy đất nông nghiệp. Vấn đề thu hồi đất nông nghiệp

của nước này được quy định rất ngặt nghèo. Nếu chuyển đổi mục đích sử dụng đất,
phải đúng với chiến lược lâu dài của vùng đó và phải nằm trong chỉ giới đỏ, đảm bảo
cả nước luôn duy trì 1,8 tỷ mẫu đất nông nghiệp trở lên.
Tài chính hỗ trợ Tam nông tại Trung Quốc tập trung 3 mục tiêu là nông nghiệp gia
tăng sản xuất, nông thôn phát triển, và nông dân tăng thu nhập. Định hướng phát triển
tài chính hỗ trợ tam nông ở Trung Quốc là nông nghiệp hiện đại, nông thôn đô thị hóa
và nông dân chuyên nghiệp hóa. Trong chính sách tài chính, để tăng thu nhập cho nông
dân, Trung Quốc tăng đầu tư hỗ trợ về giá mua giống, hỗ trợ thu mua lương thực
không thấp hơn giá thị trường, hỗ trợ nông dân mua máy móc thiết bị nông nghiệp và
nguồn vốn. Cùng đó, Trung Quốc cũng tập trung xây dựng cơ chế hướng nghiệp, đào
tạo kỹ năng làm việc, đặc biệt là lao động trẻ. Ngoài ra, bên cạnh đó nhà nước luôn
giảm thu phí và thuế với nông dân, Trung Quốc còn có chủ trương, đảm bảo trong

21


vòng 3 năm xóa bỏ tình trạng các xã, thị trấn không có dịch vụ tài chính tiền tệ cơ bản.
Đồng thời, thúc đẩy việc mua đồ gia dụng, ô tô, xe máy tại các xã, bằng cách nhà nước
trợ cấp 13% trên tổng giá trị hàng hoá khi nông dân mua sản phẩm (do nhà nước định
hướng).
( />12

Phong trào xây dựng NTM ở một số địa phương ở Việt Nam

1.Xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ninh Theo báo cáo của Ban Xây dựng NTM Quảng
Ninh, Sau 5 năm thực hiện, chương trình xây dựng NTM diện mạo nông thôn Quảng
Ninh đã đổi mới và mức thu nhập của người dân khu vực nông thôn đã tăng từ 10,98
triệu đồng/năm (năm 2010) lên trên 29,5 triệu đồng/năm (năm 2015), gấp gần 2,7
lần…
Ngay từ năm 2010, tỉnh Quảng Ninh đã đồng loạt triển khai chương trình NTM trên

125/125 xã, 13/14 đơn vị cấp huyện và chỉ đạo thực hiện ở tất cả các tiêu chí. 100%
các địa phương trên toàn tỉnh đều quyết liệt triển khai và đặt lộ trình cụ thể trong xây
dựng NTM.
Đến năm 2015 toàn tỉnh đã có 79 xã cơ bản đạt tiêu chí xã NTM, 5 huyện, thị xã,
thành phố cơ bản đạt tiêu chí NTM (trong đó có TX Đông Triều đạt chuẩn). Hiện, toàn
tỉnh đã đạt 15,17 tiêu chí/xã và 33,74 chỉ tiêu/xã; số xã đạt chuẩn NTM của Quảng
Ninh cao hơn so với mức bình quân chung cả nước và không có xã nào chỉ đạt dưới 5
tiêu chí.
Thành công của chương trình NTM tại Quảng Ninh là tỉnh đã huy động sức mạnh tổng
hợp của toàn xã hội trong xây dựng NTM. Trong tổng nguồn vốn huy động trong 5
năm thực hiện chương trình xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh là trên 57.700 tỷ đồng.
Trong đó nguồn vốn xã hội hoá là gần 12.900 tỷ đồng, chiếm trên 22%. Quảng Ninh
không chỉ dành nguồn lực cho NTM mà kêu gọi cả cộng đồng chung sức xây dựng
NTM. Phong trào này đã được các cấp, các ngành, MTTQ, các đoàn thể và các địa
phương triển khai sáng tạo, chủ động bằng các chương trình hành động thiết thực.
Trong 5 năm qua, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã ủng hộ gần 12.700 tấn xi
măng, hơn 1,5 triệu viên gạch chỉ, 2.000m2 gạch lát nền; ủng hộ trên 205 tỷ đồng xây
dựng điện lưới ra huyện đảo Cô Tô; hỗ trợ giảm 10% giá các nguyên vật liệu xây
dựng... Các doanh nghiệp còn góp phần đào tạo, giải quyết việc làm cho lao động khu
vực nông thôn, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp…Ngoài ra, còn có sự ủng hộ của người

22


dân thông qua việc đóng góp tiền, công sức lao động, hiến đất. Đến nay, chương trình
đã huy động được sự đóng góp cực kỳ hiệu quả của nhân dân để đầu tư được 1.210
công trình với tổng mức đầu tư 868,7 tỷ đồng.
Từ sự chung sức, đồng lòng này, tỉnh Quảng Ninh đã hoàn thành mục tiêu cơ bản đạt
tỉnh NTM vào năm 2015 và hướng đến xây dựng nông thôn tiên tiến, đây cũng là mô
hình độc đáo sáng tạo của tỉnh Quảng Ninh. (theo Minh Tâm - Quảng Ninh: Từ NTM

tới nông thôn tiên tiến - bài viết trên Info.net của Bộ TT và TT)
2.Xây dựng NTM ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định với phương châm “nhân dân làm,
nhà nước hỗ trợ” và “dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám sát, dân hưởng thụ”, huyện
Hải Hậu tỉnh Nam Định đã trở thành huyện thứ năm trên cả nước và là huyện thứ hai
của miền Bắc đạt chuẩn NTM (NTM).
Huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định là một huyện thuần nông với gần 80% lao động nông
nghiệp, ngành nghề phát triển chậm, cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn chưa đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thu nhập bình quân đầu người
còn thấp (năm 2010 bình quân 11,5 triệu đồng/người). Triển khai xây dựng NTM,
huyện Hải Hậu mới đạt 10/19 tiêu chí NTM. Sau 4 năm xây dựng NTM, đến nay, Hải
Hậu đã có 35/35 xã, thị trấn được UBND tỉnh Nam Định công nhận đạt chuẩn NTM,
bình quân toàn huyện đạt 19/19 tiêu chí NTM/xã. Và mới đây, Thủ tướng Chính phủ
đã ký quyết định công nhận Hải Hậu là huyện NTM...
Với cách làm riêng của mình, từ 19 tiêu chí xã NTM do Trung ương ban hành, huyện
Hải Hậu vận dụng, cụ thể hóa thành 12 tiêu chí xóm NTM và 8 tiêu chí gia đình NTM.
Thống nhất quy trình thực hiện chung là: “Làm từ đồng về nhà, từ nhà lên xóm, từ
xóm lên xã”, “xóm lo công trình của xóm, xã lo công trình của xã”, lấy mỗi gia đình là
hạt nhân trong xây dựng NTM. Hải Hậu cũng “thiết kế” được một cơ chế hỗ trợ cũng
như khen thưởng rất cụ thể, qua đó khuyến khích, tạo động lực cho các xóm trong
huyện tham gia thực hiện. Năm 2011, trong khi nhiều địa phương còn lúng túng, chưa
biết phải triển khai xây dựng NTM ra sao thì Hải Hậu đã hoàn thành dồn điền, đổi thửa
- một khâu đột phá trong xây dựng NTM ở cả 35 xã, thị trấn trong huyện, kết hợp với
việc dồn đổi quỹ đất công, chỉnh trang đồng ruộng, quy hoạch vùng sản xuất.
. Theo thống kê, trong quá trình thực hiện chương trình, toàn huyện đã huy động trên
1.500 tỷ đồng xây dựng NTM, nhân dân đóng góp 586 tỷ đồng; vốn cấp trên và ngân
sách địa phương 663 tỷ đồng; nguồn vốn khác hơn 259 tỷ đồng. Ngoài ra, nhân dân đã
tự nguyện hiến trên 345 ha đất nông nghiệp, 25 ha đất ở và trên 150.000 ngày công lao
23



động tháo, dỡ hàng ngàn công trình để xây dựng các công trình đường giao thông,
phúc lợi công cộng.
Đến nay, bộ mặt nông thôn Hải Hậu đã thay đổi, đời sống người dân đã được nâng lên
rõ rệt. Đường làng, ngõ xóm được bê tông hóa. Toàn huyện đã có 536/546 xóm đã có
nhà văn hóa, khu vui chơi; 535/546 xóm đạt tiêu chí xóm, gia đình NTM, đường giao
thông được mở rộng với 971/974 km đường giao thông khu dân cư đạt chuẩn, 346/396
km đường giao thông trục chính nội đồng đạt chuẩn.
(theo />Tóm lại trong Mục 1.1 Khái quát về xây dựng NTM giúp chúng ta nhận thức xây
dựng NTM là xu hướng, con đường tất yếu nhằm đưa nông thôn nước ta tiến nhanh
trên con đường CNH-HĐH đất nước và hội nhập với sự phát triển nông thôn các nước
trên thế giới. Trong phong trào xây dựng NTM, xây dựng phát triển các công trình hạ
tầng nông thôn mới là nền tảng để phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội nông thôn, từng
bước thay đổi diện mạo nông thôn đưa nông thôn nước ta phát triển thành nông thôn
hiện đại. Vì vậy trong Mục 1.2 dưới đây chúng ta sẽ tiếp tục đi sâu nghiên cứu Công
trình hạ tầng KT-XH trong mô hình NTM.
1.2 Công trình hạ tầng KT-XH trong mô hình NTM
1.2.1 Khái niệm và các bộ phận hợp thành hệ thống công trình hạ tầng KT-XH
trong phong trào xây dựng NTM
13

Khái niệm

Cho đến nay, quan niệm về kết cấu hạ tầng vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Theo
PGS. TS Nguyễn Ngọc Nông thì: “Cơ sở hạ tầng là tổng thể các ngành kinh tế, các
ngành công nghệ dịch vụ” [2]. Cụ thể cơ sở hạ tầng bao gồm: Việc xây dựng đường
xá, kênh đào tưới nước, bãi cảng, cầu cống, sân bay, kho tàng, cơ sở cung cấp năng
lượng, cơ sở kinh doanh, giao thông vận tải, bưu điện, cấp thoát nước, cơ sở giáo dục,
khoa học, y tế, bảo vệ sức khoẻ... PGS. TS Lê Du Phong cho rằng kết cấu hạ tầng là
“tổng hợp các yếu tố và điều kiện vật chất - kỹ thuật được tạo lập và tồn tại trong mỗi
Quốc gia, là nền tảng và điều kiện chung cho các hoạt động KT-XH...” [3]. Còn theo

PGS. TS Đỗ Hoài Nam thì cho rằng hạ tầng “là khái niệm dùng để chỉ những phương
tiện làm cơ sở nhờ đó các quá trình công nghệ, quá trình sản xuất và các dịch vụ được
thực hiện” [4] .

24


Quá trình sản xuất cần có người lao động, tư liệu sản xuất và công nghệ. Trong tư liệu
sản xuất có một bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là những cơ sở
phương tiện chung nhờ đó mà quá trình công nghệ, sản xuất và dịch vụ được thực
hiện. Bộ phận này chính là cơ sở hạ tầng, kết cấu hạ tầng hay hạ tầng.
Như vậy mặc dù còn có những quan điểm khác nhau, sử dụng tên gọi khác nhau nhưng
các quan điểm, ý kiến này đều cho rằng: Cơ sở hạ tầng hoặc kết cấu hạ tầng hay hạ
tầng đều là những yếu tố vật chất làm nền tảng cho các quá trình sản xuất và đời sống
xã hội hình thành và phát triển. Với quan niệm về hạ tầng như vậy, cùng với sự phát
triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ làm cho hạ tầng không những có vai trò
quan trọng trong lĩnh vực kinh tế mà nó còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát
triển xã hội. Tương ứng với mỗi lĩnh vực hoạt động của xã hội có một loại hạ tầng
tương ứng chuyên dùng. Hạ tầng trong kinh tế phục vụ cho hoạt động kinh tế, hạ tầng
trong quân sự phục vụ cho hoạt động quân sự, hạ tầng trong lĩnh vực giáo dục, y tế
phục vụ cho hoạt động giáo dục, y tế… Trong thực tế cũng có những loại hạ tầng đa
năng có tầm hoạt động rộng lớn, có tác động nhiều mặt như: Hạ tầng giao thông vận
tải, điện năng, thuỷ lợi… Đó là những hệ thống hạ tầng trong khi tồn tại và vận hành
không chỉ phục vụ cho một hoạt động ví dụ như hoạt động kinh tế mà còn phục vụ cho
nhiều hoạt động khác. Do đó khái niệm hạ tầng KT-XH được sử dụng để chỉ những hạ
tầng có tính đa năng phục vụ cho lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội hoặc để chỉ cho
những hạ tầng chuyên dùng phục vụ cho lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội khi cùng
đề cập đến.
Thực tế cho thấy, hạ tầng KT-XH ngày càng đóng vị trí quan trọng trong sự phát triển
KT-XH của các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hạ tầng KT-XH là một trong

những chỉ tiêu tổng hợp đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia. Bất cứ một xã
hội nào, một quốc gia nào muốn phát triển thì đều cần có một hệ thống cơ sở hạ tầng
hoàn chỉnh và đồng bộ, điều đó cũng có nghĩa là phải đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng,
phải xem nó là nền tảng, là điều kiện tiền đề vật chất để thúc đẩy các hoạt động KTXH phát triển.
Hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn trước hết là gắn với sở hữu của làng, xã.
Sau nữa là gồm những phương tiện làm cơ sở cho sự phát triển KT-XH trên địa bàn
nông thôn. Chúng tôi tán thành với quan niệm của GS.TS Đỗ Hoài Nam và PGS.TS Lê
Cao Đoàn trong cuốn sách “Xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn trong quá trình công

25


×