Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Đánh giá sự phát triển quy định pháp luật việt nam từ năm 1994 đến nay về việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.45 KB, 29 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Quyền con người là một trong những vấn đề được cả nhân loại quan tâm
và nghiên cứu. Ở Việt Nam, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), công
cuộc đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam đã làm thay đổi nhận thức về vấn đề
bảo vệ quyền con người. Hiến pháp năm 1992 được ban hành, sửa đổi, bổ sung
một số điều đã khẳng định cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm quyền con
người trong mọi lĩnh vực với sự giám sát chặt chẽ của lực lượng đông đảo quần
chúng nhân dân. Sự nghiệp bảo vệ quyền con người đã trở thành ý chí thống
nhất của toàn Đảng, toàn dân.
Thành tựu của công cuộc đổi mới đã ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ đời
sống kinh tế – xã hội Việt Nam. Hàng loạt vấn đề mới xuất hiện, hàng loạt vấn
đề của cơ chế cũ đang được xem xét, nhìn nhận lại trong điều kiện mới với sự
hội nhập quốc tế và khu vực. Bằng sự đánh giá khách quan, khoa học chúng ta
càng nhận thức rõ hơn về vai trò ngày càng quan trọng của lực lượng lao động
trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Điều đó là động lực giúp Đảng và Nhà
nước ta đã luôn không ngừng nâng cao và phát triển các điều kiện vật chất và
tinh thần nhằm khuyến khích và tạo động lực làm việc cho người lao động.
Những năm qua, thực hiện Nghị quyết của Đảng, nhiều chính sách, pháp luật
trong lĩnh vực lao động đã được ban hành và triển khai thực hiện trong cuộc
sống không những đã giúp bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động, bên cạnh đó còn giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử dụng
lao động, tạo lập mối quan hệ hài hòa, ổn định trong doanh nghiệp, thúc đẩy thị
trường lao động phát triển…
Việc xây dựng hệ thống các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho người lao động là cơ sở, nền tảng để lực lượng lao động Việt
Nam luôn không ngừng phấn đấu làm việc, nâng cao chất lượng, năng suất lao
động và hiệu quả công việc cho bản thân nói riêng, cho các tổ chức, doanh
nghiệp nói chung và rộng hơn nữa là thúc đẩy kinh tế - xã hội đất nước phát


triển. Trong sự biến đổi không ngừng của sự phát triển của khoa học công nghệ,
đặc biệt là xu hướng tòan cầu hóa của nền kinh tế thị trường, nhận thức được vai
2


trò quan trọng của công việc này, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn
thiện và nâng cao hệ thống pháp luật lao động, phù hợp với tình hình thực tế của
đất nước gắn với bắt kịp xu hướng xu hướng phát triển trên thế giới và đặc biệt
là đảm bảo thỏa mãn như cầu, quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động.
Bài tiểu luận về Đánh giá sự phát triển quy định pháp luật Việt Nam từ
năm 1994 đến nay về việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động
sẽ giúp chúng ta nhìn nhận một cách tổng quát nhất về quá trình xây dựng và
hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho người lao
động. Bài tiểu luận còn nhiều hạn chế, thiếu sót, kính mong nhận được sự nhận
xét của thầy cô để bài tiểu luận được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

3


CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
I. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI
ÍCH HỢP PHÁP CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
Pháp luật là phương tiện chính thức hóa các giá trị xã hội của quyền và lợi
ích hợp pháp của người lao động; các quyền đó được pháp luật hóa và mang tính
bắt buộc, được xã hội thừa nhận, bảo vệ. Nếu không có sự thừa nhận của xã hội
thông qua pháp luật thì quyền tự nhiên vốn có của con người chưa trở thành
quyền thực sự. Ngược lại, quyền và lợi ích của người lao động khi đã được quy
định trong pháp luật thì nó sẽ trở thành quyền pháp định, là ý chí chung của toàn

xã hội, được xã hội thừa nhận phục tùng, được quyền lực Nhà nước tôn trọng
bảo vệ.
- Pháp luật là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc thực hiện bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động. Tính sắc bén của pháp luật trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động được thể hiện ở các
quy định trong pháp luật được đảm bảo bằng bộ máy, cách thức tác động quyền
lực của Nhà nước, khi cần thiết thì Nhà nước sử dụng các biện pháp cưỡng chế
trên cơ sở tiến hành các biện pháp giáo dục, thuyết phục bảo đảm cho nội dung
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động được thực hiện và bảo vệ. Bên
cạnh đó, nhờ hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật mà mọi hành vi vi phạm quyền
và lợi ích của người lao động đều có khả năng bị phát hiện nhanh chóng và xử lý
kịp thời.
- Pháp luật là tiền đề, nền tảng tạo cơ sở pháp lý để người lao động đấu
tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ở đây pháp luật được xem
xét không chỉ với tư cách là công cụ, phương tiện của Nhà nước mà còn là công
cụ, vũ khí của người lao động trong xã hội để thực hiện, bảo vệ quyền và lợi ích
của mình. Bởi vì pháp luật là đại lượng mang giá trị phổ biến, là chuẩn mực của
sự công bằng, do đó có thể đo được hành vi của mọi người, kể cả các cơ quan tổ
chức, công chức Nhà nước. Nó là cơ sở, là căn cứ để người lao động đánh giá,
4


kiểm tra, đối chiếu các hành vi từ phía Nhà nước và các thành viên trong xã hội,
đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động có thể bị xâm phạm từ phía các cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp cũng như từ phía các thành viên khác trong xã hội, bởi vì trong
quan hệ với người sử dụng lao động, người lao động vừa là người chủ, vừa là
đối tượng bị quản lý cho nên quyền và lợi ích hợp pháp của họ có nguy cơ xâm
hại cao.
Trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người lao

động là người bị quản lý và chịu sự phán quyết nên họ luôn luôn ở vị thế bất lợi.
Trong điều kiện đó, người lao động không có vũ khí, phương tiện nào khác hữu
hiệu hơn là sử dụng pháp luật để đấu tranh tự bảo vệ lấy các quyền và lợi ích của
mình. Chỉ có pháp luật, bằng các qui phạm pháp luật quy định chặt chẽ về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, các
quyền và nghĩa vụ của công dân, mới tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc để mọi
người đấu tranh chống lại các hành vi xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình.
- Vai trò của pháp luật trong việc thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người lao động còn thể hiện trong mối quan hệ giữa pháp luật và các
điều kiện bảo đảm khác (chính trị, kinh tế, văn hóa …) các điều kiện trên đều
phải thông qua pháp luật, thể hiện dưới hình thức pháp luật mới trở thành giá trị
xã hội ổn định, được hiện thực hóa trên qui mô toàn xã hội. Chỉ có như vậy thì
các điều kiện đó mới phát huy được vai trò của mình trong việc thực hiện và bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động, cụ thể như:
+ Điều kiện chính trị: Đường lối chính trị của một quốc gia là nhằm xây
dựng vào bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nền kinh tế phát
triển, nền dân chủ thực sự. Đường lối chính trị đó phải được thể chế hóa trong
Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp quy định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn
hóa xã hội, tổ chức hoạt động của các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nói chung và người lao động nói riêng…
Đó chính là cơ sở pháp lý để xây dựng những tổ chức, doanh nghiệp hướng tới
5


tôn trọng, bảo vệ người lao động
+ Điều kiện kinh tế: Phát triển kinh tế tạo cơ sở vật chất là một trong
những điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp cho
người lao động. Nhưng muốn phát triển kinh tế thì đường lối chính sách, cơ chế
phải được cụ thể hóa trong pháp luật. Pháp luật sẽ tạo khuôn khổ môi trường

pháp lý thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ phát huy được mọi
tiềm năng, hạn chế được các mặt tiêu cực.
+ Điều kiện văn hóa: Phát triển văn hóa giáo dục, nâng cao dân trí cũng
phải được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật, bảo đảm cho người lao động
được phát triển tự do và toàn diện, tạo điều kiện cho mọi người được độc lập,
nghiên cứu nâng cao nhận thức về mọi mặt. Mặt khác, pháp luật có vai trò giáo
dục tích cực, mạnh mẽ góp phần hình thành văn hóa pháp lý người lao động,
giúp cho người lao động biết sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tuân
thủ nội quy, quy định của cơ quan, doanh nghiệp nơi làm việc, biết “tự bảo vệ”
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình và biết tôn trọng các quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác trong.
Từ những phân tích ở trên, chúng ta thấy pháp luật hiện diện ở tất cả các
điều kiện khác, tạo cơ sở pháp lý cho các điều kiện ấy phát huy được vai trò và
hiệu quả của chúng trong việc thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp cho người
lao động trên quy mô toàn xã hội.
Từ các điều kiện của pháp luật như đã trình bày, chúng ta thấy pháp luật
có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người lao động. Để phát huy đầy đủ vai trò quan trọng của pháp luật trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động thì phải thể chế hóa thành
các quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật, phải có cơ chế bảo đảm cho các
quy định đó được thực hiện trong thực tế, tạo thành đảm bảo pháp lý thực hiện.
Nói cách khác, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao
động chính là đảm bảo thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động
bằng pháp luật.
Thể chế hóa quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động trong hệ thống
6


pháp luật, không chỉ là cụ thể hóa quyền và lợi ích. Nó còn bao hàm cả việc quy
định các hình thức, biện pháp xử lý những hành vi vi phạm, quy định về tổ chức

hoạt động của bộ máy Nhà nước, chức năng nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp, xây dựng hệ thống các thủ tục trong
tố tụng trong đó có tố tụng hình sự. Quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao
động được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật thành hệ thống các quy định nêu
trên, nhưng nếu không có cơ chể bảo đảm thực hiện các quy định đó thì không
thể nói đã có đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền việc thi hành . Vì vậy, phải triển
khai các hoạt động phổ biến, tuyên truyền, giáo dục, giải thích pháp luật, hướng
dẫn thực hiện pháp luật… Nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho các thành viên
xã hội, hình thành văn hóa pháp lý trong đời sống xã hội.
Đồng thời huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong việc tổ chức
thực hiện pháp luật, nhất là nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện pháp
luật của bộ máy Nhà nước, của các tổ chức, doanh nghiệp, phải bảo đảm cho các
quy định nhằm thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động
trong hệ thống pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh, các hành vi vi phạm quyền
và lợi ích hợp pháp cho người lao động ngày càng giảm, còn có hiện tượng vi
phạm thì càng phải được phát hiện, xử lý kịp thời.
II. CƠ SỞ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG
1. Cơ sở pháp lý
Bảo vệ quyền và lợ ích hợp pháp cho người lao động chính là bảo vệ
quyền con người – vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Điều này thể
hiện qua các quy định trong Hiến pháp, Luật, các văn bản quy phạm pháp luật
khác của Nhà nước.
Tại Điều 57 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước khuyến khích, tạo điều
kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động, tạo điều kiện xây
dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định”.
7



Việc đưa thể chế hóa quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động thành
các quy phạm pháp luật là căn cứ pháp lý để các cơ quan quyền lực nhà nước,
các tổ chức, doanh nghiệp cũng như bản thân người lao động thực hiện áp dụng
và tuân thủ. Nhằm mục đích mang lại hiệu quả cao trong quá trình quản lý cũng
như đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần để ngời lao động nâng cao hiệu suất
và chất lượng việc làm, góp phần nâng cao chất lượng đời sống của bản thân, gia
đình và xã hội.
2. Cơ sở thực tế
2.1. Vai trò của người lao động trong quá trình sản xuất vật chất
Lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Ngiã là trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người chinh phục thế
giới bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó được chủ
nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lục lượng sản xuất. Lực lượng
sản xuất bao động với ký năng lao động của họ và tư liệu sản xuất trước hết là
công cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất , trong đó lực
lượng sản xuất hang đầu là người lao động.
Người lao động là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất. Chính
người lao động là chủ thể của quá trình sản xuất với sức mạnh và kỹ năng lao
động của mình, sử dụng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo
ra của ải vật chất. Trong quá trình lao động, người lao động còn được nâng cao
về trình độ, tay nghề, trí tuệ.
Lịch sử phát triển loài người cho đến nay về cơ bản là lịch sử vận động,
phát triển của sản xuất và tái sản xuất xã hội. Chính trong quá trình lao động con
người đã bộc lộ bản chất của mình và thể hiện một vai trò đặc biệt quan trọng –
động lực của sự phát triên sản xuất xã hội.
Lao động là một hình thái hoạt động chỉ có ở con người. Con người tiến
hành lao động sản xuất nhằm thảo mãn nhu cầu vật chất, tinh thần, xã hội;
không chỉ để để thích nghi mà còn để cải tạo giơi tự nhiên, và cải tạo ngay chính
bản than con người. Trong mọi phương thức sẩn xuất, con người lao giờ cũng ở
vị trí trung tâm và giữ vai trò quyết định so với công cụ lao động và đối tượng

8


lao động. Con người không chỉ chế tạo ra công cụ lao động. không chỉ đề ra kế
hoạch, lựa chọn phương pháp lao động mà còn trực tiếp sử dụng công cụ lao
động để tạo ra của cải vật chất.
Như vậy, động lực chủ yếu của sự tiến bộ xã hội là lực lượng sản xuất, mà
trong lực lượng sản xuất, con người là yếu tố quan trọng nhất. Cho nên bất kỳ sự
tiến bộ xã hội nào, đều do con người trực tiếp thực hiện. Cho đến nay tất cả các
phương tiện phục vụ cho nền sản xuất đều là kết quả của khối óc và bàn tay con
người.
Nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc vê thể chất và tinh
thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ trí thức, vị thế xã hội… Tạo thành năng lực
của con người và cộng đồng người. Năng lực đó khi được sử dụng, phát huy sẽ
góp phần thúc dẩy sự phát triển xã hội. Theo đó con người không chỉ là sự phát
triển của tự nhiên và xã hội mà còn là chủ thể tích cực cải biến tự nhiên và xã
hội, con người là điểm khởi đầu và điểm kết thúc của mọi quá trình lịch sử.
2.2. Vai trò của người lao động đối với sự ổn định và phát triển xã hội
Con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Mọi sự nỗ
lực phát triển xã hội đều phục vụ lợi ích của con người, và do chính con người
đặt ra mục tiêu và thực hiện mục tiêu đó.
Việc con người tham gia quá trình lao động để trở thành người lao động
không những giúp thỏa mãn như cầu vật chất và tinh thần cho bản thân người
lao động mà còn góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
Khi tham gia quá trình lao động, người lao động sẽ nhận được những lợi
ích nhất định. Đó có thể là khoản thù lao, tiền công; phần thưởng mà người lao
động nhận được người sử dụng lao động qua việc bán sức lao động của mình;
cũng có thể là phần lợi ích thu lại từ việc trồng trọt, chăn nuôi; hay lao động
giúp con người thỏa mãn nhu cầu tinh thần, mang lại sự thoải mái cho tâm lý. Sự
đa dạng trong quy mô lao động và hình thức lao động giúp người lao động có

nhiều phương án lựa chọn và thực hiện phương án để phục vụ nhu cầu lợi ích
phù hợp với bản thân mình.
Nhìn nhận theo góc độ xã hội, lao động không đơn giản chỉ là việc con
9


người sử dụng các công cụ lao động tác động và đối tượng lao động để tạo ra
của cải vật chất, mà trong quá trình lao động còn giúp người lao động có thể trao
đổi, giao lưu văn hóa, thoản mãn nhu cầu tinh thần cho bản thân mình. Từ đó
góp phần gìn giữ và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Khi tham giá quá trình lao động, tiền lương kiếm được giúp người lao
động trang trải cuộc sống, thỏa mãn như cầu tiêu dùng, khắc phục những khó
khăn, rủi ro có thể xảy ra. Bên cạnh đó giúp người lao động nuôi các thành viên
trong giá đình và có khoản kinh tế dự trữ khi hết tuổi lao động.
Việc tham gia lao động tại các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp… Tạo điều
kiện cho người lao động tiếp cận gần hơn với các thành tựu phát triển của khoa
học công nghệ, với môi trường mới và điều kiện sống mới. Đặc biệt đưa người
lao động đến gần với các quy định pháp luật của Nhà nước, các nội quy, quy
định của cơ quan, tổ chức. Từ đó giúp cải thiện phong cách sống và làm việc nề
nếp, quy cũ; thay đổi những thói quen xấu và hướng tới hoàn thiện nhân cách
con người một cách toàn diện. Đưa người lao động đi vào nề nếp, quy cũ còn
giúp giảm các gánh nặng xã hội như: nghiện hút, bài bạc.
Người lao động trong quá trình lao động chịu sự ràng buộc của các quy
định, quy chế chặt chẽ, với các chế tài và biện pháp xử lý nghêm khắc. Từ đó
giúp người lao động nhận thức được những việc mình được làm và không được
làm để nhận được lợi ích và không phải chịu các hình phạt. Điều này giúp cho
hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp hay rộng hơn là xã hội được ổn định và
phát triển bền vững.
2.3. Vai trò của người lao động trong sự tác động đến các nguồn lực
khác

Nguồn nhân lực có khả năng khơi dậy và tác động các nhân tố phát triển
của tổ chức, doanh nghiệp. Bởi vì con người là nhân tố chủ động, có đầy đủ khả
năng sử dụng các nhân tố khác, gắn kết các nhân tố đó tạo thành một tổng thể
các nhân tố cần thiết và định hướng tác động của mọi nhân tố vào mục tiêu phát
triển đất nước. Nhưng thực tế cho thấy chúng phụ thuốc vào khả năng khai thác
10


của con người. Ở một số nước, điều kiện tự nhiên thuận lợi làm cho đấtnước
giàu mạnh, còn ở một số đất nước khác điều kiện tự nhiên cũng tương tự hoặc
còn thuận lợi hơn, nhưng đất nước ngày càng nghèo nàn, kiệt quệ và nguồn tài
nguyên ngày càng trở nên khan hiếm, cạn kiệt. Bởi vì trường hợp thứ nhất, con
người sử dụng và tái tạo thiên nhiên; còn trường hợp thứ hai: Con người tước
đoạt thiên nhiên, biến nó thành hoang mạc.
Vốn ban đầu – tiền tệ - là nhân tố quan trọng trong sự phát triển của bất
cứ mỗi tổ chức, doanh nghiệp, quốc gia nào. Nhưng Các Mác đã chỉ ra rằng, tiền
tệ chỉ trở thành tư bản thông qua sức lao động của người lao động vì nhờ đó tạo
ra giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Sở dĩ nguồn lực con người – người lao động có vai trò quyết định các
nhân tố, nguồn lực của sự phát triển trước hết là do năng lực sáng tạo, trí tuệ của
bản thân người lao động.
Tóm lại, người lao động là nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự phát triển các
hình thái kinh tế xã hội. Người lao động làm lực lượng sản xuất biến đổi, quan
hệ sản xuất biến đổi, dẫn đến kiến trúc thượng tầng thay đổi và các hình thái
kinh tế xã hội cũng thay đổi theo. Nhân tố con người là động lực của sự phát
triển sản xuất xã hội, nhân tố quan trọng của sự phát triển nhanh và bền vững.

11



12


CHƯƠNG II:
SỰ PHÁT TRIỂN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ NĂM 1994
ĐẾN NAY VỀ VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG
I. HỆ THỐNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ NĂM 1994
ĐẾN NAY LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
1. Những quy định chung
1.

- Bộ Luật Lao động 1994
- Luật của Quốc Hội số 35/2002/QH10 gày 04 tháng 4 năm 2002 về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Lao động
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật lao động ngày 29 tháng 11
năm 2006.
- Luật số: 84/2007/QH11 sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Bộ Luật Lao động
- Bộ luật lao động năm 2012.
2. Nghị định số 53/2014/NĐ-CP ngày 26/5/2014 của Chính phủ quy định
việc cơ quan quản lí nhà nước lấy ý kiến tổ chức đại diện người lao động, tổ
chức đại diện người sử dụng lao động trong việc xây dựng chính sách, pháp luật
về lao động và những vấn đề về quan hệ lao động.
3. Nghị định số 05/2015/NDD-CP ngày 12/1/2015 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động.
2. Việc làm
4. Luật việc làm năm 2013.
5. Nghị định số 196/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 Chính phủ quy định
thành lập và hoạt động của trung tâm dịch vụ việc làm.

6. Nghị định số 03/2014/NĐ-CP ngày 16/01/2014 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của bộ luật lao động về việc làm.
3. Hợp đồng lao động
7 Nghị định số 44/2013/NĐ-CP ngày 10/05/2013 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của bộ luật lao động về hợp đồng lao động.
8. Thông tư số 30/2013/TT-BLĐTBXH ngày 25/10/2013 của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều của nghị định số
13


44/2013/NĐ-CP ngày 10/05/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của bộ luật lao động về hợp đồng lao động.
4. Cho thuê lại lao động
9. Nghị định số 55/2013/NĐ-CP ngày 22/05/2013 của Chính phủ quyđịnh
chi tiết thi hành khoản 3 điều 54 của bộ luật lao động về việc cấp phép hoạt
động cho thuê lại lao động, việc kí quỹ và danh mục công việc được thực hiện
cho thuê lại lao động.
10. Thông tư số 01/2014/TT-BLĐTBXH ngày 08/01/2014 của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số
điều của nghị định số 55/2013/NĐ-CP ngày 22/05/2013 của Chỉnh phủ quy định
chi tiết thi hành khoản 3 điều 54 của bộ luật lao động về việc cấp phép hoạt
động cho thuê lại lao động, việc kí quỹ và danh mục công việc được thực hiện
cho thuê lại lao động.
5. Quy chế dân chủ cơ sở ở nơi làm việc
10. Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 của Chính phủ quy định
chi tiết khoản 3 điều 63 của bộ luật lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở tại nơi làm việc.
11. Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/1/2015 của Chỉnh phủ về thực
hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự
nghiệp công lập.

6. Tiền lương
12. Nghị định số 49/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của bộ luật lao động về tiền lương.
13. Nghị định số 50/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 của Chính phủ quy định
quản lí lao động, tiền lương và tiền thưởng đối với người lao động làm việc
trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu.
14. Thông tư số 18/2013/TT-BLĐTBXH ngày 09/09/2013 của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện quản lí lao động, tiền lương
và tiền thưởng đối với người lao động trong công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu.
15. Thông tư số 43/2013/ TT-BLĐTBXH ngày 30/12/2013 của Bộ Lao
14


động Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện quản lý lao động, tiền lương,
thù lao và tiền thưởng trong các tổ chức được thành lập và hoạt động theo mô
hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu
theo quy định của luật chứng khoán.
16. Nghị định số 51/2013/ NĐ-CP ngày 14/5/2013 của Chính phủ quy
định chế độ tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với thành viên hội đồng thành
viên hoặc Chủ tịch công ty, Kiểm soát viên, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, Phó
Tổng giám đốc hoặc Phó giám đốc, kế toán trưởng trong công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu.
17. Thông tư số 221/2013/ TT-BTCngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính
hướng dẫn việc trích lập, quản lí quỹ tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với
kiểm soát viên và người đại diện vốn nhà nước theo quy định tại Nghị định số
51/2013/ NĐ-CP ngày 14/5/2013 của Chính phủ.
18. Thông tư số 19/2013/ TT-BLĐTBXH ngày 09/9/2013 của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện chế độ tiền lương, thù lao,
tiền thưởng đối với thành viên hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, kiểm

soát viên, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, Phó Tổng giám đốc hoặc Phó giám
đốc, Kế toán trưởng trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà
nước làm chủ sở hữu.
7. Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và an toàn lao động, vệ
sinh lao động
19. Nghị định số 45/2013/ NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của bộ luật lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi và an toàn lao động, vệ sinh lao động.
20. Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 27/9/2013
của Bộ Y tế-Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quy định tỷ lệ tổn thương cơ
thể do thương tích, bệnh, tật và bệnh nghề nghiệp (không kèm theo phụ lục).
21. Thông tư số 44/2013/TT-BYT ngày 24/12/2013 của Bộ Y tế bổ sung
bệnh bụi phổi-talc nghề nghiệp vào danh mục bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm
và hướng dẫn chuẩn đoán, giám định.
22. Thông tư số 14/2013/ TT-BYT ngày 06/5/2013 của Bộ Y tế hướng dẫn
khám sức khỏe.
15


23. Thông tư số 25/2013/ TT-BLĐTBXH ngày 18/10/2013 của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện chế độ bồi dưỡng bằng hiện
vật đối với người lao động làm việc trong điều kiện có yếu tố nguy hiểm, độc
hại.
24. Thông tư số 04/2014/ TT-BLĐTBXH ngày 12/2/2014 của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện chế độ trang bị phương tiện
bảo vệ cá nhân (không kèm theo phụ lục).
25. Thông tư số 05/2014/ TT-BLĐTBXH ngày 06/3/2014 của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội ban hành danh mục máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu
nghiêm ngặt về an toàn lao động.
26. Thông tư số 06/2014/ TT-BLĐTBXH ngày 06/3/2014 của Bộ Lao

động Thương binh và Xã hội quy định hoạt động kiểm định kỹ thuật an toàn lao
động đối với máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động
thuộc trách nhiệm quản lý của bộ lao động thương binh và xã hội (không kèm
theo phụ lục).
27. Thông tư số 73/2014/TT-BTC ngày 30/5/2014 của Bộ Tài chính quy
định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí kiểm định máy, thiết bị,
vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động; phí đánh giá điều kiện hoạt
động kiểm định và lệ phí cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định
kỹ thuật an toàn lao động.
28. Thông tư số 27/2013/ TT-BLĐTBXH ngày 18/10/2013 của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội quy định về công tác huấn luyện an toàn lao động,
vệ sinh lao động (không kèm theo phụ lục).
29. Thông tư 09/2000/TT-BYT ngày 28/4/2000 của Bộ Y tế hướng dẫn
chăm sóc sức khỏe người lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
30. Thông tư 04/2015/TT-BLĐTBXH ngày 02/2/2015 của Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội hướng dẫn việc thực hiện chế độ bồi thường, trợ cấp và
chi phí của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp.
31. Thông tư 12/2006/TT-BYT ngày 10/11/2006 của Bộ Y tế hướng dẫn
khám bệnh nghề nghiệp.
32. Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT- BLĐTBXH-BYT ngày
10/1/2011 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội-Bộ Y tế về hướng dẫn tổ
16


chức thực hiện công tác an toàn – vệ sinh lao động trong cơ sở lao động.
33. Thông tư 19/2011/TT-BYT ngày 06/6/2011 của Bộ Y tế hướng dẫn
quản lý vệ sinh lao động, sức khỏe người lao động và bệnh nghề nghiệp.
34. Thông tư liên tịch số 12/2012/TTLT- BLĐTBXH-BYT ngày
21/5/2012 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội-Bộ Y tế về việc hướng dẫn

khai báo, điều tra, thống kê và báo cáo tai nạn lao động.
35. Thông tư 20/2013/TT-BCT ngày 05/8/2013 của Bộ Công thương quy
định về kế hoạch và biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất trong lĩnh
vực công nghiệp.
36. Thông tư 07/2014/TT-BLĐTBXH ngày 06/3/2014 của Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội ban hành 27 quy trình kiểm định kỹ thuật an toàn đối với
máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động thuộc trách
nhiệm quản lý của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.
37. Thông tư 31/2014/TT-BCT ngày 02/10/2014 của Bộ Công thương về
việc quy định chi tiết một số nội dung về an toàn điện.
38. Thông tư 36/2014/TT-BCT ngày 22/10/2014 của Bộ Công thương
quy định về huấn luyện kỹ thuật an toàn hóa chất và cấp giấy chứng nhận huấn
luyện kỹ thuật an toàn hóa chất.
8. Lao động nữ
39. Thông tư số 26/2013/TT-BLĐTBXH ngày 18/10/2013 của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội ban hành danh mục công việc không sử dụng lao
động nữ.
9. Lao động là người chưa thành niên
40. Thông tư số 10/2013/ TT-BLĐTBXH ngày 10/6/2013 của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội ban hành danh mục các công việc và nơi làm việc
cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên.
41. Thông tư số 11/2013/ TT-BLĐTBXH ngày 11/6/2013 của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội ban hành danh mục công việc nhẹ được sử dụng
người dưới 15 tuổi làm việc.
10. Lao động là người giúp việc gia đình
42. Nghị định số 27/2014/ NĐ-CP ngày 07/4/2014 của Chính phủ quy
17


định chi tiết thi hành một số điều của bộ luật lao động về lao động là người giúp

việc gia đình.
11. Lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
43. Nghị định số 102/2013/ NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của bộ luật lao động về lao động nước ngoài
làm việc tại Việt Nam.
44. Thông tư số 03/2014/ TT-BLĐTBXH ngày 20/1/2014 của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều của nghị định số
102/2013/ NĐ-CP ngày 05/9/2013 của chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của bộ luật lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
12. Tranh chấp lao động, đình công
45. Nghị định số 46/2013/ NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của bộ luật lao động về tranh chấp lao động
46. Thông tư số 08/2013/ TT-BLĐTBXH ngày 10/6/2013 của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội hướng dẫn nghị định số 46/2013/ NĐ-CP ngày
10/5/2013 của chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của bộ luật lao
động về tranh chấp lao động.
47. Nghị định số 41/2013/ NĐ-CP ngày 8/5/2013 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành điều 220 của bộ luật lao động về danh mục đơn vị sử dụng lao
động không được đình công và giải quyết yêu cầu của tập thể lao động ở đơn vị
sử dụng lao động không được đình công.
13. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động
48. Nghị định số 95/2013/ NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và
đưa người lao động việt nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
14. Luật Công đoàn 2012
49. Nghị định số 43/2013/ NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành điều 10 của luật công đoàn về quyền, trách nhiệm của công
đoàn trong việc đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
lao động.
50. Nghị định số 191/2013/ NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy

18


định chi tiết về tài chính công đoàn.
51. Nghị định số 200/2013/ NĐ-CP ngày 26/11/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành điều 11 luật công đoàn về quyền, trách nhiệm của công
đoàn trong việc tham gia quản lí nhà nước, quản lí kinh tế-xã hội.
II. ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ UYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
TỪ NĂM 1994 ĐẾN NAY.
Về cơ bản, pháp luật Việt Nam đã phù hợp với quy định của nhiều điều
ước quốc tế về quyền của người lao động. Các bản Hiến pháp của Việt Nam từ
trước tới nay, Bộ luật Lao động cùng các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn
bản pháp luật liên quan đều ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền làm việc, tự do lựa
chọn việc làm và các quyền cơ bản khác của người lao động, chẳng hạn như:
- Bộ luật Lao động quy định rằng, mọi người có quyền làm việc, tự do lựa
chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp; cấm
ngược đãi và cưỡng bức người lao động (Điều 5). Cũng theo quy định của pháp
luật thì người lao động là người đủ 15 tuổi trở lên có khả năng lao động. Thời
gian làm việc của người lao động không quá 8 giờ trong một ngày, 48 giờ trong
một tuần. Tuy nhiên, người lao động và người sử dụng lao động có thể thỏa
thuận làm thêm giờ nhưng không được quá 4 giờ trong một ngày và 200 giờ làm
việc trong một năm. Để đảm bảo quyền của người lao động cũng như quyền của
người sử dụng lao động, pháp luật cũng có các quy định về điều kiện lao động,
chế độ tiền lương… Người lao động được trả lương theo thỏa thuận được ghi
trong hợp đồng lao động, mức lương mà người lao động được hưởng không thấp
hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định trong từng thời điểm cụ thể.
Ngoài ra, người lao động và người sử dụng lao động có thể thỏa thuận làm thêm
giờ và lương của thời gian làm thêm giờ ít nhất bằng 150% của giờ làm việc
trong ngày bình thường. Người sử dụng lao động có nghĩa vụ trang bị đầy đủ

phương tiện bảo hộ lao động, bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải
thiện điều kiện lao động cho người lao động.
- Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng có quy định xử lý nhiều hành vi vi phạm
19


pháp luật trong lĩnh vực lao động, chẳng hạn như tội sa thải người lao động trái
pháp luật (Điều 162); tội xâm phạm quyền bình đẳng giới ở nhiều lĩnh vực trong
đó có lĩnh vực lao động (Điều 165); tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216); tội vi phạm quy định về
an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người (Điều
295); tội cưỡng bức lao động (Điều 297)… Những quy định này góp phần tăng
cường, bảo đảm tốt hơn quyền của người lao động tại Việt Nam, phù hợp với
các tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế về quyền của người lao động.
- Đối với những nội dung liên quan đến xóa bỏ lao động cưỡng bức, lao
động trẻ em, xóa bỏ phân biệt đối xử trong lao động, Việt Nam đã và đang triển
khai một số chương trình hành động quốc gia để thực thi các tiêu chuẩn trên
trong thực tiễn. Để tương thích với các tiêu chuẩn của ILO cũng như để bảo đảm
tốt hơn các quyền cơ bản của người lao động, Việt Nam khẳng định sẽ tiếp tục
hoàn thiện luật pháp và các cơ chế liên quan như: áp dụng chế tài hình sự đối
với hành vi sử dụng lao động cưỡng bức hoặc lao động bắt buộc; cấm phân biệt
đối xử về mọi khía cạnh của việc làm và nghề nghiệp; bảo đảm quyền tiếp cận
việc làm bình đẳng của phụ nữ, bãi bỏ quy định cấm phụ nữ tham gia vào một số
ngành nghề, công việc cụ thể...
Bên cạnh đó, liên quan đến quyền tự do thành lập, gia nhập tổ chức đại
diện của người lao động theo quy định của pháp luật quốc tế nói chung và theo
cam kết của Việt Nam khi tham gia TPP nói riêng, chúng tôi cho rằng pháp luật
Việt Nam cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thêm. Sở dĩ có ý kiến này
bởi vì pháp luật hiện hành chưa có quy định điều chỉnh về Tổ chức của người
lao động (Labour Union), chẳng hạn như vấn đề: Việc thành lập và gia nhập “Tổ

chức của người lao động” ở cấp doanh nghiệp (thủ tục đăng ký với cơ quan nhà
nước đối với những tổ chức này, việc bầu ra ban chấp hành, thông qua điều lệ và
nội quy...) và sau này là ở cấp ngoài doanh nghiệp; Quản lý hoạt động đối với tổ
chức này; Sự tham gia của tổ chức của người lao động vào các cơ chế đối thoại,
thương lượng, đình công ở một doanh nghiệp như thế nào, đặc biệt ở những nơi
có thể có hơn một tổ chức công đoàn/tổ chức của người lao động. Như vậy, theo
20


quy định của ILO cũng như của TPP (TPP không có quy định khác mà nhắc lại
các quyền tự do liên kết, thương lượng của người lao động đã được ILO quy
định) thì người lao động tại cơ sở có thể lựa chọn gia nhập Tổng Liên đoàn lao
động Việt Nam hoặc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được
chính thức hoạt động và sẽ chỉ được hoạt động sau khi được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền chấp nhận đăng ký theo một quy trình minh bạch và được quy
định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật. Tổ chức của người lao động,
sau khi hoàn thành việc đăng ký, sẽ có một số quyền tự chủ phù hợp với cam kết
quốc tế của Việt Nam và pháp luật Việt Nam. ILO luôn nhấn mạnh việc tất cả
các tổ chức của người lao động phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của nước sở
tại cũng như phải hoạt động phù hợp với tôn chỉ, mục đích và phương thức hoạt
động đã được đăng ký. Tôn chỉ, mục đích hoạt động của tổ chức của người lao
động phải bảo đảm theo đúng các tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế là để đại
diện, bảo vệ cho các quyền và lợi ích của người lao động tại doanh nghiệp mà
họ làm việc thông qua các hình thức tương tác được quy định trong pháp luật
bao gồm đối thoại, thương lượng tập thể, đình công và các hành động tập thể
khác trong quan hệ lao động. Các tổ chức của người lao động không được phép
tiến hành bất cứ hoạt động nào có khả năng xâm hại đến an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội cũng như không được tham gia bất cứ hoạt động nào ngoài tôn
chỉ mục đích đã đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ nhất, đã thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành hệ thống

chính sách, pháp luật về lao động.
Bộ luật Lao động năm 1994 là nền tảng đánh dấu bước phát triển quan
trọng của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực lao động, trong đó đã thể chế hóa
đường lối đổi mới của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992
về lao động, về sử dụng lao động và quản lý lao động, đề cập đến các nội dung
trước, trong và sau quá trình lao động như về việc làm, dạy nghề, hợp đồng lao
động, tiền lương, an toàn, vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội... Vấn đề cơ bản
nhất của Bộ luật Lao động năm 1994 là đã chuyển quan hệ phân phối việc làm
sang quan hệ hợp đồng lao động và hình thành các bên đại diện trong quan hệ
21


lao động. Trên cơ sở các chương trong Bộ luật Lao động, các luật chuyên ngành
tiếp tục làm rõ hơn, cụ thể hơn các nội dung của Bộ luật Lao động như Luật Dạy
nghề (sau này là Luật Giáo dục nghề nghiệp), Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm xã
hội, Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, dự án Luật
An toàn, vệ sinh lao động đã được ban hành và một số dự án luật tiếp tục được
nghiên cứu như Luật Tiền lương tối thiểu, Luật Quan hệ lao động, Luật Công
đoàn... Trên cơ sở thực tiễn và yêu cầu hội nhập quốc tế, Bộ luật Lao động năm
2012 đã được sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật, trong đó quy định cụ
thể về hợp đồng lao động, tiền lương và chú trọng nhiều hơn đến các nội dung
về quan hệ lao động như đối thoại lao động tại nơi làm việc, thương lượng, ký
kết thỏa ước lao động tập thể.
Thứ hai, công tác quản lý nhà nước về lao động tiếp tục được tăng cường.
Ngoài việc nghiên cứu, báo cáo Chính phủ để trình Quốc hội ban hành Bộ
luật Lao động và các luật chuyên ngành nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội đã chủ trì, trình Chính phủ ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn
thực hiện. Đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp
luật, tập huấn nghiệp vụ để các đối tượng, nhất là người lao động, người sử dụng
lao động, người làm công tác lao động hiểu và tổ chức thực hiện các quy định

của pháp luật lao động. Củng cố và tăng cường năng lực của hệ thống thanh tra
lao động từ trung ương xuống địa phương, tăng cường việc thanh tra, kiểm tra,
giám sát việc thi hành pháp luật. Qua thanh tra, kiểm tra phát hiện các quy định
chưa phù hợp để tổng hợp, báo cáo sửa đổi, bổ sung kịp thời đáp ứng yêu cầu
tình hình thực tiễn. Đồng thời phát hiện sai phạm tùy mức độ để nhắc nhở, uốn
nắn hoặc xử phạt nhằm nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật lao động của người
sử dụng lao động và người lao động.
Thứ ba, hệ thống chính sách, pháp luật về lao động được ban hành và áp
dụng trong thực tiễn đã góp phần tăng việc làm cho người lao động, thúc đẩy thị
trường lao động phát triển, tăng cường kết nối cung - cầu lao động, nâng cao
chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động,
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động.
22


Hình thành mối quan hệ lao động ở nhiều cấp độ theo hướng hài hòa và ổn định,
giải quyết hiệu quả tranh chấp trong quan hệ lao động giữa các bên và tăng
cường mạng lưới an sinh đối với người lao động.
Về việc làm: Luật Việc làm năm 2013 đã quy định rõ các chính sách về hỗ
trợ tạo việc làm, về thông tin thị trường lao động, về đánh giá cấp chứng chỉ
nghề quốc gia, về tổ chức, hoạt động dịch vụ việc làm và về bảo hiểm thất
nghiệp. Chuyển từ bị động sang việc chủ động tạo việc làm và hướng đến việc
làm có chất lượng (việc làm có chuyên môn kỹ thuật và thu nhập cao) thông qua
việc hỗ trợ tạo việc làm: chính sách tín dụng ưu đãi tạo việc làm, chính sách hỗ
trợ chuyển dịch việc làm đối với người lao động ở khu vực nông thôn, chính
sách việc làm trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và các chính sách hỗ trợ
khác (hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, hỗ trợ
tạo việc làm cho thanh niên, hỗ trợ phát triển thị trường lao động). Các chế độ
bảo hiểm thất nghiệp ngoài trợ cấp thất nghiệp còn có các hoạt động hỗ trợ tư
vấn, giới thiệu việc làm; hỗ trợ học nghề; hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao

trình độ kỹ năng nghề tạo cơ hội cho người lao động sớm có việc làm mới tham
gia vào thị trường lao động.
Về dạy nghề: Luật Dạy nghề năm 2006 được thay thế bằng Luật Giáo dục
nghề nghiệp năm 2014 đã hướng vào việc hình thành và phát triển hệ thống cơ
sở dạy nghề theo các cấp trình độ có trang thiết bị hiện đại, các giáo trình tiên
tiến và đội ngũ giáo viên đạt trình độ tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu của doanh
nghiệp, của thị trường lao động, góp phần nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đến
hết năm 2014, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 36,1%, phấn đấu đến năm
2020, tỷ lệ qua lao động đào tạo nghề đạt 55%.
Về hợp đồng lao động, tiền lương và quan hệ lao động, trong Bộ luật Lao
động đã quy định theo hướng đa dạng hóa hình thức hợp đồng lao động, khuyến
khích việc quy định chi tiết, đầy đủ các nội dung trong hợp đồng lao động. Quy
định rõ quyền, nghĩa vụ mỗi bên trong việc thực hiện, hình thành cơ chế thỏa
thuận tiền lương thông qua hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và nội
23


quy, quy chế của doanh nghiệp; khuyến khích trả lương cao cho lao động kỹ
thuật, lao động có chuyên môn cao theo nhu cầu doanh nghiệp và mặt bằng tiền
công trả trên thị trường. Có lộ trình điều chỉnh tăng dần mức lương tối thiểu để
bảo đảm đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ, điều
chỉnh quan hệ lao động giúp việc gia đình, quan hệ cho thuê lại lao động nhằm
vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động vừa sử sụng hiệu quả
nguồn lao động cũng như tạo sự linh hoạt của thị trường lao động. Tăng cường
đối thoại, thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể ở nhiều cấp độ, tăng
cường vai trò của hòa giải viên, hội đồng trọng tài trong việc giải quyết tranh
chấp lao động, hướng việc tranh chấp đình công theo trình tự pháp luật.
Về an toàn, vệ sinh lao động: dự thảo Luật An toàn, vệ sinh lao động
thông qua tại kỳ họp thứ 9 theo hướng quy định rõ trách nhiệm của người sử

dụng lao động trong việc bảo đảm điều kiện lao động, an toàn cho người lao
động cũng như trách nhiệm của người lao động với vấn đề này. Nâng cao nhận
thức và hành động vì môi trường lao động an toàn không chỉ trong khu vực có
quan hệ lao động mà cả khu vực phi chính thức, không chỉ ở doanh nghiệp có
quy mô mà cả doanh nghiệp nhỏ và vừa và khu vực nông, lâm, ngư nghiệp.
Tăng trợ giúp cho người bị tai nạn lao động bằng nhiều hình thức như chi phí
điều trị, phục hồi chức năng, trợ cấp sinh hoạt, trợ cấp đào tạo nghề... Tăng
cường công tác kiểm định máy móc, công cụ, tăng cường huấn luyện về an toàn
lao động cho các loại hình doanh nghiệp, trong đó tập trung trước hết vào các
doanh nghiệp, khu vực, ngành nghề có nguy cơ về mất an toàn lao động, dễ xảy
ra tai nạn lao động.
Về bảo hiểm xã hội: Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã đề cập khá rõ
nhiệm vụ mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện,
trong khu vực có quan hệ lao động và khu vực chưa có quan hệ lao động; hỗ trợ
kinh phí tham gia bảo hiểm xã hội cho một số đối tượng; nâng cao nhận thức
của người lao động về trách nhiệm tham gia bảo hiểm xã hội, tức là tích lũy, tiết
kiệm để bảo đảm lương hưu khi không còn khả năng lao động; bổ sung hình
thức bảo hiểm hưu trí bổ sung để đáp ứng nhu cầu của người dân; sửa đổi chính
24


sách để bảo đảm an sinh xã hội khi tuổi già và góp phần bảo đảm cân bằng Quỹ
Bảo hiểm xã hội. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành
chính, rút ngắn thời gian giao dịch bảo hiểm xã hội, tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, nâng cao trách nhiệm của các
công chức, viên chức, người lao động ngành bảo hiểm xã hội trong việc phục vụ
đối tượng; đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc
bảo đảm chất lượng, tính chuyên nghiệp cũng như mức phí chi trả hợp lý.
Thứ tư, hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nước cơ bản phù hợp với
các Công ước về Quyền con người của Liên hợp quốc và công ước của Tổ chức

lao động quốc tế (ILO) mà Việt Nam đã phê chuẩn, tạo điều kiện, thúc đẩy quá
trình hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế của Việt Nam cũng như tham gia ký
kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương thúc đẩy quá trình hội
nhập của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc
tế quan trọng, cốt lõi về quyền con người; 20 công ước của ILO trong đó có 6
công ước cơ bản và 2 công ước cơ bản còn lại đã được đặt ra để nghiên cứu,
đánh giá và sẽ ký kết khi điều kiện cho phép. Trong quá trình thực thi, Việt Nam
cũng thường xuyên đánh giá, báo cáo theo nghĩa vụ của nước thành viên, trên cơ
sở đó thường xuyên bổ sung, sửa đổi và điều chỉnh luật pháp quốc gia để phù
hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng bước phù hợp
với luật pháp quốc tế.
Thứ năm, nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của người lao động được
nâng lên, vai trò của tổ chức công đoàn, nhất là công đoàn cơ sở trong việc đại
diện kiến nghị yêu cầu người sử dụng lao động tôn trọng và thực hiện đúng quy
định pháp luật lao động ở nhiều nơi được khẳng định và đã bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người lao động, Thông qua việc tuân thủ pháp luật lao động, nội
quy, quy chế của doanh nghiệp nên đã tạo phong cách làm việc của người lao
động từng bước mang tính chuyên nghiệp, tác phong công nghiệp. Cùng với
việc nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, năng suất lao động của nhiều
người lao động, nhiều doanh nghiệp được nâng lên và dần tiếp cận với năng suất
25


×