Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố hà nội (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.24 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN CHUNG

VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƯỜI Ở GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ ĐIỀU TRA VỤ
ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

TÓM TĂT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã
hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn

Phản biện 1: Hoàng Văn Tú
Phản biện 2: Vũ Thư

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận
thạc sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội 10 giờ 50 phút
ngày 08 tháng 08 năm 2015



Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa
học xã hội


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác
dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc
sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do
cơ bản của con người [15]. Quyền con người được bảo đảm bởi pháp lý,
nhằm bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động làm
tổn hại đến nhân phẩm, sự tự do cơ bản của con người và những gì mà
con người được phép hưởng thụ. Quyền con người là quyền tự nhiên vốn
có của con người, được Nhà nước công nhận và bảo vệ bằng pháp luật, bằng
các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Vai trò của
luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án
hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” để nghiên cứu làm luận văn tốt
nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài: “ Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai
đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” là
một trong những đề tài khoa học mang tính thời sự, cấp thiết và tính nhân
văn sâu sắc. Quyền con người là một phạm trù đa diện, đòi hỏi cách tiếp
cận và nghiên cứu đa ngành, liên ngành, song tiếp cận và nghiên cứu luật
học là một hướng chính. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về

QCN, về vai trò của luật sư trong việc bảo vệ QCN với những góc độ và
mức độ khác nhau

1


3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở
giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự và thực tiễn thực hiện tại thành
phố Hà Nội, luận văn đưa ra các giải pháp bảo đảm thực hiện tốt hơn nữa
vai trò bảo vệ quyền con người của luật sư trong giai đoạn khởi tố điều
tra vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của
luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án
hình sự;
Thứ hai, phân tích những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
về vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự;
Thứ ba, làm rõ thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn
khởi tố điều tra vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội, chỉ ra những kết quả
đạt được, hạn chế và nguyên nhân của nó.
Thứ tư, đề xuất các giải pháp nâng cao và phát huy vai trò bảo vệ

quyền con người của luật sư trong giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

2


Về đối tượng nghiên cứu của luận văn này tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng vai trò của luật sư trong bảo
vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn
tại thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về vai trò của luật sư trong bảo vệ
QCN ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự. Luận văn chỉ nghiên cứu
vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền con người của người bị buộc
tội và quyền con người của Người bị hại, Nguyên đơn dân sự, Bị đơn dân
sự, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự (gọi tắt là
đương sự) , trong đó, nhấn mạnh đến vai trò của luật sư trong bảo vệ
QCN ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự của người bị bắt, Người
bị tạm giữ, bị can vì, Đây là những đối tượng mà quyền và lợi ích hợp
pháp của họ dễ bị xâm hại nhất. Luận văn không nghiên cứu vai trò của
luật sư trong bảo vệ quyền con người của những người tiến hành cũng
như người tham gia tố tụng khác như bị cáo, người làm chứng v.v.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà

nước ta về bảo vệ quyền con người, quyền công dân
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng đó là: Phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, lịch sử và khảo sát thực tiễn...để giải quyết
những vấn đề đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

3


Luận văn góp phần bổ sung lý luận về vai trò của luật sư trong bảo
vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự;
Kết quả nghiên cứu khoa học của luận văn góp phần bổ sung vào
nguồn tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, công tác
giảng dạy tại các trường Đại học, Học viện và các cơ sở đào tạo khác về
luật học, về nghiệp vụ nghề luật sư.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu khoa học của luận văn góp phần
làm thay đổi, nâng cao ý thức pháp luật của chủ thể áp dụng pháp luật
hình sự về vai trò của luật sư trong bảo vệ QCN ở các giai đoạn của tố
tụng hình sự nói chung và đặc biệt là ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án
hình sự nói riêng; nâng cao kỹ năng của luật sư trong việc bảo vệ tối đa
quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng ở các giai đoạn tố tụng khác
nhau của vụ án hình sự nói chung và ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
nói riêng.
7.

Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định pháp luật thể hiện

vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều
tra vụ án hình sự.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện vai trò của luật sư trong bảo vệ
quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự tại thành phố
Hà Nội.

4


Chương 3: Giải pháp nâng cao và phát huy vai trò bảo vệ quyền
con người của luật sư trong giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự tại
thành phố Hà Nội.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT THỂ
HIỆN VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI Ở GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về vai trò của luật sư trong bảo vệ
quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm vai trò của luật sư
Theo Từ điển tiếng việt thì, Vai trò là tác dụng, chức năng trong
sự hoạt động, sự phát triển của cái gì đó. Vai trò xã hội của một người có
nghĩa là người đó phải đảm nhận hay thể hiện đầy đủ các hành vi, nghĩa
vụ, hệ thống chuẩn mực trên cơ sở vị thế của người đó, đồng thời họ
cũng nhận được những quyền lợi xã hội tương ứng với việc thực hiện vai
trò của họ [56]. Vai trò thường dùng để nói về vị trí, chức năng, nhiệm
vụ của một sự vật hiện tương trong bối cảnh và mối quan hệ nào đó. Vai
trò của Luật sư được xác lập một cách khách quan bởi vị thế của Luật sư
trong mối quan hệ với các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng
Từ sự phân tích trên có hiểu: Vai trò của Luật sư trong tố tụng

hình sự là ảnh hưởng, tác động của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của Người bị buộc tội và các đương sự khác trong vụ án hình sự
theo quy định của pháp luật.

5


1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng
bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ
mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản
của con người [18].
Tóm lại: Quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên,
vốn có và khách quan của con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Quyền con người trong tố tụng hình sự là những quyền chỉ dành cho
con người khi họ tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mà nhà nước
có nghĩa vụ phải ghi nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Bảo vệ là chống lại sự xâm phạm để giữ cho được nguyên vẹn. “Bảo
vệ quyền con người” khác với “Bảo đảm quyền con người”. Bảo đảm
quyền con người là làm cho các quyền đó được thực hiện theo quy định của
pháp luật. Còn bảo vệ quyền con người giữ cho các quyền này không bị
xâm phạm.
Như vậy: Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là giữ cho các
quyền của con người khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự không
bị xâm phạm, nếu đã bị xâm phạm thì yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng khôi phục lại, khắc phục, bồi thường oan, sai.
1.1.3. Khái niệm vai trò của Luật sư trong bảo vệ quyền con
người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự,
trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội

phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Như
6


vậy, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bắt đầu từ thời điểm khi cơ quan có
thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó
Cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp điều tra và các biện pháp ngăn
chặn cần thiết để phát hiện, thu thập, củng cố chứng cứ chứng minh tội
phạm và người thực hiện hành vi phạm tội một cách khách quan, toàn
diện và chính xác, đảm bảo cho việc xử lý vụ án được đúng người, đúng
tội, đúng quy định của pháp luật.
Từ sự phân tích trên, trong phạm vi của luận văn này, có thể đưa ra
khái niệm vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn
khởi tố điều tra vụ án hình sự như sau:
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi
tố điều tra vụ án hình sự là ảnh hưởng, tác động của luật sư với tư cách
là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự để giữ cho
các quyền con người của người bị buộc tội (người bị bắt, bị can) và các
đương sự khác (bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án) khi tham gia quan hệ pháp luật
tố tụng hình sự không bị xâm phạm.
Như vậy nội hàm thể hiện vai trò của luật sư trong bảo vệ QCN ở
giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là: Cơ sở pháp lý, địa vị pháp lý
của luật sư được quy định trong BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của luật
sư; Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ và nghĩa vụ của luật sư; Đánh
giá chung, nhìn nhận chung của xã hội về vai trò của luật sư trong các vụ
án nói chung và vụ án hình sự nói riêng.

7



1.2. Sự thể hiện vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai
đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự
Vai trò của Luật sư trong việc bảo vệ QCN trong hoạt động TTHS
không chỉ là yêu cầu tất yếu có tính quy luật của sự phát triển xã hội mà
còn là nhu cầu cấp thiết của công dân và là điều kiện cần thiết để xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Trong tố tụng hình sự, vai trò
của luật sư trong việc bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra
được thể hiện dưới hai hình thức. Cụ thể là:
- Bảo vệ quyền con người của người bị bắt, người bị tạm giữ và bị
can;
- Bảo vệ quyền con người của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
Hoạt động nghề nghiệp của Luật sư bao gồm ba tính chất: trợ giúp,
hướng dẫn và phản biện. Tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư,
thông thường thể hiện ở lĩnh vực tố tụng, đặc biệt là trong TTHS. Điều 58
Bộ luật TTHS hiện hành quy định: “Người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng
mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác
định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị can, bị cáo; giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ”
1.3. Quy định của pháp luật hình sự thể hiện vai trò của luật
sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án
hình sự

8


1.3.1. Quy định về nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự và

quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ và bị can, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án
Cụ thể hóa các quy định trên của Hiến pháp, việc bảo đảm quyền
bào chữa, bảo vệ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân đã được
BLTTHS năm 2003 quy định ngay từ chương 2 về những nguyên tắc cơ
bản, theo đó: “ Người bị tạm giữ, bị can,… có quyền tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có
nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can,… thực hiện quyền bào
chữa của họ theo quy định của Bộ luật này.” Tại chương 4 của BLTTHS
năm 2003 đã quy định chi tiết, cụ thể nguyên tắc cơ bản của chương 2,
theo đó các quyền của Người bị tạm giữ được quy định tại Khoản 2Điều 48, trong đó có quyền: “ d, Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa”; Các quyền của Bị can được quy định tại Khoản 2- Điều 49, trong
đó có quyền: “ e, Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”.
Pháp luật TTHS quy định cho họ phương thức lựa chọn và thay
đổi người bào chữa. Theo quy định tại Điều 57 của BLTTHS năm 2003
về Lựa chọn và thay đổi người bào chữa như sau: “ 1. Người bào chữa
do người bị tạm giữ, bị can,… hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa
chọn”.
Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có các quyền quy định tại các
Khoản 2, 3, Điều 51; Khoản 2- Điều 52, Khoản 2 - Điều 53, Khoản 1Điều 54 nhưng quy định chưa đầy đủ, trong đó không quy định cho

9


những người tham gia tố tụng này quyền: “ Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình”.
1.3.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ của luật sư
Vậy, pháp luật quy định như thế nào về Vai trò của luật sư trong

bảo vệ QCN ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, cơ chế nào để
bảo đảm cho luật sư thực hiện tốt các quyền luật định? Những vấn đề này
sẽ được tác giả nghiên cứu, bàn luận sâu trên cơ sở pháp luật quy định
nhằm làm rõ, nêu bật tác dụng, chức năng của luật sư trong bảo vệ QCN,
quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của Người bị tạm giữ, bị can,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ
án hình sự, cụ thể như sau:
1.3.2.1. Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người của
người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự
- Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự,
trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội
phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án.
Giai đoạn khởi tố vụ án có nhiệm vụ xác định có hay không có
dấu hiệu tội phạm để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, bảo đảm không
một tội phạm nào không bị phát hiện, không một người vô tội nào bị truy
cứu trách nhiệm hình sự oan.

10


Căn cứ khởi tố vụ án hình sự được quy định tại Điều 100 của
BLTTHS năm 2003 như sau: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác
định có dấu hiệu tội phạm” .
Theo quy định tại Khoản 1- Điều 58 của BLTTHS năm 2003 thì
thời điểm Người bào chữa tham gia tố tụng là từ khi khởi tố bị can.
Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 (Bắt người trong
trường hợp khẩn cấp) và Điều 82 (Bắt người phạm tội quả tang hoặc

đang bị truy nã) của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ
khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối
với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết
định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 59 của BLTTHS năm 2003 thì
thời điểm Người bảo vệ quyền lợi của đương sự (Người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án hình sự) được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
2. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có
thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc
biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai
nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải
được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi
nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ,
Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê
chuẩn”.
Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, pháp luật tố tụng hình sự
năm 2003 trao cho luật sư các quyền hạn và nghĩa vụ sau đây để bảo vệ

11


QCN, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp cho Người bị tạm giữ.
Cụ thể như sau:
+ Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ:
+ Được hỏi người bị tạm giữ:
+ Có mặt trong những hoạt động điều tra khác:
+ Xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của
mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa:
+ Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,

người phiên dịch theo quy định của BLTTHS:
+ Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa
từ người bị tạm giữ, người thân thích của người bị tạm giữ hoặc từ cơ
quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ nếu không
thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác:
+ Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu:
+ Gặp người bị tạm giữ:
+ Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng:
Bên cạnh các quyền thì pháp luật TTHS cũng quy định các nghĩa
vụ của luật sư trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự khi tham gia tố tụng
bào chữa cho người bị tạm giữ:
+ Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ
những tình tiết xác định người bị tạm giữ vô tội:
+ Có trách nhiệm giao các tài liệu, đồ vật cho cơ quan tiến hành
tố tụng:

12


+ Giúp người bị tạm giữ về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ:
- Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn
Điều tra vụ án hình sự
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự được bắt đầu từ khi có quyết
định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra
đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều
tra.
Theo quy định của pháp luật, trong giai đoạn điều tra, luật sư có
các quyền và nghĩa vụ sau đây:

+ Có mặt khi hỏi cung bị can: Pháp luật tố tụng hình sự quy định
cho luật sư có quyền có mặt khi hỏi cung bị can nhằm mục đích giúp cho
bị can ổn định về mặt tâm lý, yên tâm về mặt pháp lý, nhằm ngăn chặn,
hạn chế những vi phạm trong quá trình ĐTV hỏi cung bị can như mớm
cung, bức cung, dụ cung, nhục hình; đồng thời thông qua đó luật sư nắm
bắt được các thông tin của vụ án, hiểu rõ hơn và dần dần định hướng cho
quan điểm bào chữa của mình.
+ Hỏi bị can: Nếu ĐTV đồng ý thì luật sư được hỏi bị can; việc
quy định cho luật sư được hỏi bị can giúp cho luật sư nắm bắt, tìm hiểu
được các thông tin, chứng cứ, tình tiết gỡ tội, chứng minh cho bị can
không có tội, hoặc giảm nhẹ TNHS; giúp cho ĐTV, CQĐT có được cái
nhìn khách quan, toàn diện hơn.
+ Có mặt trong những hoạt động điều tra khác: Mặc dù pháp luật
TTHS không quy định cụ thể những hoạt động điều tra khác mà luật sư
có mặt là những hoạt động điều tra nào, do đó, luật sư cần chủ động có

13


đề xuất, kiến nghị để tham gia vào các hoạt động điều tra khác của
CQĐT; việc có mặt của luật sư trong các hoạt động điều tra khác của cơ
quan điều tra có ý nghĩa giúp luật sư hiểu rõ hơn về vụ án, phát hiện
những vi phạm của người tiến hành tố tụng, người tham gia trong các
hoạt động này để từ đó kịp thời có những kiến nghị , đề xuất với cơ quan,
người tiến hành tố tụng khắc phục, sửa chữa.
+ Xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của
mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa:
+ Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm
hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can:
+ Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,

người phiên dịch theo quy định của BLTTHS:
+ Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa
từ bị can, người thân thích của bị can hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân
theo yêu cầu của bị can nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công
tác:
+ Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu:
Trong quá trình tham gia tố tụng bào chữa cho bị can trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự, khi luật sư thu thập được các tài liệu, đồ vật,
tình tiết liên quan đến việc bào chữa thì có quyền giao cho CQĐT, khi
tiếp nhận tài liệu, đồ vật do luật sư giao ĐTV lập biên bản tiếp nhận và
đưa vào hồ sơ vụ án. Trường hợp luật sư đưa ra yêu cầu, nếu thấy yêu
cầu có liên quan đến việc bào chữa thì ĐTV lập biên bản ghi nhận yêu
cầu của người bào chữa.
+ Gặp bị can đang bị tạm giam:

14


+ Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên
quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp
luật:
Quyền được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ
vụ án liên quan đến việc bào chữa của luật sư chỉ phát sinh sau khi Cơ
quan điều tra kết thúc điều tra.
+ Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng:
Bên cạnh các quyền nêu trên thì BLTTHS năm 2003 cũng quy
định các nghĩa vụ của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như
sau:
+ Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ

những tình tiết xác định bị can vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can:
+ Có trách nhiệm giao các tài liệu, đồ vật cho cơ quan tiến hành
tố tụng:
+ Giúp bị can về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ:
+ Không được từ chối bào chữa cho bị can mà mình đã đảm nhận
bào chữa, nếu không có lý do chính đáng:
1.3.2.2. Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người của
người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự
Vậy, pháp luật tố tụng hình sự trao cho luật sư những quyền hạn
gì để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Sau đây là các quyền

15


cụ thể của luật sư được quy định tại Khoản 3, Điều 59 của BLTTHS năm
2003.
+ Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Luật sư có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu nhằm bảo vệ tối
đa quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
+ Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên
quan đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự sau khi kết thúc điều tra
theo quy định của pháp luật
+ Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng
+ Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch theo quy định của BLTTHS với tư cách là Người bảo
vệ quyền lợi của Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự
+ Có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của người mà

mình bảo vệ
Bên cạnh các quyền nói trên thì BLTTHS năm 2003 cũng quy
định các nghĩa vụ của Người bảo vệ quyền lợi của đương sự( Quy định
tại khoản 4, Điều 59), cụ thể như sau:
1.3.3. Đánh giá quy định của pháp luật về vai trò của luật sư
trong việc bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình
sự
- Những bất cập trong quy định về vai trò của luật sư trong việc
bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự đã
được khắc phục trong quy định của BLTTHS năm 2015

16


+ Để phù hợp với Hiến pháp năm 2013, ngoài 03 đối tượng được
bảo đảm quyền bào chữa như hiện hành, BLTTHS năm 2015 bổ sung
“người bị bắt” được bảo đảm quyền bào chữa.
+ Đổi mới quy định về cấp đăng ký bào chữa
+ Bổ sung một số quyền và cơ chế bảo đảm người bào chữa thực
hiện tốt các quyền luật định
+ Quy định cụ thể thủ tục mời, cử người bào chữa
+ Mở rộng các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa
+ Về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác,
người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự
- Những bất cập trong quy định về vai trò của luật sư trong việc
bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự chưa
được khắc phục trong quy định của BLTTHS năm 2015
+ Về quyền của người bào chữa, BLTTHS 2015 quy định họ có
quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị
can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì

mới được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can (điểm b khoản 1 Điều
73). Quy định này vẫn tạo ra “cơ chế xin cho”!
Chương 2
THỰC TIỄN THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG BẢO
VỆ QUYỀN CON NGƯỜI Ở GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ ĐIỀU TRA VỤ
ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Những kết quả đạt được
Theo thống kê chưa đầy đủ từ báo cáo của các TCHNLS hoạt
động năm 2016, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội đã thực hiện được
32.088 dịch vụ pháp lý, trong đó:
17


-

Án hình sự mà các luật sư tham gia bào chữa: 2.324 vụ

việc (trong đó án mời 1.341 vụ, án chỉ định 983 vụ);
-

Án dân sự: 2.237 vụ việc;

-

Án kinh tế: 1.807 vụ việc;

-

Án hành chính: 442 vụ việc;


-

Án lao động: 373 vụ việc;

-

Tư vấn pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh thương mại:

18.063 việc (trong đó có 6.367 vụ việc tư vấn miễn phí);
-

Dịch vụ pháp lý khác: 6.842 vụ việc;

-

Trợ giúp pháp lý miễn phí: 14.588 vụ việc.

Theo báo cáo chưa đầy đủ từ các TCHNLS, năm 2016 luật sư Hà
Nội đã tham gia TGPL 14.588 vụ việc, chủ yếu về lĩnh vực pháp luật
Hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, hôn nhân và gia
đình, Luật bảo hiểm y tế, luật đất đai, bạo lực học đường,….
2.2. Những hạn chế, bất cập
Việc quy định quyền của luật sư gặp người bị tạm giữ, bị can
đang bị tạm giam trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự chưa
được bảo đảm thực hiện. Trên thực tế, luật sư không được gặp riêng
người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam mà chỉ được gặp khi ĐTV vào
lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can.
Việc quy định quyền của luật sư được đọc, ghi chép, sao chụp
những tài liệu trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra chưa được bảo
đảm thực hiện trong thực tế.

2.3. Nguyên nhân

18


Thứ nhất, xuất phát từ bất cập trong quy định của pháp luật tố
tụng hình sự
Một là, quy định về thủ tục cấp Giấy chứng nhận người bào chữa
Theo quy định tại khoản 4 Điều 56 của BLTTHS năm 2003 thì,
trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào
chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa.
Đối với trường hợp tạm giữ người thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ
khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan
đến việc bào chữa.
Cũng theo quy định trên thì thời hạn Cấp giấy chứng nhận người
bào chữa là 03 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa
kèm theo giấy tờ liên quan. Đối với trường hợp tạm giữ người thì trong
thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm
theo giấy tờ liên quan. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động luật sư trong
thời gian qua thì thấy rất hiếm khi Người bào chữa được CQĐT cấp Giấy
chứng nhận người bào chữa theo đúng thời hạn mà điều luật đã quy định
Hai là, quy định về lựa chọn và thay đổi người bào chữa
Theo quy định tại Điều 57 của BLTTHS năm 2003 thì, Người
bào chữa do người bị tạm giữ, bị can,… hoặc người đại diện hợp pháp
của họ lựa chọn.
2.Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can,…..hoặc người
đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều
tra,….. hoặc…….. phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật
sư cử người bào chữa cho họ……………..:


19


a. Bị can,… về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử
hình được quy định tại Bộ luật Hình sự;
b. Bị can,…là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất
Ba là, quy định về quyền được hỏi người bị tạm giữ, bị can của
luật sư
Quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can của luật sư chỉ được thực
hiện, chỉ phát sinh khi có điều kiện là Điều tra viên đồng ý cho luật sư
được hỏi. Như vậy, rõ ràng việc luật sư có được hỏi người bị tạm giữ, bị
can hay không là phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí chủ quan của Điều tra
viên.
Bốn là, quy định về quyền của luật sư có mặt trong những hoạt
động điều tra khác
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 58 của BLTTHS năm
2003 thì, Người bào chữa có quyền có mặt trong những hoạt động điều
tra khác.
Năm là, quy định về quyền gặp người bị tạm giữ; gặp bị can
đang bị tạm giam của luật sư:
Theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 58 của BLTTHS năm
2003 thì, Người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ; gặp bị
can,…đang bị tạm giam.
Sáu là, quy định về quyền của luật sư trong việc Đọc, ghi chép
và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án:
Trong thực tiễn hành nghề luật sư, rất hiếm khi luật sư được sao
chụp, ghi chép, đọc tài liệu trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra mà

20



phải chờ đến khi hồ sơ vụ án được chuyển sang Viện kiểm sát mới được
nghiên cứu, sao chụp.
Bảy là, quy định về thời điểm tham gia tố tụng của luật sư với tư
cách là người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 59 của BLTTHS năm 2003 thì,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham gia tố tụng từ khi khởi
tố bị can.
Thứ hai, xuất phát từ việc thực hiện các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự
Một là, như trên đã nêu và phân tích rằng do xuất phát từ chất
lượng của các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự còn chưa cao, số lượng
các quy định pháp luật về quyền của luật sư còn ít, chưa đầy đủ, thực tiễn
hoạt động hành nghề luật sư đặt ra cần phải bổ sung thêm các quy định
mới về quyền của luật sư, về cơ chế bảo đảm cho các quyền của luật sư
được thực thi có hiệu quả.
Hai là, do trình độ hiểu biết, do nhận thức pháp luật tố tụng hình
sự của ĐTV, cơ quan điều tra về quyền và nghĩa vụ của luật sư còn có
những hạn chế, chưa nhìn nhận, đánh giá đúng về vai trò, vị trí của luật
sư trong việc thực hiện chức năng nghề nghiệp, chức năng xã hội của luật
sư.

21


Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI
TỐ ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Những yêu cầu của Đảng và Nhà nước bảo vệ quyền con
người trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp
Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020, theo đó xác định mục tiêu: “ Xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn
bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật, phát huy vai trò và hiệu lực
của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân”.
Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, theo đó xác định mục tiêu là,
xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo
vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét
xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao [3].
3.2. Tăng cường triển khai các biện pháp thi hành tốt Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 và tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
nhằm nâng cao vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người
22


- Tăng cường các buổi phổ biến nội dung mới của BLTTHS năm
2015 cho đội ngũ luật sư: Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, Trung tâm bồi
dưỡng nghiệp vụ luật sư Việt nam thuộc Liên đoàn luật sư Việt Nam đã
ra Thông báo gửi tới các luật sư, TCHNLS và các cá nhân khác về việc
tổ chức khóa bồi dưỡng về nội dung mới của BLTTHS năm 2015,

3.3. Giải pháp xây dựng đội ngũ luật sư đủ về số lượng và
đảm bảo về chất lượng
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020, theo đó định hướng xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp(luật sư,….) theo hướng đáp ứng
ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu da dạng về hỗ trợ pháp lý của
nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ
trợ tư pháp; kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của các tổ chức xã hội
nghề nghiệp.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, theo đó xác định phướng
hướng, nhiệm vụ là: Xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp; Xây
dựng đội ngũ bổ trợ tư pháp theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm
pháp lý.
3.4. Giải pháp khác
Một là, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật tố tụng hình sự của
ĐTV, CQĐT về quyền và nghĩa vụ của luật sư, nhìn nhận, đánh giá đúng
về vai trò, vị trí của luật sư trong việc thực hiện chức năng nghề nghiệp,
chức năng xã hội của luật sư.
Hai là, nâng cao ý thức, trách nhiệm, sự vô tư, khách quan trong
khi làm nhiệm vụ của ĐTV, của CQĐT
23


×