Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Tính bền vững của việc xây dựng nông thôn mới ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.13 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM QUANG HƢNG

TÍNH BỀN VỮNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

Hà Nội, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM QUANG HƢNG

TÍNH BỀN VỮNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƢƠNG

Chuyên ngành:

Quản lý kinh tế

Mã số:

60 34 04 10


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. BÙI QUANG TUẤN

Hà Nội, năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, em xin chân thành cảm ơn Ban giám
đốc, các khoa, phòng và các giảng viên trong Học viện Khoa học Xã hội đã
tận tình và tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập. Đặc biệt, em xin
gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Bùi Quang Tuấn, người thầy đã trực tiếp
hướng dẫn đề tài cho em với tất cả sự quan tâm và lòng nhiệt tình.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn của mình đến lãnh đạo các Sở, ngành ở tỉnh
Hải Dương, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn quan tâm tạo điều kiện, chia sẻ
động viên tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng luận văn không
thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của quý
thầy, cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Tính bền vững của việc xây
dựng nông thôn mới ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương” là công trình nghiên
cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Bùi Quang Tuấn. Các kết
quả, số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày


tháng

năm 2017

Tác giả luận văn

Phạm Quang Hƣng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÍNH
BỀN VỮNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ................... 6
1.1. Cơ sở lý luận về xây dựng nông thôn mới .............................................. 6
1.2. Các điều kiện bảo đảm xây dựng nông thôn mới bền vững ................... 15
1.3. Kinh nghiệm thực tiễn và bài học kinh nghiệm cho huyện Gia Lộc, tỉnh
Hải Dương trong xây dựng nông thôn mới bền vững. .................................... 19
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VỀ TÍNH BỀN VỮNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƢƠNG ..................24
2.1. Khái quát chung về huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương .............................. 24
2.2. Thực trạng tính bền vững của việc xây dựng nông thôn mới ở huyện Gia
Lộc, tỉnh Hải Dương ....................................................................................... 32
2.3. Đánh giá chung kết quả đạt được, những hạn chế chủ yếu và nguyên nhân
trong quá trình xây dựng nông thôn mới bền vững ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải
Dương .............................................................................................................. 47
2.4. Các vấn đề đặt ra về tính bền vững của việc xây dựng nông thôn mới ở
huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ..................................................................... 49
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆC XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƢƠNG…63

3.1. Quan điểm về xây dựng nông thôn mới bền vững ............................................63
3.2. Định hướng, mục tiêu nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng nông thôn mới
bền vững ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương................................................... 65
3.3. Giải pháp nhằm đảm bảo tính bền vững của việc xây dựng nông thôn mới
ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ................................................................... 66
KẾT LUẬN ................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

KT – XH

Kinh tế - Xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

NTM

Nông thôn mới

MTQG

Mục tiêu quốc gia


PTBV

Phát triển bền vững

TTCN

Tiểu thủ công nghiệp

GD-ĐT

Giáo dục đào tạo

BHYT

Bảo hiểm y tế

BVMT

Bảo vệ môi trường


DANH MỤC BẢNG
STT

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1


Tình hình dân số và số hộ tham gia sản xuất qua các
năm

30

Bảng 2.2

Thực trạng tiêu chí quy hoạch

36

Bảng 2.3

Thực trạng tiêu chí hạ tầng KT-XH

40

Bảng 2.4

Thực trạng chỉ tiêu các nhân tố kinh tế và tổ chức sản
xuất của huyện Gia Lộc

43

Bảng 2.5

Thực trạng tiêu chí VH-XH của huyện Gia Lộc

45


Bảng 2.6

Thực trạng tiêu chí hệ thống chính trị - an ninh xã hội
huyện Gia Lộc

46

Bảng 2.7

Tổng hợp ý kiến điều tra đề nghị thay đổi một số tiêu
chí xây dựng nông thôn mới năm 2016

50

Bảng 2.8

Ảnh hưởng của trình độ cán bộ địa phương đến nhận
thức về xây dựng nông thôn mới ở huyện Gia Lộc
năm 2016

56

Biểu đồ 2.1 Ý kiến thay đổi một số tiêu chí xây dựng nông thôn
mới

50

Biểu đồ 2.2 Huy động các nguồn vốn trên địa bàn huyện Gia Lộc


52


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp và kinh tế nông thôn là bộ phận quan trọng, đóng góp
không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân. Phát triển nông nghiệp, nông thôn nâng
cao đời sống cho nông dân là cơ sở để giữ vững ổn định chính trị - xã hội,
đảm bảo sự phát triển hài hoà và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm đổi mới, phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải
quyết vấn đề nông dân là những lĩnh vực nhận được sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước. Nghị quyết số 26-NQ/TW "Về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn"tại Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã chỉ
rõ: " Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước ...". Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) là một trong những nội dung,
nhiệm vụ quan trọng nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, thực hiện chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH
- HĐH) đất nước.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành “Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới” (Quyết định số 491/QĐTTg ngày 16/4/2009) và “Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông
thôn mới” (Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 06/4/2010), nhằm thống nhất chỉ
đạo việc xây dựng NTM trên cả nước. Kèm theo đó cũng đã chọn được 11 xã
trong cả nước để thí điểm xây dựng NTM. Qua 5 năm triển khai thực hiện
chương trình xây dựng NTM, có những địa phương đã hoàn thành được mục


1


tiêu xây dựng NTM, còn lại các địa phương, nhất là cấp cơ sở đã bộc lộ nhiều
lúng túng, vướng mắc trong quá trình thực hiện và chỉ đạo thực hiện.
Huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương sau 5 năm triển khai thực hiện chương
trình MTQG xây dựng NTM đã trở thành phong trào được cả hệ thống chính
trị và nhân dân địa phương, nhất là người dân ở nông thôn đồng tình ủng hộ,
tích cực tham gia và đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, chương
trình triển khai thực hiện còn chậm so với yêu cầu, một số tiêu chí cũng chưa
thật phù hợp với đặc thù kinh tế - xã hội (KT-XH) của địa phương, một bộ
phận cán bộ đảng viên và nhân dân nhận thức chưa rõ về vị trí, tầm quan
trọng của chương trình cũng như vai trò chủ thể của người dân và cộng đồng
trong xây dựng NTM, bộ máy chỉ đạo, quản lý chưa hoàn thiện, lãnh đạo các
cấp, nhất là ở cơ sở còn lúng túng, vướng mắc trong chỉ đạo thực hiện....
Để khắc phục dần những hạn chế trên đây, đúc rút những bài học kinh
nghiệm cho chương trình MTQG xây dựng NTM tại địa phương, góp phần
thúc đẩy phát triển quá trình xây dựng NTM cho huyện Gia Lộc nói riêng và
tỉnh Hải Dương nói chung, tôi chọn nghiên cứu vấn đề: "Tính bền vững của
việc xây dựng nông thôn mới ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương" làm luận văn
Thạc sĩ quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chương trình MTQG về xây dựng NTM được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu. Ở đây, xin được nêu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
- Tô Xuân Dân, Lê Văn Viện, Đỗ Trọng Hùng (đồng chủ biên) (2013),
Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam: Tầm nhìn mới, tổ chức quản lý mới,
bước đi mới, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Tập thể tác giả phác thảo những yêu
cầu và nhiệm vụ đặt ra cũng như gợi ý cách triển khai về tổ chức phát triển và
xây dựng NTM như: tổ chức xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển nông
thôn; Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với thị trường; Vận dụng mô hình sản


2


xuất kinh doanh đa dạng và tổ chức quản lý phù hợp; Khơi dậy nguồn lực
phát triển mới thông qua ứng dụng khoa học công nghệ và đào tạo nguồn
nhân lực; Tổ chức nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, từ đó
tạo động lực thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn đi lên.
- Nguyễn Quang Minh (2011) “ Phát triển kinh tế hạ tầng kinh tế nông
thôn trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Thanh Hóa
hiện nay” đã trình bày một số cơ sở lý luận về phát triển kết cấu hạ tầng kinh
tế nông thôn. Phân tích thực trạng kết cấu hạ tầng kinh tế nông thôn trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Thanh Hóa thời gian
qua, để thấy được những thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra cần giải
quyết, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu phát triển kết cấu hạ tầng kinh
tế nông thôn tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.
Các công trình trên nghiên cứu chủ yếu về thực trạng, giải pháp xây
dựng NTM. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu riêng nào đi sâu phân
tích tính bền vững của việc xây dựng nông thôn mới cụ thể tại huyện Gia Lộc,
tỉnh Hải Dương để đưa ra các giải pháp hoàn thiện về chính sách cho phù hợp
tình hình thực tế để phát triển KT - XH địa phương theo các mục tiêu định
hướng đề ra. Vì vậy, đề tài “Tính bền vững của việc xây dựng nông thôn
mới ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương” sẽ là công trình nghiên cứu có tính
độc lập với mong muốn sẽ đóng góp thêm những giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả MTQG xây dựng NTM ở huyện Gia Lộc trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đánh giá thực trạng thực hiện xây
dựng nông thôn mới, xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tính bền vững của
việc thực hiện NTM, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo

tính bền vững của việc xây dựng NTM.

3


- Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến tính bền vững
của việc xây dựng NTM.
- Đánh giá thực trạng đảm bảo tính bền vững của việc xây dựng NTM
tại huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo tính
bền vững trong quá trình xây dựng NTM ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Tính bền vững của việc xây dựng NTM ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải
Dương.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: nghiên cứu tại địa bàn huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương
Về thời gian: luận văn nghiên cứu tình hình xây dựng NTM từ năm
2011 - 2016.
Về nội dung: luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng xây dựng NTM,
các yếu tố ảnh hưởng đến tính bền vững của việc thực hiện NTM và một số
giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo tính bền vững của việc xây dựng NTM tại
huyện Gia Lộc trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật lịch sử. Các
tiếp cận của luận văn là nghiên cứu định tính.
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập thông tin: Phương pháp thu thập thông tin thứ

cấp là các thông tin thu thập từ các tài liệu chuyên ngành, nghị quyết, chương
trình của Trung ương và tỉnh Hải Dương, đề án, kế hoạch, báo cáo tổng kết,
tài liệu thống kê của Đảng, chính quyền, tổ chức đoàn thể, ban, ngành....

4


- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu truyền thống như phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp, khái quát hóa…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến
tính bền vững của việc xây dựng NTM.
Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở đánh giá thực trạng tính bền vững của
việc xây dựng nông thôn mới đề xuất các quan điểm, mục tiêu và giải pháp
đảm bảo tính bền vững của việc xây dựng nông thôn mới ở huyện Gia Lộc,
tỉnh Hải Dương.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tính bền vững của việc
xây dựng nông thôn mới
Chương 2: Thực trạng về tính bền vững của việc xây dựng nông thôn
mới ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương
Chương 3: Giải pháp phát triển bền vững của việc xây dựng nông thôn
mới ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.

5


Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÍNH BỀN VỮNG
CỦA VIỆC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Cơ sở lý luận về xây dựng nông thôn mới
1.1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng nông thôn mới
trong giai đoạn hiện nay
Đối với đất nước ta, sự phát triển KT - XH không chỉ phụ thuộc vào sự
phát triển tại các vùng đô thị mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển tại
các vùng nông thôn. Hiện nay, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp với hơn
70% dân cư đang sống ở vùng nông thôn. Nông nghiệp, nông thôn là khu vực
giàu tiềm năng cần khai thác một cách có hiệu quả. Trong mọi thời kỳ, mục
tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta luôn được Đảng và Nhà
nước quan tâm chỉ đạo, phát triển nông nghiệp nông thôn đã, đang và sẽ còn
là mối quan tâm hàng đầu, có vai trò quyết định đối với việc ổn định KT –
XH đất nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác
định mục tiêu :”Xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, văn minh, có
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã
hội phát triển ngày càng hiện đại”.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 đã ban
hành Nghị quyết số 26/TW; Nghị quyết đã nêu một cách tổng quát, toàn diện
quan điểm của Đảng ta về xây dựng NTM; đồng thời đã nêu mục tiêu, nhiệm
vụ cũng như phương thức tiến hành quá trình xây dựng NTM trong giai đoạn
hiện nay phù hợp với điều kiện thực tiễn phát triển của đất nước. Quan điểm
chỉ đạo thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn cũng
được Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục xác định rõ trên những nội
dung chính sau:
Thứ nhất: Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu
quả, bền vững đồng thời với giải quyết tốt các vấn đề về nông dân, nông thôn
trên cơ sở phát huy những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới.
6



Trong điều kiện hiện nay, “phát triển nông nghiệp toàn diện theo
hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững đồng thới với giải quyết tốt các vấn đề về
nông dân, nông thôn”[11, tr.2], theo quan điểm của Đảng cần được hiểu đó là
phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh cao, đồng thời phát triển nông nghiệp cũng tính tới
những yếu tố bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đảm
bảo sự hài hòa về kết cấu hạ tầng KT – XH nông thôn. Theo đó, việc đầu tư
xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật nông thôn, việc phát triển KT - XH
nông thôn, việc tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp phải có định hướng
theo quy hoạch và các chương trình, đề án được phê duyệt. Xây dựng NTM là
xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH hiện đại ở nông thôn, xây dựng cơ cấu kinh
tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển
nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch. Các vấn đề về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình
đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.
Thứ hai: Phát huy vai trò của giai cấp nông dân - chủ thể của quá trình
phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Trong toàn bộ quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn hiện nay,
nông dân luôn giữ vị trí là “chủ thể”, đây là sự khẳng định đúng đắn, cần thiết
nhằm khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của nông dân trong sự nghiệp xây
dựng nông thôn mới trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đồng thời
nhằm bảo đảm những quyền lợi chính đáng của nông dân. Vai trò chủ thể của
nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn thể hiện ở chỗ: Là
người trực tiếp tham gia phát triển kinh tế, tổ chức sản xuất, thực hiện CNH HĐH nông nghiệp, nông thôn, chủ động, sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ
tầng KT-XH ở nông thôn, tích cực tham gia vào quá trình lập quy hoạch và
thực hiện quy hoạch xây dựng NTM; xây dựng và gìn giữ đời sống văn hóa –
xã hội, môi trường, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, đảm bảo an ninh trật tự
xã hội ở nông thôn.
7



Thứ ba: Xây dựng NTM theo hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nông dân. Nhằm khắc phục những hạn chế và
bất cập trong phát triển nông thôn nước ta hiện nay, Đảng ta xác định: “Xây
dựng NTM có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các
hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông thôn với phát triển
nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch” [11, tr.3].
Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi
trường, đảm bảo sự phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể,
vững chắc trong từng giai đoạn, giữ gìn và phát huy những truyền thống văn
hóa tốt đẹp của nông thôn Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi để khai thác
mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các
doanh nghiệp nhỏ và veaf để thu hút nhiều lao động. Những quan điểm về vấn
đề phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong Nghị quyết Đại hội lần
thứ XI của Đảng là sự khẳng định, bổ sung và tiếp tục phát triển chủ trương,
đường lối lãnh đạo đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn được đặt ra từ
Nghị quyết Trung ương 7 khóa X của Đảng. Quan điểm đó của Đảng là sự kế
thừa và phát huy những bài học kinh nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh
toàn dân, huy động mọi nguồn lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp để xây dựng
NTM.
Kết quả của quá trình xây dựng NTM sẽ góp phần thay đổi toàn diện bộ
mặt nông thôn, tạo cơ sở vững chắc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Như vậy, chương trình MTQG về xây dựng NTM là chương trình
mang tính ý nghĩa tổng hợp, sâu rộng, có nội dung toàn diện, bao gồm tất cả
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh - quốc phòng. Do đó,
xây dựng NTM không phải chỉ là nhiệm vụ của nông dân mà được xác định là
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay.


8


1.1.2. Một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới và xây dựng
nông thôn mới bền vững
1.1.2.1. Khái niệm về nông thôn
- “Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành
phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân
dân xã. Là vùng sinh sống của tập hợp dân cư chủ yếu làm việc trong lĩnh vực
nông nghiệp”[11, tr.1]. Như vậy, điều kiện sống và làm việc của dân cư nông
thôn khác với dân cư đô thị, là bộ phận không thể tách rời của dân cư Việt
Nam. Hiện nay, nông thôn nước ta có khoảng 70% dân số sinh sống.
- Hệ thống xã hội nông thôn được xác định theo 3 đặc trưng cơ bản sau:
Về các nhóm giai cấp, tầng lớp xã hội: Ở nông thôn, giai cấp đặc trưng
chủ yếu là nông dân, ngoài ra còn có các tầng lớp lao động khác như nhóm
thợ thủ công, buôn bán nhỏ. Cấp chính quyền quản lý hành chính nông thôn
là ủy ban nhân dân (UBND) xã.
Về lĩnh vực sản xuất: Đặc trưng rõ nét nhất của nông thôn là sản xuất
nông nghiệp và cấu trúc phi nông nghiệp bao gồm: dịch vụ, buôn bán, tiểu thủ
công nghiệp… phục vụ nhu cầu đối với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
Về lối sống, văn hóa cộng đồng: Nông thôn thường rất đặc trưng với lối
sống văn hóa của cộng đồng làng xã. Đặc trưng này bao gồm rất nhiều khía
cạnh như sự giao tiếp, đời sống tinh thần, phong tục, tập quán, giá trị tinh
thần, chuẩn mực đạo đức. Đây là những đặc trưng cơ bản nhất về mặt xã hội
học để nhận diện nông thôn, chính đặc trưng này đã tạo ra bản sắc và diện
mạo riêng cho hệ thống xã hội nông thôn….”Trong mối quan hệ mật thiết
giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình
phát triển” [11, tr.2]. Do đó chủ trương lấy cấp xã làm điểm xuất phát để phát
triển nông thôn là phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tế nước ta hiện nay,
đáp ứng được nguyện vọng của dân cư nông thôn.


9


1.1.2.2. Khái niệm về xây dựng nông thôn mới
“Nông thôn mới là khu vực nông thôn có kết cấu hạ tầng KT - XH từng
bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, xã hội
dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được
bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững, đời sống vật chất và tinh thần ngày
càng được nâng cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[11, tr.3].
Với khái niệm trên ta thấy, xây dựng NTM thời kỳ CNH - HĐH giai
đoạn 2010 - 2020 phải hướng tới Bộ tiêu chí quốc gia về NTM, mang những
đặc trưng riêng và phải đạt 5 mục tiêu cơ bản, đó là:
Một là, nông thôn có làng xã phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ
tầng KT - XH hiện đại, văn minh, sạch đẹp, môi trường sinh thái được bảo vệ.
Hai là, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, bền vững.
Ba là, kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông
thôn ngày càng được nâng cao.
Bốn là, trình độ dân trí vùng nông thôn được nâng nên, bản sắc văn hóa
dân tộc được giữ gìn và phát triển.
Năm là, an ninh, trật tự xã hội nông thôn được đảm bảo quản lý tốt và
dân chủ, chất lượng hệ thống chính trị ngày càng được nâng cao.
Như vậy, “xây dựng NTM không có nghĩa là biến các làng xã thành
các thị tứ, các đô thị hay biến nông dân thành người phi nông nghiệp mà phải
xây dựng nông thôn có hạ tầng kỹ thuật hiện đại, văn minh, sạch đẹp, đồng
thời với việc chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, tạo động lực giúp họ
phát triển KT - XH tại quê hương họ, qua đó thu hẹp khoảng cách giữa đô thị
và nông thôn” [11, tr.4].
Nói cách khác, mục tiêu của chương trình xây dựng NTM tiến tới là
xây dựng nông thôn có kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại nhưng phù hợp với

sản xuất nông nghiệp theo quy hoạch; cơ cấu kinh tế và hình thức tổ chức sản

10


xuất hiện đại gắn với dịch vụ nông nghiệp; áp dụng công nghệ sản xuất nông
nghiệp tiên tiến và đảm bảo môi trường sinh thái bền vững; tiến tới xã hội
nông thôn năng động, hòa nhập môi trường nông nghiệp quốc tế.
Xây dựng NTM, về nguyên tắc không phải là việc đầu tư các dự án do
nhà nước cấp ngân sách, mà trước tiên đó là quá trình xây dựng và phát triển
cộng đồng dựa vào nội lực của cộng đồng, là trách nhiệm và quyền lợi thiết
thực của mỗi người dân nông thôn, là sự nghiệp của toàn dân. Đây là chương
trình phục vụ chính người dân nên người dân phải là chủ thể chính quá trính
thực hiện, UBND cấp xã đại diện chính quyền làm chủ đầu tư các dự án. Các
nguồn lực hỗ trợ bên ngoài cho quá trình xây dựng NTM chỉ có tính chất hỗ
trợ và thúc đẩy các hoạt động xây dựng để phát triển nông thôn, trong

đó

Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần kinh phí. Do đó trong quá trình thực hiện, từ
cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể và mọi người dân cần phải nhận thức
đúng đắn yêu cầu đặt ra để chung tay xây dựng quê hương mình.
Để xây dựng nông thôn có hạ tầng kỹ thuật hiện đại, văn minh, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc theo năm mục tiêu cơ bản nêu trên, ngày 16/4/2009,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM bao gồm 19
tiêu chí. Đây là cơ sở để các Bộ, Ngành, các địa phương định hướng xây dựng
nông thôn trên địa bàn trở thành vùng NTM với đầy đủ 19 tiêu chí nêu trên.
1.1.2.3. Sự khác biệt giữa xây dựng nông thôn trước đây với xây dựng
nông thôn mới hiện nay
Có thể nói, việc xây dựng nông thôn ở nước ta đã được thực hiện từ sau

khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Trước đây, có thời điểm chúng ta
có chủ trương xây dựng mô hình nông thôn theo địa bàn cấp huyện, cấp thôn;
ngày nay chúng ta xây dựng NTM theo địa bàn cấp xã. Sự khác biệt giữa quá
trình xây dựng NTM trước đây với quá trình xây dựng NTM hiện nay ở một
số điểm sau:

11


Thứ nhất, chương trình xây dựng NTM là quá trình xây dựng nông
thôn theo Bộ tiêu chí quốc gia được xây dựng phù hợp với điều kiện chung
cho các vùng miền của cả nước bao gồm 19 tiêu chí.
Thứ hai, chương trình xây dựng NTM được triển khai trên địa bàn cấp
xã và triển khai trong phạm vi cả nước.
Thứ ba, cộng đồng dân cư đang sinh sống trên địa bàn cấp xã là chủ
thể chính của quá trình xây dựng NTM. Trong quá trình triển khai thực hiện,
không phải Nhà nước làm hộ mà người nông dân tự xây dựng, tự quản lý và
khai thác theo quy định tại Bộ tiêu chí quốc gia về NTM.
Thứ tư, đây là một chương trình hướng tới mục tiêu tốt đẹp của Đảng
và Nhà nước nhằm thúc đẩy, phát triển KT - XH tại khu vực nông thôn, bao
gồm 11 chương trình MTQG và 13 chương trình có tính chất mục tiêu đang
diễn ra tại nông thôn. Năm 2014 dồn lại còn hai chương trình MTQG là xây
dựng nông thôn mới và xóa đói giảm nghèo.
Theo đó, tiêu chí xã được công nhận NTM là :”xã đạt 19 tiêu chí trong
Bộ tiêu chí quốc gia (theo từng vùng); huyện được công nhận NTM là huyện
có 75% số xã NTM; tỉnh được công nhận NTM là tỉnh có 80% số huyện NTM”
[11, tr.6].
Do vậy, trong thời gian tới bên cạnh việc đẩy mạnh công tác giáo dục,
tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng để các cấp chính quyền và mọi
người dân đều nhận thức rằng: “Xây dựng NTM là công việc thường xuyên của

mỗi người, mỗi nhà, mỗi thôn xóm và từng địa phương; là nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội” [11, tr.2] chúng ta cần phải tận dụng thời cơ,
huy động tất cả các nguồn lực, tất cả cộng đồng cùng chung tay dưới sự lãnh
đạo của Đảng nhằm thực hiện thành công xây dựng NTM trên phạm vi cả
nước.
1.1.2.4. Khái niệm về xây dựng nông thôn mới bền vững
Trong báo cáo “ Tương lai của chúng ta” năm 1987, Ủy ban thế giới
vê môi trường và phát triển đưa ra định nghĩa như sau: “Phát triển bền vững là
12


sự phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu của hiện tại song không xâm hại tới khả
năng thỏa mãn của các thế hệ tương lai”.
Nội dung của định nghĩa năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi
trường và Phát triển của Liên hợp quốc là: “Một sự phát triển thỏa mãn những
nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những
nhu cầu của thế hệ tương lai”. Theo đó, ba trụ cột phát triển bền vững được
xác định là: Thứ nhất, bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền
vững là phát triển nhanh và an toàn, chất lượng; Thứ hai, bền vững về mặt xã
hội là công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người
(HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân
đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về
văn hóa, văn minh; Thứ ba, bền vững về sinh thái môi trường là khai thác và
sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất
lượng môi trường sống.
Trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững
được định nghĩa: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của
thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của
các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh
tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. Định nghĩa có tính tổng

quát phù hợp với điều kiện và tình hình ở Việt Nam.
Từ nội hàm khái niệm PTBV, để đạt được mục tiêu PTBV cần giải
quyết hàng loạt các vấn đề thuộc ba lĩnh vực là kinh tế, xã hội và môi trường.
Thứ nhất, bền vững kinh tế. Mỗi nền kinh tế được coi là bền vững cần
đạt được những yêu cầu sau:
- Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển
có thu nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu
nhập thấp càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong

13


điều kiện hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể
xem có biểu hiện phát triển bền vững về kinh tế.
- Trường hợp có tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP bình quân thấp
thì vẫn coi là chưa đạt yêu cầu phát triển bền vững. Tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì mới đạt được bền vững.
- Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp
nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
Thứ hai, bền vững về xã hội. Tính bền vững về phát triển xã hội ở mỗi
quốc gia được đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập,
các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra,
bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng
giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo
không cao quá; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn.
Thứ ba, bền vững về môi trường. Quá trình CNH - HĐH, phát triển
nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới,... đều tác
động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều kiện tự
nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó, chất
lượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm.

Vậy ta có thể khái quát về xây dựng nông thôn mới bền vững như sau
Xây dựng nông thôn phải bảo đảm nguyên tắc của phát triển bền vững,
và lấy con người làm trung tâm. Nguyên tắc bền vững đòi hỏi phát triển nông
thôn phải có tăng trưởng về kinh tế, nhưng thành quả của tăng trưởng phải
được chia sẻ hài hòa và công bằng cho tất cả thành viên của cộng đồng nông
thôn, về xã hội đảm bảo các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng
thụ văn hóa, thu nhập. Đồng thời, việc khai thác và sử dụng tài nguyên cho
phát triển phải hợp lý, bảo vệ được môi trường tự nhiên và phải bảo đảm khả
năng sử dụng tài nguyên của các thế hệ tương lai. Nguyên tắc lấy con người

14


làm trung tâm đòi hỏi có nhận thức đúng đắn về vai trò chủ thể của cộng đồng
cư dân nông thôn trong tiến trình xây dựng NTM bền vững.
1.2. Các điều kiện bảo đảm xây dựng nông thôn mới bền vững
1.2.1. Lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý
Hiệu quả cuối cùng để đánh giá một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có
tiến bộ có thể bằng thu nhập chung của nền kinh tế hay mức sống của dân cư
được cải thiện rõ nét nhưng rất lưu ý đến “độ chễ về mặt thời gian”, có nghĩa
là tác dụng của một biện pháp nào đó trong việc huy động và sử dụng các
nguồn lực hiệu quả có thể đem lại sau mấy năm chứ không phải có tác dụng
ngay tức thì. Bởi vậy, muốn lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý bảo đảm sự phát
triển bền vững kinh tế trước hết phải tính đến các yếu tố:
- Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa - xã hội.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phát triển kinh tế phải gắn liền với xây dựng quốc phòng an ninh.
- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạng

hóa các quan hệ quốc tế.
- Phát triển KT - XH cần chú trọng những vùng miền núi, vùng sâu,
vùng xa để từng bước tiến kịp miền xuôi. Không để tình trạng mất cân đối
giữa các vùng miền, tầng lớp dân cư, giữa các loại hình doanh nghiệp, ngành
nghề nhằm đảm bảo công bằng xã hội.
- Đầu tư xã hội cần quán triệt về hiệu quả kinh tế, không đầu tư mang
tính chủ quan như chính sách công bằng xã hội, chính sách xã hội, cơ cấu
đồng đều giữa các vùng, miền.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH phải có mục tiêu
song không phải bất chấp những khó khăn trở ngại để đạt được mục tiêu mà

15


phải biết dừng khi chuyển dịch có hiệu quả, chuyển đổi sang mục tiêu khác
hợp lý hơn tránh tổn thất về vốn, nhân lực.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần quán triệt phát huy thế mạnh của từng
địa phương, vùng miền, không nên cào bằng, bình quân. Tân dụng nguồn tài
nguyên và nguồn lao động trong nước để phát huy có hiệu quả các nguồn lực.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần đảm bảo nền kinh tế có tính linh hoạt, thích
ứng nhanh nhạy với những thay đổi của thị trường, hài hòa giữa các bộ phận
cấu thành của nền kinh tế, bảo đảm ổn định về chính trị - xã hội, tăng trưởng
kinh tế cao và chất lượng tăng trưởng tốt.
1.2.2. Cơ sở hạ tầng - kỹ thuật
Để phát triển bền vững cơ sở hạ tầng - kỹ thuật, chính sách này càng
quan trọng đối với các nước đang phát triển, chính sách đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng được hiểu là chính sách huy động và phân bổ nguồn lực bằng tiền,
tài sản vật chất và sức lao động bỏ vào đầu tư để tạo ra những cơ sở hạ tầng
thiết yếu phục vụ sản xuất, các hoạt động kinh tế khác trong thời gian dài. Cơ
sở hạ tầng hạ tầng phát triển sẽ là điều kiện đảm bảo cho sản xuất phát triển.

Hơn thế nữa, cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế, thông tin liên
lạc có tác dụng to lớn trong việc tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các
khu vực, các vùng miền... góp phần tạo ra môi trường bình đẳng trong phát
triển và hưởng thu thành quả tăng trưởng kinh tế.
1.2.3. Vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới
Vốn là yếu tố sản xuất cơ bản, bao gồm: vốn vật chất và vốn tài chính.
Vốn vật chất là toàn bộ tư liệu vật chất tích lũy được trong nền kinh tế như
nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các trang thiết bị được sử dụng như
những yếu tố đầu vào của sản xuất. Vốn tài chính là nguồn vốn tích lũy chủ
yếu dưới dạng tiền từ các nguồn tích lũy cơ bản trong nền kinh tế như: tích
lũy từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng của các ngân hàng, tích lũy của

16


doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư. Việc phát huy nguồn vốn, đặc biệt là
nguồn tích lũy nội bộ có ý nghĩa lớn đối với phát triển bền vững.
1.2.4. Trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Đó là khả năng nghiên cứu, sáng tạo ra các công nghệ mới và năng lực
tổ chức chuyển giao, ứng dụng công nghệ vào thực tiễn sản xuất - kinh doanh.
Như vậy, nguồn lực khoa học - công nghệ gồm hai nội dung chủ yếu: (1)
Nghiên cứu khoa học tạo ra công nghệ mới; (2) Tổ chức chuyển giao kết quả
nghiên cứu vào sản xuất và đời sống. Để tăng cường nguồn lực khoa học công nghệ, cần thiết phải phát triển tiềm lực khoa học công nghệ mà trước hết
là đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học; chú trọng đào tạo và sử dụng nhân tài;
đầu tư kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học, tăng cường chuyển giao
công nghệ; có chính sách hỗ trợ phát triển khoa học – công nghệ phù hợp.
1.2.5. Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực thực chất là đảm bảo đáp ứng về nguồn cung
nhân lực để phát triển quốc gia hay cộng đồng trong hiện tại mà vẫn phải bảo
đảm sự tiếp tục đáp ứng các nhu cầu phát triển của quốc gia hay cộng đồng

trong tương lai xa. Một nguồn nhân lực được coi là phát triển bền vững phải
đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, việc xây dựng phát triển và sử dụng nguồn nhân lực của quốc
gia hay cộng đồng không mang tính tự phát mà phải được đặt trong tổng thể
chiến lược và kế hoạch xây dựng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực chung
của quốc gia hay cộng đồng đó.
Thứ hai, trong quá trình xây dựng, phát triển và phát huy nguồn nhân
lực của quốc gia hay cộng đồng phải luôn giữ được một cơ cấu về số lượng
một cách hợp lý.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực phải đảm bảo tăng dần phù hợp với
nhu cầu và trình độ phát triển nền KT - XH của quốc gia, hay cộng đồng.

17


Thứ tư, việc sử dụng nguồn nhân lực phải đảm bảo tính hợp lý và hiệu
quả phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong từng giai đoạn.
Trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, việc xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực theo hướng bền vững là một trong những yêu cầu đặt ra
hàng đầu đối với nước ta hiện nay. Một nguồn nhân lực bền vững có thể trở
thành một lợi thế quan trọng trong quá trình cạnh tranh quốc tế, đồng thời nó
cũng là yếu tố quan trọng không chỉ đảm bảo cho việc phát triển, sự tăng
trưởng một cách ổn định trong trường hợp có những tác động tiêu cực từ môi
trường cạnh tranh quốc tế mà còn là cơ sở bảo đảm an sinh xã hội.
1.2.6. Bảo vệ môi trường ở nông thôn
Những yêu cầu cấp bách trong bảo vệ môi trường nông thôn đảm bảo
mục tiêu phát triển bền vững tại các khu vực này:
Một là, cần phải có các kế hoạch và biện pháp đánh giá toàn diện về
thực trạng ô nhiễm môi trường tại các khu vực nông thôn nước ta hiện nay.
Hai là, chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm

công nghiệp, các làng nghề tại các khu vực nông thôn, đảm bảo tính khoa học
cao, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có
chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng
chéo.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường,
trong đó những chế tài xử phạt (cưỡng chế hành chính và xử lý hình sự) phải
thực sự đủ mạnh để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm.
Bốn là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong
toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành
pháp luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp
trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường; xây dựng ý thức sinh thái, làm cho

18


×