Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận TCNH và sự PT: Phân tích và đánh giá mức độ kiềm chế tài chính tại Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.41 KB, 30 trang )

Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

GVHD: TS. Đặng Anh

1


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
------------

TIỂU LUẬN
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN

ĐỀ TÀI 1:
“Phân tích và đánh giá mức độ kiềm chế tài chính tại Việt Nam hiện nay.”

Giảng viên
Lớp
Hệ

: TS. Đặng Anh Tuấn
: CH 19A


: CAO HỌC

Hà Nội - 2011
MỤC LỤC

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

2


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo sự thay đổi của nền kinh tế
Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy
sôi nổi và cạnh tranh gay gắt, các vấn đề về lãi suất và lạm phát là những vấn đề nổi
cộm, luôn được nhắc đến đòi hỏi Chính phủ phải hành động, tham gia vào các cuộc
chiến chống lạm phát, chạy đua lãi suất. Với mục tiêu giữ vững tăng trưởng kinh tế,
kiểm soát lãi suất, giảm lạm phát, … thời gian qua Việt Nam đã thực hiện nhiều biện
pháp kiềm chế tài chính. Tuy nhiên, hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về
kiềm chế tài chính. Các nhà kinh tế học thường tranh luận rằng kiềm chế tài chính sẽ
ngăn cản việc phân phối hiệu quả nguồn vốn và từ đó làm suy yếu sự phát triển kinh
tế.
Với đề tài "Phân tích và đánh giá mức độ kiềm chế tài chính tại Việt Nam
hiện nay.", Nhóm 5 muốn đề cập những vấn đề xoay quanh kiềm chế tài chính và
những nghiên cứu, phân tích, đánh giá về vấn đề kiềm chế tài chính. Quá trình kiềm
chế tài chính đã được thực hiện ở đâu, với cơ chế lãi suất, chế độ tỷ giá ra sao, và mức
độ kiềm chế tài chính của Việt Nam hiện nay.

Do còn nhiều hạn chế về kiến thức và thời gian nên bài viết không thể tránh khỏi
thiếu sót, nhóm 5 rất mong nhận được những ý kiến của thầy để bài tiểu luận được
hoàn thiện hơn.
Nhóm 5 xin chân thành cảm ơn TS. Đặng Anh Tuấn đã hướng dẫn nhóm 5 hoàn
thành tiểu luận này!

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

3


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ KIỀM CHẾ TÀI CHÍNH
1. Khái niệm Kiềm chế tài chính
Kiềm chế tài chính là khái niệm để chỉ luật và các chính sách của chính phủ
hoặc những biện pháp phi thị trường can thiệp vào hệ thống tài chính nhằm hạn chế
khả năng hoạt động của hệ thống tài chính vận hành một cách tối đa.
Cụ thể là Nhà nước ấn định mức lãi suất trần trực tiếp điều tiết quá trình phân
phối tín dụng, ưu tiên cho khu vực kinh tế quốc doanh và đặt ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc
quá cao. Trong một chế độ bị kìm hãm như vậy lãi suất tiền gửi thường bị âm và khó
dự đoán được khi nào xảy ra lạm phát cao và không ổn định. Tỷ giá hối đoái cũng trở
nên rất không chắc chắn, nó phá vỡ thị trường trong nước dẫn đến những hậu quả trái
ngược nhau đối với chất lượng và số lượng tích lũy vốn. Đặc biệt đối với các nước mà
nền kinh tế được quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, kiềm chế tài chính thể
hiện rõ nét ở các chính sách bao cấp qua tín dụng với mức lãi suất đặc biệt thấp, thậm
chí là lãi suất âm và khu vực kinh tế tư nhân hầu như không có cơ hội vay vốn từ hệ

thống tài chính chính thức.
Lý do chính để chính phủ thi hành chính sách kiềm chế tài chính là nhằm kiểm
soát nguồn lực tài chính. Bằng cách kiểm soát trực tiếp lên toàn bộ hệ thống tài chính,
chính phủ sẽ chủ động rót vốn mà không cần thông qua những thủ tục pháp lý đồng
thời có thể tiết kiệm hơn so với việc tìm nguồn cung cấp từ thị trường. Việc theo đuổi
kiềm chế tài chính xuất phát từ những đòi hỏi và mong muốn của Nhà nước về nguồn
tài chính để đảm bảo một tỷ lệ tăng trưởng cao,tỷ lệ thất nghiệp thấp cũng như mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội khác. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc cao là để đảm bảo khả năng
tài trợ của các ngân hàng đối với nhu cầu tài chính của Nhà nước hơn là một cơ cấu
quản lý lưu thông tiền tệ và các hoạt động cung cấp tín dụng. Bằng cách giới hạn hành
vi của những người gia nhập thị trường hiện tại và tiềm năng, chính phủ có thể tạo ra
sự độc quyền hoặc những hoạt động tín dụng cho vay cho các ngân hàng và đồng thời
đánh thuế lên một số khoản cho vay này để hỗ trợ cho ngân sách của mình. Những
ngân hàng đang sẽ cố gắng hợp tác với nhau để phá vỡ những chính sách tự do hóa

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

4


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

đang tồn tại chừng nào mà họ còn được bảo đảm về vị trí độc quyền trong thị trường
nội địa.
2. Các công cụ kiềm chế tài chính
Nhìn chung công cụ kiềm chế tài chính chủ yếu là những biện pháp kiểm soát
lãi suất nói chung và đặc biệt là những kiểm soát đưa đến kết quả lãi suất tiền thực tiền

gửi âm. Kết quả là các mức lãi suất thực tế bị bóp méo khác với mức lãi suất cân bằng
trong một thị trường tiền tệ cạnh tranh. Sự kiềm chế có thể được mở rộng liên quan
đến những hạn định của chính phủ nhằm kìm hãm sự phát triển của các tổ chức và
công cụ tài chính, dẫn đến một thị trường tài chính không đầy đủ và phân tán.
Có thể xác định ba hình thức kiểm soát lãi suất chủ yếu theo quy định là: trần
lãi suất tiền gửi danh nghĩa; trần lãi suất cho vay danh nghĩa; trần cho cả lãi suất tiền
gửi và lãi suất cho vay danh nghĩa. Về tổng quát, kiểm soát lãi suất dường như được áp
đặt với mục đích khuyến khích đầu tư. Nếu lãi suất cho vay được giữ ở mức thấp,
người ta cho rằng sẽ gia tăng số lượng các dự án có giá trị ròng dương khi được chiết
khấu ở mức lãi suất đi vay, và do đó sẽ gia tăng tỷ lệ đầu tư.
Hình 1.1 minh họa hàm tiết kiệm (S) và hàm đầu tư (I), cả hai đều được quyết
định bởi lãi suất thực (r). Để thuận tiện, lãi suất minh họa là dương, nhưng tác động
kiềm chế tài chính thường khiến chúng trở nên âm.
Hình 1.1: Tiết kiệm và đầu tư trong điều kiện lãi suất bị kiểm soát

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

5


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

Khi không có kiểm soát lãi suất, thị trường ở trạng thái cân bằng E và lãi suất
cân bằng thị trường là re. Nếu chính phủ kiềm chế tài chính bằng cách cố định lãi suất
tiền gửi rc thấp hơn re, khi đó lượng tiền gửi tiết kiệm gửi vào các tổ chức tài chính
giảm xuống Sc. Do đó lượng vốn sẵn có cho đầu tư là I c và lãi suất cho vay để cân bằng
thị trường là ri.Tác động của việc kiểm soát là hạ thấp cả tiết kiệm và đầu tư bằng một

lượng là (Ie – Ic). Do đầu tư là một yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng,
nên tác động của lãi suất bị kiểm soát là hạn chế tốc độ tăng trưởng. Chênh lệch giữa
lãi suất cho vay và lãi suất đi vay (r i – rc) sẽ mang lại cho các trung gian tài chính lợi
nhuận cao hơn, mặc dù khối lượng hoạt động của họ sẽ thấp hơn ở trạng thái cân bằng.
Nếu lãi suất cho vay kiểm soát ở mức r l thấp hơn ri, khi đó các trung gian tài
chính sẽ không đủ tiền gửi để đáp ứng cầu đi vay ở mức lãi suất r l. Cầu đi vay để đầu
tư là Il, mức cầu không được thỏa mãn sẽ là (I l –Ic). Với lãi suất cho vay bị kiểm soát,
các trung gian tài chính phải định mức tín dụng bằng những phương tiện khác ngoài lãi
suất. Do đó, họ có khuynh hướng ưu ái những người đi vay có độ an toàn cao hay uy
tín đã được thiết lập. Thứ hai, các tổ chức này thiên về những dự án có độ rủi ro thấp,
với suất sinh lợi tương đối thấp, vì họ không phải tính một khoản phí rủi ro nhằm bù
lại rủi ro của dự án. Kết quả là các dự án có độ rủi ro cao, suất sinh lợi cao và các dự
án của các doanh nghiệp trẻ đề ra sẽ khát vốn. Tác động này có thể làm hạn chế tốc độ
tăng trưởng kinh tế.
Ngoài kiểm soát về lãi suất, chính phủ có thể kiềm chế tài chính bằng quy định
về tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại. Quy
định dự trữ bắt buộc gây ra hai tác động đối với hệ thống ngân hàng. Thứ nhất, một
lượng vốn sẵn có đáng kể được chuyển khỏi những người đi vay tiềm năng. Thứ hai,
cơ cấu lãi suất của ngân hàng sẽ bị bóp méo. Vì lợi nhuận, các ngân hàng sẽ duy trì
một khoản chênh lệch lớn giữa lãi suất đi vay và cho vay nhằm bù đắp phần thu nhập
thấp mà họ nhận được từ lượng dữ trữ. Họ làm điều này bằng cách ép lãi suất tiền gửi
xuống, hoặc nâng lãi suất cho vay, hoặc cả hai, so với trường hợp lãi suất cân bằng nếu
không có dự trữ.

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

6


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển

Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

Kiểm soát tỷ giá hối đoái cũng là một trong những công cụ của chính phủ nhằm
kiềm chế tài chính. Cụ thể là Ngân hàng Trung ương tuyên bố sẽ duy trì tỷ giá hối đoái
giữa đồng tiền của quốc gia mình với một đồng tiền nào đó ở một mức cố định. Bằng
cách thường xuyên can thiệp vào thị trường ngoại tệ để thực hiện các hoạt động mua
bán lượng dư cung hay dư cầu ngoại tệ. Việc áp dụng chế độ tỷ giá cố định sẽ làm cho
Ngân hàng Trung ương không điều chỉnh được lượng cung tiền cho nên trong thời kỳ
lạm phát cao sẽ làm cho đồng tiền nội địa lên giá thực tế.
Chính phủ có thể can thiệp phân bổ tín dụng thông qua chỉ đạo các tổ chức tài
chính dành một tỷ lệ nhất định các khoản vay cho một ngành cụ thể, thường là các
ngành mà chính phủ khuyến khích phát triển. Hoạt động này thường dẫn đến vấn đề
nợ quá hạn, mất khả năng thanh toán do giảm bớt yêu cầu về thẩm định, giảm yêu cầu
về kiểm soát giám sát.
Kiểm soát vốn là những giới hạn đối với dòng vốn chảy và và chảy ra và cũng
là chính sách kiềm chế tài chính. Bên cạnh những công dụng của biện pháp này, việc
kiểm soát vốn thường gây ra tốn kém chi phí. Do bản chất không cạnh tranh của mình
mà các biện pháp kiểm soát vốn làm tăng chi phí vốn bằng cách tạo ra sự tự túc tài
chính; giới hạn khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước; giúp các tổ chức tài chính hoạt động kém hiệu quả có thể sống sót.
Ngoài ra chính phủ có thể kiềm chế bằng sở hữu nhà nước hoặc kiểm soát đối
với hoạt động ngân hàng; hạn chế gia nhập của các tổ chức tài chính mới, đặc biệt các
tổ chức tài chính từ nước ngoài.
3. Tác động của kiềm chế tài chính
Lý thuyết cho rằng nền kinh tế với hệ thống tài chính hiệu quả sẽ phát triển và
gặt hái nhiều thành công nhờ vào phân phối nguồn vốn hiệu quả. Tuy nhiên, có người
đã phản bác lại điều này vì theo họ trong lịch sử từ trước đến nay, những quốc gia phát
triển và đặc biệt những quốc gia đang phát triển đã ngăn chặn sự cạnh tranh trong các

lĩnh vực tài chính với sự can thiệp và chính sách của chính phủ. Theo lí giải của các
nhà khoa học, một lĩnh vực tài chính bị kiềm chế sẽ gây cản trở với cả việc tiết kiệm
Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

7


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

và đầu tư vì tỷ lệ lãi suất sẽ thấp hơn với những gì có thể đạt được trong một thị trường
cạnh tranh. Điều này có nghĩa là sự phát triển của các tài sản và nợ tài chính bị hạn
chế, và cũng có nghĩa là sự phát triển của các tổ chức và công cụ tài chính bị cấm
đoán. Tình trạng này được mô tả như là tài chính nông cạn, được đo lường bằng tỷ
trọng của giá trị tài sản tài chính với những biến số kinh tế vĩ mô như GDP thấp; tỷ
trọng tín dụng đối với khu vực tư nhân so với tài chính đối với các doanh nghiệp nhà
nước cũng thấp. Kiềm chế tài chính dẫn đến việc phân phối kém hiệu quả nguồn vốn,
làm tăng chi phí tài chính trung gian và tỷ lệ lãi từ tiết kiệm thấp, rõ ràng trên lý thuyết
điều đó làm cản trở sự phát triển. Điều này làm cản trở tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Kiềm chế tài chính còn liên quan mật thiết đến cung tiền vì tổng lượng tiền tiết
kiệm có thể tương đương tiền gửi ngân hàng hay các tổ chức tương tự ngân hàng,
lượng tiền giấy và tiền kim loại đang lưu hành. Một sự gia tăng trong tỷ lệ lạm phát,
dù có phải do tăng cung tiền hay không, cũng sẽ có tác động làm giảm lãi suất thực
nếu lãi suất vẫn duy trì ở mức danh nghĩa được kiểm soát. Đứng trước một mức lãi
suất thấp hoặc thậm chí âm, những người tiết kiệm sẽ không còn muốn giữ tiền mà có
khuynh hướng đầu tư vào những tài sản bảo hiểm rủi ro lạm phát như vàng, bất động
sản, hàng hóa, và những tài sản khác. Điều này khiến tiền tiết kiệm giảm theo giá trị
thực và lượng vốn sẵn có cho đầu tư cũng giảm theo giá trị thực. Kết quả làm hạn chế

tốc độ tăng trưởng kinh tế. Do đó việc kiểm soát cung tiền trong điều kiện lãi suất bị
kiềm chế là rất quan trọng. Việc kiểm soát cung tiền thất bại sẽ dẫn đến lạm phát, giảm
tiết kiệm và tỏ ra bất lợi cho đầu tư và phát triển kinh tế.
Những ảnh hưởng không tốt từ kiềm chế tài chính lên sự phát triển của nền kinh
tế không hiển nhiên có nghĩa là những quốc gia nên lựa chọn chính sách phát triển thị
trường tài chính tự do và loại bỏ tất cả nguyên tắc và sự kiểm soát đã tạo nên kiềm chế
tài chính. Nhiều nước đang phát triển đã giải phóng thị trường tài chính trải qua những
cuộc khủng hoảng một phần vì những cú sốc bên ngoài do tự do tài chính gây ra. Tự
do tài chính có thể tạo ra bất ổn trong ngắn hạn và tăng trưởng trong dài hạn. Đồng
thời, do thị trường không hoàn hảo và tính bất đối xứng của thông tin, việc xóa bỏ tất
cả quy định tài chính công cộng có thể không tạo ra một môi trường tối ưu cho phát
triển tài chính. Một biện pháp thay thế đối với việc giám sát tài chính có thể là một hệ
Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

8


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

thống các quy định mới nhằm đảm bảo cạnh tranh và những quy định cũng như việc
giám sát cẩn trọng.
4. Ưu nhược điểm của kiềm chế tài chính
Ưu điểm của kiềm chế tài chính xuất phát từ những mong muốn của Nhà nước
về nguồn tài chính để đảm bảo một tỷ lệ tăng trưởng cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp cũng
như các mục tiêu kinh tế xã hội khác nên Nhà nước thực hiện kiềm chế tài chính đã
đưa nền kinh tế phát triển theo đúng hướng, đúng mục đích của mình. Kiềm chế tài
chính vẫn có khuynh hướng khuyến khích đầu tư tự tài trợ với chi phí trung gian và chi

phí đi vay. Quá trình phân định tín dụng sẽ vẫn đối xử phân biệt đối xử với các doanh
nghiệp mới, công nghệ mới và những sản phẩm trước đây chưa từng được sản xuất
trong nước. Người cho vay thường ưu ái những người đi vay có bảo đảm và có hồ sơ
theo dõi. Điều này có thể loại bỏ các dự án đầu tư mới, rủi ro nhưng có lợi nhuận cao.
Hậu quả cơ bản của việc theo đuổi chính sách kiềm chế tài chính là những hạn
chế về tăng trưởng kinh tế, những mất ổn định trong nền kinh tế vĩ mô. Đó là:
Thứ nhất, Dòng ngân quỹ cho vay của cả hệ thống ngân hàng có tổ chức bị
giảm sút, buộc những người vay tiềm năng phải dựa nhiều hơn vào các nguồn tài trợ từ
ngoài ngân hàng.
Thứ hai, Lãi suất cho vay của ngân hàng khác nhau giữa các đối tượng vay,
giữa nhóm người vay không được ưa chuộng và nhóm người vay được ưa chuộng.
Thứ ba, Quá trình tự tài trợ của các doanh nghiệp và hộ gia đình bị tàn lụi dần.
Nếu lãi suất thực của khoản tiền gửi cũng như tiền mặt âm, các doanh nghiệp sẽ không
dễ tích lũy các tài sản động( tức là các tài sản dễ chuyển sang thành phương tiện thanh
toán) trong khi chuẩn bị thực hiện các dự án đầu tư khác nhau. Các hàng rào chống
lạm phát tốn kém về mặt xã hội có vẻ như hấp dẫn hơn với tư cách là các công cụ tài
chính trong nước.
Thứ tư, Không thể mở rộng đáng kể tài chính bên ngoài hệ thống ngân hàng
đang bị kìm hãm trong điều kiện các doanh nghiệp rất khó đổi tài sản thành tiền mặt
Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

9


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

hoặc khi lạm phát cao không ổn định. Việc khuyến khích các tập đoàn và các công ty

bảo hiểm mở thị trường cổ phiếu và chứng khoán cần có sự ổn định tiền tệ.
Thứ năm, Dòng vốn tài chính nước ngoài đổ vào có thể sẽ không sinh lợi khi thị
trường vốn nội địa lộn xộn và không thể lường trước tỷ giá hối đoái.
Qua những hạn chế trên đây thì việc xóa bỏ kiềm chế tài chính tiến tới tự do
hóa tài chính là con đường phải qua, là việc nên làm để thúc đẩy việc huy động những
nguồn vốn nhàn rỗi kích thích đầu tư, tăng trưởng kinh tế tham gia vào quá trình hội
nhập, toàn cầu hóa. Tuy nhiên vẫn cần có sự tham gia điều tiết của chính phủ nhằm đạt
được những mục tiêu xã hội.
5. Kiềm chế tài chính trên thế giới
Trong một nghiên cứu của Gupta (1984) thực hiện một loạt các kiểm định thống
kê với số liệu của 25 nước châu Á và Mỹ Latinh. Ông đã đi đến một kết luận chung
như sau:
Một là, Sự tăng trưởng của khu vực tài chính và sự gia tăng lãi suất thực đều
được ghi nhận là có một tác động giới hạn nên tổng tiết kiệm, nhưng chúng có khuynh
hướng khuyến khích một sự dịch chuyển tiết kiệm dưới hình thức các tài sản vật chất
sang hình thức tài sản tài chính.
Hai là, Trong ngắn hạn cầu tài sản tài chính là tương đối không co giãn trước
những biến đổi của lãi suất thực.
Ba là, Không có sự ủng hộ rộng rãi đối với “giả thuyết bổ trợ” ( sự hình thành
vốn là một hàm số dương theo suất sinh lợi thực từ việc giữ cân bằng tiền mặt).
Bốn là, các lợi ích của tự do hóa tài chính khá nhạy cảm với “môi trường mang
tính lạm phát” của một nền kinh tế.
Năm là, nhằm đạt được một mức độ tự do hóa tài chính định trước, việc giảm
lạm phát để tăng lãi suất thực là hiệu quả hơn so với việc tăng lãi suất danh nghĩa

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

10



Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

Sáu là, Tác động của cải cách tài chính tập trung ở những năm đầu. Trong dài
hạn các tác động đối với thu nhập thực do lãi suất thực cao hơn không thực sự có lợi.
Gupta kết luận rằng vai trò của một mình lãi suất thực trong việc kích thích tăng
trưởng kinh tế là có hạn, do đó phải đi kèm với những biện pháp khác nhằm khuyến
khích sự tăng trưởng của khu vực tài chính.
Abe (1977) trong một nghiên cứu thực tiễn sáu nước châu Á, đã ước tính tỉ suất
tiết kiệm như sau:
SRd = -0,636 + 0,154y + 0,112d – 0,064p* – 0,556SRf – các biến giả quốc gia
(-19,493) (25,413) (1,832) (2,077)

(6,173)

với y = thu nhập thực bình quân
SRf = tỉ suất tiết kiệm ngoại hối trên GNP, (giá trị t-stat trong ngoặc)
Như có thể thấy, lãi suất tiền gửi tạo ra một tác động dương lên tỉ suất tiết kiệm
nội địa và mức lạm phát kỳ vọng có ảnh hưởng âm. d tăng một điểm phần trăm làm
cho tỉ lệ tiết kiệm tăng lên 0,112 điểm phần trăm (ví dụ từ 12,0 lên 12,112% GNP). Tỉ
lệ lạm phát giảm 10 điểm phần trăm làm cho tỉ lệ tiết kiệm tăng lên 0,64 điểm phần
trăm (ví dụ từ 12 lên 12,64% GNP). Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng tỉ suất tiết kiệm
nước ngoài có tác động lên tỉ suất tiết kiệm nội địa lớn hơn nhiều so với bất kỳ các
biến số khác; SRf tăng một điểm phần trăm làm cho tỉ suất tiết kiệm nội địa giảm
0,556 điểm phần trăm.Fischer (1981) trong một nghiên cứu về 40 nước đang phát triển
giai đoạn 1960-72, nhận thấy rằng:
Tiết kiệm nội địa được chuyển giao trong nội bộ một nước có một tác động to
lớn lên sự hình thành vốn ở nước có tỉ lệ lạm phát thấp và ổn định hơn các nước có tỉ

lệ lạm phát cao và ổn định.Fischer tiếp tục ước lượng hàm đầu tư cho khu vực tư nhân
của 40 nước là:
IRp = 10,759 + 0,320d – 0,140p* – 0,596IRg + 0,125IRf + 0,007y
(2,640) (2,900)

(3,829)

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

(1,398)

(4,329)
11


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

với SRf = tỉ suất đầu tư trực tiếp nước ngoài tư nhân
IRg = tỉ suất đầu tư khu vực nhà nước
Dấu dương của hệ số lãi suất danh nghĩa và dấu âm đối với tỉ lệ lạm phát kỳ vọng
khẳng định các lý thuyết về áp chế. Fischer ước lượng rằng lãi suất và tỉ lệ lạm phát
mỗi biến số chiếm khoảng 20% sự thay đổi trong tỉ suất đầu tư nội địa tư nhân, nhưng
tác động lớn nhất lại là mối quan hệ nghịch biến giữa đầu tư khu vực nhà nước và đầu
tư khu vực tư nhân. Kết quả của ông ủng hộ quan điểm cho rằng đầu tư khu vực nhà
nước lấn át đầu tư khu vực tư nhân.
Về thực tế theo logic thông thường, lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư do đó
mà thúc đẩy sự tăng trưởng. Diễn biến kinh tế ở Nhật Bản, các nước Đông Âu và một

số nước khác đã chứng tỏ điều đó vào những năm 60 đến đầu những năm 80, kinh tế
các nước rất phát triển. Song việc duy trì kiềm chế tài chính ở các nước này trong giai
đoạn sau đã thấy mức lãi suất quá thấp, công chúng không muốn để khoản tiết kiệm
của mình dưới dạng tài sản tài chính, trái lại họ hiện vật hóa dưới dạng vàng, đá quý,
ngoại tệ mạnh, thậm chí tất cả các loại hàng hóa tiêu dùng mà họ có thể mua và dự trữ
được. Tiềm năng tài chính trong dân cư không được huy động và sử dụng đầu tư vào
sản xuất. Điều này không những chỉ gây ra tình trạng thiếu vốn đầu tư cho tăng trưởng
kinh tế mà còn gây ra tình trạng khan hiếm giả tạo về hàng hóa và những mất cân đối
nghiêm trọng trên thị trường hàng hóa. Các doanh nghiệp Nhà nước luôn được ưu tiên
vay vốn với lãi suất bao cấp, do vậy mà ỷ lại không sản xuất kinh doanh một cách có
hiệu quả dẫn tới Ngân sách Nhà nước luôn là giới hạn mềm. Lạm phát và sự biến động
của tỷ giá là không thể kiểm soát nổi. Hệ thống tài chính không được phát triển và
không thể thực hiện được vai trò và chức năng trong việc điều tiết và tạo vốn thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế. Thị trường tài chính hoặc là không có hoặc là hết sức
phân tán và đầy rủi ro.
Nhiều nước đang phát triển không có các thị trường vốn tự do. Thay vào đó các
nước này mang một đặc điểm được biết đến như là sự “kiềm chế tài chính”. Rất nhiều
nước áp dụng kiềm chế tài chính để đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng ổn định, an toàn.

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

12


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

PHẦN II: ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ KIỀM CHẾ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM

Với mục tiêu giữ vững tăng trưởng kinh tế, giảm lạm phát, giảm thâm hụt ngân sách,
thời gian qua Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp kiềm chế tài chính như dưới đây:
1. Kiểm soát lãi suất
1.1 Trần lãi suất huy động
+ Đối với VND:Thông tư số 02/2011/TT-NHNN quy định mức lãi suất huy
động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam. Quy định:
Tổ chức tín dụng ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam đối với lãi
suất tiền gửi; lãi suất chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và trái phiếu của các tổ
chức trừ tổ chức tín dụng và cá nhân bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình
thức không vượt quá 14%/năm.
Riêng các Quỹ Tín dụng nhân dân cơ sở ấn định lãi suất huy động vốn bằng
đồng Việt Nam không vượt quá 14,5%/năm. Mức lãi suất huy động vốn tối đa này áp
dụng đối với phương thức trả lãi cuối kỳ; đối với các phương thức trả lãi khác, phải
được quy đổi theo phương thức trả lãi cuối kỳ tương ứng với mức lãi suất huy động
vốn tối đa.
+ Đối với USD:Thông tư 14/2011/TT-NHNN quy định mức lãi suất huy động
vốn tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng. Quy định :
-

Lãi suất huy động vốn tối đa bằng đô la Mỹ áp dụng đối với tổ chức là người cư
trú, tổ chức là người không cư trú trừ tổ chức tín dụng là 0,5%/năm.

-

Lãi suất huy động vốn tối đa bằng đô la Mỹ áp dụng đối với các nhân là người
cư trú, cá nhân là người không cư trú là 2,0%.

-

Mức lãi suất huy động vốn tối đa quy định tại Điều này bao gồm cả khoản chi

khuyến mại dưới mọi hình thức và áp dụng đói với phương thức trả lãi cuối kỳ;

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

13


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

đối với các phương thức trả lãi khác, phải được quy đổi theo phương thức trả lãi
cuối kỳ tương ứng với mức lãi suất huy động vốn tối đa.
Trong điều kiện lạm phát tăng cao, chính phủ áp dụng trần lãi suất huy động. Điều này
cho thấy Chính phủ đang cố gắng áp đặt mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất thị trường.
Đây chính là biểu hiện của kiềm chế tài chính.
1.2 Trần lãi suất cho vay danh nghĩa
Quy định mới nhất của Ngân hàng Nhà nước số 2868/QĐ-NHNN quy định mức
lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9,0%/năm.
Tuy nhiên trong Luật Dân sự, Điều 476 có quy định lãi suất vay do các bên thoả
thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố đối với loại cho vay tương ứng. Như vậy đây có thể coi là mức trần lãi suất
danh nghĩa.
Tuy nhiên thực tế lãi suất cho vay theo thỏa thuận Ngân hàng và Khách hàng.
Vì vậy trần lãi suất quy định trong Luật dân sự chỉ là trần lãi suất danh nghĩa.
1.3 Trần lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm
Quyết định 379/QĐ –NHNN quy định mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết
khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù
đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với vác

ngân hàng là 12%/năm.
Kết luận:Với các biện pháp kiểm soát lãi suất cho thấy Ngân hàng nhà nước muốn
điều chỉnh mức lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường hay Tỷ lệ lãi suất thực âm.
Cụ thể, trần lãi suất tiền gửi là 14% trong khi tỷ lệ lạm phát đến hết tháng 5/2011 là
12,07%. Như vậy theo công thức lãi suất tương đương lãi suất năm là 14%, gọi lãi suất
tháng là a thì: (1+0,14)=(1+a)^12 như vậy lãi suất 1 tháng là: 1,098%. Ta có:


Lãi suất tiền gửi 5 tháng =1,098*5 = 5,49% (Tính tương đối)

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

14


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn


Lạm phát 5 tháng: 12,07%



Lãi suất thực tế: 5,49 – 12,07 = -6,58%

GVHD: TS. Đặng Anh

Lãi suất thực âm cho thấy mức độ kiềm chế tài chính cao. Chính vì điều này dẫn
đến nhiều Ngân hàng lách luật cho vay với mức lãi suất cao hơn để thu hút được
khách hàng.

2. Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
2.1 Đối với VND
Ngân hàng Nhà nước tăng cường kiềm chế tài chính bằng việc liên tục tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc. Mới đây nhất NHNN ban hành Quyết định 379/QĐ-NHNN quy định:
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng
bằng đồng Việt Nam áp dụng như sau:
a. Các ngân hàng thương mại Nhà nước không bao gồm Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính là
3% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
b. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng
thương mại cổ phần nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác
là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên bằng đồng Việt Nam
áp dụng như sau:
Các ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, Ngân hàng thương mại cổ
phần nông thôn, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng
100% vốn nước ngoài, ngân hàng hợp tác, công ty tài chính, công ty cho thuê tài
Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

15


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh


chính, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt
buộc.
2.2 Đối với ngoại tệ: Quyết định số 1209/QĐ-NHNN quy định:
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng
bằng ngoại tệ áp dụng như sau:
a) Các ngân hàng thương mại Nhà nước (không bao gồm Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam), ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng
100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 7%
trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
b) Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Quỹ tín dụng
nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác là 6% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt
buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên bằng ngoại tệ áp dụng
như sau:
a) Các ngân hàng thương mại Nhà nước không bao gồm Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng
100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công
ty tài chính, công ty cho thuê tài chính là 5% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt
buộc.
b) Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Quỹ tín dụng
nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác là 4% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt
buộc.
Kết luận:Tỷ lệ dự trữ/Tiền gửi Ngân hàng:

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

16


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển

Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

Tổng tiền gửi Ngân hàng hay huy động toàn nền kinh tế liên tục tăng. Năm
2010 tổng huy động và 2.334 nghìn tỷ đồng. Tổng huy động giảm trong tháng 1 còn
2.227, sau đó tăng lại và đến tháng 5 là 2.367 nghìn tỷ đồng.
Ở đây ta chỉ xét tỷ lệ dự trữ bắt buộc vì tỷ lệ dự trữ ngoài dự trữ bắt buộc rất
khó tính chính xác.Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng liên tục tăng cho thấy tỷ lệ dự trữ bắt
buộc/Tiền gửi Ngân hàng có xu hướng tăng thể hiện tăng cường kiềm chế tài chính của
chính phủ.
3. Cho vay trực tiếp và chỉ định cho vay đối với ngành công nghiệp
Điển hình ở Việt Nam Chính phủ cho vay trực tiếp đối với Vinashin ngoài ra
còn chỉ định nhiều Ngân hàng cho Vinashin vay với lãi suất ưu đãi. Điều này dẫn đến
hoạt động Ngân hàng cũng như Chính phủ bị ảnh hưởng nhiều khi Vinashin vỡ nợ.
Từ cuối năm 2005 đến nay, Vinashin được ưu ái một lượng vốn cực lớn gồm
hơn 1 tỉ USD vay lại từ nguồn trái phiếu quốc tế của Chính phủ, 600 triệu USD từ các
tổ chức tín dụng nước ngoài và rất nhiều khoản vay, huy động bằng các hình thức
khác nhau từ các ngân hàng thương mại trong nước (chủ yếu là ngân hàng thương mại
nhà nước). Tính đến giữa năm 2010, tổng giá trị vay ngắn hạn, dài hạn quy ra tiền
Việt là hơn 72.000 tỉ đồng.
Tỷ lệ vay nợ của khu vực tư nhân/tổng vay nợ của nền kinh tế: Chưa có số
liệu thống kê chính xác tỷ số này nhưng nhìn vào việc Vinashin làm thất thoát hàng
nghìn tỷ đồng (3,63% GDP thực tế) cùng việc hoạt động không hiệu quả của rất nhiều
công ty Nhà nước cho thấy tỷ lệ vay nợ của khu vực tư nhân/ tổng vay nợ nền kinh tế
thấp hay mức độ kiềm chế tài chính ở Việt Nam cao.
4. Sở hữu Nhà nước và kiểm soát đối với hoạt động Ngân hàng
So sánh các Ngân hàng Thương mại Nhà nước (NH TMNN) với các Ngân hàng
Thương mại cổ phần (NH TMCP) cho thấy khối NH TMNN vẫn là những Ngân hàng
có tổng tài sản lớn kéo theo thị phần huy động cũng như cho vay lớn.Hơn nữa các NH


Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

17


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

TMNN được hưởng nhiều nguồn vốn ưu đãi từ Chính phủ hơn các NH TMCP cho
thấy sự kiềm chế tài chính đối với hoạt động ngân hàng ở Việt Nam.

Thống kê Tổng tài sản và Vốn điều lệ các NH tại Việt Nam (T5 -2011)
Nguồn: Tổng hợp, Đơn vị: Tỷ đồng

Tỷ lệ tài sản của Ngân hàng Thương mại trên Tổng tài sản của Ngân hàng
Thương mại và Ngân hàng Nhà nước: Theo số liệu thống kê NHNN đến T5/2011
Việt Nam có 5 NH Thương mại Nhà nước, 1 NH Chính sách, 39 NH TMCP với Tổng
tài sản toàn hệ thống là 3.790.210 tỷ đồng. Trong đó Tổng tài sản của Ngân hàng
thương mại là 2.604.086 tỷ đồng, còn của Khối Ngân hàng Nhà nước là 1.186.124.
Như vậy tỷ lệ tài sản của khối Ngân hàng thương mại trên Tổng tài sản của NHTM và
NHNN chiếm 68,71% cho thấy mức độ kiềm chế tài chính ở Việt Nam thấp. Chính

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

18



Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

phủ đang có chủ trương cổ phần hóa các Ngân hàng thuộc khối Nhà nước như cổ phần
hóa BIDV và MHB thời gian tới để tiếp tục giảm mức độ kiềm chế tài chính.
5. Hạn chế gia nhập thị trường thị trường tài chính, đặc biệt từ nước ngoài
Theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP, các Ngân hàng phải thực hiện tăng vốn điều
lệ lên mức tối thiểu 3.000 tỷ đồng chậm nhất vào ngày 31/12/2010. Tuy nhiên, đến
cuối năm 2010 còn khoảng 15 ngân hàng chưa đủ số vốn điều lệ tối thiểu này. Do vậy,
Nghị định 10/2011/NĐ-CP đã cho phép các ngân hàng được dời thời hạn hoàn thành
tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng chậm nhất vào ngày 31/12/2011. Tuy nhiên, với
việc NHNN vừa ban hành Chỉ thị 01/CT-NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng
toàn ngành ngân hàng trong năm 2011 không quá 20%, sẽ là một thách thức không
nhỏ đối với những ngân hàng chưa đạt vốn điều lệ 3.000 tỷ đồng.`
Từ khi ban hành quy chế cấp giấy phép và hoạt động NHTMCP (07/06/2007)
cũng như quy chế cấp giấy phép thành lập và hoạt động TCTD phi ngân hàng cổ phần
(02/11/2007). NHNN chỉ cấp phép thành lập một số ít Ngân hàng như: TienPhong
bank, Mỹ Xuyên bank, BVB.
Theo cam kết gia nhập WTO, kể từ ngày 01/04/2008, VN chính thức cho phép
thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Tính đến nay và tiếp tục thời gian tới sẽ có
nhiều tổ chức nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên thời gian hoạt động của các tổ
chức tài chính nước ngoài tại Việt Nam cũng rất hạn chế. Đối với chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài thì được cấp phép hoạt động 5 năm, khi hết 5 năm chi nhánh phải
hoạt động có lãi tối thiểu 2 năm liền trước khi hết hạn hoạt động thì mới được tiếp tục
gia hạn hoạt động tại Việt Nam.
6. Tổng phương tiện thanh toán/GDP thấp
Tỷ lệ Tổng phương tiện thanh toán/GDP:


Đơn vị

2006

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

2007

2008

2009

2010

KH 2011

19


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

Tổng PTTT

GDP thực tế

Nghìn tỷ
đồng

Nghìn tỷ

đồng

TPTTT/GD
P

GVHD: TS. Đặng Anh

900

1,350

1,745

2,100

2,631

3,052

974

1,144

1,479

1,658

1,981

2,129


0,923

1,180

1,180

1,266

1,328

1,433

Tỷ lệ Tổng PTTT/GDP có xu hướng tăng cho thấy Chính phủ đã giảm mức độ kiềm
chế tài chính. Tuy nhiên so với các nước phát triển tổng phương tiện thanh toán vẫn
thấp cho thấy việc áp dụng kiềm chế tài chính ở Việt Nam.
7. Hạn chế sự di chuyển vốn
Có thể thấy rõ thời gian qua Chính phủ đang cố gắng kiểm soát hoạt động tài
chính. Điển hình để đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tăng
trưởng tín dụng phi sản xuất dưới 16% chính phủ đã thắt chặt hoạt động của các thị
trường sau:
7.1 Thị trường vàng
Đóng cửa sàn vàng: Thông tư 11/2011/TT-NHNN quy định chấm dứt huy động
và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng không được thực
hiện huy động và cho vay vốn bằng vàng đối với khách hàng và các tổ chức tín dụng
khác.
Thủ tướng Chính phủ dự kiến quản lý hoạt động kinh doanh vàng tiến tới xóa
bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do.
7.2 Thị trường ngoại hối
Việc cấm kinh doanh ngoại tệ tự do đã có tác dụng làm giảm tỷ giá hối đoái thời

gian qua. Ngoài ra chính phủ ban hành Thông tư 13/2011/TT-NHNN quy định các Tập

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

20


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước thực hiện nghĩa vu bán ngoại tệ cho Tổ chức tín
dụng và được quyền mua lại ngoại tệ trong phạm vi số ngoại tệ đã án cho Tổ chức tín
dụng phục vụ vào nhu cầu sử dụng ngoại tệ hợp pháp.
7.3 Thị trường chứng khoán
Tỷ lệ vốn hóa thị trường cổ phiếu/GDP: Trong suốt thời kỳ từ 2002 -2005,
mức vốn hóa thị trường chỉ đạt trên dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã nhảy vọt
mạnh mẽ lên 22,7% vào năm 2006 và tiếp tục tăng lên mức trên 43% năm 2007. Giá
trị vốn hóa thị trường cổ phiếu tính đến thời điểm cuối năm 2009 đã đạt 37,71% GDP,
đến 2010 đạt 50% GDP.
Dòng vốn ngoại rút khỏi thị trường: Với việc kiểm soát chặt chẽ hoạt động
của thị trường chứng khoán, thời gian qua thị trường chứng khoán thanh khoản thấp,
liên tục giảm điểm va hơn nữa các nhà đầu tư ngoại rút mạnh khỏi thị trường chứng
khoán.
Mặc dù có sự tăng trưởng nhanh nhưng so với các nước phát triển với tỷ lệ vốn
hóa thị trường trên 100% GDP cho thấy mức độ kiềm chế tài chính của Việt Nam cao.
Kết luận:
Xét trên góc độ tài chính thì kiểm soát hoạt động của thị trường chứng khoán
làm hạn chế nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên, nếu trong các

lĩnh vực sản xuất khác thì Chính phủ vẫn đang có nhiều chính sách khuyến khích vốn
đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt Nam.
Hoạt động kiềm chế tài chính của Việt Nam hiện nay nổi bật rõ là sự hạn chế di
chuyển vốn ra nước ngoài. Các thị trường giao dịch vàng phi vật chất và thị trường
ngoại tệ như Spot, Option, Future ở nước ngoài phát triển rất mạnh mẽ nhưng hiện nay
Việt Nam vẫn chưa cấp phép cho những hoạt động kinh doanh này. Điều này làm hạn
chế nguồn vốn đầu tư trong nước ra thị trường tài chính nước ngoài. Việc hạn chế di
chuyển nguồn vốn Việt Nam cho thấy Chính phủ đang thực hiện chính sách kiềm chế
tài chính mạnh mẽ.
Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

21


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

PHẦN III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ DỰ BÁO KIỀM CHẾ TÀI CHÍNH Ở
VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
1. Bài học kinh nghiệm
1.1 Những bài học về chính sách kiềm chế tài chính trên thế giới
Những năm đầu thập kỷ 70, phần lớn các nước áp dụng chính sách kiềm chế tài
chính nội địa (thậm chí các quốc gia công nghiệp). Nội dung của những chính sách
kiềm chế tài chính được áp dụng là:
- Kiểm soát lãi suất, quy mô tín dụng.
- Cấm giao dịch những khỏan tiền gửi và cho vay bằng ngoại tệ
- Kiểm soát dòng chảy vốn và thị trường vốn.
- Khu vực ngân hàng chủ yếu thuộc sở hữu nhà nước.

- Chính phủ thực hiện chính sách tín dụng chỉ định: những ngành nghề ưu tiên
nhận tín dụng với lãi suất thực thấp…
Kiềm chế tài chính cũng được thực hiện dưới dạng các chỉ thị của chính phủ đối
với các ngân hàng trong việc phân phối tín dụng tại các mức lãi suất được hỗ trợ đối
với một số công ty và ngành công nghiệp cụ thể, nhằm thực hiện chính sách công
nghiệp. Việc bắt buộc các ngân hàng phân phối tín dụng đến các ngành kinh doanh
được đánh giá là chính sách chiến lược quan trọng của chính phủ đảm bảo quá trình
cung cấp nguồn vốn ổn định hơn so với phó mặc nó cho các quyết định của những
những ngân hàng nửa vời hoặc thị trường chứng khoán hiệu quả. Ngoài ra, việc này
cũng đem lại hiệu quả chi phí tốt hơn so với việc phải trải qua quy trình ngân sách
công cộng. Những chỉ thị và chỉ dẫn của chính phủ thỉnh thoảng bao gồm những mệnh
lệnh và hướng dẫn chi tiết, cặn kẽ về các vấn đề thuộc về quản trị của các tổ chức tài
chính nhằm đảm bảo rằng hoạt động của doanh nghiệp đi đúng theo chính sách của
ngành công nghiệp hoặc các chính sách khác của chính phủ. Bộ Tài chính Nhật Bản là
một ví dụ trong việc quản lý vi mô của ngành tài chính chính phủ. Ví dụ điển hình việc

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

22


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

kiểm soát trực tiếp trên quy mô toàn quốc đối với các ngân hàng là quá trình quốc hữu
hóa của các ngân hàng đã được tiến hành ở Mexico trong những năm 80 nhằm bảo
đảm lượng tiền gửi của dân chúng.
Thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng, Chính phủ Trung Quốc cũng đưa ra

những kế hoạch thoát khỏi khủng hoảng toàn cầu (tháng 7, tháng 11 năm 2008), áp
dụng những chính sách kiềm chế tài chính. Trong 15 năm qua, bối cảnh chính phủ
Trung Quốc liên tục đạt thặng dự các tài khoản vãng lãi, để duy trì không thay đổi tỷ
giá, nước này luôn thu mua dự trữ ngoại tệ với số lượng lớn. Và thời kỳ này, Ngân
hàng trung ương Trung Quốc cũng đã gánh vác hai mục tiêu đối lập nhau: Một là trách
nhiệm cơ bản của mỗi một ngân hàng trung ương chính là duy trì ổn định vật giá; Một
nhiệm vụ khác lại là tiếp tục định giá thấp tỷ giá nhân dân tệ.
Trong tình huống thông thường, chính phủ mua ngoại tệ, lượng cung ứng tiền tệ
sẽ tăng và dẫn tới lạm phát; Nhưng chính phủ Trung Quốc đã áp dụng biện pháp phòng
ngừa đối với việc cung ứng tiền tệ trong nước, đã tránh được lạm phát. Sự phòng ngừa
với quy mô lớn dài hạn này thường sẽ hình thành áp lực cho ngân hàng trung ương,
nhưng NHTW Trung Quốc cũng có cách để tránh rơi vào tình thế khó khăn: Một cách
là ra lệnh các ngân hàng quốc doanh thu mua chứng khoán của ngân hàng trung ương
với lãi suất thấp hơn rất nhiều tỷ lệ lạm phát; Cách khác là không ngừng nâng lãi suất
tiền gửi tiết kiệm ngân hàng, khiến số lượng vốn dự trữ tiết kiện đã đạt mức cao kỷ lục
22%.
Tuy nhiên, những chính sách kiềm chế tài chính được áp dụng tại Trung Quốc
cũng gây nên những mặt trái cho nền kinh tế. Gây nên sức ép cho hoạt động của các
ngân hàng, và kìm hãm khả năng tiêu dùng.
Kiềm chế tài chính cũng gây ra sự mất cân bằng trong nước. Ngân hàng trung
ương đã hạ lãi suất dự trữ thực xuống giá trị âm, tỷ lệ dự trữ hộ gia đình chiếm trong
thu nhập có thể chi phối theo đó mà tăng, kết quả khiến tỷ lệ tiêu dùng chiếm trong
GDP của Trung Quốc sụt giảm.

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

23


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển

Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

Đôi khi việc áp dụng kiềm chế tài chính dẫn đến sự mất cân đối trong nền kinh
tế vì vậy có thể mục đích của Chính phủ sẽ không được như mong muốn . Do vậy,
kiềm chế tài chính là giải pháp cần được áp dụng cho phù hợp với tình hình thực tế của
đất nước, vì bên cạnh việc mang lại những hiệu quả, nó cũng gây ra những vấn đề kinh
tế cần được chú ý. Ví dụ như chính sách tín dụng chỉ định làm đứt khúc thị trường tài
chính nội địa; trần lãi suất bị khống chế, lãi suất thực âm, không khuyến khích tiết
kiệm, nền kinh tế thiếu vốn…
1.2 Những nhược điểm của kiềm chế tài chính
Tài chính kiềm chế áp dụng mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, từ đó sẽ
thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, nó gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh
tế cũng như sự mất ổn định kinh tế vĩ mô như:
- Tài chính kiềm chế áp dụng mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, từ đó sẽ
thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, nó gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh
tế cũng như sự mất ổn định kinh tế, tiềm năng tài chính không được sử dụng và đầu tư
vào sản xuất bởi vì lãi suất thấp thì công chúng sẽ không muốn gởi tiết kiệm mà sẽ
hiện vật hóa dưới dạng vàng, đá quý, ngoại tệ mạnh, hàng hóa tiêu dùng. Vì vậy, gây
ra tình trạng hiếu vốn đầu tư, khan hiếm hàng hóa giả tạo, mất cân đối nghiêm trọng
trên thị trường hàng hóa.
- Cầu về vốn vượt xa khả năng của các nguồn cung cấp nên các danh mục đầu
tư có tỷ suất lợi nhuận cao phải hủy bỏ hoặc sử dụng vốn từ các thị trường ngầm.
- Ngân sách nhà nước luôn phải bao cấp và thiếu hụt vì các doanh nghiệp nhà
nước luôn được ưu tiên vay vốn với lãi suất bao cấp dẫn tới luôn ỷ lại, không sản xuất
và kinh doanh có hiệu quả.
- Hệ thống tài chính không được phát triển và không thể thực hiện được những
chức năng trong việc điều tiết và tạo vốn thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
- Thị trường tài chính có thể không có hoặc manh mún, phân tán và đầy rủi ro,

lạm phát và tỷ giá biến động không thể kiểm soát được.
Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

24


Tài chính Ngân hàng và Sự phát triển
Tuấn

GVHD: TS. Đặng Anh

1.3. Xu hướng giảm dần kiềm chế tài chính, tiến tới tự do hóa tài chính ở Việt Nam
hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề tự do hóa tài chính từng bước hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới không còn là sự lựa chọn của bất kỳ một quốc gia nào, mà nó đang
là xu thế tất yếu bắt buộc các quốc gia phải thực hiện để đưa nền kinh tế của quốc gia
mình đi vào quỹ đạo chung của kinh tế thế giới. Do đó, để đưa nền kinh tế Việt Nam
phát triển kịp với các quốc gia trong khu vực thì một trong những vấn đề quan trọng là
từng bước cải cách hệ thống tài chính, hoàn thiện hệ thống ngân hàng theo hướng hội
nhập.
Với cái nhìn chiến lược và phương chăm đúng đắn, các nhà quản lý và
điều hành kinh tế đã tiến hành cải cách hệ thống tài chính, cơ cấu lại hệ thống ngân
hàng Việt Nam để từng bước hội nhập với kinh tế toàn cầu. Nhìn chung trong thời gian
vừa qua, Việt Nam đã có những việc làm thiết thực đánh dấu cho tiến trình hội nhập
trong giai đoạn đầu:
- Thiết lập được các mối quan hệ tài chính với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc
tế: Quỹ tiền tệ thế giới (IMF); Ngân hàng thế giới (WB) kể từ năm 1992.
- Gia nhập và trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) năm 1995.
- Tham gia các diễn đàn hợp tác kinh tế: Diễn đàn hợp tác Á – Âu năm tháng

3.1996 với tư cách là thành viên sáng lập. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình
Dương (APEC) từ tháng 11.1998.
- Tham gia khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
- Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo được hành lang pháp lý an
toàn trong kinh doanh. Điều này được đánh dấu bởi việc ban hành hàng loạt các luật,
sửa đổi bổ sung một số điều khoản trong các bộ luật sao cho phù hợp với tình hình

Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 5

25


×