Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản ở việt nam đầu thế kỷ XX (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.93 KB, 69 trang )

MỤC LỤC
Phần mở đầu
Phần nội dung

1.1. Hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX...................................................................... 5

1.1.1. Tác động của hoàn cảnh quốc tế đến Việt Nam ............................................ 5
1.1.2. Tình hình trong nước ..................................................................................... 7
1.2. Sự du nhập của khuynh hướng dân chủ tư sản vào Việt Nam ................................................... 14

1.2.1. Nguồn gốc của tư tưởng dân chủ tư sản ...................................................... 14
1.2.2. Các con đường du nhập của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam .... 15
1.2.3. Cơ sở hình thành của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam ............... 17
CHƯƠNG II: TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ TƯ SẢN Ở VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX ... 23
2.1. Khuynh hướng dân chủ tư sản và sự biểu hiện của nó ở Việt Nam ........................................... 23
2.2. Nội dung của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX .................................. 24

2.2.1. Về tư tưởng chính trị .................................................................................... 24
2.2.3. Về kinh tế ..................................................................................................... 47
2.3.3. Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục ............................................................. 59
CHƯƠNG III: ĐẶC ĐIỂM VÀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ TƯ
SẢN Ở VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX .............................................................................................. 61
3.1. Đặc điểm của trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX ............................. 61
3.2. Vị trí, vai trò của trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX ........................ 63

Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
A.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhìn nhận, đánh giá vị trí và vai trò của trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là một vấn đề rất quan trọng trong giai đoạn


lịch sử Cận đại Việt Nam. Sự tồn tại của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam
nằm trong quy luật vận động của lịch sử, nó tồn tại là tất yếu và sự thất bại của nó là
do đặc điểm lịch sử, đặc điểm xã hội Việt Nam quy định, tất cả đều chịu sự chi phối
1


của quy luật vận động phát triển và có kế thừa. Thông qua việc tìm hiểu trào lưu dân
chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX ta sẽ có cái nhìn xuyên suốt về khuynh hướng
cách mạng này từ khi nó xuất hiện đến khi nó chấm dứt vai trò lịch sử. Trên cơ sở đó
ta thấy được những đóng góp của khuynh hướng cách mạng này đối với phong trào
dân tộc dân chủ ở Việt Nam, thấy được những mặt tích cực và hạn chế của khuynh
hướng này và từ đó có những đánh giá thật khách quan, chính xác. Qua việc tìm hiểu
khuynh hướng cách mạng này ta có thể đặt nó trong sự so sánh với khuynh hướng cứu
nước phong kiến và khuynh hướng cách mạng vô sản. Từ đó sẽ thấy được sự tiến bộ
hơn hẳn của khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản so với khuynh hướng cứu nước
phong kiến. Đồng thời ta cũng nhận thấy nhiều điểm hạn chế của khuynh hướng cách
mạng dân chủ tư sản so với khuynh hướng cách mạng vô sản. Có như vậy, chúng ta
mới thấy được rằng việc cách mạng Việt Nam từ bỏ khuynh hướng phong kiến để đến
với khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản là điều hợp lí, là bước phát triển của
cách mạng Việt Nam.
Đồng thời thấy được rằng, chính sự sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử đã đưa đến việc
khuynh hướng cách mạng vô sản trở thành khuynh hướng chủ đạo của cách mạng Việt
Nam từ năm 1930 đến nay chứ không phải là khuynh hướng cách mạng dân chủ tư
sản. Mặc dù không đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng, nhưng cũng
không thể phủ nhận vai trò tích cực của trào lưu dân chủ tư sản trong lịch sử nước ta.
Vì nó đã đặt cơ sở xã hội cho sự tiếp thu tư tưởng mới đó là tư tưởng vô sản – tiếp thu
từ chủ nghĩa Mác - Lênin, một tư tưởng tiến bộ của thời đại để thay đổi vận mệnh đất
nước. Nhờ có sự tồn tại của khuynh hướng dân chủ tư sản mới chuẩn bị tiền đề cho sự
vận động sang một khuynh hướng mới, khuynh hướng vô sản lúc bấy giờ ở Việt Nam
được xác định là một trong hai nhiệm vụ của cách mạng. Trong công cuộc xây dựng

xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, dân chủ càng được xem là mục tiêu, là động lực
cho sự công bằng, đoàn kết tạo nên sức mạnh dân tộc, thành công cho công cuộc đổi
mới. Các phong trào yêu nước theo tư tương dân chủ tư sản thể hiện lòng yêu nước
mãnh liệt, tình hình quốc tế ngày nay diễn biến càng phức tạp, các thế lực thù địch
luôn tìm cách chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa nước ta, do đó việc phát huy chủ
nghĩa yêu nước hơn bao giờ hết càng được giữ ở một ví trí quan trọng. Tìm hiểu trào
lưu tư tưởng dân chủ tư sản ở nước ta để thấy được sự chuyển biến của con đường giải
2


phóng dân tộc, thấy được sự hi sinh, đóng góp của các bậc tiền bối trong quá trình
mày mò tìm ra con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam. Từ đó giúp chúng ta
thấy được giá trị của nền độc lập hôm nay, góp phần khơi dậy tinh thần dân tộc dân
chủ trong việc giữ gìn và phát huy những thành tựu đã dày công đạt được. Nghiên cứu
trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX còn giúp tôi nâng cao
năng lực nghiên cứu khoa học, có thêm nhiều kiến thức phục vụ công tác giảng dạy,
đồng thời là nguồn tài liệu tham khảo cho đồng nghiệp sau này.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi quyết định chọn vấn đề: “Trào lưu tư tưởng dân chủ
tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX’’ làm đề tài khóa luận của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm tìm hiểu ở các góc độ khác nhau:
- Quyển: “Sự chuyển biến của phong trào yêu nước và cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX’’ của tác giả Đinh Trần Dương, do nhà xuất
bản Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2002.
- Giáo sư Trần Văn Giàu viết về ý thức tư sản, các biểu hiện và sự biến đổi của nó qua
quyển: “Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng Tháng
Tám” tập I - hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó trong các nhiệm vụ lịch sử.
- Nhà xuất bản chính trị quốc gia xuất bản quyển: “Bước chuyển tư tưởng Việt Nam
cuối thế kỷ XIX vào năm 2005, do PGS.TS Trương Văn Chung và PGS.TS Doãn

Chính đồng chủ biên.
- Quyển “Lịch sử cận - hiện đại Việt Nam một số vấn đề nghiên cứu” của GS. Đinh
Xuân Lâm do nhà xuất bản thế giới xuất bản năm 1998.
- Tác giả Nguyễn Khánh Toàn với quyển “Lịch sử Việt Nam” tập II (1858 – 1945)
nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm 2004.
- Nguyễn Ngọc Cơ (Chủ biên), Lịch sử Việt Nam từ 1858 – 1918, Nhà xuất bản Đại
học sư phạm xuất bản năm 2005.
Những công trình trên phần nào khái quát, đề cập đến khuynh hướng dân chủ tư sản ở
Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.

3


Ở đề tài này, tôi đi cụ thể từ sự ảnh hưởng, đến sự hình thành và tổ chức hoạt động
của các phong trào dân chủ tư sản để làm rõ sự phát triển của trào lưu tư tưởng này ở
Việt Nam và đóng góp của nó cho cách mạng giải phóng dân tộc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ
XX.
- Phạm vi nghiên cứu là các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
4. Mục tiêu và nhiệm vụ.
Tìm hiểu khái quát và đi sâu phân tích hoạt động của các phong trào yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản. Qua đó thấy được sự đóng góp của khuynh hướng này
trong cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử.
- Phương pháp logic.
- Phương pháp sưu tầm, xử lý tài liệu, so sánh, phân tích, tổng hợp…
6. Đóng góp của đề tài

Nghiên cứu trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, giúp chúng
ta nhìn nhận khách quan về sự tồn tại của trào lưu tư tưởng này trong dòng chảy của
lịch sử, đồng thời khẳng định vị trí và vai trò của khuynh hướng này đối với cách
mạng giải phóng dân tộc. Đề tài nghiên cứu thành công còn góp phần bổ sung nguồn
kiến thức phục vụ cho công tác giảng dạy sau này, làm tài liệu tham khảo cho đồng
nghiệp và những người quan tâm tìm hiểu trào lưu tư tưởng này.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu; Kết luận; Tài liệu tham khảo; phần phụ lục; luận văn gồm 3
chương:
- Chương 1: Qúa trình hình thành khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế
kỷ XX.
- Chương 2: Trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.
- Chương 3: Đặc điểm và vị trí, vai trò của trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt
Nam đầu thế kỷ XX.
4


B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KHUYNH HƯỚNG DÂN CHỦ
TƯ SẢN Ở VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1. Hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
1.1.1. Tác động của hoàn cảnh quốc tế đến Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thế giới có nhiều sự kiện quan trọng tác động tác
động mạnh mẽ đến sự chuyển biến của cách mạng Việt Nam, thời gian này hầu hết
các nước tư bản trên thế giới chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn cao hơn của
nó, đó là chủ nghĩa đế quốc. Vì vậy nhu cầu về thị trường nguyên liệu và nhân công
ngày càng trở nên bức thiết. Do đó, chúng đẩy mạnh quá trình xâm lược thuộc địa qua
các nước phương Đông. Công việc săn tìm thuộc địa lúc bấy giờ không còn là công
việc của giai cấp tư sản hay võ quan hiếu chiến nữa mà đã trở thành đường lối chung
của giai cấp tư sản. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo xâm lược thuộc địa của

các nước đế quốc.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX còn có một số biến cố lớn ảnh hưởng sâu sắc đến
cuộc vận động cách mạng và đấu tranh tư tưởng ở Việt Nam, đó là phong trào Duy
Tân Minh Trị ở Nhật Bản năm 1868, cuộc vận động biến pháp ở Trung Quốc dẫn đến
cách mạng Tân Hợi 1911. Nhật Bản trước khi cải cách Minh Trị là một nước phong
kiến quân chủ “bế quan tỏa cảng” như ở Việt Nam, bước sang thế kỷ XVIII sự phát
triển nội tại của Nhật Bản đã làm cho những mầm móng chủ nghĩa tư bản phát triển
nhanh chóng. Đó là những hải cảng, công trường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều
ở thành thị, kinh tế hàng hóa phát triển. Tầng lớp võ sĩ thuộc giới quý tộc hạng trung
và hạng nhỏ không có ruộng đất chỉ phục vụ các Đaiminô bằng việc huấn luyện và chỉ
huy các đội vũ trang để hưởng bổng lộc. Do một thời gian dài không có chiến tranh
nên địa vị của Samurai bị suy giảm, lương bổng thất thường, đời sống khó khăn, nhiều
người đã ra khỏi lãnh địa, tham gia hoạt động thương nghiệp, mở xưởng thủ
công,…dần dần tư sản hóa. Họ có thế lực về kinh tế nhưng không có quyền lực về
chính trị, địa vị xã hội không tương xứng. Vì vậy tầng lớp này trở thành lực lượng đấu
tranh mạnh mẽ chống chế độ phong kiến lỗi thời. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư
bản, đồng thời nhu cầu thị trường đòi hỏi ban đầu là xâm nhập vào các nước khác, đặc
5


biệt là những nước phong kiến lạc hậu. Chính vì thế, Nhật Bản bị các nước phương
Tây đòi mở cửa. Nhật Bản đến giữa thế kỷ XIX đã lâm vào cuộc khủng hoảng trầm
trọng với mâu thuẫn gay găt giữa lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa và quan hệ sản
xuất phong kiến, giờ đây đứng trước sự lựa chọn là duy trì chế độ phong kiến trì trệ,
bảo thủ để các nước đế quốc xâu xé hoặc là tiến hành duy tân, đưa Nhật Bản phát triển
theo con đường của các nước tư bản phương Tây. Cuối cùng nhờ có một số nhà lãnh
đạo đã sớm tỉnh ngộ trước họa xâm lăng, đã chiến thắng các lực lượng bảo thủ trong
nước, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Nhờ có duy tân, đổi mới, Nhật Bản đã trở
thành nước độc lập, không những thế mà còn sớm cường thịnh và có chính sách bành
trướng thực dân.

Trong thời gian này, Việt Nam đang lúng túng trước cuộc chiến tranh xâm lược của
Pháp. Đặc biệt khi phong trào Cần Vương thất bại 1896, những người Việt Nam yêu
nước đang lo tìm con đường cứu nước mới thì chiến tranh Nga – Nhật nổ ra (1904 –
1905). Nhật đại thắng, sự kiện này vang dội khắp năm châu, tác động mạnh mẽ đến
các nhà yêu nước Việt Nam cũng như nhiều nhà yêu nước khác trong khu vực Châu
Á, họ bỏ qua bản chất đế quốc của Nhật chỉ chú ý đến việc một cường quốc da vàng
đánh bại một cường quốc da trắng, chỉ những điều đó thôi, Nhật cũng được tôn làm
anh cả, dẫn đầu đàn cho Châu Á vùng lên, Nhật Bản được xem là vị cứu tinh của dân
tộc da vàng. Xu hướng thân Nhật đã phát triển ở nhiều nước Châu Á như: Trung
Quốc, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Thỗ Nhĩ Kỳ, Việt Nam,…Bằng chứng là khi
sang Nhật, Phan Bội Châu đã gặp Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu cũng đang hoạt
động ở đây.
Bên cạnh sự tác động của Nhật Bản thì những sự kiện ở Trung Quốc lúc bấy giờ cũng
tác động tới cách mạng Việt Nam, sau chiến tranh Trung – Nhật (1895), uy thế của
triều đình phong kiến Mãn Thanh xuống thấp. Phong trào đấu tranh của nhân dân lên
cao, nhiều sĩ phu tiến bộ và trí thức tư sản Trung Quốc đã mạnh dạn đòi cải cách. Họ
thành lập nhiều học hội, học đường, nhà xuất bản, tòa soạn,…truyền bá học thuyết
mới mẻ. Tiêu biểu là học hội của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu (ảnh hưởng của tư
tưởng quân chủ lập hiến trực tiếp từ Nhật Bản), Hưng Trung hội của phái trí thức Tây
học do Tôn Dật Tiên đứng đầu.

6


Trong khuôn khổ một nước phong kiến thì đề nghị của Lương – Khang, tức cải cách
đưa đất nước phát triển, nhưng sự thống trị của phong kiến vẫn còn thì dễ dàng chấp
nhận hơn, tháng 6/ 1897, vua Quang Tự nghe theo Khang Hữu Vi ban bố hiến pháp.
Chương trình gồm 11 điểm nhưng bị phái bảo thủ do thái hậu Từ Hy đứng đầu quyết
liệt chống đối. Cuộc vận động cải cách của Trung Quốc bị thất bại. Tuy nhiên những
tư tưởng tiến bộ của Lương – Khang đã gây được tiếng vang lớn, ảnh hưởng sâu rộng

vào nhân dân, đặc biệt là nhận thức tư tưởng thời đại. Từ đây những trào lưu tư tưởng
của phương Tây dễ dàng thâm nhập vào Trung Quốc, cũng như dễ dàng được tiếp
nhận và bắt đầu tấn công hệ tư tưởng phong kiến quan liêu, hủ bại, mở đường cho tư
tưởng dân chủ tư sản phát triển trong xã hội Trung Quốc, nó thức tỉnh phong trào yêu
nước nhân dân, nâng cao ý thức độc lập dân tộc chống ngoại xâm và ý thức dân chủ
chống chuyên chế. Cuộc đấu tranh đó dần phát triển lên cao dẫn đến cuộc cách mạng
Tân Hợi (1911) do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, chủ trương của hôị là đánh đổ Mãn
Thanh, khôi phục Trung Hoa, lập chính phủ liên hiệp. Đối với nước ta, Trung Quốc là
nước láng giềng có ảnh hưởng rất sâu sắc, Trung Quốc không chỉ là nước đồng văn,
đồng chủng mà còn là nước cùng cảnh ngộ: duy trì chế độ phong kiến quân chủ
chuyên chế, Nho giáo là thiết chế tư tưởng, chính trị – xã hội lâu đời và lúc bấy giờ
đều bị các nước đế quốc xâm lược. Những biến cố về chính trị, tư tưởng ở Trung
Quốc nhanh chóng dội vào Việt Nam theo từng thời kì và có những chuyển biến rõ
nét. Điển hình nhất là hoạt động của các nhà yêu nước Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh.
1.1.1. Tình hình trong nước
Trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ
quyền nhưng chế độ phong kiến đã bộc lộ những dấu hiệu của sự khủng hoảng và suy
yếu nghiêm trọng. Kinh tế ngày càng sa sút, tài chính khó khăn. Đúng như Nguyễn Tri
Phương nhận xét năm 1960 về tình hình Việt Nam, khi thực dân Pháp xâm lược thì
nước ta “của đã hết, sức đã thiếu’’, đã thế nhà Nguyễn còn đưa ra một số chủ trương
chính sách gây bất lợi cho sự phát triển của nền kinh tế. Đường lối đối ngoại sai lầm
“bế quan tỏa cảng’’ đã khiến cho Việt Nam bị cô lập. Việc hạn chế ngoại thương
không xuất phát từ việc bảo vệ thị trường trong nước mà xuất phát từ ý định ngăn
chặn sự xâm nhập của đạo Thiên chúa, cho nên đã dẫn đến chính sách đàn áp giáo sĩ
7


và giáo dân một cách mù quáng. Việc cấm đạo, sát đạo gay gắt càng tạo thêm cớ cho
kẻ thù bên ngoài lợi dụng triển khai mưu đồ xâm lược. Các vua kế tiếp nhau ra sức

củng cố chế độ quân chủ chuyên chế, quyền lực tập trung trong tay vua. Chỗ dựa của
nhà nước là giai cấp địa chủ, ruộng đất tư lúc bấy giờ phát triển mạnh hơn lúc nào hết
với 83%, còn lại 17% ruộng đất công, chính vì vậy, đời sống của nhân dân ngày càng
cực khổ, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nổ ra làm cho đất nước luôn trong tình trạng
không ổn định. Mười tám năm cai trị của vua Gia Long (1802 -1820) với 37 cuộc khởi
nghĩa của nông dân, bảy năm trên cương vị hoàng đế của Thiệu Trị (1940 – 1947) có
đến 56 cuộc khởi nghĩa của nông dân…Bên cạnh đó, khả năng quốc phòng yếu kém,
điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc chống sự xâm lược của các nước đế quốc
thực dân, trong cuộc chạy đua giành giật thuộc địa giữa các nước tư bản phương Tây,
cuối cùng tư bản Pháp bám sâu vào Việt Nam qua hội truyền giáo thừa sai Pari. Đồng
thời thông qua các mối quan hệ đã có từ trước cùng với việc lợi dụng sự suy yếu của
chế độ phong kiến Việt Nam, chính phủ Pháp ráo riết xúc tiến thực hiện âm mưu xâm
lược. Triều đình phong kiến Việt Nam vì những toan tính riêng tư, bảo vệ quyền lợi
giai cấp nên từ chống cự yếu ớt rồi dần chuyển sang chịu chia sẽ quyền lực với Pháp,
ngày càng bộc lộ sự bất lực của mình trượt dài qua các hiệp ước nhượng đất: Nhâm
Tuất (5/6/1862), Giáp Tuất (15/3/1874). Triều đình thực sự thừa nhận quyền cai trị
của Pháp ở Nam Kỳ, kết hợp với Pháp trong việc chống lại phong trào của nhân dân
và sau cùng là hai bản hiệp ước Hác – Măng (2/8/1883) và Pa-tơ-nốt (6/6/1884) chấm
dứt quá trình xâm lược Việt Nam. Như thế từ sau năm 1884, Việt Nam trở thành một
nước thuộc địa nửa phong kiến. Năm 1897, Việt Nam trở thành một bộ phận cuả Liên
bang Đông Dương. Thực dân Pháp thiết lâp bộ máy cai trị Liên bang để tiến hành quá
trình khai thác và bóc lột thuộc địa. Các chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất
(1897 - 1914) và lần thứ hai (1919 - 1929) của Pháp chủ yếu phục vụ cho nhu cầu
phát triển kinh tế của chính quốc. Hai cuộc khi thác thuộc địa trước và sau chiến tranh
thế giới thứ nhất đã tạo ra những biến đổi sâu sắc về nhiều mặt: chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội ở việt Nam.
+Về chính trị: Thực dân Pháp đặc biệt coi trọng chính sách về chính trị để cai trị thuộc
địa vừa chiếm được. Chúng đã tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước hoàn chỉnh,
thống nhất có tính chất chặt chẽ từ trên xuống. Để đảm bảo thu được nhiều lợi nhuận
8



tối đa, thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế về chính trị. Mọi quyền điều
hành đều nắm trong tay Pháp, vua quan triều Nguyễn chỉ là bù nhìn. Chúng cai trị trực
tiếp và thẳng tay đàn áp, không cho dân ta có một chút quyền tự do dân chủ nào, kể cả
chủ nghĩa cải lương cũng không được phép, “Chia để trị” là chính sách cai trị điển
hình của Pháp ở Việt Nam, mục đích của chúng là làm suy yếu lực lượng dân tộc Việt
Nam; Chúng chia cắt nước ta thành 3 xứ với chế độ khác nhau. Nam Kì là xứ thuộc
địa do Pháp nắm nên được gọi là chế độ trực trị do một viên quan Thống đốc của Pháp
đứng đầu. Bắc Kì và Trung Kì là 2 xứ bảo hộ vẫn giữ lại chính quyền phong kiến về
hình thức. Bắc Kì do Thống sứ đứng đầu, Trung Kì do Khâm sứ đứng đầu, cả hai
cũng đều là người Pháp. Người Việt Nam muốn đi lại giữa các kì phải xin phép như ra
nước ngoài. Với thủ đoạn này, thực dân Pháp muốn xóa tên Việt Nam, Lào,
Campuchia trên bản đồ thế giới, vì bấy giờ chỉ còn là Liên bang Đông Dương chia rẽ
nhân dân thuộc địa với nhân dân Pháp, chia rẽ nhân dân các nước thuộc địa với nhau.
Riêng ở Việt Nam, thực dân Pháp đã phá hoại tính thống nhất dân tộc, dựng nên hàng
rào chia cắt về chế độ, kéo theo các cơ quan cai trị riêng biệt, ngăn cản sự giao lưu qua
lại, ngăn cản sự phát triển chung, đặc biệt là nhằm phá vỡ khối đoàn kết dân tộc của
ta, giảm sức mạnh trong việc đánh lại chúng, bên cạnh đó, thực dân Pháp còn tạo ra
đạo luật về quân đội thuộc địa (7/1/1900) bao gồm lính Pháp và lính bản xứ. Quân đội
đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của viên Tổng chỉ huy người Pháp. Mục đích là nhằm
đàn áp các cuộc khởi nghĩa, canh giữ các nhà tù, đàn áp chống đối, ổn định thuộc địa.
Cùng với quân đội chính quy, ngày 30/6/1915 Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập
lực lượng cảnh sát đặc biệt. Nhiệm vụ là đảm bảo trật tự, an ninh trong tỉnh, canh giữ
các công sở, các tuyến đường giao thông. Để tăng cường đàn áp, ngày 28/6/1917 Toàn
quyến Đông Dương ra nghị định thành lập Sở tình báo và an ninh trung ương (Sở mật
thám Đông Dương). Mỗi xứ có một cơ quan mang tên cảnh sát an ninh. Đi đôi với bộ
máy quân sự, cảnh sát là hệ thống pháp luật khắc nghiệt cùng hệ thống tòa án, nhà tù
dày đặc khắp Việt Nam, từ huyện, phủ, châu trở lên đều có nhà tù và trại giam.
Như vậy, rõ ràng bộ máy chính quyền của thực dân Pháp được thiết lập trên cơ sở của

sự cấu kết chặt chẽ giữa thực dân Pháp với giai cấp phong kiến phản động, do thực
dân Pháp chi phối nhằm thực hiện chính sách khai thác bóc lột vô cùng tàn bạo của
chúng. Nhân dân Đông Dương nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng cuối thế kỷ
9


XIX đầu thế kỷ XX sống trong cảnh ngột ngạt, không có một quyền tự do dân chủ
nào. Hơn nữa, nhân dân còn bị áp bức bóc lột tàn nhẫn vô hạn của chính quyền thuộc
địa.
+ Về kinh tế: Các nước đế quốc đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa nhằm thõa mãn nhu
cầu phát triển kinh tế và nâng cao nguồn lợi nhuận. Do đó, sau khi hoàn thành xâm
lược thuộc địa thì chúng bắt tay ngay vào quá trình khai thác các nguồn lợi ở thuộc địa
một cách triệt để. Việt Nam là một nước có nguồn tài nguyên thiên thiên phong phú
và đa dạng, vị trí địa lí thuận lợi và sẵn nhân công, nhưng phương phức sản xuất lạc
hậu, do tư tưởng khép kín, không thức thời nhạy bén tiếp cận thành tựu hiện đại, tiến
bộ của phương Tây nên không thể khai thác hết tiềm năng nội sinh để phát triển đất
nước. Vì vậy, để bóc lột tối đa lợi nhuận ở thuộc địa, Pháp đã thi hành một chính sách
thực dân rất phản động là bóc lột nặng nề về kinh tế ở nước ta. Trong chương trình
hành động gửi Bộ trưởng Bộ thuộc địa (22/3/1897), Đume nêu rõ “xây dựng cho
Đông Dương một thiết bị kinh tế to lớn, một hệ thuống đường sắt, đường bộ, sông
hào, bến cảng những cái cần thiết cho sự khai thác xứ Đông Dương”. Đường bộ được
mở rộng đến những khu vực hầm mỏ, đồn điền, và các vùng biên giới quan trọng: trục
đường xuyên Đông Dương, đường Sài Gòn-Tây Ninh tới biên giới Campuchia, đường
Vinh-Sầm Nứa, Hà Nội-Cao Bằng,… lưu thông một cách xuyên suốt. Tổng số chiều
dài xây dựng thời kì này là 20.000 km, cùng với 14.000 km đường dây điện thoại. Mở
mang đường sắt được giới tư bản ưu tiên để phục vụ chuyên chở hàng hóa, nguyên
liệu và tạo ra phương tiện để đưa quân đội đến những nơi cần thiết nhằm đàn áp các
cuộc khởi nghĩa. Các đường xe lửa lần lượt được hoàn thành: Hà Nội-Lạng Sơn
(1902), Hà Nội – Vinh (1905), Đà Nẵng – Huế (1906), Sài Gòn – Nha Trang, Hải
Phòng – Vân Nam (1910),…Tính đến năm 1912, tổng số chiều dài đường sắt đã xây

dựng ở Việt Nam là 2099km. Tất cả những tuyến đường sắt trừ tuyến Hải Phòng –
Vân Nam đều do chính quyền thực dân Pháp thu lãi. Đường thủy cũng được khai
thông ở các con sông lớn như: sông Hồng, Thái Bình, Đồng Nai, sông Hậu Giang và
các kênh rạch. Các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn cũng được xây dựng, riêng ở
Nam Kỳ đến năm 1914 có 1745 km đường thủy và tàu chạy bằng hơi nước. Như vậy
chỉ trong thời gian ngắn (hơn 10 năm đầu thế kỷ XX), thực dân Pháp đã đầu tư làm

10


thay đổi hẳn cơ sở hạ tầng Việt Nam; Đó là sự đầu tư có dụng ý, nhằm phục vụ cho
quyền lợi thực dân, phục vụ cho mưu đồ thống trị, khai thác và bóc lột của chúng.
Trái với tinh thần của cuộc đại cách mạng Pháp (1789) là diệt trừ tận gốc chế độ
phong kiến, mở đường cho nước Pháp hướng mạnh vào con đường phát triển tư bản.
Chính sách kinh tế của Pháp ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng lại duy
trì phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu, áp dụng phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa một cách máy móc, rập khuôn.
Trong nông nghiệp, Pháp cướp đoạt ruộng đất của nông dân một cách trắng trợn, được
che đậy bắng sự hợp thức hóa của Điều ước, Nghị định: “năm 1897 thực dân Pháp bắt
triều đình Huế kí điều ước cho thực dân Pháp quyền khai khẩn đất hoang. Tiếp đó
ngày 1/5/1900 Thực dân Pháp ra Nghị định quyền sở hửu ruộng đất trong luật pháp
phong kiến” chúng lập ra hàng loạt các đồn điền kinh doanh theo phương thức tư bản
chủ nghĩa nhưng lại bóc lột bằng cách phá canh thu tô kiểu phong kiến. Những chính
sách trong công nghiệp của Pháp đã kìm hãm nền công nghiệp Việt Nam trong vòng
lạc hậu. Nông dân bị mất đất, bần cùng đói khổ, lực lượng sản xuất bị hao mòn, kinh
tế nông nghiệp ngày trở nên sa sút.
Trong công nghiệp, Pháp chỉ chú trọng một số ngành công nghệp phục vụ cho quá
trình khai thác và vơ vét tài nguyên khoáng sản Việt Nam. Công nghiệp nhẹ chỉ được
phát triển trong một số lĩnh vực phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của Pháp ở thuộc địa.
Công nghiệp Việt Nam không được cạnh tranh với công nghiệp Pháp. Một số nền

công nhiệp đã xuất hiện ở Việt Nam, đó chỉ là một nền công nghiệp phiến diện, què
quặt, không có công nghiệp nặng, điều đó thể hiện rõ tính chất thuộc địa của nền kinh
tế Việt Nam lúc bấy giờ.
Về thương nghiệp, Pháp độc chiếm thị trường Việt Nam, hàng hóa Pháp nhập hoàn
toàn miễn thuế còn hàng hóa các nước khác phải chịu thuế cao nên hầu hết ít vào được
thị trường Việt Nam. Chính sách độc quyền về thương mại của Pháp đã bần cùng hóa
nhân dân lao động và bóp chết ngành tiểu thủ công nghiệp Việt Nam. Hình thức bóc
lột nặng nề về kinh tế của thực dân Pháp thể hiện ở việc chúng lập ra Ngân sách chung
cho 5 xứ Đông Dương dưới hình thức Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng này là một
tập đoàn tư bản tài chính lớn, chi phối mọi ngành kinh tế ở Đông Dương. Nguồn thu
của Ngân sách chủ yếu là thuế. Thuế cũ thì tăng vọt, nhiều thuế mới thật vô lí được
11


đặt ra: thuế thân, thuế chợ, thuế vỉa hè, thuế xe… “Trên chiếc lưng cao su của người
An Nam, nhà nước tha hồ kéo dài mức thuế co dãn”
Nhìn chung, chính sách về kinh tế của thực dân Pháp đã làm cho kinh tế Việt Nam có
những thay đổi căn bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đan xen cùng tồn tại với
quan hệ sản xuất phong kiến vốn có. Công, nông, thương nghiệp có bước phát triển
nhưng không cân đối về cơ cấu, què quặt và phụ thuộc nặng nề vào đế quốc Pháp.
Pháp là nước tư bản già lạc hậu so với các nước tư bản trẻ phát triển mạnh lúc bấy giờ:
Mĩ, Đức,…Pháp có nền kỹ thuật đã lỗi thời, hàng hóa không thể cạnh tranh nổi với
các nước tư bản đang phát triển, nên Pháp phải giải quyết khủng hoảng của mình bằng
cách độc chiếm thị trường thuộc địa, hạn chế cạnh tranh, đồng thời là khai thác triệt để
nguồn lợi thuộc địa đem về chính quốc sản xuất rồi lại mang hàng hóa sang tiêu thụ ở
thuộc địa. Đây là phương thức kinh doanh khác cơ bản so với Mĩ, Đức. Chính vì vậy,
thuộc địa của Pháp có nền kinh tế què quặt, không tiếp nhận được thành tựu mới,
không được giao lưu, đó chính là nguyên nhân cho sự trì trệ kéo dài, khó khắc phục,
cải tạo của Việt Nam sau cách mạng giải phóng dân tộc.
Về xã hội: xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dưới sự tác động của

công cuộc khai thác của thực dân Pháp đã có sự phân hóa sâu sắc. Giai cấp địa chủ
phong kiến vốn thuộc giai cấp thống trị nay đầu hàng đế quốc, dựa vào đế quốc để áp
bức bóc lột nhân dân ta, vì vậy đây là đối tượng của cách mạng. Song do chính sách
cai trị của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ bị phân hóa thành các thành phần khác
nhau, một bộ phận làm tay sai cho thực dân Pháp, một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ ít
nhiều có tinh thần dân tộc đã đứng lên chống thực dân Pháp khi có cơ hội. Giai cấp
nông dân là giai cấp đông đảo nhất trong xã hội, chiếm 90% dân số và bị đế quốc, địa
chủ bóc lột nặng nề. Vì vậy họ căm thù thực dân phong kiến, khao khát độc lập và
ruộng đất, họ tích cực tham gia và là nguồn động lực chính trong các cuộc đấu tranh
chống đế quốc, phong kiến. Nhưng trong cách mạng dân tộc họ không thế giữ vai trò
lãnh đạo vì không đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến. Bên cạnh các giai
cấp phong kiến cũ thì thời kì này đã xuất hiện các giai tầng mới. Đó là công nhân và
tư sản. Giai cấp công nhân ra đời là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp. Mặc dù mới ra đời, số lượng còn ít, trình độ văn hóa còn thấp,
nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng trưởng thành về số lượng và chất
12


lượng, có khả năng lãnh đạo cách mạng sau này. Tư sản thật sự trở thành một giai cấp
tứ sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Bị tư bản Pháp chèn ép, nên giai cấp tư sản Việt
Nam phân hóa thành hai bộ phận: tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Giai cấp tư sẩn
mại bản gắn chặt quyền lợi với Pháp. Giai cấp tư sản dân tộc tuy có tinh thần yêu
nước chống đế quốc, phong kiến nhưng ra đời muộn, thế lực yếu kém về kinh tế lẫn
chính trị, nên dễ cải lương trong quá trình đấu tranh và không có khả năng lãnh đạo để
đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Các chính sách cai trị của Pháp ở các nước thuộc địa, còn làm cho tầng lớp trí thức
tiểu tư sản ngày càng đông, đây là những người được chế độ phong kiến và thực dân
đào tạo. Họ ít nhiều bị chèn ép và do truyền thống yêu nước chi phối nên họ cũng
khao khát được độc lập tự do. Khi có điều kiện thì đây là lực lượng nhạy bén tiếp thu
và truyền bá tư tưởng mới và là “ngòi pháo” của các cuộc đấu tranh chống thực dân,

phong kiến. Như vậy sự ra đời của những lực lượng xã hội mới đã tạo điều kiện bên
trong cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo khuynh hướng mới, với động lực là
những giai tầng có thái độ chính trị và khả năng cách mạng khác nhau.
Về văn hóa giáo dục: thực dân pháp thi hành chính sách ngu dân triệt để, giam hãm,
đầu độc nhân dân ta trong vùng tăm tối. Chúng xây dựng nhà tù nhiều hơn trường học
và bệnh viện. Chính sách văn hóa của Pháp ở Việt Nam chỉ nhằm thực hiện mục đích
thực dân “làm cho dân ta ngu để dễ bề cai trị’’.Pháp chỉ mở trường dạy tiếng Pháp
nhằm đào tạo đội ngũ tay sai thuộc địa. Chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng văn hóa
tiến bộ trên thế giới, truyền bá văn hóa đồi trụy và mê tín dị đoan. Hậu quả là thiếu
trường học một cách trầm trọng, hàng ngàn trẻ em Việt Nam không biết chữ, thanh
niên thì bị ngăn cản không cho du học phương Tây để tiếp thu tư tưởng tiến bộ của thế
giới. Đồng thời chúng còn tìm cách trấn áp, loại trừ những nhà trí thức yêu nước “đòi
bỏ rọ lăn sông các sĩ phu”. Tuy nhiên, ngoài ý muốn chủ quan của Pháp, trong khi cố
tạo ra những điều kiện thuận lợi phục vụ cho bộ máy cai trị trực tiếp ở Việt Nam,
chúng đã tạo ra một môi trường văn hóa mới ngoài mục đích văn hóa thực dân. Trong
thành phần những tri thức do các trường học mới đào tạo có không ít người có nguồn
gốc là con em những gia đình có thù với thực dân Pháp. “Họ tất nhớ cha anh họ bị
đày, bị giết vì nước, người trước người sau sớm muộn gì cũng theo dấu cha anh, đứng
lên đỡ lấy cái gánh nặng non sông mà cha anh họ còn để lại giữa đường’’. Dưới ách
13


cai trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đang khao khát tìm kiếm một con đường
giải phóng dân tộc khi tư tưởng phong kiến đang suy tàn, mất hết vai trò lãnh đạo, tư
tưởng mới được tiếp thu một cách nhanh chóng, đó là tư tưởng dân chủ. Thực dân
Pháp cố gắng tìm mọi cách ngăn chặn, nhưng có một thứ mà chúng không thể nào
ngăn chặn nổi đó lại tinh thần tìm hiểu, nghiên cứu về giải phóng dân tộc của những
người yêu nước Việt Nam. Như vậy, những chính sách cai trị của Pháp ở Việt Nam
mang đậm tính chất thực dân: chuyên chính về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế, nô
dịch tàn bạo về văn hóa giáo dục. Khi mà hệ tư tưởng phong kiến không còn giữ vai

trò chủ đạo nữa, phong trào yêu nước theo lập trường phong kiến dần tàn lụi, thất bại
thì những biến đổi về chính trị - kinh tế- văn hóa trong chế độ thực dân là tiền đề cho
sự xuất hiện những luồng tư tưởng khác nhau, đồng thời là cơ sở cho sự tiếp nhận, hấp
thụ những nguyên lý cứu nước mới đối với Việt Nam lúc bấy giờ, đó là khuynh hướng
dân chủ tư sản.
1.2. Sự du nhập của khuynh hướng dân chủ tư sản vào Việt Nam
1.2.1. Nguồn gốc của tư tưởng dân chủ tư sản
Dân chủ ngày nay được hiểu là một chính quyền mà trong đó nhân dân là người làm
chủ, là người quyết định mọi việc. Dân chủ bao hàm ý nghĩa thừa nhận quyền tự do
bình đẳng của mọi công dân. Nguyên tắc đặc trưng của chế độ dân chủ là thiểu số phải
phục tùng đa số trong quá trình tham gia bàn bạc và định đoạt công việc chung. Tư
tưởng dân chủ tư sản là thành quả của các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại. Tuy
nhiên không phải là khi cách mạng thắng lợi, chính quyền cách mạng được thiết lập
thì tư tưởng dân chủ tư sản mới ra đời, mà tư tưởng này đã xuất hiện từ trước. Tư
tưởng dân chủ tư sản là tiền đề tư tưởng cùng với tiền đề kinh tế, chính trị – xã hội,
xuất hiện trước mỗi cuộc cách mạng tư sản, chuẩn bị cho các cuộc cách mạng tư sản
bùng nổ. Ở Anh, hệ tư tưởng dân chủ tư sản thể hiện qua các cuộc đấu tranh của
Thanh giáo chống Anh giáo để xác lập môt tôn giáo rẻ tiền, ít tốn kém thời gian và
phù hợp với việc kinh doanh của nhà tư bản. Thanh giáo ra đời nhằm hạn chế sự
chuyên quyền của nhà nước phong kiến, phản đối giáo hội Anh. Vì thế, nhà nước
phong kiến đã sử dụng bạo lực để đàn áp các tín đồ Thanh giáo. Giai cấp tư sản nấp
dưới tà áo tôn giáo mới để lôi kéo lực lượng thực hiện mục đích của mình. Ở Pháp, từ
đầu thế kỷ XVIII đã xuất hiện trào lưu tư tưởng “ánh sáng” với nhiều quan điểm tốt
14


đẹp chống chế độ phong kiến, tôn giáo, xây dựng một mô hình xã hội lý tưởng với ba
đại biểu xuất sắc: Mông-te-xki-ơ, Rut-xô, Vôn-te. Ở Nhật, trước Duy Tân Minh Trị đã
xuất hiện trào lưu “Hà Lan học”, đề xướng tư tưởng “trọng thương’’, tiếp thu nhiều tư
tưởng tiến bộ của phương Tây…Tư tưởng dân chủ tư sản xuất hiện từ sự khao khát

một cuộc sống tự do; muốn thoát khỏi sự chuyên chế của nhà nước phong kiến, sự hà
khắc của giáo hội Kitô; thoát khỏi sự áp bức bóc lột nặng nề của xã hội hiện tại, mơ
ước một xã hội mới công bằng.
1.2.2. Các con đường du nhập của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam
Luồng tư tưởng dân chủ tư sản tràn vào Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chủ
yếu qua 3 con đường chính: từ Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc.
Con đường du nhập tư tưởng này đến Việt Nam qua quá trình xâm lược và khai thác
thuộc địa của Pháp ở Việt Nam là chủ yếu. Người Pháp đến Việt Nam, bên cạnh bộ
phận những người trong chính quyền thực dân, còn có những trí thức, hay các nhà
khoa học tới Việt Nam với mục đích nghiên cứu, dạy dọc,...Và đặc biệt trong đó
không thể không kể tới đó chính là các giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa, họ ít nhiều
cũng mang tư tưởng bình đẳng của Chúa đến với giáo dân. Lênin viết “Thế kỷ XIX là
thế kỷ đem lại văn minh và văn hóa cho toàn thể nhân loại đã tiếp diễn dưới dấu hiệu
của đại cách mạng Pháp”, hơn thế nữa, nền giáo dục Pháp ở Việt Nam mặc dù với
mục đích chính là đào tạo những người làm việc cho bộ máy cai trị chính chính quyền
thực dân nhưng ít nhiều cũng mang đến cho những người Việt theo Pháp học có
những hiểu biết về tư tưởng “ánh sáng” với Milê, người đã có quan niệm về chủ nghĩa
cộng sản không tưởng; Mông-te-xki-ơ với tư tưởng xây dựng hệ thống nhà nước “tam
quyền phân lập, kiềm chế đối trọng”. Vôn-te có tư tưởng chống độc tài phong kiến và
nhà thờ Thiên Chúa; hay Đi-đơ-rô với quan điểm triết học duy vật và Rut-xô với tư
tưởng dân chủ cách mạng và nhà nước dân chủ, vì vậy nền giáo dục Pháp ở Việt Nam
không tránh khỏi đem những tư tưởng này vào giới trí thức nước ta.
Tư tưởng dân chủ tư sản ở Pháp đến Việt Nam không chỉ thâm nhập qua những người
Việt Nam làm việc cho Pháp, các tri thức Tây học trong nước mà còn qua một lực
lượng quan trọng là những người Việt Nam xuất ngoại sang Pháp. Những người Việt
tới Pháp gồm những nhà tư tư sản hay trí thức, bằng cách này hay cách khác sang
Pháp học tập, làm ăn. Do Pháp ra sức ngăn cản việc người Việt Nam đi du học nước
15



ngoài, đặc biệt là qua Pháp vì sợ họ tiếp thu những tư tưởng mới, nên số lượng này là
không nhiều ở nước ta lúc bấy giờ. Chiếm số lượng khá đông là người Việt Nam làm
việc trên những chuyến tàu của Pháp, hay bị đưa sang Pháp tham chiến trong cuộc
chiến tranh thế giới thứ nhất. Đây là con đường tiếp cận tư tưởng dân chủ tư sản
phương Tây trực tiếp chính bằng trình độ nhận thức của người Việt. Tuy nhiên, trong
buổi đầu tư tưởng dân chủ tư sản du nhập vào, thành phần tiếp nhận có nhiều hạn chế
giai cấp lịch sử cùng với không gian tiếp cận không đầy đủ nên phong trào yêu nước
Việt Nam gắn với tư tưởng mới này chưa có sự chuyển biến rõ nét và phát triển cao.
Con đường thứ hai của việc truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản vào Việt Nam là thông
qua Nhật Bản. Cuộc Duy Tân Minh Trị ở Nhật Bản và việc nước Nhật chiến thắng
trong chiến tranh Nga – Nhật (1895), trong khi các nước Châu Á đều bị biến thành
thuộc địa hay phụ thuộc của các nước đế quốc thực dân. Điều đó khiến cho Nhật Bản
trở thành tấm gương, một người “anh cả da vàng” để các nước khác học tập. Cuộc
Duy Tân Minh Trị có ảnh hưởng rất lớn đến các nước Châu Á, trước hết là đối với
Trung Quốc. Sau 30 năm cuộc Duy Tân Minh Trị, một phong trào Duy Tân đã bùng
nổ ở Trung Quốc. Người chủ xướng phong trào duy tân ở Trung Quốc là Khang Hữu
Vi. Ông muốn bắt chước Nhật Bản, cũng tiến hành một cuộc cải cách dưới trướng của
một đấng minh quân, nhưng do hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước Trung Quốc
không cho phép nên phong trào duy tân của Khang Hữu Vi bị thất bại. Cuộc Duy Tân
Minh Trị ở Nhật Bản cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam. Cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX các sĩ phu yêu nước Việt Nam như cụ Phan Bội Châu đã hướng về
Nhật Bản với lòng ngưỡng mộ và đã bỏ nhiều công sức để tìm con đường cứu nước tại
đất nước của Thiên hoàng Minh Trị này. Thậm chí ở Trung Quốc cũng diễn ra một
phong trào Đông du sang Nhật để học tập và sau Đông du ở Trung Quốc là phong trào
Đông du ở Việt Nam.
Khuynh hướng dân chủ tư sản cũng đến với Việt Nam nhờ rất nhiều vào một con
đường khác là Trung Quốc. Đối với nước ta, Trung Quốc không chỉ là nước đồng văn,
đồng chủng mà còn là nước cùng chung hoàn cảnh, ảnh hưởng Nho giáo Trung Quốc
ở Việt Nam hất sức sâu đậm. Đầu thế kỷ XX cho đến chiến tranh thế giới thứ nhất,
hầu hết các sĩ phu yêu nước đều xuất thân từ tầng lớp sĩ phu Nho học. Số theo Tây học

hồi đó rất hiếm do nhiều nguyên nhân khác nhau, chưa có các nhà lãnh đạo cách mạng
16


xuất thân từ tầng lớp trí thức Tây học. Việc người Việt học tập những tư tưởng qua
Trung Quốc phần nào cũng vì tác động từ những cuộc đấu tranh của trí thức tư sản
Trung Quốc như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Tôn Trung Sơn,..qua cuộc vận
động biến pháp, qua cách mạng Tân Hợi,…Hơn thế nữa, cả hai nước đều sử dụng Hán
tự. Chính vì những lí do đó mà tư tưởng dân chủ tư sản qua Trung Quốc vào Việt
Nam có vai trò rất lớn của Tân thư, Tân văn Trung Quốc bấy giờ. Và theo Tân thư,
Tân văn từ Trung Quốc, tư tưởng của nhà “khai sáng” Pháp cũng được dịch truyền
vào Việt Nam một cách phổ biến. Tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây vào Việt Nam
thông qua Nhật Bản và Trung Quốc rõ ràng đã có sự biến dạng nhất định.
Cùng với sự thất bại của khuynh hướng cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, chính
sách cai trị của chính quyền thực dân, sự khao khát độc lập, tự do mãnh liệt của nhân
dân Việt Nam càng tạo điều kiện cho những nhà yêu nước nhanh chóng tiếp thu tư
tưởng dân chủ tư sản, một tư tưởng mới và tiến bộ so với Việt Nam lúc bấy giờ.
1.2.3. Cơ sở hình thành của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam
1.2.3.1. Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến
Sau khi buộc triều đình Huế kí hiệp ước Pa-tơ-nốt (6/6/1884), thực dân Pháp về cơ
bản đã hoàn thành xong quá trình xâm lược toàn bộ Việt Nam, nhưng chúng còn mất
thêm hơn mười năm liên tục hao người, tốn của để tiến hành cuộc bình định bằng
quân sự nhằm đối phó với cuộc chiến tranh quyết liệt của ta. Đó là cuộc nổi dậy của
phái chủ chiến ở kinh thành Huế (1884), phong trào yêu nước của văn thân, sĩ phu
hưởng ứng chiếu Cần Vương (1885 - 1896) và phong trào nông dân tự phát, tiêu biểu
là khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884 - 1913). Và đó
cũng chính là những phong trào thể hiện sự nổ lực cuối cùng của khuynh hướng cứu
nước theo hệ tư tưởng phong kiến. Cuối thế kỷ XIX, phong trào vũ trang chống Pháp
dưới ngọn cờ Cần Vương do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết đứng đầu với hi vọng
khôi phục lại chủ quyền. Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi hai lần ban

Chiếu Cần Vương (13/7/1885 và 20/9/1885) nhằm kêu gọi nhân sĩ khắp nơi giúp vua
cứu nước. Tầng lớp văn thân, sĩ phu yêu nước tiến bộ hưởng ứng sôi nổi, đứng ra
chiêu mộ nghĩa sĩ, lập đồn trại kháng chiến. Văn thân, sĩ phu là những người không có
đặc lợi ở triều đình, cũng không có tư gia điền sản lớn ở nông thôn nhưng họ có hệ tư
tưởng yêu nước gắn với hệ tư tưởng phong kiến. Do đó, yêu nước phải trung quân. Đó
17


là lập trường của Nho giáo truyền thống của phong kiến. Nhưng kể từ khi Pháp xâm
lược, cùng với thái độ của triều đình, họ đã chống lại triều đình, không còn trung với
vua nữa. Họ chống lại mệnh lệnh của vua để cùng nhân dân kháng Pháp. Khi Chiếu
Cần vương ban ra, tư tưởng “trung quân ái quốc’’ của họ đã trở lại. Văn thân, sĩ phu là
những người hăng hái nhất, đứng ra lãnh đạo phong trào nhân dân “giúp vua cứu
nước”; Năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt thì đâu là động lực đấu tranh? Quá trình đấu
tranh chưa chấm dứt. Có những cuộc khởi nghĩa quy mô lớn trình độ cao như: Bãi
Sậy, Ba Đình, Hùng Lĩnh, Hương Khê. Và như vậy, động lực “giúp vua cứu nước” đã
chuyển sang “giúp dân cứu nước”. Hay quan điểm lập trường sĩ phu, văn thân thay đổi
từ “trung quân ái quốc” sang “trung dân ái quốc”, từ lập trường giai cấp sang lập
trường dân tộc. Đây là bước chuẩn bị đầu tiên cho sự tiếp nhận tư tưởng mới, phù hợp
tư tưởng dân chủ tư sản sau này. Phong trào chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương đã
tàn lụi với sự thất bại hoàn toàn của cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1896). Một số thổ
hào địa phương nổi dậy ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta và đã
duy trì cuộc chiến đấu trong những điều kiện hết sức khó khăn, phải thủ hiểm trong
những vùng rừng núi hẻo lánh và suy yếu dần, đi đến con đường tan rã. Duy chỉ có
cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo vẫn hiên ngang đương đầu
với địch, nhưng trước âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù, phong trào dần đi vào con
đường thất bại. Khác với phong trào Cần Vương, diễn ra và thất bại khi chưa chịu tác
động của tư tưởng dân chủ tư sản, nên khi kết thúc không có mầm mống chuyển sang
dân chủ tư sản. Còn đối với phong trào nhân dân Yên Thế thời gian tồn tại có ảnh
hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản. Vì thế giai đoạn sau, phong trào này có sự dao

động khi mà người lãnh đạo phong trào nhân dân Yên Thế là Hoàng Hoa Thám đã có
sự tiếp xúc với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Tôn Trung Sơn (khi Tôn Trung
Sơn sang tuyên truyền tư tưởng cách mạng cho Hoa Kiều, ấn náu tạm thời vì mục đích
cách mạng). Phong trào nông dân Yên Thế cuối cùng cũng thất bại, song đặc điểm của
nó là sự dao động, mang hơi hướng của lập trường dân chủ tư sản. Đây là bước quá độ
chuyển biến tư tưởng đầu tiên trong cách mạng Việt Nam.
Như vậy tất cả những phong trào chống Pháp nổ ra cuối thế kỷ XIX đều lần lượt thất
bại, thất bại không phải vì người lãnh đạo kém nhiệt huyết, nhân dân kém anh dũng
mà do nguyên nhân chủ quan, khách quan chi phối. Đặc biệt, thất bại là do hệ tư
18


tưởng phong kiến lúc bấy giờ đã lạc hậu, lỗi thời, mất vai trò lãnh đạo cách mạng Việt
Nam trong tình hình mới. Điều đó chỉ ra yêu cầu bức thiết của phong trào yêu nước
Việt Nam thời điểm này cần nhanh chóng thoát khỏi những bế tắc của thời đại và
quan trọng là mau chóng tìm ra một hệ tư tưởng mới chỉ đạo cho con đường cứu nước
giành độc lập tự do.
1.2.3.2. Những chuyển biến kinh tế – xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX
Chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam đã gây ra nhiều hậu quả: kinh tế tàn
tạ, chính trị ngột ngạt, các giai cấp trong xã hội phân hóa sâu sắc, đời sống nhân dân
hết sức khó khăn,…Những cơ sở kinh tế – xã hội lúc bấy giờ là kết quả tất yếu của
chế độ thực dân nửa phong kiến. Được sống trong độc lập, tự do là nguyện vọng thiết
tha của mọi người. Đó là những tiền đề cho cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở nước
ta. Trong những năm đầu thế kỷ XX, chính sách cai trị của thực dân Pháp đã tước đoạt
hết quyền tự do của nhân dân ta. Chính sách khai thác của thực dân đã làm cho nền
kinh tế nước ta phụ thuộc hoàn toàn vào nền kinh tế nước Pháp. Những nhà máy, xí
nghiệp, hãng buôn, hệ thống giao thông, hải cảng, thành thị ra đời hợp thành bộ phận
kinh tế tư bản thực dân, chỉ có tác dụng tiêu thụ hàng công nghiệp của tư bản Pháp,
nền công nghiệp Việt Nam lúc này nằm trong tay nhà nước thực dân. Hướng phát
triển của nó đã được vạch sẵn là: “chỉ giới hạn trong phạm vi sao cho nền công nghiệp

đó không tổn hại đến công nghiệp chính quốc. Nền công nghiệp chính quốc phải được
nền công nghiệp thuộc địa bổ sung chứ không bị nền công nghiệp này phá hoại”. Nói
cách khác, công nghiệp thuộc địa được đẻ ra là để làm những cái mà công nghiệp
Pháp không thể làm được, để cung cấp những sản phẩm đến những nơi mà sản phẩm
công nghiệp Pháp không đến được. Chúng vơ vết các mặt hàng nông – lâm nghiệp để
xuất khẩu và “ăn cướp có tổ chức” tài nguyên thiên nhiên nước ta. Tính chất độc
quyền của nền kinh tế thực dân đã dẫn tới hậu quả là quan hệ sản xuất phong kiến
trong nông nghiệp được duy trì gần như nguyên vẹn, các ngành thủ công cổ truyền
đang phát triển theo hướng tích cực thì bị bóp nghẹt, kinh tế tư bản dân tộc bị kìm
hãm không sao phát triển được. Kinh tế nước ta do đó mà ngày càng kiệt quệ, công
nhân, nông dân lâm vào cảnh đói rách, bần cùng, bi đát. Đời sống của các tầng lớp
khác như tiểu tư sản, dân nghèo thành thị luôn bị đe dọa. Do đó có thể nói rằng nền
kinh tế Việt Nam đầu thế kỷ XX về cơ bản vẫn mang nặng tính tự cung tự cấp. Pháp
19


độc chiếm thị trường Đông Dương, nắm nguồn thuế, độc quyền thương mại, thuế
quan, xuất nhập khẩu. Hai thứ thuế trực thu và gián thu tăng mạnh. Nhiều thứ thuế
mới được đặt ra để nuôi sống một số lượng quan lại đông đúc, nhất là các quan chức
Pháp lương cao, đồng thời góp tiền của để hoàn chỉnh cơ sở kỷ thuật cho cuộc khai
thác thuộc địa đại quy mô của Pháp. Sự áp bức tàn bạo về chính trị và bóc lột nặng nề
về kinh tế của thực dân Pháp đã gây nên phản ứng mạnh mẽ trong nhân dân ta, nhất là
công nhân và dân nghèo thành thị, một bộ phận trí thức yêu nước. Độc lập, tự do lúc
bấy giờ là niềm khao khát cháy bỏng, là động lức to lớn thúc đẩy họ đấu tranh chống
thực dân, phong kiến khi có thời cơ. Xã hội Việt Nam lúc bấy giờ chưa sản sinh được
một giai cấp có đủ sức lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ, nhưng đã sản sinh ra một
lớp người thay thế ban đầu đó là tầng lớp văn thân, sĩ phu yêu nước tiến bộ đang trên
con đường tư sản hóa. Họ phần nào nắm bắt được nguyện vọng của quần chúng nhân
dân, đứng ra đảm nhiệm vai trò của giai cấp lãnh đạo, tạo tiền đề phát triển cho cách
mạng Việt Nam. Chính những chuyển biến về kinh tế – xã hội Việt Nam cuối thế kỷ

XIX đầu thế kỷ XX là tiền đề cho sự tiếp thu khuynh hướng mới vào Việt Nam – đó là
khuynh hướng dân chủ tư sản, tạo sự chuyển biến tư tưởng cách mạng Việt Nam.
1.2.3.3. Sự thức tỉnh của Châu Á và sự truyền bá Tân thư, Tân văn vào Việt Nam
Sự thức tỉnh của Châu Á là khái niệm của Lênin đầu thế kỷ XX, dùng để chỉ những
trào lưu tư tưởng muốn thoát khỏi chế độ phong kiến để vươn tới những nền văn minh
mới ở Châu Âu, phong trào ấy bắt đầu ở Nga với xu hướng cải tổ nhằm thủ tiêu chế
độ Nga Sa hoàng, thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa ở Nga. Sau đó trào lưu tư tưởng
này xuất hiện ở Tây Ban Nha, Mianma, Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Việt Nam,
Nhật Bản,…Khi nói tới sự thức tỉnh của Châu Á người ta hay nói đến Trung Quốc,
Nhật Bản, trong đó có sự xuất hiện của những cuốn sách, những tờ báo đề cập những
vấn đề về kinh tế, chính trị, tư tưởng của phương Tây.
Năm 1868 cuộc vận động duy tân của Nhật Bản bắt đầu với Minh Trị thiên hoàngđưa
đến kết quả rực rỡ, cuộc cải cách này đã giúp Nhật thoát khỏi thân phận thuộc địa của
tư tưởng phương Tây và hơn nữa, còn chanh chóng phát triển thành một cường quốc.
Đặc biệt năm 1905, Nhật Bản đánh thắng Nga Hoàng, sự kiện này đã gây chấn động
lớn đến các nước Châu Á. Cả thế giới, đặc biệt là Đông Á và Đông Nam Á thừa nhận

20


là nhờ có duy tân nước Nhật mới đạt được những thành tựu lớn như vậy và xuất hiện
trào lưu sùng bái Nhật, muốn học theo Nhật.
Ở Trung Quốc, vào năm 1898, Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi đã vận động vua
Quang Tự tiến hành cuộc cải cách mà sách vở gọi là biến pháp. Mở đầu cuộc vận
động là chống lề thói phong kiến, vận động mở trường học, thư quán, báo quán để
tuyên truyền tư tưởng mới, dân chủ tiến bộ, khuyến khích chấn hưng nền kinh tế dân
tộc. Những biện pháp này đã động chạm đến quyền lợi của triều đình phong kiến
Trung Hoa, nhất là quyền lợi của phái bảo thủ do Từ Hy Thái hậu cầm đầu. Phái bảo
thủ đã sử dụng quân đội, thậm chí liên kết với tư bản nước ngoài, sử dụng vũ lực để
đàn áp phái cải cách. Nhiều người trong phái cải cách đã bị bắt, tra tấn, tù đày. Một số

người chạy sang nước ta, họ đem theo tất cả tài liệu, Tân thư, Tân văn vào. Đến lượt
mình, các nhà Nho Việt Nam đón nhận rất hồ hởi và coi như món ăn tinh thần vô giá.
Cùng với ảnh hưởng của Nhật Bản, Trung Quốc, làn sóng Tân thư tràn vào Việt Nam.
Có thể khẳng định Tân thư là một hiện tượng chung của các nước Châu Á lúc bấy giờ,
trước nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Nhưng do hoàn cảnh và
các điều kiện của mỗi nước khác nhau mà sự du nhập Tân thư và ảnh hưởng của các
loại sách đó đối với mỗi nước không giống nhau. Ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX, dưới
ảnh hưởng của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, cơ cấu
kinh tế cũng như cơ cấu xã hội đã có nhiều chuyển biến mới. Từ đầu thế kỷ XX cho
đến trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, xã hội Việt Nam ở vào buổi giao thời , xét
về mặt phân hóa giai cấp, ngoài các giai cấp cũ trong xã hội phong kiến là địa chủ và
nông dân thì đã xuất hiện những giai tầng mới. Trước hết là giai cấp tư sản và giai cấp
vô sản đang trong quá trình hình thành. Cùng với sự mở mang đô thị và các bộ máy
hành chính, sự nghiệp của chính quyền thực dân, giai cấp tiểu tư sản thành thị cũng đã
ra đời. Nhưng đó là một giai cấp trung gian, phức tạp, không có hệ tư tưởng riêng, do
đó không có khả năng lãnh đạo cách mạng. Thực dân Pháp cũng đã mở một số trường
học. Nhưng trong thời gian đầu thế kỷ, chúng chỉ mới nhằm đào tạo một số công chức
và kinh tế viên cấp thấp, do đó tầng lớp trí thức Tây học chưa có mấy người. Trong
những điều kiện như trên, bộ phận có tinh thần yêu nước và tiến bộ trong tầng lớp tri
thức Nho học đã được lịch sử giao cho một số nhiệm vụ trong chức năng lãnh đạo
cách mạng Việt Nam (nuôi dưỡng tinh thần yêu nước của nhân dân, tố cáo tội ác của
21


giặc, tiếp thu tư tưởng mới, đưa ra đường lối cứu nước…). Và vào thời điểm đầu thế
kỷ, bộ phận này của tầng lớp tri thức Nho học là những người có khả năng nhất trong
việc vận động phong trào cứu nước và học hỏi, tiếp thu các tư tưởng tiến bộ. Tự giác
hay không tự giác thì họ đã đảm nhận sứ mệnh mà lịch sử đã giao cho trong buổi giao
thời của xã hội. Các nhà Nho yêu nước hồi đầu thế kỷ có nhược điểm cố hữu là được
đào tạo trong trường Nho học cũ kĩ, không biết tiếng nước ngoài nào khác tiếng Trung

Quốc, họ chỉ có thể tiếp xúc với tư tưởng mới qua các sách báo Trung Quốc. Tình
hình này chẳng những hạn chế họ rất nhiều trong việc tiếp thu cái mới mà luôn đặt họ
trước nguy cơ chỉ có thể tiếp thu được các học thuyết của phương Tây đã bị “khúc xạ”
qua tư tưởng của các tác giả và dịch giả Trung Quốc. Đối với các nhà Nho hồi đầu thế
kỷ XX đã thấy sự lỗi thời của Nho giáo và đang khao khát giải thích nhiều vấn đề có
liên quan đến sự nghiệp giải phóng dân tộc, Tân thư đã có sức hút mãnh liệt. Niềm say
mê Tân thư còn được kích thích thêm bởi tấm gương duy tân của nước Nhật “đồng
văn đồng chủng’’ và bởi các sự kiện trên thế giới như cuộc chính biến Mậu Tuất 1898
ở Trung Quốc, chiến tranh Nga – Nhật (1904 – 1905), cách mạng Tân hợi 1911.
Các nhà Nho Việt Nam yêu nước đầu thế kỷ XX đã say mê Tân thư không phải là để
thỏa mãn lòng yêu thích cái mới lạ mà là để tìm phương sách giải quyết vấn đề dân
tộc. Họ đã vận dụng các học thuyết mà họ tiếp thu được từ Tân thư vào sự nghiệp cứu
nước. Tình hình Việt Nam lúc bấy giờ có nhiều điểm khác Trung Quốc, họ không rập
khuôn máy móc những trào lưu duy tân của Trung Quốc.
Như vậy, tư tưởng tư sản đã được đưa vào Việt Nam từ những năm cuối thế kỷ XIX
sang đầu thế kỷ XX, thông qua các cuốn Tân thư và theo hai con đường vào nước ta là
từ Trung Quốc và Nhật Bản. Những cuốn sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu,
Đàm Tự Đồng, Nghiêm Phục…đề cập tới yêu cầu của cải cách thể chế chính trị, tổ
chức kinh tế, giáo dục xã hội…theo lối phương Tây. Đồng thời còn có một số sách
báo từ Nhật Bản tới của các tác giả Cát Điền Tùng Âm, Phúc Trạch Dụ Cát…Dù còn
thiếu hệ thống và sơ sài nhưng nó cũng là chất men kích thích, có tác dụng giải tỏa
những ràng buộc cũ trong suy nghĩ và hành động, hâm nóng bầu nhiệt huyết của
những người yêu nước thức thời – tức bộ phận sĩ phu tiến bộ đầu thế kỷ XX – để bước
vào thời kì mới.

22


CHƯƠNG II: TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ TƯ SẢN Ở VIỆT NAM ĐẦU
THẾ KỶ XX

2.1. Khuynh hướng dân chủ tư sản và sự biểu hiện của nó ở Việt Nam
Khuynh hướng dân chủ tư sản là một khái niệm dùng để chỉ một hướng đi của phong
trào duy tân mà theo đó sẽ có sự định hướng về con đường giải phóng và phát triển xã
hội, đoạn tuyệt với chế độ quân chủ và hướng tới xã hội tiến bộ hơn. Sự tiến bộ đó sẽ
được tìm thấy trong các mô hình xã hội phương Tây – các cuộc cách mạng tư sản từ
thế kỷ XVI –XVIII, hay khuynh hướng dân chủ tư sản là một hướng đi để thoát khỏi
xã hội phong kiến lạc hậu để xây dựng một xã hội tiến bộ theo mô hình phương Tây.
Khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam tồn tại song song với các khuynh hướng
khác như khuynh hướng bảo hoàng, khuynh hướng này còn ảnh hưởng ở nước ta cho
đến cách mạng Tháng Tám 1945; biến thiên của khuynh hướng dân chủ tư sản chịu sự
chi phối của các màu sắc tư sản xuất hiện ở nhiều nước xung quanh lúc bấy giờ. Đó là
khuynh hướng dân chủ lập hiến, Nhật Bản là nước điển hình; sau đó là Thái Lan, thực
chất đó là thể chế chịnh trị dung hòa giữa tư sản với phong kiến, nhưng quyền lực
thực tế nằm trong tay giai cấp tư sản. Ngoài ra có thể có thể chế cộng hòa, đầu thế kỷ
XX có nước Trung Hoa Dân Quốc thành lập sau cách mạng Tân Hợi (1911). Như vậy,
khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam xuất hiện như là một yêu cầu khách quan
tất yếu nhằm hướng tới thay thế xã hội quân chủ bằng một thể chế cộng hòa tư sản,
lúc đầu là quân chủ lập hiến rồi đến dân chủ cộng hòa. Khuynh hướng dân chủ tư sản
bắt nguồn từ nhu cầu nội tại sự phát triển của xã hội Việt Nam; xuất hiện từ nhu cầu
của công cuộc giải phóng dân tộc, nói cách khác khuynh hướng dân chủ tư sản vừa là
mục tiêu, vừa là phương tiện để đi tới độc lập. Điều này khác với cách mạng tư sản ở
Châu Âu. Sỡ dĩ có những đặc điểm như vậy là vì các mầm móng tư bản tuy xuất hiện
từ sớm nhưng lại không có điều kiện phát triển. Những nhân tố mới không đủ thắng
thế lực cản của xã hội cũ. Đến khi mà nhà Nguyễn đánh thắng phong trào Tây Sơn để
duy trì bảo vệ chế độ phong kiến đã làm cho những nhân tố tư bản chủ nghĩa bị thui
chột. Đến lúc nhà Nguyễn có sự biến đổi, nhận thức cần phát triển thì lúc đó thực dân
phương Tây xâm chiếm. Quá trình thực dân Pháp khai thác Việt Nam đã dựa trền nền
sản xuất cũ cùng với khuynh hướng tư bản chủ nghĩa, tạo ra một nền kinh tế lai căng
để thu lợi nhuận. Xã hội Việt Nam vì thế không thể phát triển tự do để tiến lên tư bản
23



chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đã đưa nước ta quay trở lại quỹ đạo của
nó. Nghiên cứu chuyên đề là một trong những điều kiện để tiếp tục nghiên cứu những
khuynh hướng khác xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi xuất hiện khuynh
hướng vô sản. Tuy nhiên, do những điều kiện đặc biệt của lịch sử dân tộc, sự xuất hiện
khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam có những nét hơi khác biệt so với các quốc
gia khác như Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản. Nghiên cứu chuyên đề này còn mở
rộng thêm những kiến thức lịch sử thế giới, soi rọi vào Việt Nam, so với Việt Nam để
thấy được những nét tương đồng và khác biệt. Ví dụ: Bắt đầu từ thế kỷ XVII, XVIII
chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện, chiếm ưu thế ở phương Tây, sang thế kỷ XIX song
song với quá trình xâm lược và đô hộ của các nước tư bản phương Đông đã xuất hiện
làn sóng đổi mới. Làn sóng này ở cuối thế kỷ XIX, gọi là thời kì “Châu Á thức tỉnh”
với sự chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng xã hội ở Thổ Nhĩ Kì, Iran, Mi-an-ma, Thái
Lan, In-đô-nê-xi-a…đặc biệt là ở Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản.
Con đường đi tới dân chủ tư sản ở các quốc gia nói trên khác nhau, nhưng sau mấy thế
kỷ bị kìm hãm bởi sự thống trị của chế độ quân chủ ở tất cả các nước phương Đông
nhìn chung đều hướng tới sự biến đổi chế độ chính trị – xã hội, ít nhất là cải tạo xã hội
cũ theo hướng tiến bộ.
Riêng ở Việt Nam, quá trình này được bắt đầu từ ảnh hưởng bên ngoài là chính, còn
những yếu tố nội tại chỉ có tác dụng kích thích những nhân tố kinh tế tư bản chủ
nghĩa, chưa đủ mạnh để tiến tới một cuộc cách mạng tư sản như ở Châu Âu. Con
đường phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam cũng có những quanh co ở một số điểm
như Thái Lan và Nhật Bản, ở những nước này lựa chọn con đường tư bản chủ nghĩa
thể hiện trong chính sách của nhà nước (Minh Trị, Rama) trong khi ở Việt Nam mới
chỉ là các phong trào xã hội do quần chúng tiến hành.
2.2. Nội dung của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
2.2.1. Về tư tưởng chính trị
2.2.1.1. Phan Bội Châu với xu hướng bạo động
Phan Bội Châu hiệu là Sào Nam, tự là Hải Thụ, sinh năm 1867, quê ở huyện Nam

Đàn, tỉnh Nghệ An. Cha là Phan Văn Phổ, một nhà Nho nghèo sống bằng nghề dạy
học; mẹ là Nguyễn Thị Nhàn, một phụ nữ rất mực hiền hậu. Lúc còn thiếu niên, Phan
24


Bội Châu nổi tiếng thông minh, học giởi. Bảy tuổi, học kinh truyện đã có thể sáng tác
ra cuốn Phan tiên sinh chi luận ngữ để đùa vui, chế giễu bạn bè, mười ba tuổi, đã làm
được thơ văn lối cận cổ, thi đỗ đầu huyện, đến 16 tuổi đỗ đầu tỉnh nên có tên gọi là
Đầu xứ San. Phan Bội Châu sớm có tinh thần yêu nước, vào lúc chín tuổi, khi cuộc
khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng Như Mai bùng nổ ở Nghệ – Tĩnh, Phan Bội Châu tập
hợp bạn bè cùng trường “lấy ống tre làm súng, hột vải làm đạn, giả cách chơi trò bình
Tây”. Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (1883), Phan lúc đó mười bảy tuổi, đã thảo hịch
“Bình Tây thu bắc” để kêu gọi thân hào, nhân dân đứng lên chống Pháp. Năm 1885,
kinh đô Huế thất thủ, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, thân hào xứ
Nghệ nổi lên mạnh mẽ, Phan mười chín tuổi đã lập “đội Thí sinh quân” gồm 60 người
để ứng nghĩa. Tiếp đó là mở rộng giao du, tìm người đồng tâm, đồng chí, bí mật liên
lạc với các dư Đảng Cần Vương và “vong mạng lục tâm” chuẩn bị công cuộc cứu
nước.
Phan ra Bắc, vào Huế, tại kinh đô ông đã dùng văn tự kết giao với các bậc sĩ phu tên
tuổi, như Khiếu Năng Tĩnh, Đặng Nguyễn Cẩn, Nguyễn Thượng Hiền…Chính nhờ sự
giao du này, Phan đã tiếp thu với các tân thư như “Thiên hạ đại thế luận’’ của Nguyễn
Lộ Trạch, “Trung Đông chiến kỉ”, “Phổ Pháp chiến kỉ”, “Doanh hoàn chí lược”…và
tư tưởng thế giới của ông đã bắt đầu hình thành. So với người cùng thời, Phan Bội
Châu sớm ý thức về vận mệnh đất nước và cũng là một trong những sĩ phu đầu tiên
đối đầu với các vấn đề liên hệ đến Việt Nam như một “quốc gia quốc dân”, Cụ trở
thành người đóng vai trò chủ yếu trong việc làm chuyển hóa tư tưởng Việt Nam từ
phạm trù phong kiến lên phạm trù dân chủ tư sản.
Khi bàn về ý thức tư sản và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử, Giáo sư Trần
Văn Giàu đã khẳng định: “Ai cũng phải thừa nhận rằng nếu Phan Bội Châu không
phải là một nhà triết học thì cụ đúng là một nhà chính trị và là nhà chính trị xuất sắc

nhất, tiêu biểu nhất nước ta hồi đầu thế kỷ XX, trong giai đoạn từ Chiến tranh thế giới
thứ nhất trở về trước”. Khác với một số sĩ phu đương thời, khi nghiên cứu lịch sử các
cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp xâm lước, Phan Bội Châu và các cộng sự của cụ
hiểu rõ thế và lực giữa ta và địch trong các trận đánh mà các cụ đang bày mưu tính kế
để tiến hành. Bất chấp các thất bại liên tiếp, các sĩ phu yêu nước vẫn tin vào tương lai
của nước Việt Nam, vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc Việt Nam, do đó, việc làm
25


×