Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Tiểu luận: Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư chứng khoán tại Việt Nam. Vai trò của Khối ngoại trên TTCK Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.89 KB, 37 trang )

“Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư chứng khoán tại Việt Nam. Vai trò của Khối
ngoại trên TTCK Việt Nam”
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
1.1. Nội dung đầu tư chứng khoán
1.2. Các tiêu chí đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư
1.3. Điều kiện để thực hiện đầu tư trên TTCK
1.3.1. Cơ sở pháp lý
1.3.2. Tiềm lực tài chính
1.3.3. Sự phát triển của thị trường chứng khoán
1.4. Quy trình thực hiện ĐTCK
1.5. Nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAMVAI TRÒ CỦA KHỐI NGOẠI TRÊN TTCK VIỆT NAM.
2.1. Khái quát về Thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển. (Thầy yêu cầu phải xác định rõ từng giai
đoạn cụ thể)
2.1.2. Thành tựu và những khó khăn trong thời gian hoạt động.
2.2. Thực trạng hoạt động đầu tư chứng khoán tại Việt Nam
2.2.1 Cơ sở pháp lý về hoạt động đầu tư trên TTCK tại Việt Nam
2.2.2. Đối tượng hoạt động đầu tư chứng khoán trên TTCK Việt Nam
2.2.3. Quy mô hoạt động đầu tư chứng khoán
2.2.3.1. Chứng khoán nợ.
2.2.3.2. Chứng khoán vốn
2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư trên TTCK. VN
2.3.1. Những kết quả đạt được
2.3.1.2. Danh mục chứng khoán đầu tư
2.3.1.3. Phương thức đầu tư
2.3.1.5. Chất lượng hoạt động đầu tư
2.3.2. Hạn chế
2.3.2.1. Quy mô đầu tư nhỏ, phạm vi hẹp.
2.3.2.2. Phương thức đầu tư đơn điệu, danh mục đầu tư chưa hợp lý
2.3.2.3. Tổ chức hoạt động đầu tư chưa khoa học


2.3.2.4. Tính chuyên nghiệp, chuyên môn hoá hoạt động thấp
2.3.2.5. Chất lượng và hiệu quả đầu tư chưa cao
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế
2.4. Vai trò của khối ngoại trên TTCK Việt Nam


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN VÀ
THU HÚT CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI THAM GIA VÀO TTCK VIỆT NAM
3.1. Định hướng phát triển TTCK Việt nam
3.1.1. Mục tiêu, chiến lược trong thời gian tới.
3.1.2. Cơ hội thách thức đối với các nhà đầu tư
3.1.3. Định hướng cho hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán
3.2. Giải pháp tăng cường hoạt động đầu tư chứng khoán.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Tiếp tục cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô.
3.3.2. Hoàn thiện môi trường pháp lý.
3.3.3. Đổi mới hoạt động phát hành chứng khoán Chính Phủ.
3.3.4.Kiểm soát và phát triển thị trường OTC
3.3.5. Thúc đẩy sự phát triển ổn định của thị trường chứng khoán


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 11/7/1998, chính phủ đã ban hành nghị quyết số 48/1998/NĐ-TTg về việc thành
lập trung tâm giao dịch chứng khoán Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đây là những văn
bản pháp lýđầu tiên cho việc thành lập và hoạt động của TTCKở Việt Nam.
Theo đó UBCKNN và các bộ ngành đã tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự
ra đời TTCKmà bước đi đầu tiên là thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ
Chí Minh.
Hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán là một hoạt động đầu tư quan trọng và
linh hoạt trong nền kinh tế hiện đại. Hoạt động này góp phần hạn chế rủi ro đầu tư, đa dạng

hóa danh mục đầu tư, tăng lợi nhuận đồng thời vẫn đáp ứng nhu cầu thanh khoản khi cần
thiết.
Đặc biệt trong giai đoạn 2006-2010, TTCK đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể và là
điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư.. Trên đây là lý do em chọn đề tài: “Đánh giá thực
trạng hoạt động đầu tư chứng khoán tại Việt Nam. Vai trò của Khối ngoại trên TTCK
Việt Nam”
Nhóm thực hiện xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các Thầy PGS.TS. Phạm Văn Hùng đã
tận tình giúp đỡ trong việc hoàn thành đề tài này. Nhóm Tác giả mong muốn nhận được sự
quan tâm, đóng góp ý kiến của thầy và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.


NHÓM THỰC HIỆN
1. Bùi Bảo Đăng (Nhóm trưởng) – CH190282
2. Nguyễn Thị Ngọc Anh – CH190273
3. Châu Thị Thúy An – CH190269
4. Trần Thị Thái Hà – CH190289
5. Đào Thị Hồng – CH190299
6. Bùi Thị Thu Hoài – CH190297
7. Nguyễn Thúy Quỳnh – CH190320
8. Đào Quyết Thắng – CH190329
9. Hạ Thị Thu Thủy – CH190218
10. Phạm Ngọc Trâm – CH190338
11. Tăng Văn Tuấn – CH190339

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN

1.1. Đầu tư chứng khoán và nội dung đầu tư chứng khoán.
1.1.1. Khái niệm.
Đầu tư chứng khoán là quá trình phân tích chứng khoán để đưa đến quyết định đầu tư
vào cổ phiếu, trái phiếu,chứng chỉ quỹ, chứng khoán phái sinh nhằm đạt được một mức tỷ

suất lợi nhuận hợp lý phù hợp với mức độ rủi ro của khoản đầu tư/ danh mục đầu tư trong
một thời kỳ.
1.1.2. Các hình thức đầu tư chứng khoán
Có nhiều hình thức đầu tư chứng khoán khác nhau tùy theo tiêu thức phân loại.
- Căn cứ vào công cụ đầu tư, đầu tư chứng khoán bao gồm: đầu tư cổ phiếu, đầu tư
trái phiếu của doanh nghiệp, trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương, đầu
tư chứng chỉ quỹ đầu tư.
- Căn cứ và mục đích đầu tư, đầu tư chứng khoán bao gồm:
Đầu tư ngân quỹ: Hoạt động đầu tư ngân quỹ thường được thực hiện bởi các tổ chức
kinh tế và các NĐT lớn. Xuất phát từ nhu cầu thanh toán chi trả, nhu cầu dự phòng và dự trữ,
các tổ chức kinh tế và các NĐT lớn thường phải nắm giữ một lượng tiền khá lớn. Tuy nhiên,
tiền không phải là tài sản sinh lời nên các đối tượng này thường có xu hướng tăng cường đầu
tư vào các tài sản sinh lời, giảm dự trữ tiền. Nhưng việc này cũng tiềm ẩn khả năng rủi ro do
khả năng thanh toán kém. Để khắc phục điều này, nhà quản trị tài chính thường đầu tư vào
các chứng khoán ngắn hạn có khả năng chuyển đổi nhanh thành tiền như tín phiếu kho bạc,
kỳ phiếu ngân hàng…
Đầu tư hưởng lợi: Khác với đầu tư ngân quỹ nhằm đáp ứng khả năng thanh toán,
hoạt động đầu tư hưởng lợi nhằm mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư có được
từ lợi tức của tài sản đầu tư như cổ tức hàng năm, hay từ lợi tức của trái phiếu. Bên cạnh đó,
NĐT có thể thu được chênh lệch giá chứng khoán và các quyền lợi khác (nếu có).


Đầu tư phòng vệ: Hoạt động đầu tư có khả năng mang lại lợi nhuận lớn nhưng cũng
hàm chứa rủi ro cao. Vì vậy, các công cụ phòng vệ xuất hiện ngày càng nhiều nhằm giúp
NĐT phòng tránh rủi ro như: hợp đồng giao sau, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền mua…
Đầu tư nắm quyền kiểm soát: Cổ phiếu cho phép chủ sở hữu có quyền kiểm soát
nhà đầu tư phát hành thông qua quyền nhận thông tin, quyền tham dự và biểu quyết tại
ĐHCĐ. Số lượng cổ phiếu nắm giữ thường quyết định khả năng biểu quyết, kiểm soát của
NĐT. Một số NĐT lớn, chủ yếu là NĐT tổ chức như các doanh nghiệp hoặc các ngân hàng
lớn thường thực hiện hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát.

- Căn cứ vào thời gian đầu tư, đầu tư chứng khoán bao gồm: đầu tư ngắn hạn, đầu tư
dài hạn.
Đầu tư ngắn hạn có thể thực hiện theo các hình thức sau :
+ Đầu tư vào trái phiếu ngắn hạn : hình thức đầu tư này thường thích hợp với các nhà
đầu tư ngại rủi ro. Do tính hoán tệ của các trái phiếu ngắn hạn cao nên chi phí chuyển đổi
thành tiền không lớn, thời gian chuyển đổi thành tiền ngắn.
+ Đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu dài hạn và bán đi khi cần thiết. Với hình thức
đầu tư này nhà đầu tư có thể thu được món lợi lớn qua các thương vụ đầu tư nhưng mức độ
rủi ro cũng rất cao và vì thế nó chỉ thích hợp với những nhà đầu tư mạo hiểm.
Đầu tư dài hạn có thể thực hiện theo các hình thức sau :
+ Đầu tư vào cổ phiếu : Trong hình thức đầu tư này thu nhập của nhà đầu tư không
chỉ là cổ tức và giá trị cổ phiếu gia tăng theo thời gian mà nhà đầu tư còn là chủ sở hữu, tham
gia quản lí và kểm soát nhà đầu tư tương ứng với tỉ lệ sở hữu cổ phiếu.
+ Đầu tư vào trái phiếu dài hạn : trong hình thức này, nhà đầu tư nhận được trái tức
theo định kì nhất định nào đó, nhưng khác với đầu tư trái phiếu ngắn hạn, lãi suất trái phiếu
dài hạn thường cao hơn.
Việc phân chia hoạt động đầu tư theo thời gian chỉ có tính tương đối. Vì, thứ nhất mục
tiêu cuối cùng của tất cả các hoạt động đầu tư dù là ngắn hạn hay dài hạn đều là tối đa hóa
lợi ích ; thứ hai, sự chuyển giao giữa các hình thức đầu tư trên có thể thực hiện một cách dễ
dàng do phát sinh nhu cầu thanh toán đột xuất hoặc do sự biến động giá cả trên thị trường. Vì
thế một nhà đầu tư có ý định mua cổ phiếu hoặc trái phiếu dài hạn và giữ chúng lâu dài,
nhưng vì một lí do nào đó, ví dụ như giá cổ phiếu tăng giảm quá mạnh, do nhu cầu chi tiêu
đột xuất quá lớn họ sẽ bán chứng khoán đó đi để chuyển hướng đầu tư hoặc đáp ứng nhu cầu
thanh toán. Ngược lại, một nhà đầu tư mua trái phiếu dài hạn hoặc cổ phiếu với mục đích
đầu tư ngắn hạn, nhưng do giá các chứng khoán đã đầu tư liên tục gia tăng nên họ có thể
quyết định nắm giữ chúng trong dài hạn.
Căn cứ theo trường phái đầu tư:
* Trường phái đầu tư (Investor): Người đầu tư cơ bản là người mua chứng khoán với
mục đích kiếm lợi nhuận sau một thời gian dài từ 1-2 đến 10-15 năm. Những người này xem
xét rất kỹ bản báo cáo tài chính của nhà đầu tư mà họ muốn bỏ tiền vào. Theo Philip Fisher,

một trong những “thuyết giáo gia” của lĩnh vực đầu tư thì có đến …15 câu hỏi cần thiết mà
người đầu tư muốn quyết định mua cổ phần hay không phải trả lời. Nào là sản phẩm, dịch
vụ, ban quản lý, sự nghiên cứu sự phát triển, lợi nhuận, chiến lược phát triển, nhân sự, kế
toán… Sau khi xem xét từ mọi khía cạnh, người đầu tư nhận thấy phần ưu điểm có vượt trội
hơn phần yếu điểm của nhà đầu tư hay không rồi mới quyết định. Một trong những nhà đầu
tư kiểu này được biết nhiều nhất là tỷ phú Warrant Buffet. Đầu tư kiểu này trùng khớp với
mục đích của thị trường chưng khoán lẫn những nhà đầu tư muốn được niêm yết để có vốn
được gọi là kiểu phân tích căn bản (fundamental analysis).
*Trường phái đầu cơ (Speculator).
Đây là trường phái mua bán chứng khoán trong một thời gian rất ngắn từ vài ngày đến
vài giây. Ngày nay thì Internet đã, đang và sẽ làm những cuộc cách mạng lớn. Riêng đối với


chứng khoán Internet đã tạo ra những “triệu phú tại gia”, Từ bất kì nơi đâu trên thế giới, từ
thợ thuyền đến tri thức, từ hưu trí đến thất nghiệp, học sinh đến công nhân…Không nhân
viên, không văn phòng, không lệ thuộc vào bất cứ ai, vừa tự do về thời gian, vừa tự do về
không gian. Họ thông qua Internet họ có thể giao dịch, mua bán chứng khoán một cách
nhanh chóng và trực tuyến.
1.1.3. Nội dung của đầu tư chứng khoán.
1.1.3.1 Đầu tư cổ phiếu.
Đầu tư cổ phiếu thường đầu tư thông qua hình thức đầu tư cổ phiếu trên sàn giao dịch
chứng khoán ( Trung Tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở giao dịch chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh ) hoặc đầu tư cổ phiếu trên thị trường OTC ( là thị trường chưa niêm
yết).
Đầu tư cổ phiếu trên sàn giao dịch bằng cách tiến hành hoạt động mua bán trực tiếp
thông qua các tài khoản giao dịch chứng khoán.
Có thể đầu tư các loại cổ phiếu sau:
Đầu tư mua cổ phiếu của những nhà đầu tư nhỏ
Tiềm năng tăng giá là sự hấp dẫn các nhà đầu tư áp dụng chiến lược này. Những nhà
đầu tư nhỏ có xu hướng đạt được mức lợi nhuận cao hơn nhà đầu tư lớn, nhất là trong thời kỳ

lạm phát kéo dài và nằm ở mức cao. Tuy nhiên, cổ phiếu của các nhà đầu tư nhỏ có xu hướng
mất giá nhiều hơn so với cổ phiếu của các nhà đầu tư lớn trong giai đoạn này. Ngoài ra, giá
cổ phiếu các nhà đầu tư nhỏ biến động nhiều hơn và thường không theo kịp chỉ số giá trung
bình của thị trường trong dài hạn. Do đó, cổ phiếu của những nhà đầu tư nhỏ không phải để
mua và giữ dài hạn.
Đầu tư mua cổ phiếu tăng trưởng
Cổ phiếu tăng trưởng là cổ phiếu của những nhà đầu tư có doanh số, thu nhập và thị phần
đang tăng với tốc độ nhanh hơn bình quân trong vài năm qua và người ta mong rằng nó còn
tiếp tục chứng tỏ mức tăng trưởng lợi nhuận cao. Các nhà đầu tư này thường quan tâm đến
việc mở rộng nghiên cứu và phát triển cho nên phần lớn lợi nhuận được giữ lại để tái đầu tư,
cổ tức thường thấp.
Các nhà đầu tư tăng trưởng thường là những nhà đầu tư có sản phẩm hoặc dịch vụ tân tiến,
có khả năng nắm bắt và đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu và mới mẻ của xã hội (lĩnh
vực tiêu dùng, công nghệ cao và sinh học…).
Đầu tư mua cổ phiếu của những nhà đầu tư quen thuộc, lĩnh vực quen thuộc
Đó là cổ phiếu của các nhà đầu tư thường xuyên được tiếp xúc, được quan sát hay đơn giản
là sản phẩm của nhà đầu tư đó được nhà đầu tư thường xuyên mua. Cũng có khi chỉ vì thích
sản phẩm của nhà đầu tư đó hoặc do ảnh hưởng bởi danh tiếng hay mối quan hệ quen biết mà
họ quyết định đầu tư vào nhà đầu tư đó. Đây có thể là một sự khởi đầu tốt nhưng cần phải
biết kỹ hơn về nhà đầu tư dự định sẽ đầu tư.
Điểm hạn chế của chiến lược này là sự chủ quan, chỉ nhắm vào các khía cạnh phiến diện về
công cuộc kinh doanh của nhà đầu tư mà thôi. Và nó hạn chế nhà đầu tư vào một hoặc hai
ngành nghề. Đầu tư theo chiến lược này đòi hỏi sự nhạy bén trước các sự kiện mới mẻ.
Nhiều nhà đầu tư có vẻ xa lạ nhưng nếu chịu khó tìm hiểu thì có thể thấy đó thực sự là một
cổ phiếu tốt đáng để khai thác. Qua việc nghiên cứu, cảm nhận riêng về một loại cổ phiếu có
thể được xác nhận hay bị bác bỏ. Điều này sẽ giúp cho các nhà đầu tư tiết kiệm được rất
nhiều.
Đầu tư mua cổ phiếu thượng đẳng
Cổ phiếu thượng đẳng là cổ phiếu của các nhà đầu tư lớn có tiếng tăm, tiềm lực tài chính
mạnh, thành tích kinh doanh vững chắc, lợi nhuận ổn định. Việc nắm giữ cổ phiếu này sẽ



giảm thiểu yếu tố rủi ro, ngay cả trong thời kỳ suy thoái hay khủng hoảng kinh tế, nhưng
thành tích của nó hiếm khi nổi bật. Chiến lược này phù hợp với những nhà đầu tư ngại rủi ro
và muốn có thu nhập đều đặn.
1.1.3.2 Đầu tư trái phiếu.
Đầu tư vào trái phiếu có độ rủi ro khá thấp so với cổ phiếu và có mức lãi suất hẫp dẫn
hơn lãi suất ngân hàng.
Các công cụ nợ quan trọng nhất trên thị trường vốn là trái phiếu trong nước và quốc
tế. Đối với các nước trên thế giới, nguồn tài trợ này đã chứng tỏ là kênh huy động vốn dài
hạn chủ yếu và hiệu quả cho các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng. Nó cũng cho phép các nhà đầu
tư huy động một lượng vốn lớn trong ngắn hạn.


Trái phiếu đảm bảo: Là trái phiếu được thanh toán một phần hoặc toàn bộ bởi các tổ
chức tài chính hoặc được đảm bảo bởi tổ chức phát hành hoặc tài sản của một bên thứ ba.
Loại trái phiếu này hiện tại rất phổ biến tại Việt Nam



Trái phiếu không đảm bảo: Là trái phiếu được phát hành mà không có bất kỳ một sự
đảm bảo thanh toán nào. Đối với loại trái phiếu này, các nhà đầu tư cần phải giành được
sự tín nhiệm tài chính từ các nhà đầu tư cung cấp dịch vụ tín nhiệm tài chính quốc tế
(hoặc trong nước). Tuy nhiên, hiện tại, dịch vụ tín nhiệm tài chính này vẫn chưa xuất hiện
tại Việt Nam.



Trái phiếu chuyển đổi: Là trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành các cổ phiếu phổ
thông của tổ chức phát hành. Các tổ chức phát hành sắp niêm yết (hoặc đã được niêm yết)

trên thị trường chứng khoán có thể phát hành loại trái phiếu này.



Trái phiếu kèm quyền mua (trái phiếu loại này thường được phát hành cùng với giấy
phép để cho phép người mua trái phiếu được mua cổ phần với những điều kiện nhất định
nhằm gia tăng mức độ hấp dẫn của việc phát hành trái phiếu )

1.1.3.3 Đầu tư chứng chỉ quỹ.
Hiện nay thì đầu tư vào chứng chỉ quỹ cũng khá hấp dẫn nhờ tính chuyên nghiệp của
quỹ đầu tư chứng khoán và thị giá cũng khá thấp và mức trả cổ tức cũng khá cao.
Chứng chỉ quỹ là một mặt hàng ngày càng được ưa chuộng trên thị trường này. Chứng
chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn
góp trong quỹ đại chúng.
Quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với
mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đa dạng hóa đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản
đầu tư khác nhau nhằm phân tán rủi ro, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng
ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ. Khi muốn thành lập quỹ thì các nhà đầu tư
quản lý quỹ phải phát hành chứng chỉ quỹ, nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ tức là đã xác nhận
sự góp vốn của mình vào quỹ chung đó. Về bản chất chứng khoán quỹ cũng giống như cổ
phiếu của một nhà đầu tư: là bằng chứng xác nhận quyền sở hữu, hưởng lợi nhuận trên phần
vốn góp, và đặc biệt được niêm yết trên thị trường chứng khoán để mua bán giữa các
nhà đầu tư.
Tuy nhiên có ba điểm khác nhau giữa chúng: cổ phiếu là phương tiện huy động vốn
của một nhà đầu tư kinh doanh một vài ngành nghề cụ thể còn chứng chỉ quỹ là phương
tiện để thành lập quỹ của một quỹ đầu tư chứng khoán mà ngành nghề hoạt động chính là
"chơi chứng khoán". Thứ hai, nếu người sở hữu cổ phiếu phổ thông có quyền biểu quyết hay
quản lý nhà đầu tư thì nhà đầu tư sở hữu chứng khoán quỹ không có quyền tương tự, mọi
quyền hành đều do nhà đầu tư quản lý quỹ quyết định.
1.1.3.4 Đầu tư công cụ phái sinh.

Chứng khoán phái sinh (derivatives) là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công
cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo


vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các chứng khoán phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần
giá trị các các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, hoặc để đảm bảo rằng nếu giá của
cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy
trì ở mức ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi
bán lại các chứng từ tài chính, như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn.
Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng, nhưng có bốn công cụ chính là Hợp đồng
kỳ hạn (forwards), Hợp đồng tương lai (futures), Quyền chọn mua hoặc bán (options) và
Hợp đồng hoán đổi (swaps). Ngày nay khi thị trường chứng khoán biến động từng giây từng
phút thì việc nắm trong tay những công cụ phái sinh là một biện pháp khôn ngoan để đối phó
với rủi ro.
1.2. Các tiêu chí đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư chứng khoán
Hiệu quả hoạt động đầu tư chứng khoán được đánh giá thông qua các chỉ tiêu định
lượng. Việc tính toán và lựa chọn các chỉ tiêu thì việc phân tích trong từng thời kỳ là rất cần
thiết. Có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư chứng khoán, bởi chỉ tiêu
này có thể ảnh hưởng đến các chỉ tiêu khác. Có thể dựa trên các chỉ tiêu cơ bản sau:
Các chỉ tiêu kết quả:
• Vốn đầu tư thực hiện: Đó chính là khoản vốn ban đầu mà nhà đầu tư bỏ ra để kinh
doanh chứng khoán. Khoản vốn này có thể được điều chỉnh, thay đổi tăng giảm tuỳ thuộc
vào mục tiêu của nhà đầu tư, cũng như tuỳ vào sự thay đổi của thị trường chứng khoán.
• Tốc độ tăng trưởng của danh mục đầu tư: Phản ánh tỷ suất lợi nhuận của danh mục
đầu tư hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm. Nó cho phép xem xét một cách rõ ràng
là danh mục đầu tư này có hiệu quả hay không. Bằng cách so sánh tỷ suất lợi nhuận của
danh mục với lãi suất của ngân hàng, lãi suất của trái phiếu, với tỷ suất của danh mục khác.
Từ đó đưa ra quyết định cho danh mục của nhà đầu tư.
Các chỉ tiêu hiệu quả
• Lợi nhuận/Vốn đầu tư: là một chỉ tiêu quan trọng dùng để phản ánh hiệu quả hoạt

động đầu tư chứng khoán. Hoạt động đầu tư của nhà đầu tư được đánh giá là hiệu quả nếu lợi
nhuận / Vốn đầu tư của nó năm sau cao hơn năm trước, tức là hoạt động đầu tư có lãi. Hay
cụ thể là Lợi nhuận/Vốn đầu tư càng cao càng tốt. Nó phản ánh chỉ cần bỏ ra một đồng vốn
đầu tư sẽ cho tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình
Các chỉ tiêu đánh giá danh mục đầu tư.
* Chỉ tiêu Treynor
Treynor là người đầu tiền thiết lập phương pháp đánh giá động thái danh mục đầu tư
đa hợp để định lượng cả yếu tố lợi nhuận lẫn rủi ro của danh mục. Phương pháp Treynor áp
dụng đối với tất cả các nhà đầu tư nói chung, không phân biệt những mức ngại rủi ro khác
nhau của cá nhân từng loại nhà đầu tư. Căn cứ trên lý thuyết thị trường vốn. Treynor cho
rằng những nhà đầu tư hợp lý, ngại rủi ro (nói chung) sẽ luôn ưa thích những danh mục náo
có mức bù đắp rủi ro cao trong mối tương quan với mức độ rủi ro mà họ phải gánh chịu.
* Chỉ tiêu Sharpe.
Tương tụ như Treynor, Sharpe cũng đưa ra một phương pháp định lượng để đánh giá hiệu
quả của danh mục đầu tư. Phương pháp đánh giá này triển khai từ mô hình định giá tài sản
vốn(CAPM) cũng do chính ông ta lập nên, về mặt lý luận, tập trung xoay quanh đường tuyến
tính biểu diễn thị trường vốn (CML).
* Chỉ tiêu Jensen.
Phương pháp đánh giá hiệu quả danh mục đầu tư của Jensen cũng được khai triển căn
cứ trên mô hình định giá tài sản vốn (CAPM).
1.3.Quy trình thực hiện đầu tư chứng khoán


Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán có thể diễn ra trên thị
trường tập trung (bao gồm Trung tâm giao dịch chứng khoán, Sở Giao dịch chứng khoán) và
thị trường phi tập trung.
*Mua chứng khoán của tổ chức phát hành
Đối với loại chứng khoán này, có thể thực hiện theo 2 hình thức:
- Mua trực tiếp tại tổ chức phát hành (công ty): nhà đầu tư phải đăng ký mua và nộp
tiền trực tiếp tại tổ chức phát hành chứng khoán. Hình thức này rất bất cập, nhất là về mặt

địa lý. Vì tổ chức phát hành có thể ở vị trí xa so với nhà đầu tư.
- Mua thông qua trung gian: tức là mua thông qua các nhà đại lý hoặc bảo lãnh phát
hành, thông thường là các công ty chứng khoán và các Ngân hàng thương mại.
Nếu mua chứng khoán của tổ chức phát hành chưa niêm yết trên Trung tâm giao dịch
chứng khoán thì việc chuyển nhượng hoặc bán lại chứng khoán đó cũng phải trực tiếp đến tổ
chức phát hành (hoặc uỷ quyền) để thực hiện chuyển nhượng cho người mua
* Mua bán chứng khoán niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán
Chứng khoán niêm yết là chứng khoán có đủ điều kiện và tiêu chuẩn được đăng ký để
mua bán tại Trung tâm giao dịch chứng khoán. Khi mua bán chứng khoán niêm yết, phải
tuân thủ theo một số nguyên tắc sau:
- Mọi giao dịch mua bán chứng khoán đều phải qua hệ thống tại Sở Giao dịch, Trung
tâm Giao dịch chứng khoán theo phương thức khớp lệnh hoặc phương thức thoả thuận;
- Giao dịch chứng khoán thực hiện theo phương thức khớp lệnh trên nguyên tắc ưu
tiên về giá và ưu tiên về thời gian;
- Giao dịch chứng khoán niêm yết lô lẻ được thực hiện trực tiếp giữa người đầu tư với
công ty chứng khoán thành viên là thành viên của Trung tâm Giao dịch chứng khoán trên
nguyên tắc thoả thuận về giá.
Quy trình thực hiện đầu tư chứng khoán trải qua 5 bước sau:
1) Lựa chọn nhà môi giới:
Để thực hiện việc mua bán chứng khoán nhà đầu tư phải lựa chọn cho mình một nhà
môi giới. Trong hầu hết các trường hợp công ty chứng khoán sẽ là người đại diện cho các
chủ đầu tư . Nhà môi giới sẽ là người thực thi các lệnh mua bán của chủ đầu tư. Nhà môi giới
chứng khoán là người trung tâm giữa người mua và người bán chứng khoán. Tùy theo cách
tổ chức và hoạt động của các Sở giao dịch chứng khoán ở mỗi nước khác nhau và căn cứ vào
chức năng hoạt động của Sở giao dịch mà có thể chia ra thành các loại khác nhau:
+ Nhà môi giới hoa hồng là người hoạt động với tư cách là đại ly cho các nhà đầu tư
trong việc mua bán chứng khoán qua đó sẽ nhận được hoa hồng từ dịch vụ của mình.
+Môi giới độc lập là môi giới 2 USD cho một lô chẵn 100 cổ phiếu.
+Nhà môi giới chuyên môn hay còn gọi là các chuyên gia chứng khoán. Nhà môi giới
chuyên môn được Hội đồng quản trị phân công mua bán một số loại chứng khoán nhất định.

Nhà môi giới chuyên môn thực hiện các chức năng chủ yếu : thực hiện các lệnh giao dịch và
tạo thị trường.
+Nhà giao dịch chứng khoán có đăng ky là người mua bán chứng khoán cho chính
mình bằng khoản chênh lệch giá giữa giá mà người giao dịch mua vào và bán ra.
2) Mở tài khoản
Trước khi đặt lệnh, khách hàng phải mở tài khoản tại công ty chứng khoán. Việc mở
tài khoản phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa khách hàng và công ty chứng khoán .
Khi mở tài khoản khách hàng phải cung cấp các thông tin sau cho công ty chứng khoán :-


-

Tên đầy đủ

-

Địa chỉ thường trú

-

Số điện thoại

-

Số chứng minh thư nhân dân

-

Các thông tin khác như số tài khoản tại ngân hàng , số tài khoản chứng khoán tại công
ty chứng khoán khác( nếu có) , thu nhập và kiến thức tại thị trường chứng khoán


-

Khi có bất cứ sự thay đổi nào liên quan đến các thông tin trên khách hàng phải thông
báo ngay cho công ty chứng khoán

Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng thị trường và của từng nhà đầu tư, có
thể có những lọai tài khoản sau:
Theo tính chất giao dịch :
-Tài khoản lưu ký : Đây là loại tài khoản phổ biến. Nếu khách hàng không thực hiện
thanh toán vào ngày quy định, công ty chứng khoán có quyền bán chứng khoán có trong tài
khoản để lấy tiền thanh toán .
-Tài khoản tư vấn : Nhà đầu tư sẽ ky kết một hợp đồng sử dụng dịch vụ tư vấn cho
các chuyên gia đầu tư của công ty chứng khoán cung cấp.Theo đó nhà đầu tư ủy quyền cho
các chuyên gia đầu tư thực hiện các giao dịch chứng khoán theo những điều kiện quy định
trên hợp đồng . Chuyên gia đầu tư có trách nhiệm thực hiện các giao dịch chứng khoán theo
những nguyên tắc cẩn trọng cần thiết nhằm đạt được mục tiêu đầu tư đã thỏa thuận. Nhà đầu
tư chịu mọi chi phí liên quan đến các giao dịch đựợc thực hiện cũng như phí tư vấn phải trả
cho chuyên gia đầu tư . Thông thường các công ty chứng khoán chỉ chấp nhận mở tài khoản
này với một giá trị tài sản tối thiểu nhất định.
-Tài khoản ký quỹ : Loại tài khoản mà nhà đầu tư có thể vay tiền hoặc chứng khoán
để phục vụ cho họat động đầu tư của mình. Nhà đầu tư chỉ phải thanh toán tiền với một tỷ lệ
phần trăm nhất định giá trị chứng khoán đặt mua, phần còn lại có thể vay từ nhà môi giới.
Phần vay này chịu lãi suất bằng cách cộng phí dịch vụ vào lãi suất mà nhà môi giới phải đi
vay. Phần chứng khoán mua được phải dung để thế chấp cho khoản vốn vay để mua chứng
khoán.
-Tài khoản ủy thác : nhà đầu tư ủy thác cho nhà môi giới quyền mua và bán chứng
khoán mà không cần thông báo hoặc có sự đồng ý của nhà đầu tư.
Theo khía cạnh sở hữu:
-Tài khoản cá nhân

-Tài khoản liên kết
-Tài khoản tham dự
-Tài khoản công ty
3) Đặt lệnh: Khi khách hàng muốn giao dịch họ phải đặt lệnh bằng một trong các hình thức
sau:
-Đặt lệnh trực tiếp tại phòng lệnh của công ty chứng khoán
-Đặt lệnh qua điện thoại
-Qua mạng vi tính nối trực tiếp với phòng lệnh của công ty chứng khoán
Nội dung của mẫu lệnh gồm các thông tin sau:
-Lệnh đó là mua hay bán
-Số lượng chứng khoán được mua hoặc bán
-Tên chứng khoán, mã số loại chứng khoán


-Tên của khách hàng và mã số
-Ngày giờ đặt lệnh
-Thời gian có hiệu lực của lệnh
Các loại lệnh :
-Lệnh thị trường ( Market Order): đơn giản là loại lệnh mua hay bán được thực hiện
ngay lập tức theo giá thị trường. Khi ra lệnh này nhà đầu tư không đưa ra mức giá mua bán
-Lệnh giới hạn ( Limit Order): là lệnh mua hoặc bán có xác định mức giá giới hạn cụ
thể trong một thời hạn chờ đợi nhất định. Lệnh mua giới hạn có chỉ thị cho nhà môi giới mua
nếu giá dưới mức giới hạn ấn định trong khi lệnh bán giới hạn có chỉ thị cho nhà môi giới
bán nếu giá trên mức giới hạn ấn định.
-Lệnh dừng( Stop Order): là lệnh được đưa ra nhằm bảo vệ lợi nhuận hay hạn chế
thua lỗ cho nhà đầu tư. Có hai kiểu lệnh dừng: lệnh dừng để bán và lệnh dừng để mua.
+Lệnh dừng bán: là lệnh thị trường có điều kiện, theo đó nhà đầu tư chỉ thị bán cổ
phiếu nếu giá cổ phiếu xuống đến mức đã được ấn định.
+Lệnh dừng mua: là lệnh thị trường có điều kiện, theo đó nhà đầu tư chỉ thị mua cổ
phiếu nếu giá cổ phiếu tăng đến mức đã được ấn định.

-Lệnh thực hiện toàn bộ hay hủy bỏ : loại lệnh này được thực hiện ngay toàn bộ hoặc
hủy bỏ
-Lệnh thực hiện ngay hoặc hủy bỏ : lệnh này được thực hiện ngay một phần nào đó ,
phần còn lại bị hủy bỏ
-Lệnh toàn bộ hoặc không : với một thời hạn cho trước , chẳng hạn một ngày ,lệnh
phải đựợc thực hiện toàn bộ, nếu không sẽ hủy bỏ lệnh đó.
4) Theo dõi đánh giá trên Sở giao dịch và nhận kết quả giao dịch:
Giai đoạn đánh giá được Trung tâm giao dịch chứng khoán thực hiện và sau đó thông
báo kết quả cho Công ty chứng khoán , công ty chứng khoán gửi kết quả cho chủ đầu tư .
a.So ghép lệnh định kỳ và so ghép lệnh liên tục :
Khớp lệnh định kỳ:
Các lệnh mua và bán được chuyển vào hệ thống giao dịch trong một khoảng thời gian
nhất định. Trong thời gian này, mặc dù các lệnh được đưa vào liên tục nhưng không có giao
dịch được thực hiện. Vào đúng thời điểm khớp lệnh, tất cả các lệnh sẽ được so khớp để chọn
ra mức giá có khối lượng giao dịch lớn nhất.
Phương thức khớp lệnh định kỳ thường được áp dụng để xác định giá mở cửa, giá
đóng cửa ở một số nước. Còn phương thức khớp lệnh liên tục thường được áp dụng cho các
giao dịch trong phiên giao dịch.
Khớp lệnh liên tục:
Giao dịch được thực hiện liên tục thông qua việc so khớp các lệnh có giá phù hợp
( nghĩa là giá mua bằng hoặc cao hơn giá bán) ngay khi có lệnh mới đưa vào sổ lệnh.
Theo phương thức khớp lệnh liên tục, các lệnh mua và bán sau khi đăng kư sẽ được so với
nhau, nếu thấy khớp về giá sẽ cho thực hiện ngay. Phương thức này thực hiện được khối
lượng giao dịch lớn nên phù hợp với các thị trường chứng khoán phát triển
b. Nguyên tắc so ghép lệnh :
-Mức giá giao dịch sẽ là mức giá có khối lượng giao dịch đạt được là lớn nhất
-Nếu sau khi khớp lệnh có nhiều mức giá cùng thỏa mãn thì lấy mức giá gần với giá đóng
cửa của ngày hôm trước hay mức giá của ngay phiên giao dịch trước đó.



-Nếu có nhiều mức giá cùng thỏa mãn và cùng gần với mức giá đóng cửa của phiên giao
dịch trước thì sẽ chọn mức giá có mức chệnh lệch giữa khối lượng muốn mua và khối lượng
muốn bán ít hơn
-Giá mua cao hơn giá cơ bản và giá bán thấp hơn giá cơ bản sẽ được thực hiện trước
-Phân bổ từ bên có khối lượng ít sang bên có khối lượng nhiều
5) Chăm sóc các khoản đầu tư :
Thông thường sau khi đầu tư các nhà đầu tư nên thực hiện các công việc sau:
a. Lập sổ sách theo dõi
- Lưu tất cả các hợp đồng theo thứ tự ngày tháng
-Ghi nhận đầy đủ chi tiết về khoản cổ tức hay tiền lãi đã nhận được
-Nếu nắm giữ các chứng chỉ cổ phiếu thì phải cất giữ chúng an toàn để khi cần có thể
bán luôn
-Cần có phương pháp để bám sát tiến triển của các khoản đầu tư đã thực hiện
-Có thể nhờ đến dịch vụ quản ly danh mục đầu tư của các công ty chứng khoán nếu
công việc của chủ đầu tư quá bận rộn. Các công ty này sẽ thường xuyên cung cấp các báo
cáo về tình hình các khoản đầu tư của khách hàng.
b. Thu thập thông tin:
Thu thập thông tin từ báo chí, internet , phương tiện truyền thông, các bản tin từ trung
tâm giao dịch chứng khoán, báo cáo tình hình hoạt động của các công ty niêm yết.
1.4. Khối ngoại trên thị trường chứng khoán:
1.4.1. Các quy định theo Luật về quyền hạn và nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài
trên thị trường chứng khoán Việt Nam:
Căn cứ theo Quyết định số: 55/2009/QĐ-TTg, nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường
chứng khoán bao gồm :
-Tổ chức thành lập và hoạt động theo pháp luật nước ngoài và chi nhánh của các tổ
chức này tại nước ngoài và tại Việt Nam.
-Tổ chức thành lập và hoạt động ở Việt Nam có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước
ngoài trên 49%.
-Quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước
ngoài trên 49%.

-Cá nhân nước ngoài là người không mang quốc tịch Việt Nam, cư trú tại nước ngoài
hoặc tại Việt Nam.
* Nhà đầu tư nước ngoài mua, bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt
Nam được nắm giữ:
-Đối với cổ phiếu: tối đa 49% tổng số cổ phiếu của công ty cổ phần đại chúng.
Trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác thì áp dụng theo quy định của
pháp luật chuyên ngành. Trường hợp tỷ lệ sở hữu bên nước ngoài được phân loại theo danh
mục các ngành nghề cụ thể thì áp dụng theo danh mục phân loại.
-Đối với chứng chỉ quỹ đầu tư đại chúng: tối đa 49% tổng số chứng chỉ quỹ đầu tư
của một quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng.
-Đối với công ty đầu tư chứng khoán đại chúng: tối đa 49% vốn điều lệ của một công
ty đầu tư chứng khoán đại chúng.
-Đối với trái phiếu: tổ chức phát hành có thể quy định giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với
trái phiếu lưu hành của tổ chức phát hành.


Tổ chức, cá nhân đầu tư nước ngoài phải đăng ký Mã số giao dịch chứng khoán với
Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam (VSD) khi thực hiện đầu tư trên thị trường chứng
khoán Việt Nam dưới các hình thức sau:
- Mua, bán cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán niêm yết khác trên Sở Giao
dịch Chứng khoán, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán hoặc đăng ký giao dịch tại các công
ty chứng khoán;
- Mua, bán cổ phần và các loại chứng khoán chưa niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng
khoán, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán hoặc chưa đăng ký giao dịch tại các công ty
chứng khoán;
- Tham gia đấu giá mua chứng khoán, đấu giá mua cổ phần tại các doanh nghiệp thực
hiện cổ phần hóa;
- Tham gia góp vốn thành lập quỹ đầu tư chứng khoán với tỷ lệ góp vốn của bên nước
ngoài theo quy định của Thủ tướng Chính phủ;
- Tham gia góp vốn tại các doanh nghiệp Việt Nam với tỷ lệ góp vốn của bên nước

ngoài theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Sau khi đăng ký mã số giao dịch chứng khoán, nhà đầu tư nước ngoài được phép mở
duy nhất một tài khoản lưu ký chứng khoán và mọi bút toán thanh toán đều phải được thực
hiện qua tài khoản này. Trường hợp nhà đầu tư là công ty chứng khoán thành lập theo pháp
luật nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài, nhà đầu tư được mở hai tài
khoản lưu ký chứng khoán theo các quy định về đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng
khoán do Bộ Tài chính ban hành.
Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài mở tài khoản lưu ký tại một thành viên lưu ký
khác, nhà đầu tư nước ngoài phải đóng tài khoản lưu ký đã mở, chuyển toàn bộ số dư trên tài
khoản này sang tài khoản mới.
Việc chỉ định, thay đổi thành viên lưu ký của nhà đầu tư nước ngoài, công ty chứng
khoán nơi nhà đầu tư nước ngoài mở tài khoản giao dịch, người đại diện giao dịch phải được
VSD chấp thuận bằng văn bản.
Đối với những thay đổi khác, nhà đầu tư nước ngoài phải thông qua thành viên lưu ký
thông báo cho VSD trong thời hạn tối đa hai (02) tháng kể từ khi có sự thay đổi.
1.4.2. Vai trò của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán:
-Giao dịch của khối ngoại rất quan trọng đối với thị trường chứng khoán, nhất là khi
thị trường giảm mạnh. Nếu như luật chứng khoán có thể hỗ trợ nhà đầu tư mua bán trong
ngày thì giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài sẽ càng hỗ trợ cho thanh khoản của thị trường.
-Khối ngoại là nhân tố giúp nâng đỡ và thúc đẩy thị trường khi họ liên tục giải ngân
và gia tăng lượng mua vào
-Các nhà đầu tư nước ngoài nếu là các tổ chức thì họ sẽ nghiên cứu thị trường một
cách bài bản và chuyên nghiệp vì vậy những động thái giao dịch của khối ngoại tất nhiên sẽ
có ảnh hưởng nhất định tới quyết định giải ngân của các nhà đầu tư nội. Hơn nữa những nhà
đầu tư nước ngoài với nguồn vốn lớn nên việc đầu tư trong dài hạn cũng rất khác biệt với
phương thức đầu tư ngắn hạn của đại đa số nhà đầu tư trong nước
-Thông thường, mức giá phát hành cổ phiếu cho nhà đầu tư chiến lược thường tương
đương hoặc thấp hơn so với thị giá giao dịch của cổ phiếu. Tuy nhiên, đã có không ít trường
hợp nhà đầu tư ngoại lại sẵn sàng trả cho doanh nghiệp (DN) một mức giá cao bất thường, kể
cả DN chưa niêm yết cũng như đang niêm yết. Nhà đầu tư là các tổ chức định chế nước

ngoài đo lường hiệu quả đầu tư không dựa trên lời lỗ ngắn hạn mà họ dựa trên xu hướng thị
trường, diễn biến của chỉ số. Những nhà đầu tư nước ngoài chọn các mã có chỉ số phân tích
cơ bản tốt, có mức vốn hóa thị trường lớn, ảnh hướng lớn đến diễn biến của chỉ số. Chính vì


thế các tổ chức định chế chọn những mã cổ phiếu này nhằm duy trì chỉ số. Khi thị trường bật
lại, các mã này sẽ là những mã tăng nhanh nhất.
-Những điều kiện để thu hút dòng vốn ngoại là chính sách và luật pháp minh bạch,
chính sách tiền tệ chặt chẽ , mà quan trọng nhất là vấn đề tỷ giá, thâm hụt thương mại và
chính sách về kiểm soát dòng tiền của chính phủ doanh nghiệp có cách nhìn dài hạn hơn.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAMVAI TRÒ CỦA KHỐI NGOẠI TRÊN TTCK VIỆT NAM.
2.1. Cơ sở pháp lý về hoạt đầu đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Đầu năm 1990, việc nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và phân tích các điều kiện ra
đời cho thị trường chứng khoán Việt Nam được thực hiện. Trên cơ sở đó 1 số bản đề án hình
thành thị trường chứng khoán Việt Nam được xây dựng . Năm 1994 ban chỉ đạo soạn thảo
pháp lệnh về thị trường chứng khoán bao gồm đại diện của Bộ tài chính, Ngân hàng nhà
nước, Bộ tư pháp… đã được thành lập để thống nhất đầu mối triển khai xây dựng đề án về
thị trường chứng khoán và soạn thảo 1 số văn bản pháp qui liên quan.
Tại Việt Nam ngay từ năm 1996 khi chưa có thị trường chứng khoán chính thức tập
trung ra đời đã có UBCKNN thành lập theo nghị định 75/CP ngày 28/11/1996. Điều này
khẳng định sự quan tâm tích cực từ phía Nhà nước đối với loại thị trường hàng hóa đặc biệt
này đồng thời tạo cơ sỏ pháp lý cho sự ra đời TTCK tại Việt Nam. Mặc dù chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của UBCKNN chỉ được thể hiện qua nghị định song vị trí pháp lý của nó được
khẳng định là 1 cơ quan của Chính phủ có thẩm quyền ban hành văn bản qui phạm pháp luật.
Tiếp theo Nghị định 75/ CP là Nghị định 48/1998/ NĐ-CP về chứng khoán và TTCK. Để
TTCK VN đạt tiêu chuẩn của TTCK quốc tế, có khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, yêu
cầu văn bản pháp luật điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của TTCK pahỉ được ban hành bởi
đạo luật. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu phát triển của thị trường đây lại là 1 vấn đề nan giải
bởi ở VN lúc này mới có thị trường CK tự do, phi tập trung, TTCK trao tay. Có thể nói Nghị
định số 48/1998/NĐ-CP là văn bản pháp luật cao nhất cho hoạt động của TTCK Việt Nam,

tuy nhiên có nhiều hạn chế như:
+ Mới chỉ qui định về thị trường giao dịch tập trung chưa có sự phân định roc trách
nhiêm và phạm vi kiểm tra, giám sát giữa UBCKNN và trung tâm giao dịch CK. Do vậy
trong hoạt động giám sát các công ty niêm yết sẽ không tránh khỏi có sự chồng chéo các qui
định về giao dịch trên trung tâm giao dịch CK không bao hàm đầy đủ các nguyên tắc cơ bản
của hoạt động giao dịch CK
+ Các qui định của pháp luật về điều kiện phát hành, điều kiện niêm yết chứng khoán
chưa có sự tách bạch, rõ ràng.
+Cổ phiếu được qui định trong các văn bản này không giống nhau. Do đó gây khó
khăn cho doanh nghiệp và người đầu tư trong việc thực hiện các giao dịch về CK đặc biệt
trên thị trường thứ cấp.
+ Pháp luật chưa xác định các thông tin nào doanh nghiệp bắt buộc phải công bố,
thông tin nào được quyền giữ kín.Mặt khác, trách nhiệm công bố thông tin là thuộc về tổ
chức phát hành trực tiếp hay giao cho trung tâm giao dịch CK công bố
+ Pháp luật về chứng khoán chưa qui định rõ thời điểm hình thành, chấm dứt quyền
sở hữu chứng khoán và các quyền có liên quan đến chứng khoán
Xuất phát từ hạn chế của Nghị định 48/1998/NĐ-CP, Chính phủ đã ban hành Nghị định
144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường CK. Nghị định này có
phạm vi điều chỉnh tương đối rộng, qui định thủ tục đăng ký phát hành chứng khoán ra công
chúng thay cho cơ chế cấp phép phát hành. Việc ban hành Nghị định 144 đã đánh dấu 1 bước
quan trọng trong quá trình hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của TTCK Việt Nam, là
cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm cho thị trường hoạt động an toàn, công bằng, hiệu quả bảo
vệ quyền lợi cho nhà đầu tư


Tuy nhiên do sự phát triển của nền kinh tế nói chung và TTCK Việt Nam nói riêng thì
việc ban hành Nghị định 144 và sau đó hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành cũng chưa
tạo được môi trường pháp lý đầy đủ và ổn định để điều chỉnh mọi hoạt động trên TTCK. Để
khắc phục những bất cập của Nghị định 144 và điều chỉnh toàn diện hoạt động của TTCK
cũng như để tham gia WTO, Luật chứng khoán đã được ban hành vào năm 2006, có hiệu lực

từ ngày 1/1/2007. Luật chứng khoán tạo lập khuôn khổ pháp lý cao cho hoạt động của
TTCK, loại bỏ những mâu thuẫn xung đột với các văn bản pháp luật khác có liên quan nhằm
hoàn thiện mô hình hoạt động của thị trường và thúc đẩy TTCK phát triển.
2.2. Quá trình hình thành và phát triển TTCK Việt Nam
a. Khái quát sự hình thành TTCK Việt Nam
Ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và
TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Cùng ngày, Chính
phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà
Nội. Việc chuẩn bị cho TTCKVN thực ra đã do Uỷ Ban Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng
Nghị định 75/CP ngày 28-11-1996.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được thành lập
theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt động thực
hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000
Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức chào đời vào
ngày 8/3/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao dịch chứng khoán
của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho các DN nhỏ và vừa (với vốn
điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
b. Sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
TTCK Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay đã trải qua các giai đoạn phát triển thăng trầm sóng
gió cùng với sự biến động của nền kinh tế trong nước lúc tăng, lúc giảm. Có thể điểm qua
những chặng đường TTCK Việt Nam đã đi qua như sau:
- Giai đoạn 2000-2005: Giai đoạn đầu của TTCK
TTCK Việt Nam ra đời bằng việc đưa vào vận hành TTGDCK TP.HCM ngày
20/7/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000 với 2 loại cổ phiếu
(REE và SAM) của hai công ty, số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được
niêm yết giao dịch.
Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái nằm ngang và ảm đạm, loại trừ
cơn sốt vào năm 2001(chỉ số VN index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng
chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã mất giá
tới 70% giá trị, chỉ số VN Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001 xuống chỉ còn

khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001. Trong 4 tháng này, trong khi nhiều nhà đầu tư tháo
chạy khỏi thị trường với lời nguyền không bao giờ quay lại thì một số nhà đầu tư khác vẫn
bình tĩnh bám trụ, âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được lợi nhuận. thì trong 5 năm chỉ số
VN-Index lúc cao nhất chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất xuống đến130 điểm. Lý do chính là ít
hàng hoá, các doanh nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không hấp dẫn nhà đầu tư
trong nước.
TTCK giai đoạn này dường như không thu hút được sự quan tâm của đông đảo công
chúng, diễn biến tăng giảm thị trường chưa tạo ra tác động lớn để có thể ảnh hưởng tới sự
vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân.
Theo thống kê của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết 2005, tổng giá trị
TTCK Việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng cổ phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và gần
35.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, thu hút 28.300 tài
khoản giao dịch.


- Năm 2006: Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”, tạo
cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch
sôi động tại cả 3 “sàn”: Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC
Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường chứng khoán
Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ sau Dim-ba-buê.
Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng "hút hồn" các nhà đầu tư trong và
ngoài nước.
Không thể phủ nhận năm 2006 vừa qua thị trường chứng khoán Việt Nam non trẻ này
đã có “màn trình diễn” tuyệt vời và có thể sẽ không bao giờ có lại được với khối lượng vốn
hoá tăng gấp 15 lần trong vòng 1 năm.
Năm 2006, TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index tại sàn giao
dịch TP. Hồ Chí Minh (HOSE) tăng 144% năm 2006, tại sàn giao dịch Hà Nội (Hastc) tăng
152,4% Thị trường chứng khoán Việt Nam 2006: VN-Index cuối năm tăng 2,5 lần so đầu
năm Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP)

giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD, chiếm
16,4% mức vống hóa của toàn thị trường, hàng ngày có khoảng 80-100 công ty có cổ phiếu
giao dịch, đây là những cổ phiếu được phát hành theo Luật Doanh nghiệp là chính. Trên thị
trường phi tập trung, tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần so với khối lượng giao dịch
trên Hastc. Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công
ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10.000 gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước.
Trong vòng 1 năm, chỉ số VN-Index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm cuối 2005 lên 800
điểm cuối 2006.
- Năm 2007: Năm TTCK Việt Nam bùng nổ
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường
phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai,
minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường.
VNIndex đạt đỉnh 1.170,67 điểm; HASTC-Index chạm mốc 459,36 điểm
Tính đến ngày 28/12/2007, SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 248 phiên giao dịch
với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao
dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và 2,8 lần giá trị giao dịch so
với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch có 9,2 triệu chứng khoán được chuyển nhượng
tương đương với 980 tỷ đồng
TTGDCK Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối lượng giao
dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn
thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8 lần về giá trị giao dịch so
với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng trưởng mạnh khi mức giao dịch bình quân năm 2007
đạt 255 tỷ đồng/phiên trong khi năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng/phiên.
Thị trường CKVN bùng nổ và phát triển mạnh nhất vào đầu tháng 3/2007, VN-Index
đạt mức đỉnh là 1.170,67 điểm sau 7 năm hoạt động và HASTC-Index thiết lập mức đỉnh
459,36 điểm sau 2 năm hoạt động đây là giai đoạn thị trường đạt mức tăng trưởng với tốc độ
lớn nhất khi đạt mức tăng 126% trong vòng 3 tháng giao dịch, tổng giá trị vốn hóa của thị
trường lên đến con số 398.000 tỷ đồng. So với tổng giá trị vốn hóa cả năm 2007 là 492.900
tỷ đồng chiểm tỷ trọng 4/5
Từ tháng 4 đến đầu tháng 9/2007 sự trầm lặng của cả 2 sàn HOSE và HASTC, tất cả

các yếu tố của thị trường đều giảm sút nghiêm trọng. VN-Index chỉ trong vòng 1 tháng giao
dịch đã rơi xuống mức 905,53 điểm (24/4/2007), HASTC-Index trở về mốc 321,44 điểm đã
tác động mạnh đến tâm lý của các nhà đầu tư, làm cho thị trường nhanh chóng trở lại trạng
thái mất cân bằng và liên tục sụt giảm mạnh trong những tháng kế tiếp tính đến đầu tháng 8,


thị trướng xác lập mức đáy 883,9 điểm của Vn-Index (6/8/2007) và 247,37 điểm của
HASTC-Index (23/8/2007). Giá trị giao dịch bình quân đối với NĐTNN chỉ đạt 170 tỷ
đồng/phiên, giảm tới 52% so với giai đoạn đầu năm.
- Năm 2008: TTCK Việt Nam sụt giảm mạnh
Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính phủ
đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc biệt là các DN quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả và việc
bán bớt CP Nhà nước trong các DN đã CPH, chưa kể hàng loạt ngân hàng, Công ty chứng
khoán, doanh nghiệp... phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng
thị trường CK có nguy cơ thừa “hàng”
• Giai đoạn 1: Từ tháng 01 tới tháng 06 - Thị trường giảm mạnh do tác động từ tác
động của kinh tế vĩ mô
Khởi đầu năm tại mức điểm 921,07, VNIndex đã mất đi gần 60% giá trị và trở thành
một trong những thị trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới trong nửa đầu năm 2008.
Các thông tin tác động xấu tới tâm lý nhà đầu tư trong giai đoạn này chủ yếu xuất phát từ nội
tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát, chính sách thắt chặt tiền tệ của
NHNN, sự leo dốc của giá xăng dầu và sức ép giải chấp từ phía ngân hàng đối với các khoản
đầu tư vào TTCK.
Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của thị trường, các cơ quan điều hành bắt đầu
đưa ra những chủ trương và biện pháp hỗ trợ:
(1) UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch;
(2) SCIC tham gia mua vào cổ phiếu;
(3) NHTM được vận động ngừng giải chấp;
(4) Tổ chức niêm yết được khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ
Tuy nhiên, phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn hạn, và thị

trường tiếp tục sụt giảm, cơn bão giải chấp cổ phiếu không ngừng tác động tới tâm lý các
nhà đầu tư. Trong 103 phiên giao dịch của giai đoạn này, có tới 71 phiên VNIndex giảm
điểm. Đỉnh điểm là chuỗi 34 phiên VN-Index giảm điểm liên tiếp từ giữa tháng 04 đến đầu
tháng 6/2008. Sau 103 phiên giao dịch, VN-Index giảm mất 550,52 điểm- tương đương
59,77%. Bình quân trong mỗi phiên, toàn thị trường có 8,02 triệu CP&CCQ được chuyển
nhượng, tương đương khoảng 482 tỷ đồng.
Trong đợt suy giảm này, nhóm cổ phiếu chịu nhiều tác động nhiều nhất là nhóm cổ
phiếu tài chính ngân hàng, công nghệ và công nghiệp (chủ yếu là các doanh nghiệp BĐS).
Trong lịch sử hoạt động của TTCK, chưa có năm nào UBCKNN phải can thiệp vào thị
trường bằng các biện pháp mạnh tay nhiều như năm 2008. Tổng cộng trong năm 2008,
UBCKNN đ ã có 04 lần thay đổi biên độ dao động giá trên cả 2 sàn chứng khoán. Nhằm hỗ
trợ thêm cho sức cầu trên thị tr ường, ngăn đà suy giảm mạnh của các chỉ số chứng khoán,
ngày 04/03/2008, Chính phủ đã đưa ra nhóm 19 giải pháp ứng cứu thị trường: Cho phép
SCIC mua vào cổ phiếu trên thị trường,kêu gọi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệm niêm
yết mua vào cổ phiếu quỹ…
Sự tăng trưởng nóng trong năm 2007, đặc biệt vào những tháng cuối năm đã đưa đến
những dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô. Chỉ số tiêu dùng băt đầu gia tăng với mức trung bình
2,07%/tháng trong 02 cuối năm 2007. Tiếp nối xu thế này, trong quý I/ 2008, chỉ số CPI tiếp
tục gia tăng với tốc độ bình quân 3,06%/tháng và đạt đỉnh vào tháng 05/2008 với mức tăng
3,91%
Trong chu kỳ tăng giá nửa đầu năm 2008, tại đa số thời điểm, lương thực được coi là
yếu tố tác động chủ yếu đến chỉ số giá. Tính đến tháng 06, giá lương thực đã tăng 57,22% so
với tháng 12/2007


Chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ lệ lạm phát tăng cao trong nước và sự biến động
mạnh của giá cả hàng hóa trên thế giới, thị tr ường hàng hóa và thị trường tiền tệ Việt Nam
tiếp tục có những biến động mạnh
Trên thị trường hàng hóa, xăng dầu - loại hàng hóa cơ bản thuộc sự kiểm soát của
Chính phủ - đã được điều chỉnh mạnh. Trên thị trường tiền tệ, lãi suất từ NHNN và NHTM

liên tiếp xác định các mặt bằng mới. Chịu tác động sức ép từ lạm phát, l ãi suất từ các
NHTM tăng mạnh trong cuối quý II, dao động từ 16 - 18% đối với huy động tiền gửi và 2021% đối với các khoản vay. Đặc biệt các sản phẩm huy động vốn với kỳ hạn ngắn, lãi suất
cao là tiêu điểm của hệ thống NH trong giai đoạn này. Sự căng thẳng về thanh khoản và sự
xáo trộnvề dòng chảy của tiền gửi huy động là nỗi lo của các NHTM trong giai đoạn này.
Thâm hụt thương mại cao nhất vào trong năm tháng đầu năm với mức trung bình là khoảng
2,6 tỷ USD/tháng
Trước thực trạng này chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp vào tháng 3/2008 với mục
tiêu kiềm chế lạm phát và thâm h ụt thương mại. Các chính sách chủ yếu được thực hiện
thông qua việc sử dụng công cụ điều hành lãi suất cơ bản và thắt chặt đầu tư công để hạn chế
nguồn cung tiền trên thị trường.
• Giai đoạn 2: Tháng 6 tới đầu tháng 9: Phục hồi trong ngắn hạn
Nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue -chip như STB, FPT, DPM…và đặc biệt
là SSI với sức cầu hỗ trợ từ đối tác nước ngoài, cả hai sàn chứng khoán đã có được những
phiên tăng điểm mạnh trong giai đoạn này. VNIndex và Hastc-Index liên tiếp vượt qua các
ngưỡng cản tâm lý quan trọng và thường xuyên có đư ợc những chuỗi tăng điểm kéo dài.
Đây cũng là giai đoạn thị trư ờng hoạt động sôi động nhất. Sức cầu mạnh, kéo theo khối
lượng giao dịch và giá trị giao dịch thường xuyên ở mức cao. VNIndex tăng được 168,55
điểm, tương đương 45,52%. Khối lượng giao dịch bình quân đạt 16,9 triệu CP&CCQ, tương
đương 599,18 tỷ đồng/phiên.
Trong giai đoạn này, nhóm cổ phiếu được ưa thích nhất là nhóm cổ phiếu dầu khí
(tăng 80,33%), nguyên vật liệu v à công nghệ (tăng 89,78%). Các đại diện tiêu biểu cho
nhóm cổ phiếu này bao gồm: PVS, PVD, PTC, HPG, FPT…
• Giai đoạn 3: Từ tháng 09 tới tháng 12 - Thị trường rơi trở lại chu kỳ giảm do tác
động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Đây là thời kỳ VNIndex rơi trở lại xu hướng giảm, thậm chí đã phá vỡ đáy thiết lập
được trong giai đoạn đầu của năm 2008. Tổng kết cả giai đoạn này, VNIndex m ất 223,48
điểm, tương đương 41,45%. Khối lượng giao dịch trung bình đạt 15,82 triệu CP&CCQ,
tương đương 497,58 tỷ đồng/phiên.
Nguyên nhân tác động lớn nhất tới TTCK trong giai đoạn này chính là sự lan tỏa
mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới. Hòa cùng xu thế giảm điểm của

TTCK các nước, 02 chỉ số chứng khoán tại sàn HoSE và HaSTC liên tiếp giảm điểm. Trong
86 phiên giao dịch tại HoSE, 49 phiên VNIndex mất điểm. Đáy mới thiết lập trong giai đoạn
này là 286,85 điểm vào ngày 10/12/2008
Cùng với nỗ lực giải cứu nền kinh tế của Chính phủ và động thái từ NHNN, xen lẫn
giữa những phiên giảm điểm , TTCK Việt Nam vẫn có những phiên phục hồi mạnh. Tuy
nhiên, các “con sóng” trên thị trường thường rất ngắn và không ổn định. Kết thúc giai đoạn
này, VNIndex giảm mất 239,52 điểm, tương đương 43,15 %.
Tốc độ giảm mạnh nhất trong giai đoạn này thuộc nhóm cổ phiếu các ngành nguyên
vật liệu, công nghiệp, tài chính và công nghệ. Nguyên nhân của sự suy giảm trong giai đoạn
này được nhận định một phần do sự tác động của xu thế chung thị trường, ngoài ra, cũng là
hệ quả của việc tăng khá chóng mặt của các các cổ phiếu n ày trong giai đoạn trước đó.
Một trong những đề tài nóng hổi và được báo giớ chú ý trong những tháng cuối năm
là phong trào trả cổ tức bằng tiền mặt, với tỷ lệ khá cao của các công ty niêm yết.


Nguồn vốn FII vào Việt Nam chủ yếu thông qua các quỹ đầu tư. Tuy nhiên, kể từ cuối
tháng 08/2008 cùng với sự sụt giảm của TTCK thế giới nói chung, TTCK Việt Nam cũng
giảm mạnh. Tính đến tháng 12/2008, những dấu hiệu về khả năng nhà đ ầu tư nước ngoài rút
vốn ra khỏi thị trường chứng khoán cũng bắt đầu xuất hiện, thể hiện qua việc bán ròng của
khối ngoại trong những tháng cuối năm.Ngoài ra, mặc dù lạm phát được kiềm chế nhưng lại
có sự lo ngại về giảm phát do chỉ số CPI tăng trưởng âm trong những tháng cuối năm
Trong quý cuối năm, CPI đã giảm 0,23% trong tháng 10 và tăng lên thành 0,81%
trong tháng 12 (so từng tháng). Tính cả năm 2008 , tỷ lệ lạm phát là 19,89% (so với tháng
12/2007) và xấp xỉ 23% (so với bình quân 2007)
Giải pháp tài chính kịp thời trong những tháng cuối năm 2008 được thực hiện thông qua việc
điều chỉnh giảm lãi su ất cơ bản nhằm kíchcầu sản xuất tiêu dùng, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp tiếp cận vay vốn một cách dễ dàng hơn, đồng thời giảm áp lực tín dụng cho
các ngân hàng thương mại
- Năm 2009: TTCK phát triển theo tiến trình hồi phục phát triển của nền kinh tế.
Năm 2009 có thể phân ra 4 giai đoạn sau:

+ Giai đoạn 1: Suy thoái và tạo đáy (từ tháng 1-2)
Nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu thể hiện rõ
nhất ở tiêu dùng suy giảm, sản xuất đình đốn, kim ngạch xuất khẩu bị thu hẹp, vốn đầu tư
nước ngoài ít đi… tăng trưởng GDP quý I/2009 đạt 3,1%. TTCK vì thế tiếp tục đổ dốc theo
xu hướng giảm của năm 2008 tạo đáy ở 235 điểm vào cuối tháng 2/2009
+ Giai đoạn 2: Tăng trưởng đợt 1 (tháng 3-7)
Sang tháng 3 Chính phủ Việt Nam bắt đầu thực hiện gói kích thich kinh tế, chính sách
tài khoán mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng thông qua gói kích cầu, hỗ trợ lãi suất 4%
cũng như chính sách giảm thuế đối với Doanh nghiệp. Kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi và
chính thức thoát đáy từ quý II/2009 với tốc độ tăng trưởng GDP là 3,9% TTCK tháng 3-4
tăng nhẹ và chậm, sau đó tăng tốc mạnh từ tháng 5 xác lập 525 điểm vào giữa tháng 6 sau đó
thị trường điểm chỉnh giảm dần trong tháng 7
+ Giai đoạn 3: Tăng trưởng đợt 2 (tháng 8-10)
Gói kich thích vẫn tiếp tục phát huy các Doanh nghiệp tận dụng được những cơ hội
vốn thấp, nguyên liện đầu vào rẻ. GDP tình chung 3 quý đầu năm 2009 đạt 4,6% đây là cơ sở
khá vững để TTCK tiếp tục tăng trưởng đợt 2, giá trị khối lượng giao dịch trên 100 triệu đơn
vị tương ứng mỗi phiên đạt 5000-6000 tỷ đồng.
+ Giai đoạn phát triển thận trọng
Chính sách kích thích phát huy được tác dụng nhưng cũng đã tạo ra các tác động lớn
trong nền kinh tế tiềm ẩn mốt số nguy cơ, sự tăng trưởng tín dụng của 10 tháng đầu năm
2009 trên 33% tăng trưởng quá mức cần thiết, chỉ số ICOR năm 2009 bằng 8, là mức cao
nhất từ trước tới nay.Bên cạnh đó, Chính sách tài khóa khiến ngân sách Nhà nước lâm vào
tình trạng thâm hụt có thể lên tới 6,5% GDP của năm. Những yếu tố này đã ảnh hưởng lớn
đến luồng tiền đầu tư vào TTCK và yếu tố tâm lý của nhà đầu tư đã làm cho chỉ số chứng
khoán giảm mạnh trong tháng cuối năm 2009
Năm 2010, Thị trường ảm đạm
Nữa đầu năm 2010, thị trường chứng khoán biến động trong biên độ hẹp 480 - 550
điểm với thanh khoản ở mức trung bình. Nguyên nhân thị trường đi ngang trong suốt 6 tháng
đầu năm được nhận định là bởi tâm lý thận trọng của giới đầu tư cùng sự khan hiếm của
dòng tiền.

Trong giai đoạn này, Chính phủ áp dụng những biện pháp nhằm hướng dòng vốn vào
lĩnh vực sản xuất và hạn chế cấp vốn cho các kênh như chứng khoán, bất động sản. Đồng


thời, lượng cổ phiếu niêm yết, cổ phiếu thưởng tăng lên nhanh chóng làm cho dòng tiền trên
thị trường càng trở nên khan hiếm.
Trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 8, thị trường chứng khoán bước vào giai
đoạn lao dốc khi hai chỉ số chứng khoán đều chạm mốc thấp nhất trong vòng một năm.
Trong vòng 2 tháng, Vn - Index mất hơn 16%.
Từ cuối tháng 8, những bất ổn của nền kinh tế dần bộc lộ và đỉnh điểm là đầu tháng
11, Chính sách tiền tệ đột ngột thay đổi - thể hiện rõ quyết tâm kiềm chế lạm phát, kéo theo
một cuộc đua lãi suất gữa các ngân hàng.
Với thị trường chứng khoán, điểm ngạc nhiên là sau một tuần rơi mạnh bởi biến động
khó lường của tỷ giá cùng giá vàng trong và ngoài nước, thị trường đã quay đầu hồi phục vào
cuối tháng 11, đầu tháng 12. Đây có thể coi là thành công của chứng khoán Việt Nam bởi đa
phần các thị trường lớn trên thế giới đều mất điểm trong thời gian này.
- Năm 2011: Thị trường lao dốc
Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2011 tiếp tục chứng kiến đà lao dốc không
phanh của cả hai chỉ số chính. Trong khi VN-Index giảm từ 486 điểm xuống mức 356,2 điểm
(mức thấp nhất kể từ tháng 5/2010) thì HNX-Index đạt mức thấp nhất từ khi chỉ số này ra
đời, giảm 55,4 điểm xuống 58 điểm tính đến ngày 26/12.
2.2. Thực trạng hoạt động đầu tư chứng khoán tại Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011
Diễn biến TTCK Việt Nam năm 2008
Nếu như hai năm 2006-2007, thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển bong bóng
với tốc độ nhất nhì thế giới thì sang năm 2008 cũng đứng đầu về tốc độ suy giảm. Cuối năm
2007, vốn hóa thị trường chiếm 40% GDP (30 tỷ USD). Nhiều ý kiến lạc quan cho rằng, cuối
năm 2008, vốn hóa thị trường sẽ đạt khoảng 35 – 40 tỷ USD (60% GDP). Tuy nhiên thực tế
cho thấy, hết năm 2008, giá trị vốn hóa thị trường hiện chỉ còn 13 tỷ USD, tương đương 17%
GDP. Vn-Index mất gần 70% giá trị. Những đặc điểm nổi bật trên TTCK Việt Nam năm
2008 cho thấy chúng ta đã không thể lường trước được thực tế lại khác xa với kỳ vọng nhiều

đến như vậy.
 Liên tục điều chỉnh biên độ dao động giá cổ phiếu
Có lẽ, năm 2008 sẽ đi vào lịch sử giao dịch của TTCK Việt Nam với số lần thay đổi biên độ
nhiều nhất. Tổng cộng UBCK Nhà nước đã 4 lần điều chỉnh biên độ chứng khoán.


Lần 1 - 27/03/2008: Giảm biên độ dao động trên hai sàn từ 5% xuống 1% đối với
HoSE và 10% xuống 2% đối với Hastc.



Lần 2 – 07/04/2008: Nới biên độ mỗi sàn thêm 1% - Hose 2% và Hastc 3%.



Lần 3 – 19/06: Tiếp tục nới biên độ HoSE lên 3% - Hastc lên 4%.



Lần 4 – 18/08/2008: Trả lại biên độ cũ cho HoSE 5% - nới biên độ Hastc lên 7%.

 SCIC mua cổ phiếu bình ổn thị trường
Ngày 07/03/2008, trước những diễn biến bất lợi trên TTCK, VN-Index rơi từ mức 921
điểm xuống dưới 600 điểm, Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) dưới
sự chỉ đạo của Chính phủ đã mua vào một lượng cổ phiếu nhất định nhằm cứu giúp thị
trường khi các lệnh bán ATO và bán sàn liên tục được đặt ra khiến VN-Index giảm điểm hơn
24 phiên liên tiếp. Thị trường liên tục đặt ra câu hỏi SCIC đã ở đâu khi Vn-Index liên tục
giảm điểm với khối lượng bán ra ngày càng lớn. Việc tham gia bình ổn thị trường của SCIC
đã gây tranh cãi rất lớn trong giới đầu tư. Theo họ, nếu diễn biến thị trường xấu và kéo dài,
việc bỏ hàng tỷ đồng của SCIC để mua chứng khoán trên sàn có thể làm bội chi ngân sách

cũng như làm trầm trọng thêm vấn đề lạm phát lúc bấy giờ . Tuy nhiên, cùng với các biện
pháp thắt chặt và nới rộng biên độ, động thái tham gia thị trường của SCIC xét trên khía cạnh
nào đó cũng góp phần bình ổn tâm lý các nhà đầu tư khi VN-Index đã tăng được từ 366 điểm


lên 561 điểm vào ngày 26/08. Sau đó, VN-Index liên tục giảm điểm và chỉ còn 1/2 giá trị khi
cả khối nhà đầu tư trong nước lẫn nước ngoài cùng bán mạnh cổ phiếu vào đợt cuối năm,
trong khi cầu về cổ phiếu ngày một yếu dần.
 Hành động của khối ngoại
Trong 3 tháng, khối nhà đầu tư nước ngoài liên tục bán ròng cổ phiếu và trái phiếu
trên cả hai sàn Hà Nội và Tp.HCM. Nếu trước đây, việc khối ngoại luôn đi ngược thị trường
(mua vào khi thị trường giảm và bán ra khi thị trường tăng) sẽ góp phần cân bằng lại thị
trường thì nay, khối ngoại liên tục bán ra bất kể thị trường tăng hay giảm. Trước tình hình thế
giới lâm vào khủng hoảng chung, giá các cổ phiếu tại chính quốc trở nên rẻ hơn so với thị
trường Việt Nam, các tổ chức nước ngoài có xu hướng bảo toàn vốn và rút về nước. Tính
riêng 3 tháng cuối năm, khối ngoại bán ròng hơn 1.730 tỷ đồng cổ phiếu và hơn 27.000 tỷ
đồng trái phiếu. Trong đó dồn dập nhất vào tháng 10, khối ngoại liên tục bán ra trái phiếu với
giá trị bán ròng lên tới 1.000 tỷ đồng/phiên. Tổng cộng hai sàn, nhà đầu tư nước ngoài đang
nắm giữ 2,69 tỷ USD tiền cổ phiếu.
Lo sợ một đợt rút vốn ồ ạt của khối ngoại, giới đầu tư trong nước cũng hành động
theo khối ngoại và liên tục bán ra cổ phiếu khiến VN-Index xuống 286,87 điểm ngày 10/12.
Thậm chí trong khoảng thời gian cuối tháng 11, đột nhiên TTCK Việt Nam diễn biến cùng
pha với TTCK Mỹ. VN-Index diễn biến tăng giảm cùng với diễn biến của các chỉ số Dow
Johns, Nasdaq. Mặc dù chỉ số chứng khoán Mỹ phản ánh ngay thông tin trong khi VN-Index
bị ảnh hưởng bởi T+4. Chung cuộc, trong năm 2008, khối ngoại vẫn mua ròng hơn 56 triệu
cổ phiếu, đạt giá trị trên 5.800 tỷ đồng.
 Cổ phần hóa hụt hơi
Trong 11 tháng đầu năm 2008, cả nước đã sắp xếp được 121 doanh nghiệp, trong đó cổ phần
hoá 73 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp; các hình thức khác (giao, bán, giải thể, phá
sản, chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu, chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn) 45

doanh nghiệp (chiếm 40%), chỉ đạt 28% kế hoạch đã được Chính phủ phê duyệt trước đó.
Năm 2008, hầu hết các buổi đấu giá trên hai sàn HoSE và HaSTC đều không thành công,
lượng đấu giá thành công chỉ chiếm dưới 10% tổng khối lượng chào bán. Điển hình, hai buổi
đấu giá cổ phần lần đầu của Tổng công ty Bia rượu – Nước giải khát Hà Nội (Habeco) và
Tổng công ty Bia rượu nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) đã diễn ra không như ý muốn.
Những hệ luỵ để lại từ năm 2008 sẽ là một thách thức lớn đối với TTCK Việt Nam nửa đầu
năm 2009. Tuy nhiên đến cuối năm, tình hình có thể khởi sắc trở lại khi các gói kích cầu
hàng trăm tỷ USD của các nước trên thế giới phát huy tác dụng.
Diễn biến TTCK Việt Nam năm 2009
Năm 2009 là một năm đầy sóng gió cho cả nền Kinh tế cũng như TTCK Việt Nam. Tuy
nhiên, bức tranh Kinh tế Thế giới một năm sau “cơn bão tài chính” đã dần sáng trở lại với sự hồi
phục nhanh chóng của các trung tâm lớn như Đức, Pháp, Nhật, Mỹ… Nền kinh tế Việt Nam
vốn bị ảnh hưởng phần nào từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cũng đã
dần dần hồi phục nhờ những nỗ lực kích thích kinh tế của Chính phủ Việt Nam.
Các bước thăng trầm của TTCK cũng dựa trên tiến trình hồi phục và phát triển của
nền kinh tế trong nước cũng như thế giới. Theo thống kê của CTCP Chứng khoán Phố Wall
(WSS), có thể phân ra 4 giai đoạn lớn của TTCK VN trong năm 2009:
Từ tháng 1 đến tháng 2: Suy thoái và tạo đáy
Nền kinh tế trong nước bị ảnh hưởng nặng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thể
hiện rõ nhất ở tiêu dùng suy giảm, sản xuất đình đốn, kim ngạch xuất khẩu bị thu hẹp, vốn
đầu tư nước ngoài yếu đi… do vậy mức tăng trưởng GDP của Việt Nam trong qúy I/2009 đạt
3,1%. Thị trường chứng khoán vì thế đã tiếp tục đổ dốc theo xu thế giảm dài hạn của năm
trước và tạo đáy 235 điểm vào cuối tháng 2/2009.
Từ tháng 3 đến tháng 7: Tăng trưởng đợt 1


Bước sang tháng 3, Chính phủ VN bắt đầu thực hiện các biện pháp kích thích kinh tế,
chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng thông qua gói kích cầu, đặc biệt là
hỗ trợ lãi suất 4%, cũng như chính sách giảm, giãn thuế đối với doanh nghiệp. Vì vậy, nền
kinh tế đã có một số dấu hiệu phục hồi và chính thức thoát đáy từ quý II/2009 với tốc độ tăng

trưởng GDP đạt 3,9%. Dấu hiệu tích cực này đã phản ánh nhanh chóng vào TTCK, trong
tháng 3-4 thị trường chỉ đạt được mức tăng trưởng nhẹ và chậm, sau đó đã tăng tốc mạnh từ
tháng 5 và chính thức xác lập đỉnh 525 điểm khoảng giữa tháng 6.
Sau giai đoạn tăng trưởng nóng, thị trường đã điều chỉnh giảm cho đến gần hết tháng 7.
Từ tháng 8 đến tháng 10: Tăng trưởng đợt 2
Các trung tâm kinh tế lớn của thế giới cũng lần lượt khẳng định sự phục hồi, đặc biệt
một số quốc gia tại Châu Á và Trung Quốc đã đạt tốc độ tăng trưởng cao đã giúp thị trường
chứng khoán thế giới thực sự khởi sắc và lấy lại được những đỉnh cao trước thời điểm suy
thoái. Tại trong nước, các doanh nghiệp mặc dù có tốc độ tăng trưởng doanh thu không cao,
nhưng nhờ tận dụng được cơ hội chí phí vốn thấp, nguyên liệu đầu vào rẻ cũng như những
chính sách hỗ trợ về thuế nên đạt tốc độ tăng trưởng lợi nhuận rất lớn, cao hơn so với tốc độ
tăng trưởng doanh thu. Tăng trưởng GDP tính chung 3 quý đầu năm 2009 của Việt Nam đạt
4,6% và dự đoán cả năm là 5,2%.
Đây chính là cơ sở khá vững chắc để thị trường chứng khoán tiếp tục đợt tăng giá lần
2 đầy mạnh mẽ với những kỷ lục về giá trị và khối lượng liên tiếp được xác lập, đỉnh cao của
VN-Index là 633 điểm vào thời điểm cuối tháng 10, cùng khối lượng giao dịch trên 100 triệu
đơn vị, tương ứng với những phiên giao dịch 5.000-6.000 tỷ đồng.
Từ tháng 11 đến hết tháng 12: Thoái lui và thận trọng
Chính sách kích thích kinh tế mặc dù đã phát huy được tác dụng chính là ngăn chặn
đà suy giảm kinh tế, nhưng bên cạnh đó cũng tạo ra tác dụng phụ và tiềm ẩn một số nguy cơ.
Cụ thể nó đã kích thích mạnh vào tăng trưởng tín dụng trong 10 tháng đầu năm 2009 đạt trên
33%, có vẻ đã tăng quá mức cần thiết và vượt quá khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế.
Bằng chứng là chỉ số ICOR năm 2009 bằng 8 là mức cao nhất từ trước tới nay. Điều này
cũng có nghĩa là hiệu quả đầu tư đạt thấp, tiềm ẩn nhiều hệ lụy cho nền kinh tế mà trước mắt
là nguy cơ tái bùng nổ lạm phát cho năm 2010, “khuyến khích” các doanh nghiệp nhập khẩu
quay sang vay tiền đồng để mua ngoại tệ, ngây căng thẳng TT ngoại hối, lo lắng về sự mất
giá của tiền đồng gây sốt thị trường Vàng.
Ngoài ra, sự mạnh tay trong chính sách tài khóa đã khiến ngân sách nhà nước rơi vào
tình trạng “trường kỳ thâm hụt” và có thể đạt mức kỷ lục 6,5% GDP. Trước thực trạng đó,
NHNN đã bất ngờ thực hiện nâng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% sau khi đã cam kết ổn định

chính sách tiền tệ đến hết năm 2009. Mặc dù các chính sách này có tác động tích cực cho nền
kinh tế trong trung và dài hạn, nhưng điều này đã gây sốc cho cả doanh nghiệp và nhà đầu tư
trên thị trường chứng khoán, những mầm mống khó khăn trong thanh khoản của ngân hàng
xuất hiện, quan ngại về việc doanh nghiệp khó vay vốn với lãi suất cao. Những tác động thực
đến luông tiền vào thị trường chứng khoán cũng như những tác động tâm lý thái quá đã
khiến các chỉ số chứng khoán rơi vào chu kỳ giảm điểm từ tháng 11 cho đến nay. Tính từ
đỉnh cao xác lập trong năm thì VN-Index đã mất khoảng 30% về điểm số.
Diễn biến TTCK Việt Nam năm 2010
Năm 2010, thị trường đã suy giảm sau khi tăng mạnh từ 235 điểm lên 630 điểm. Sự
suy giảm và tích lũy của thị trường đã khiến cả năm 2010 hầu như chỉ biến động trong
khoảng 484(+/-)65 điểm. Kết thúc năm tại mức 484,66 điểm. VN-Index đã giảm 10,11 điểm,
tương đương 2% so với mức 494,77 điểm tại ngày 31/12/2009
Về cơ bản, biến động thị trường chứng khoán nói chung và VN-Index có thể chia thành 3
giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: từ tháng 1 đến tháng 4, thị trường dao động trong vùng 470 – 550 điểm


Các chính sách nhằm giữ ổn định vĩ mô mà trọng tâm là kiềm chế lạm phát trong năm 2010
được thực thi từ cuối năm 2009 khiến thị trường điều chỉnh cho tới tháng 12/2009 và tiếp tục
tác động tới thị trường trong những tháng đầu năm 2010. Hiện tượng căng thẳng thanh khoản
của hệ thống NHTM, căng thẳng tỷ giá trên thị trường tiền tệ khiến doanh nghiệp gặp khó
khăn trong việc tiếp cận vốn sản xuất kinh doanh. Điều này được phản ánh trong biến động
giá chứng khoán không có hiện tượng bứt phá. Tới khi NHNN thực hiện một loạt chính sách
nhằm định hướng dòng tiền cho sản xuất như quy định đóng cửa sàn vàng, hạ lãi suất huy
động USD, cho phép NHTM cho vay trung, dài hạn với lãi suất thỏa thuận và sau đó là cho
vay ngắn hạn với lãi thỏa thuận thì thị trường mới có sự hồi phục. Thị trường phục hồi nhẹ từ
500 điểm lên 550 điểm vào cuối tháng 4/2010
Giai đoạn 2: từ tháng 5 đến tháng 11/2010, VN-Index giảm điểm mạnh từ 551 xuống
419 điểm.
Những tin xấu liên tục xuất hiện là thị trường giảm 23,9% trong gần 7 tháng. Khởi đầu là

bùng phát khủng hoảng nợ khu vực Châu Âu. Khi đó, nhà đầu tư đã lạm dụng quá mức đòn
bẩy tài chính khi chạy theo các mã cổ phiếu nhỏ dẫn tới các công ty chứng khoán buộc phải
bán chứng khoán khi thị trường giảm điểm. Tác động này khiếm mức sụt giảm của thị trường
càng trở nên mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, Thông tư 13/2010/NHNN về tỷ lệ an toàn hoạt
động của NHTM được NHNN ban hành khiến dòng tiền thị trường càng trở nên eo hẹp, sức
ép thoái vốn tới từ cổ đông các quỹ đầu tư lâu năm tại Việt Nam (như VEIL) làm tâm lý nhà
đầu tư trở nên bi quan. Khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng khiến các công ty ồ ạt lựa chọn
hình thức phát hành tăng vốn. Trong khi dòng tiền thị trường suy yếu, lượng hàng hóa gia
tăng với tốc độ nhanh tiếp tục khiến cung cầu cổ phiếu trở nên mất cân bằng và tất yếu dẫn
tới giảm giá.
Những bất ổn về vĩ mô, đặc biệt là vấn đề làm phát và tỷ giá liên tục tác động tiêu cực
tới thị trường. Trong giai đoạn này, với sự gia tăng mua mạnh của nhà đầu tư nước ngoài tại
các mã Cổ phiếu BVH, VIC, MSN, VN – Index hầu như chỉ dao động quanh biên độ hẹp
440 – 470 điểm nhưng phần lớn các cổ phiếu còn lại tiếp tục giảm giá và HNX – Index đã
giảm thấp nhất trong năm ở 96,77 điểm.
Giai đoạn 3: Hồi phục mạnh cuối năm 2010
Tính đến ngày 18/11, tại thời điểm thị trường tạo đáy 420 có tới 63% cổ phiếu có giá
dưới mức 20.000 VND/cp, trong đó có xấp xỉ hơn 100 cổ phiếu giảm xuống dưới mệnh giá,
phần lớn cổ phiếu đã thoái lui về mức giá hấp dẫn cho mục tiêu đầu tư trung, dài hạn. Sự trở
lại của dòng tiền đầu cơ ngắn hạn đi cùng với hiện tượng mua lại của những người bán
khống đã tạo nên sự bứt phá mạnh mẽ của thị trường trong những tháng cuối năm. NHNN
thực hiện nâng lãi suất thị trường mở, đi kèm động thái hoãn thời hạn tăng vốn lên 3.000 tỷ
đồng có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng dòng vốn của hệ thống ngân hàng trong
thời gian tới. Kết thúc phiên giao dịch ngày 31/12/2010, VN – Index đã giảm 10,11 điểm so
với cùng kỳ năm trước
Có thể thấy trong năm 2010, thị trường chứng khoán thế giới có những biến động
phức tạp, tuy nhiên xu hướng tăng giá là xu hướng phổ biến trên hầu hết các thị trường.
Ngược lại xu thế đó, thị trường chứng khoán Việt Nam năm qua lại giảm giá trong hầu hết
thời gian giao dịch và đóng cửa giảm so với 2009. Việc sụt giảm mạnh liên tục khiến TTCK
Việt Nam rẻ tương đối khi so sánh với TTCK trong khu vực và trên thế giới. Tỷ số P/E của

TTCK Việt Nam chỉ đạt 10,2 lần trong tháng 12/2010 trong khi đó của Thái Lan đạt 13,4 lần
và Ấn Độ đạt 20,2 lần
Diễn biến TTCK Việt Nam năm 2011:
Khủng hoảng nợ công tại Châu Âu năm 2011 đã gây tác động tiêu cực đến nhiều nền
kinh tế, gây tâm lý bất ổn với các nhà đầu tư trên thế giới. Tại Việt Nam chính sách kích cầu
năm 2009 đã bơm lượng tiền lớn vào lưu thông kết hợp cùng biến động tăng giá của nhiều
nguyên vật liệu đầu vào đã tạo đà cho lạm phát tăng mạnh trong năm 2011. Nằm trong bối
cảnh kinh tế khó khăn, TTCK VN trải qua 1 năm với diễn biến không thuận lợi


Giai đoạn 1: từ tháng 1/2011 đến tháng 5/2011: Đây là giai đoạn TT có xu hướng
giảm điểm là chủ đạo. Thông tin tác động mạnh đến thị trường là thông tin có liên quan đến
chỉ số CPI. Các yếu tố như tỷ giá được điều chỉnh 9.3% giá xăng tăng gần 30% đều là thông
tin tác động tiêu cực đến TTCK. Trong giai đoạn này Hnx-Index giảm 39.6% còn chỉ số VnIndex giảm 13.13%. Chỉ số Vn-Index có mức sụt giảm nhẹ hơn Hnx-Index do tại sàn TP
HCM nhà ĐTNN tham gia mua mạnh các cổ phiếu có vốn hóa lớn.
Giai đoạn 2: từ tháng 6/2011 đến tháng 9/2011: đây có thể xem là giai đoạn thị trường đi
ngang, chỉ số Vn-Index tăng 1.4% còn Hn-Index tăng 2.9%. Các thông tin hỗ trợ thị trường
như thông tư về quản lý giao dịch, thông tư về giao dịch ký quỹ cho thấy sự quan tâm của
các cơ quan quản lý đối với thị trường chứng khoán.
Giai đoạn 3: từ tháng 10/2011 đến hết tháng 12: giai đoạn này thị trường quay trở lại xu
hướng giảm. Mặc dù lạm phát bắt đầu có dấu hiệu được kiểm soát, tỷ giá được giữ ổn định
tuy nhiên đây là giai đoạn các nhà đầu tư, các doanh nghiệp bắt đầu bị ảnh hưởng của khó
khăn chính sách tiền tệ, tài khóa thắt chặt. Các thành phần trên thị trường đều gặp khó khăn
trong việc tiếp cận với nguồn vốn.Nếu tiếp cận được vốn thì chi phí sử dụng vốn ở mức cao.
Kết quả kinh doanh của DN quí III giảm mạnh khiến mức hấp dẫn của các cổ phiếu giảm.
Bên cạnh đó thông tin về các vụ vỡ nợ thanh khoản trong hệ thống ngân hàng đã tạo tâm lý
lo ngại cho nhà đầu tư trong quá trình tham gia thị trường.
2.3. Đánh giá hoạt động đầu tư trên TTCK Việt Nam
2.3.1. Những kết quả đạt được
Thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCKVN) chính thức đi vào hoạt động vào năm

2000 với việc vận hành sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK) TP.HCM vào ngày 20/7/2000
và SGDCK Hà Nội vào ngày 8/3/2005 (trước đó các SGDCK hoạt động với mô hình là các
Trung tâm Giao dịch chứng khoán và tổ chức dưới hình thức đơn vị sự nghiệp có thu thuộc
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước). Đến nay, sau gần 10 năm đi vào hoạt động và phát triển
dựa trên các mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển TTCKVN đến năm 2010 và Chiến
lược phát triển thị trường vốn đến 2010 và tầm nhìn 2020, hoạt động của TTCK đã đạt được
một số kết quả sau:
2.3.1.1 Về khung pháp lý, thể chế chính sách
Kể từ khi Luật Chứng khoán được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006 và có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01/01/2007, đã tạo lập được khuôn khổ pháp lý cao, đồng bộ và thống
nhất cho hoạt động của TTCK, từng bước loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột với các văn
bản pháp luật khác có liên quan (về cơ bản thống nhất với Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu
tư); phù hợp hơn với luật pháp, thông lệ quốc tế, tạo nền tảng cho TTCKVN khả năng hội
nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực; tăng cường tính công khai minh bạch cho thị
trường và nâng cao khả năng quản lý giám sát thị trường của cơ quan quản lý nhà nước.
2.3.1.2. Quy mô thị trường
Thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng lớn mạnh hơn về cả số lượng và chất
lượng.
Về số lượng: Năm 2000, với 02 công ty niêm yết khi đưa TTGDCK TP.HCM vào hoạt
động, TTCK đã có mức tăng trưởng nhanh về giá do nguồn cung hàng hóa khan hiếm, chỉ số
VN Index liên tục tăng và đạt tới đỉnh điểm là 571,04 điểm ngày 25/6/2001. Sau đó, thị
trường đã liên tục sụt giảm trong suốt 3 năm sau đó, trước khi tăng mạnh trở lại vào cuối
năm 2003. Năm 2005, sau khi TTGDCK Hà Nội đi vào hoạt động, tổng số các công ty niêm
yết trên cả hai thị trường là 44 công ty với tổng giá trị niêm yết là 4,94 nghìn tỷ đồng. Tuy
nhiên, nhìn chung, giai đoạn 2000-2005 là giai đoạn hoạt động khá trầm của TTCK Việt
Nam.Kể từ năm 2006 đến nay, TTCK Việt Nam bắt đầu khởi sắc và đã có bước tăng trưởng
mạnh mẽ cả về số lượng công ty niêm yết lẫn doanh số giao dịch. Tính đến cuối năm 2009,
đã có 541 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả hai SGDCK và 4 chứng chỉ quỹ đại chúng
niêm yết, với tổng giá trị niêm yết đạt 127,489 nghìn tỷ đồng, tăng 66,5 lần so với cuối năm



2005. Tổng giá trị vốn hóa thị trường tính tại thời điểm ngày 31/12/2009 ước đạt 620,551
ngàn tỷ đồng tương đương với gần 38% GDP cả năm 2009.Thị trường chứng khoán đã có sự
tăng trưởng không chỉ về quy mô niêm yết mà cả về tính thanh khoản của thị trường. Nếu
như năm 2005, bình quân có 667.600 cổ phiếu được giao dịch một phiên, thì năm 2006, con
số này tăng lên 2,6 triệu đơn vị (tăng 3,93 lần), tiếp tục tăng lên 9,79 triệu và 18,07 triệu
trong hai năm sau đó.
Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai trò là
kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa
– hiện đại hóa đất nước. Trong suốt thời kỳ từ 2000-2005, vốn hóa thị trường chỉ đạt trên
dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã có bước nhảy vọt mạnh mẽ lên 22,7% GDP vào năm
2006 và tiếp tục tăng lên mức trên 43% vào năm 2007. Trước biến động của thị trường tài
chính thế giới và những khó khăn của nền kinh tế trong nước, chỉ số giá chứng khoán đã sụt
giảm liên tục trong năm 2008 và làm mức vốn hóa thị trường giảm hơn 50%, xuống còn
18%. Khi nền kinh tế trong nước và thế giới bắt đầu hồi phục nhẹ từ quý II/2009, chỉ số giá
chứng khoán đã bắt đầu tăng trở lại cùng với số lượng các công ty niêm yết trên thị trường
cũng gia tăng nhanh chóng. Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu tính đến cuối năm 2009 đã
đạt 37,71% GDP. Ước tính đến cuối năm 2010 sẽ đạt khoảng từ 40-50% GDP.Hoạt động
phát hành huy động vốn trên TTCK thực tế chỉ mới phát sinh từ năm 2006 trở lại đây. Trong
năm 2006, có 44 công ty cổ phần thực hiện việc chào bán hơn 203 triệu cổ phiếu và đến năm
2007, hoạt động phát hành mới thực sự bùng nổ, khi có gần 200 đợt phát hành của 192 công
ty và 4 ngân hàng thương mại được đăng ký với UBCKNN với tổng lượng vốn huy động lên
đến gần 40.000 tỷ VND.
Trong năm 2008, do sự suy giảm của TTCK, tổng số vốn huy động chỉ đạt hơn 14.300
tỷ đồng thông qua hơn 100 đợt chào bán chứng khoán ra công chúng. Thị trường hồi phục
vào năm 2009 đã tạo điều kiện cho hoạt động phát hành qua thị trường chứng khoán, đặc biệt
là phát hành cổ phiếu. Tổng số vốn huy động qua phát hành cổ phiếu năm 2009 đã tăng hơn
50% so với 2008, đạt 21.724 tỷ đồng.Ngoài ra, công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
(DNNN) đã được gắn kết với việc huy động vốn từ công chúng đầu tư, góp phần thúc đẩy
nhanh việc sắp xếp khu vực DNNN theo tiến trình cải cách nền kinh tế của Chính phủ và huy

động vốn cho ngân sách nhà nước. Thực tế, việc gắn kết công tác cổ phần hóa DNNN với
công tác tạo hàng cho TTCK là nhân tố chủ đạo quyết định thành công trong việc tạo ra một
nguồn hàng phong phú, góp phần thúc đẩy tăng trưởng quy mô của thị trường.Hoạt động
phát hành trái phiếu qua Sở giao dịch chứng khoán dần trở thành một kênh huy động vốn
quan trọng cho Chính phủ. Dư nợ trái phiếu Chính phủ (TPCP) tính đến cuối 2009 vào
khoảng 16,9% GDP. Các trái phiếu doanh nghiệp được phát hành chủ yếu theo hình thức
phát hành riêng lẻ, do vậy, số trái phiếu doanh nghiệp được niêm yết trên TTGDCK/SGDCK
không nhiều.
2.3.1.3. Phương thức đầu tư

Nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán hiện nay có thể sử dụng phương
thức đầu tư trực tiếp hoặc phương thức đầu tư gián tiếp thông qua các quỹ đầu tư.
Hiện nay, phương thức đầu tư trực tiếp vẫn được đa số các nhà đầu tư, đặc biệt là các
nhà đầu tư cá nhân lựa chọn. Theo ủy ban chứng khoán nhà nước, kết thúc năm 2010, số
lượng tài khoản giao dịch tại các công ty chứng khoán cũng tăng mạnh với tổng số trên
1.000.000 tài khoản, tăng 1,2 lần so với năm 2009.
Phương thức đầu tư qua các quỹ đầu tư đang có những bước phát triển đáng kể.
Thống kê không chính thức cho thấy, số lượng quỹ đầu tư hoạt động tại Việt Nam khá đông
đảo, khoảng hơn 400 quỹ. Tuy nhiên, các quỹ thành lập trong nước còn quá nhỏ bé, cả về số
lượng và quy mô vốn quản lý. Các quỹ đầu tư vào Việt Nam, tính tới thời điểm này, chủ yếu
dưới hình thức công ty đầu tư hoặc quỹ đầu tư của NĐT nước ngoài thành lập tại nước thứ
ba là các thiên đường thuế như Cayman Islands, Bermuda, British Virgin Island và sau đó
mở tài khoản đầu tư vào Việt Nam với tư cách một NĐT nước ngoài đầu tư gián tiếp.


×