Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

khảo sát,đánh giá việc chấp hành quy định pháp luật về thời giờ làm viêc,thời giơ nghỉ ngơi một số doanh nghiêp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.46 KB, 36 trang )

MỤC LỤC


GIỚI THIỆU CHUNG
Đối với một quôc gia muốn phát triển về mọi mặt thì viêc đảm bảo
thực hiện đúng pháp luật luôn đặt lên hàng đầu.Ở Việt Namchungs ta việc
hoàn thiện pháp luật càng là yếu tố quan trọng.
Hiện nay ở Việt Nam sau khi mỗi lần Đại hội Đảng chúng ta lại vạch
ra những thiếu xót ,hạn chế của Hiến pháp và luật.Xã hội ngày càng phát triển
chính vì vậy chúng ta luôn đổi mới nhưng cơ chế pháp lý sao cho phù hơp ,để
không ngưng hoàn thiện đúng với thời cuộc .
Viêc chấp hành quy định thời giờ làm việc ,thời giờ nghỉ ngơi từ lâu
luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm lên hàng đầu ,qua nhiều năm đổi
mới chúng ta luôn cố gắng nắm bắt thời cuộc ,tiếp thu những tinh hoa văn hóa
của nhân loại để hoàn thiện mình .Bài khảo sat “ “ nhằm giúp chúng ta nhận
thấy rõ những bất cập còn thiếu sót cưa phap luật nước ta,để chúng ta làm cơ
sở,kinh nghiệm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam một cách tông thể
,đáp ứng được nhu cầu cấp bách mà xa hội cần.
Một khi chúng ta chấp hành tốt nhúng quy định của pháp luât về thời
giờ nghỉ ngơi sẽ lam cho xã hội công bằng hơn ,hướng tới mục tiêu “xã hội
công băng ,dân chủ ,văn minh”.Đây cũng là mục tiêu mà Đảng cộn sản Việt
Nam đề ra trong cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ,tiến lên thời kì cách mạng
xã hội chủ nghĩa,đưa đất nước một ngày càng giàu mạnh.

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là một trong những
quy định quan trọng của pháp luật lao động, vì nó liên quan thiết thực đến đời


sống và việc làm của người lao động. Tuy nhiên, hiện nay, tình trạng vi phạm
trong lĩnh vực này ngày càng nhiều và phổ biến, các vi phạm về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi chủ yếu là vi phạm trong việc tăng thời giờ làm việc
tiêu chuẩn, tăng số giờ làm thêm vượt quá mức cho phép, giảm và cắt bớt thời
gian nghỉ ngơi của người lao động v.v. Các hành vi vi phạm về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp may mặc, thủy
sản, da giày v.v. Các vi phạm này không những xâm hại nghiêm trọng đến
tính mạng, sức khỏe của người lao động mà còn tác động tới gia đình và một
phần tới xã hội nói chung. Một trong những lý do chính dẫn tới các cuộc đình
công trong thời gian gần đây là việc người lao động bị yêu cầu làm việc tăng
ca, bị cắt bớt thời giờ nghỉ ngơi.
Từ thực tế nêu trên, để hạn chế và đẩy lùi các vi phạm pháp luật về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi hợp pháp
của người lao động, tác giả chọn đề tài “khảo sát,đánh giá việc chấp hành
quy định pháp luật về thời giờ làm viêc,thời giơ nghỉ ngơi một số doanh
nghiêp ” làm tiểu luận của mình với mong muốn góp phần làm hoàn thiện
thêm các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và đưa ra một số
kiến nghị nhằm thực hiện tốt các quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi trên thực tế.
2.Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong thời gian vừa qua, đã có một số đề tài, công trình nghiên cứu về
việc chấp hành các quy định của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi. Các công trình, bài viết trên mới chỉ đi sâu nghiên cứu các quy định
pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi áp dụng cho một số đối
tượng lao động đặc biệt như lao động chưa thành niên, lao động nữ, người cao
tuổi hoặc chỉ tập trung vào liệt kê các hành vi vi phạm pháp luật về thời giờ
3


làm việc, thời giờ nghỉ ngơi mà không đề cập đến tổng thể việc chấp hành các

quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở các doanh
nghiệp cụ thể và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
trong lĩnh vực này.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của đề tài được cụ thể hóa ở những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Khái quát chung về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;
- Làm rõ thực trạng pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
một số doanh nghiệp ở Việt Nam;
- Đánh giá những ưu điển, nhược điểm của pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi và thực hiện các quy định về thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi một số doanh nghiệp ở Việt Nam;
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi doanh nghiệp ở Việt Nam.
4. Đối tưởng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật
về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Các quy định cụ thể của pháp luật về
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi trong mối quan hệ so sánh với các quy
định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của một số doanh nghiệp ở Việt
Nam và các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi trong Dự thảo
Bộ luật Lao động.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu về vấn đề này, Tác giả đã vận dụng những
phương pháp tiếp cận khảo sát là chủ yếu duy vật biện chứng, phương pháp
duy vật lịch sử, tư tương Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam về phát triển lực lượng lao động ở Việt Nam trong giai đoạn
mới.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp điều tra xã hội học, phương
4



pháp diễn giải và quy nạp.
6. Kết cấu của bài khảo sát,đánh giá.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bai khao sát và đánh giá được kết cấu
thành 03 chương,cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát chung về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và
sự điều chỉnh của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi ở một số doanh nghiệp ở Việt Nam;
Chương 3: Giaỉ pháp nhằm đảm bảo chấp hành pháp luật về thơi giờ
làm việc thời giờ nghỉ ngơi;

5


NỘI DUNG BÀI KHẢO SÁT.
CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC, THỜI GIỜ NGHỈ
NGƠI VÀ VIỆC CHẤP HÀNH QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỜI GIỜ
LÀM VIỆC, THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI
1.1. Khái quát chung về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
1.1.1. Khái niệm thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Trong quan hệ lao động, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi là hai khái niệm
khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một chế định
độc lập và không thể tách rời trong luật lao động.
Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được nghiên cứu dưới nhiều góc
độ như khoa học, kinh tế - lao động …, về mặt pháp lý có thể hiểu thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi như sau:
Thời giờ làm việc: là khoảng thời gian do pháp luật quy định hoặc do

sự thỏa thuận của các bên, trong thời gian đó người lao động phải có mặt tại
địa điểm để thực hiện những công việc, nhiệm vụ được giao phù hợp với các
quy định của pháp luật và sự thỏa thuận trong hợp đồng lao động.
Thời giờ nghỉ ngơi: là khoảng thời gian trong đó người lao động không
phải thực hiện những nghĩa vụ lao động và có quyền sử dụng thời gian đó
theo ý muốn của mình.
Tóm lại, dù thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi có được nghiên cứu
dưới góc độ gì đi nữa thì mục đích chính của việc nghiên cứu đó cũng là để
tìm ra một thời giờ làm việc hợp lý, một thời gian nghỉ ngơi thích hợp nhằm
tăng năng suất lao động đồng thời bảo vệ sức khỏe cho người lao động.
1.1.2. Sự cần thiết phải chấp hành pháp luật về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi
1.1.2.1.Chấp hành pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
xuất phát từ yêu cầu bảo vệ người lao động trong lĩnh vực lao động
1.1.2.2.Chấp hành pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
xuất phát từ sự tác động của nền kinh tế thị trường
6


1.1.2.3. Chấp hành pháp luật thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi xuất
phát từ bản chất nhà nước pháp quyền XHCN mà nước ta đang xây dựng
1.1.3. Ý nghĩa của việc chấp hành quy định pháp luật đối với thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Đối với người lao động
Thứ nhất, việc quy định thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tạo điều
kiện cho người lao động thực hiện đầy đủ nghĩa vụ lao động trong quan hệ,
đồng thời giúp người lao động bố trí, sử dụng quỹ thời gian một cách hợp lý.
Thứ hai,quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi có ý
nghĩa trong bảo hộ lao động, đảm bảo thời gian nghỉng một cách tiết kiệm các
nguồn tài nguyên trong doanh nghiệp nhằm hoàn t ngơi cho người lao động.

Đối với người sử dụng lao động
Thứ nhất, việc quy định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi giúp
người sử dụng lao động xây dựng kế hoạch tổ chức sản xuất kinh doanh khoa
học và hợp lý, sử dụhiện tốt tất cả các mục tiêu đã đề ra.
Thứ hai, những quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là căn
cứ pháp lý cho việc người sử dụng lao động thực hiện quyền quản lý, điều
hành, giám sát lao động, đặc biệt trong xử lý kỷ luật lao động, từ đó tiến hành
trả lương, thưởng… khen thưởng và xử phạt người lao động.
Đối với Nhà nước
Quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi thể hiện rõ
thái độ của Nhà nước đối với lực lượng lao động - nguồn tài nguyên qúy giá
nhất của quốc gia, đồng thời tạo ra hành lang pháp lý để Nhà nước thực hiện
chức năng quản lý của mình.
1.2. Việc chấp hành quy định của pháp luật về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi
1.2.1. Các nguyên tắc chấp hành pháp luật về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi
1.2.1.1. Nguyên tắc thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi do Nhà nước
quy định
7


Thời giờ làm viêc:
(Số :45/2013/NĐ-CP)
Điều 3. Thời giờ được tính vào thời giờ làm việc được hưởng lương
1. Nghỉ trong giờ làm việc theo quy định tại Điều 5 Nghị định này.
2. Nghỉ giải lao theo tính chất của công việc.
3. Nghỉ cần thiết trong quá trình lao động đã được tính trong định mức
lao động cho nhu cầu sinh lý tự nhiên của con người.
4. Thời giờ nghỉ mỗi ngày 60 phút đối với lao động nữ nuôi con dưới

12 tháng tuổi.
5. Nghỉ mỗi ngày 30 phút đối với lao động nữ trong thời gian hành
kinh.
6. Thời giờ phải ngừng việc không do lỗi của người lao động.
7. Thời giờ học tập, huấn luyện an toàn lao động, vệ sinh lao động.
8. Thời giờ hội họp, học tập, tập huấn do yêu cầu của người sử dụng lao
động hoặc được người sử dụng lao động đồng ý.
9. Thời giờ hội họp, học tập, tập huấn do công đoàn cấp trên triệu tập
cán bộ công đoàn không chuyên trách theo quy định của pháp luật về công
đoàn.
10. Thời giờ làm việc được rút ngắn mỗi ngày ít nhất 01 giờ đối với
người lao động cao tuổi trong năm cuối cùng trước khi nghỉ hưu.
Điều 4. Làm thêm giờ
1. Số giờ làm thêm trong ngày được quy định như sau:
a) Không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 01 ngày; khi áp
dụng quy định làm việc theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số
giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 01 ngày;
b) Không quá 12 giờ trong 01 ngày khi làm thêm vào ngày nghỉ lễ, tết
và ngày nghỉ hằng tuần.
2. Việc tổ chức làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong một năm
được quy định như sau:
a) Các trường hợp sau đây được tổ chức làm thêm:
8


- Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm là hàng dệt, may, da, giày, chế
biến nông, lâm, thủy sản;
- Sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước;
- Các trường hợp khác phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì
hoãn.

b) Khi tổ chức làm thêm giờ, người sử dụng lao động phải thông báo
bằng văn bản cho cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) quản
lý nhà nước về lao động tại địa phương.
3. Thời gian nghỉ bù theo Điểm c Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật lao
động được quy định như sau:
a) Sau mỗi đợt làm thêm tối đa 07 ngày liên tục trong tháng, người sử
dụng lao động phải bố trí để người lao động nghỉ bù số thời gian đã không
được nghỉ;
b) Trường hợp không bố trí nghỉ bù đủ số thời gian thì phải trả lương
làm thêm giờ theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật lao động.
Thời giờ nghỉ ngơi:
Điều 5. Nghỉ trong giờ làm việc
1. Thời gian nghỉ giữa giờ làm việc quy định tại Khoản 1 và Khoản 2
Điều 108 của Bộ luật lao động được coi là thời giờ làm việc áp dụng trong ca
liên tục 08 giờ trong điều kiện bình thường hoặc 06 giờ trong trường hợp
được rút ngắn. Thời điểm nghỉ cụ thể do người sử dụng lao động quyết định.
2. Ngoài thời giờ nghỉ ngơi trong ca làm việc bình thường được quy
định tại Khoản 1 Điều này, người lao động làm việc trong ngày từ 10 giờ trở
lên kể cả số giờ làm thêm thì được nghỉ thêm ít nhất 30 phút tính vào giờ làm
việc.
Điều 6. Thời gian được coi là thời gian làm việc của người lao động
để tính số ngày nghỉ hằng năm
1. Thời gian học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao
động theo cam kết trong hợp đồng học nghề, tập nghề.
9


2. Thời gian thử việc theo hợp đồng lao động sau đó làm việc cho
người sử dụng lao động.

3. Thời gian nghỉ việc riêng có hưởng lương theo Khoản 1 Điều 116
của Bộ luật lao động.
4. Thời gian nghỉ việc không hưởng lương nếu được người sử dụng lao
động đồng ý nhưng cộng dồn không quá 01 tháng.
5. Thời gian nghỉ do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nhưng cộng
dồn không quá 6 tháng.
6. Thời gian nghỉ do ốm đau nhưng cộng dồn không quá 02 tháng.
7. Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về
bảo hiểm xã hội.
8. Thời gian nghỉ để hoạt động công đoàn theo quy định của pháp luật
về công đoàn.
9. Thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi của người lao
động.
10. Thời gian nghỉ vì bị tạm đình chỉ công việc.
11. Thời gian bị tạm giữ, tạm giam nhưng được trở lại làm việc do được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận không phạm tội.
Điều 7. Cách tính số ngày nghỉ hằng năm đối với trường hợp làm
không đủ năm
Số ngày nghỉ hằng năm theo Khoản 2 Điều 114 của Bộ luật lao động
được tính như sau: lấy số ngày nghỉ hằng năm cộng với số ngày được nghỉ
tăng thêm theo thâm niên (nếu có), chia cho 12 tháng, nhân với số tháng làm
việc thực tế trong năm để tính thành số ngày được nghỉ hằng năm; kết quả
phép tính lấy tròn số hàng đơn vị, nếu phần thập phân lớn hơn hoặc bằng 0,5
thì làm tròn lên 01 đơn vị.
Điều 8. Nghỉ Tết Âm lịch
1. Thời gian nghỉ Tết Âm lịch theo Khoản 1 Điều 115 của Bộ luật lao
động do người sử dụng lao động lựa chọn 01 ngày cuối năm và 04 ngày đầu
năm âm lịch hoặc 02 ngày cuối năm và 03 ngày đầu năm âm lịch.
10



2. Người sử dụng lao động có trách nhiệm thông báo phương án nghỉ
Tết Âm lịch cho người lao động trước khi thực hiện ít nhất 30 ngày.
1.3. Sơ lược về quá tŕnh hh́nh thành và phát triển pháp luật về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
1.3.1. Trên thế giới
Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được hình thành từ
rất sớm ở các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia có nền công
nghiệp sản xuất phát triển sớm như Anh ban hành Luật Công Xưởng năm
1883. Năm 1866, tại Đại hội Đại biểu Đệ nhất Quốc tế họp ở Giơnevơ, lần
đầu tiên C. Mác đề xướng khẩu hiệu “Ngày làm 8 giờ”.
Ngày 11/4/1919, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) được thành lập theo
Hiệp ước Vécxây, điều lệ của tổ chức được thông qua với tôn chỉ mục đích và
nhiệm vụ là khẩn thiết cải thiện điều kiện lao động, nâng cao mức sống trên
toàn thế giới trong đó có quy định số giờ làm việc cho người lao động. ILO đã
thông qua một loạt các công ước về vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi:
Quy định về thời giờ làm việc của ILO Công ước số 1 (1919) quy định
số giờ làm việc một tuần không quá 44 giờ và công ước số 3 (1930) quy định
về ngày làm việc trong các xí nghiệp, trong các cơ sở thương mại, buôn bán 8
giờ hoặc 9 giờ hoặc 48 giờ một tuần; Công ước số 47 (1935) về giảm thời giờ
làm việc còn 40 giờ một tuần…
Quy định về thời giờ nghỉ ngơi của ILO Đối với chế độ nghỉ hàng năm
có hưởng lương, Công ước số 135 (1970) quy định về số ngày nghỉ có hưởng
lương là do các thành viên quy định nhưng không dược dưới 3 tuần làm việc
cho một năm làm việc;
Công ước số 14 (1931) quy định về ngày nghỉ hàng tuần trong công
nghiệp; Công ước số 106 (1957) quy định về ngày nghỉ hàng tuần trong
thương mại, văn phòng. Theo đó, người lao động phải được làm tối thiểu 1
ngày trong mỗi kỳ 7 ngày


11


1.3.2. Ở Việt Nam
Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954: nhiều văn bản về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi được ban hành như Sắc lệnh số 55 ngày 20/11/1945
của Chính phủ quy định về việc nghỉ có lương ngày 5
1/5, ngày lễ, tết, kỷ niệm lịch sử và ngày lễ tôn giáo. Hiến pháp năm
1946; Sắc lệnh số 29-SL ngày 12/3/1947. Sắc lệnh 29-SL đã có những quy
định khá đầy đủ và tiến bộ mà các quy định sau này phải ghi nhận.
Thời kỳ từ năm 1955 đến năm 1975: đây là thời kỳ đất nước bị chia
cắt làm hai miền, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi như Thông tư số 05-LĐTT ngày 9 tháng 3 năm
1955 quy định về thời giờ làm việc tại các xí nghiệp quốc doanh và công
trường. Thông tư 06 năm 1971.
Thời kỳ từ 1976 đến nay: Chính phủ đã có một số văn bản như Nghị
định 233 của Hội đồng Bộ trưởng ngày 22/6/1990 ban hành quy chế hoạt
động đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ngày 23/6/1994, Quốc hội đã chính thức thông qua Bộ luật Lao động
và có hiệu lực từ ngày 01/01/1995. Đây là văn bản pháp luật có ý nghĩa quan
trọng trong điều chỉnh quan hệ lao động. Trong đó thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi là một chế định quan trọng của BLLĐ được quy định tai chương
VII. Sau các lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 2002, 2006, và hiện nay là
2007, BLLĐ đã càng khẳng định được vai trò của mình trong việc bảo vệ
quyền lợi của người lao động đặc biệt trong việc bảo đảm giờ làm, nghỉ ngơi
cho người lao động.

12



CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VIỆC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT VỀ THỜI GIỜ LÀM
VIỆC, THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI MỘT SỐ DOANH NGHIỆP
Ở VIỆT NAM.
2.1. Thực trạng pháp luật về thời giờ làm việc
2.1.1. Thời giờ làm việc tiêu chuẩn
Thời giờ làm việc tiêu chuẩn là loại thời giờ làm việc áp dụng cho đại
bộ phận những người lao động làm việc trong điều kiện lao động, môi trường
lao động bình thường. bao gồm các loại thời giờ được liệt kê tại Khoản 3 Điều
3 Nghị định 195/CP ngày 31/12/1994 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Bộ luật lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 68 BLLĐ thì “thời giờ làm việc không
quá 8 giờ trong một ngày hoặc 48 giờ trong một tuần”. Quy định này là cơ sở
pháp lý vững chắc bảo vệ quyền lợi cho người lao động, đảm bảo tái sản xuất
sức lao động, ngăn chặn các hậu quả có thể xảy ra, đồng thời đảm bảo lợi ích
lâu dài cho người sử dụng lao động. Trên cơ sở quy định này, các bên thỏa
thuận thời gian làm việc trong hợp đồng lao động hay thỏa ước lao động tập
thể không được cao hơn mức thời gian định. Mức 40 giờ/tuần áp dụng cho
các đơn vị hành chính, sự nghiệp (Quyết định 188/1999/QĐ-TTg về thực hiện
chế độ tuần làm việc 40 giờ) đã góp phần vào xu hướng khuyến khích giảm
giờ làm cho người lao động đảm bảo tăng cường sức khỏe cũng như đời sống
tinh thần cho người lao động. Dự thảo BLLĐ quy định “Nhà nước khuyến
khích người sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc 40 giờ” (Điều 109).
Các nước như Philippine “thời giờ làm việc không quá 8 giờ mỗi
ngày”, Singapore quy định “không được đòi hỏi người làm công làm việc quá
8 giờ một ngày hoặc quá 44 giờ một tuần”, Campuchia, Indonesia quy định
“Người lao động không được phép làm quá 7 giờ một ngày hoặc 40 giờ một
tuần”, Thái Lan quy định “giờ làm việc bình thường là không quá 48 giờ/
tuần trong các doanh nghiệp công nghiệp; không quá 8 giờ/ ngày trong các

doanh nghiệp vận tải”, Nhật Bảnquy định “Nhà tuyển dụng không được quy
13


định thời gian làm việc quá 8 tiếng một ngày, 40 tiếng một tuần”.
2.1.2. Thời giờ làm việc rút ngắn.
Thời giờ làm việc rút ngắn là loại thời giờ làm việc có độ dài ngắn hơn
thời giờ làm việc bình thường mà vẫn hưởng đủ lương, áp dụng đối với một
số lao động đặc biệt, đó là: người lao động làm các công việc trong điều kiện
lao động đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; người lao động nữ; lao động
chưa thành niên; lao động khuyết tật; và lao động cao tuổi.
Nhìn chung, so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới, pháp
luật Việt Nam có những quy định khá tiến bộ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
của những người lao động trong những hoàn cảnh đặc biệt như người lao
động làm việc trong môi trường nguy hiểm, độc hại, người lao động chưa
thành niên, lao động nữ, người lao động cao tuổi.
2.1.3. Thời giờ làm thêm
Thời giờ làm thêm không được vượt quá 50% số giờ làm việc được quy
định trong mỗi ngày đối với từng loại công việc. Trong trường hợp quy định
thời giờ làm việc theo tuần thì tổng cộng thời giờ làm việc bình thường và
thời giờ làm thêm trong một ngày không vượt quá 12 giờ. Số giờ làm thêm tối
đa không quá 200 giờ trong một năm, trường hợp đặc biệt không được quá
300 giờ trong một năm (Khoản 2 Điều 1 Nghị định 109/2002/NĐ-CP).
BLLĐ cũng quy định hạn chế làm thêm đối với các đối tượng như lao
động nữ có thai từ tháng thứ bảy hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi
(Khoản 1 Điều 115 BLLĐ); lao động chưa thành niên trừ một số nghề Bộ Lao
động-TBXH quy định (Khoản 2 Điều 122 BLLĐ); người tàn tật đã bị suy
giảm khả năng lao động từ 51% trở lên (Điều 127 BLLĐ).
Trên thực tế, để nhằm tối đa hóa lợi nhuận, tránh việc phải tuyển thêm
lao động, nhiều người sử dụng lao động đã cố tình vi phạm các quy định về

làm thêm giờ. Tình trạng này diễn ra phổ biến ở hầu hết các doanh nghiệp.
Để khắc phục thực trạng trên, Điều 112 Dự thảo BLLĐ quy định mức giới
hạn thời giờ làm thêm theo tháng và không quá 30 giờ trong một tháng. Mức
30 giờ/ tháng là mức khá cao nên gây phản ứng không đồng thuận của quần
14


chúng. Vì thế, chỉ nên quy định thời giờ làm thêm tối đa mỗi tháng không quá
15 giờ.
Trên thế giới, pháp luật các nước cũng quy định chặt chẽ và cụ thể về
làm thêm giờ từ việc giới hạn số giờ làm thêm tối đa như Malaysia giới hạn ở
mức 64 giờ trong 1 tháng, Nhật bản mỗi ngày không được làm thêm quá 2
giờ, Liên Bang Nga quy định thời giờ làm thêm không được vượt quá 4 7
giờ trong 2 ngày liên tục và 120 giờ trong một năm. Một số nước còn
hạn chế làm thêm giờ với một số đối tượng đặc biệt như Nhật Bản quy định
số giờ làm thêm đối với lao động nữ không quá 2 giờ/ngày, 6 giờ/tuần, 150
giờ /năm.
Thực tế, trong những năm qua, khoảng 90% những cuộc đình công ở
Việt Nam đều có nguyên nhân từ sự vi phạm quyền lợi người lao động. Trong
đó, vi phạm về thời giờ làm việc, đặc biệt là vấn đề làm thêm giờ khá phổ
biến, xếp hàng thứ hai trong nguyên nhân đình công.
Theo Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, đối chiếu với các quy định
của Luật lao động về thời giờ làm việc và nghỉ ngơi thì hiện nay phần lớn các
Doanh nghiệp đều vi phạm Luật lao động. Thể hiện rõ nhất là các Doanh
nghiệp đều kéo dài thời gian làm việc từ 12 đến 14 giờ/ngày, đối với lao động
nữ tại Doanh nghiệp may mặc, thuỷ sản, da giày, thời gian làm thêm giờ từ 2
đến 5 giờ/ngày, khoảng 600 đến 1.000 giờ/năm, vượt quá xa mức quy định
trong luật. Số liệu khảo sát cho thấy, trong số lao động được hỏi có 35,8%
người cho rằng ít nhất phải làm thêm 2 giờ/ngày, 18,8% người trả lời cho rằng
phải làm 3 giờ/ngày, 7,5% trả lời phải làm thêm giờ từ 4 đến 5 giờ/ngày.

2.1.4. Thời giờ làm việc ban đêm
Thời giờ làm việc ban đêm là thời giờ làm việc tính từ 22 giờ đến 6 giờ
hoặc từ 21 giờ đến 5 giờ tuỳ theo vùng khí hậu và được hưởng phụ cấp làm
thêm. Theo Điều 6 Nghị định 195/CP, thời giờ làm việc ban đêm được tính từ
22 giờ đến 6 giờ (đối với khu vực từ Thừa Thiên Huế trở ra Bắc) và từ 21 giờ
đến 5 giờ (đối với khu vực từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở về phía Nam). Các
đối tượng thuộc trường hợp cấm hoặc bị hạn chế làm thêm giờ cũng thuộc các
15


đối tượng không được hoặc hạn chế làm thêm ban đêm.
Trên thế giới, thời giờ làm việc ban đêm ở nhiều nước chỉ quy định một
độ dài chung cho các vùng miền từ 10 giờ tối đến 5 giờ hoặc 6 giờ sáng hôm
sau (Liên Bang Nga – Điều 96, Philippine – Điều 86). Có nước quy định
“đêm” là thời hạn tối thiểu 11 giờ liên tục bao gồm cả khoảng thời gian được
quy định tối thiểu là 7 giờ liên tục từ 10 giờ đêm đến 7 giờ sáng.
2.1.5. Thời giờ làm việc linh hoạt
Thời giờ làm việc linh hoạt là thời giờ làm việc cho phép người lao
động lựa chọn số giờ làm việc trong một ngày, một tuần hoặc được giao việc
làm ở nhà…Loại thời giờ làm việc này khó áp dụng trong điều kiện tổ chức
sản xuất và lao động theo dây chuyền khép kín nhưng lại phù hợp với lao
động giản đơn thủ công trong thương mại và dịch vụ.
Hiện nay, làm việc theo chế độ thời giờ làm việc linh hoạt đang được
áp dụng phổ biến ở các nước phát triển như Hà Lan (chiếm 33% số người lao
động), Nauy (chiếm 26%), Australia, Đan Mạch, Anh, Thụy Điển…chiếm
trên 20%. Ở Việt Nam, BLLĐ quy định về thời giờ làm việc linh hoạt áp dụng
cho một số đối tượng sau:
- Thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi của những người làm hợp
đồng không trọn ngày, không trọn tuần, làm khoán do người lao động và
người sử dụng lao động thoả thuận (Điều 81 BLLĐ).

- Nhà nước có chính sách khuyến khích người sử dụng lao động tạo
điều kiện để người lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi
chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn ngày,
không trọn tuần, giao việc tại nhà (Khoản 1 Điều 109 BLLĐ).
- Năm cuối trước khi nghỉ hưu, người lao động cao tuổi được rút ngắn
thời giờ làm việc hàng ngày hoặc được áp dụng chế độ làm việc không trọn
ngày, không trọn tuần (Điều 123 BLLĐ).
- Người lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao có quyền kiếm
việc làm hoặc kiêm chức trên cơ sở giao kết nhiều hợp đồng lao động với
nhiều người sử dụng lao động, với điều kiện đảm bảo thực hiện các hợp đồng
16


đã kí kết hoặc phải bảo với người sử dụng lao động biết (Điều 129 BLLĐ).
2.2. Thực trạng pháp luật về thời giờ nghỉ ngơi
2.2.1. Thời giờ nghỉ có hƣởng lƣơng
2.2.1. 1. Thời giờ nghỉ giữa ca, nghỉ chuyển ca
Điều 71 BLLĐ, Điều 7 Nghị định 195/CP quy định cụ thể về thời giờ
nghỉ giữa ca làm việc của người lao động, theo đó “người lao động làm việc 8
giờ liên tục trong điều kiện bình thường hoặc làm việc 7 giờ, 6 giờ liên tục
trong trường hợp được rút ngắn thời giờ làm việc thì được nghỉ ít nhất 30
phút tính vào giờ làm việc. người làm theo ca được nghỉ ít nhất 12 giờ trước
khi chuyển sang ca khác. Người làm việc ca đêm được nghỉ giữa ca ít nhất 45
phút, tính vào giờ làm việc”.
Trên thực tế, ở Việt Nam thời gian nghỉ giữa giờ của người lao động
thường bị cắt xén, có nơi cc̣n không được nghỉ giữa ca. TT́nh trạng bớt xén thời
giờ nghỉ giữa ca không chỉ diễn ra tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tT́nh trạng
này có xảy ra ở phổ biến tại các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đặc biệt là các công ty sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài. 8
2. 2.1.2. Nghỉ lễ, tết

Trong khu vực Đông Nam Á, Brunay quy định nghỉ lế, tết 8 ngày mỗi
năm, Indonesia 14 ngày, Philippin 13 ngày, Malaysia 10 ngày. Ở Việt Nam,
Điều 73 BLLĐ quy định người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên
lương những ngày lễ, tết sau:
- Tết dương lịch: một ngày (ngày 1 tháng 1 dương lịch).
- Tết âm lịch: bốn ngày (một ngày cuối năm và ba ngày đầu năm âm
lịch).
--Ngày giỗ tổ Hùng Vương: 1 ngày (ngày 10 tháng 3 âm lịch)
- Ngày chiến thắng: một ngày (ngày 30 tháng 4 dương lịch).
- Ngày quốc tế lao động: một ngày (ngày 1 tháng 5 dương lịch).
- Ngày quốc khánh: một ngày (ngày 2 tháng 9 dương lịch).
Nếu những ngày nghỉ nói trên trùng vào ngày nghỉ hàng tuần thT́ người
lao động được nghỉ bù vào ngày tiếp theo. Gần đây, trong phiên thảo luận về
17


dự án Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội
tháng 10/2011, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đă đề xuất tăng ngày
nghỉ lễ, tết. Theo đó, người lao động sẽ được nghỉ tết âm lịch 5 ngày, nâng
tổng số ngày nghỉ lễ, tết lên 10 ngày trong một năm thay vT́ 9 ngày như quy
định hiện hành. Theo quan điểm cá nhân Tác giả thT́ việc tăng số ngày nghỉ
trong dịp tết âm lịch cũng phù hợp.
2.2.1.3. Nghỉ hàng năm
Hiện nay việc quy đinh điều kiện nghỉ hàng năm ở mỗi quốc gia là
khác nhau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xă hội. Có nước quy định điều
kiện theo năm làm việc như thời gian làm việc ít nhất 1 năm ở Trung Quốc,
Đài Loan, Philippine hoặc dưới 5 năm làm việc ở Achentina; có nước lại quy
định điều kiện dựa trên số ngày làm việc thực tế như ở Chi Lê quy định người
lao động phải làm việc từ 220 ngày trong một năm trở lên. Ở Việt Nam, theo
Điều 74 BLLĐ, người lao động có 12 tháng làm việc tại một doanh nghiệp

hoặc với một người sử dụng lao động thT́ được nghỉ hàng năm, hưởng nguyên
lương.
+ 12 ngày làm việc, đối với người làm công việc trong điều kiện bT́nh
thường.
+ 14 ngày làm việc, đối với người làm công việc nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm hoặc làm việc ở những nơi có điều kiện sinh sống khắc nghiệt và
đối với người dưới 18 tuổi.
+ 16 ngày làm việc, đối với người làm công việc đặc biệt nặng nhọc,
độc hại, nguy hiểm, người làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm ở
những nơi có điều kiện sinh sống khắc nghiệt.
Ngoài ra số ngày nghỉ hàng năm cc̣n được tính theo thâm niên làm việc.
Cứ 5 năm làm việc cho doanh nghiệp hoặc một người SDLĐ thT́ được tính
nghỉ thêm một ngày. Có thể nói, pháp luật về nghỉ hàng năm khá hoàn chỉnh.
Tuy nhiên, hiện nay tT́nh trạng vi phạm về nghỉ hàng năm ngày càng phổ biến,
đặc biệt trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thay vT́ được nghỉ hàng năm, người lao
18


động phải làm việc liên tục các ngày trong tuần, trong năm.
2.2.1.4. Nghỉ về việc riêng
Điều 78 BLLĐ quy định nghỉ về việc riêng khi có những sự biến động
pháp lư nhất định mà vẫn hưởng nguyên lương gồm: Kết hôn, nghỉ 3 ngày.
Con kết hôn, nghỉ một ngày. Bố, mẹ (kể cả bên chồng và bên vợ) chết, vợ
hoặc chồng chết, con chết, nghỉ 3 ngày.
2.2.2. Thời giờ nghỉ không hưởng lương
2.2.2.1. Nghỉ hàng tuần
Theo Công ước số 106 năm 1957 về nghỉ hàng tuần trong thương mại
và văn pḥng, mỗi tuần làm việc người lao động được nghỉ ít nhất là một ngày
làm việc. Hầu hết các nước trong khu vực ASEAN đều quy định người lao

động được nghỉ ít nhất một ngày liên tục nhưng quy định ngày nghỉ khác
nhau. Ở Thái Lan ngày nghỉ hàng tuần có thể ấn định dựa trên sự thỏa thuận
của người sử dụng lao động và người lao động. Ở Singapore, pháp luật quy
định ngày nghỉ là chủ nhật nhưng các bên có quyền thỏa thuạn nghỉ vào ngày
khác. Một số quốc gia quy định ngày nghỉ tuần lớn hơn một ngày như Trung
Quốc ngày nghỉ hàng tuần là 1 ngày rưỡi; ở Liên Bang Nga, một số nước Tây
Âu, Canada ngày nghỉ hàng tuần là 02 ngày.
Ở Việt Nam, chế độ nghỉ hàng tuần của người lao động cũng được Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm. Theo quy định tại Điều 72 BLLĐ thT́ mỗi tuần
người lao động được nghỉ ít nhất một ngày (24 giờ liên tục). Thông thường,
người sử dụng lao động sắp xếp ngày nghỉ hàng tuần cho người lao động vào
ngày cuối tuần (thứ 7, ngày chủ nhật hàng tuần). Tuy nhiên, nếu do yêu cầu
của sản xuất, công tác thT́ người sử dụng lao động có thể sắp xếp ngày nghỉ
hàng tuần vào một ngày cố định khác trong tuần. Đối 9
với các cán bộ, công nhân viên chức và người lao động làm việc trong
các đơn vị hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xă hội thT́
được áp dụng chế độ tuần làm việc 40 giờ trong 5 ngày, nghỉ ngày thứ bảy và
chủ nhật (Quyết định số 188/1999/QĐ-TTg). Quyết định trên thể hiện sự quan
tâm kịp thời, đúng đắn của Nhà nước ta. Tuy nhiên, phạm vi áp dụng chỉ giới
19


hạn trong khuôn khổ các cơ quan Nhà nước mà chưa áp dụng đỗi với các đơn
vị kinh tế ngoài quốc doanh. Nên chăng pháp luật cần phải có những quy định
cụ thể hơn nữa bảo vệ người lao động ngoài quốc doanh về chế độ nghỉ hàng
tuần.
2.2.2.2. Nghỉ không hưởng lương theo thỏa thuận
Điều 74 BLLĐ và Điều 121 Khoản 2 Dự thảo BLLĐ đều quy định:
“Người lao động có thể thỏa thuận với Người sử dụng lao động đề nghị
không hưởng lương”. Quy định về chế độ nghỉ không hưởng lương đáp ứng

được nhu cầu nghỉ ngơi của người lao động.
2.3. Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với những ngƣời làm
công việc có tính chất đặc biệt
2.3.1. Đối với các đối tượng là những ngƣời lao động làm công
việc bức xạ, hạt nhân
Về thời giờ làm việc
Thời giờ làm việc hàng ngày được rút ngắn 02 giờ đối với nhân viên
bức xạ làm nghề, công việc quy định tại Nhóm 1, 01 giờ đối với công nhân
thuộc nhóm 2 của Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư 31/2007/TT-BKHCN
(“Thông tư 31”) và không được phép làm thêm giờ
Về thời giờ nghỉ ngơi
Nhân viên bức xạ được nghỉ ít nhất 30 phút nếu làm việc vào ban ngày
và 45 phút nếu làm việc vào ban đêm, tính vào giờ làm việc. Số ngày nghỉ
hàng năm của nhân viên bức xạ từ 14 đến 16 ngày.
2.3.2. Đối với ngƣời lao động làm việc trong các trang trại
Theo Thông tư số 23/2000/TT-BLĐTBXH: - Trường hợp khoán theo
khối lượng công việc, khối lượng sản phẩm thT́ người lao động tự bố trí thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi nhưng phải hoàn thành công việc theo thời
hạn mà hai bên đă cam kết. - Trường hợp chủ trang trại quản lư thời giờ làm
việc để trả công thT́ thời giờ làm việc do hai bên thỏa thuận nhưng không quá 8
giờ/ngày. - Trường hợp làm việc 30 ngày/tháng thT́ cứ sau 6 ngày làm việc
người lao động được nghỉ 1 ngày, nhưng ngày nghỉ không nhất thiết vào ngày
20


chủ nhật mà do hai bên thoả thuận. - Trường hợp thời hạn làm việc liên tục từ
1 năm trở lên thT́ cứ 1 năm làm việc người lao động được nghỉ phép 12 ngày
có hưởng tiền công..
2.3.3. Đối với người lao động làm các công việc có tính thời vụ và
gia công hàng xuất khẩu theo đơn đặt hàng

Thông tư 33/2011/TT-BLĐTBXH quy định số giờ tiêu chuẩn làm việc
hàng ngày ít hơn 8 giờ; hoặc ít hơn 6 giờ đối với người lao động làm các
nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại, nếu đă được lập kế
hoạch xác định theo trường hợp thứ ba, thư tư trên thT́ không phải trả lương
ngừng việc. Hàng tuần, người lao động được nghỉ ít nhất 1 ngày (24 giờ liên
tục). Trong những tháng thời vụ hoặc phải gấp rút gia công hàng xuất khẩu
theo đơn đặt hàng, nếu không thực hiện được nghỉ hàng tuần thT́ phải bảo đảm
hàng tháng có ít nhất 4 ngày nghỉ cho người lao động.
2.3.4. Các đối tượng đặc biệt khác
2.3.4.1. Đối với các đối tượng là lao động nữ
Điều 115 BLLĐ quy định: - Người sử dụng lao động không được sử
dụng người lao động nữ có thai từ tháng thứ bảy hoặc nuôi con dưới 12 tháng
tuổi làm thêm giờ, làm việc ban đêm và đi công tác xa. - Người lao động nữ
làm công việc nặng nhọc, khi có thai đến tháng thứ bảy, được chuyển làm
công việc nhẹ hơn hoặc giảm bớt một giờ hàng ngày mà vẫn hưởng đủ lương.
- Người lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút;
trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút
trong thời gian làm việc mà vẫn hưởng đủ lương. Thời giờ làm việc của lao
động nữ trong một số hoàn cảnh đặc biệt được quy định tại Điều 159 Dự thảo
BLLĐ: 10
- Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ có
thai từ tháng thứ bảy (ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo thT́ từ
tháng thứ sáu) hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, làm thêm giờ, làm việc
ban đêm và đi công tác xa. - Người lao động nữ làm công việc nặng nhọc, khi
có thai đến tháng thứ bảy, được chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc được
21


giảm bớt một giờ làm việc hàng ngày mà vẫn hưởng đủ lương.
- Người lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30

phút; trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60
phút trong thời gian làm việc, mà vẫn hưởng đủ lương. Trường hợp làm việc
xa nơi cư trú thT́ thỏa thuận với người sử dụng lao động để giải quyết hợp lư
thời gian được nghỉ.
Dự thảo BLLĐ quy định thời gian nghỉ thai sản của phụ nữ trước và
sau khi sinh con là từ 5-6 tháng tùy từng loại công việc. Ngày 15/12, Thường
vụ Quốc hội đă thống nhất tăng thời gian nghỉ thai sản và được quyền hưởng
chính sách thai sản cho tất cả nhóm lao động nữ lên 6 tháng.
2.3.4.2. Đối với lao động chưa thành niên
Điều 122 BLLĐ quy định: - Thời giờ làm việc của người lao động chưa
thành niên không được quá 7 giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần.
- Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa
thành niên làm thêm giờ, làm việc ban đêm trong một số nghề và công việc do
Bộ Lao Động – Thương Binh và Xă Hội quy định. Theo kết quả kiểm tra của
Thanh tra sở Lao động, Thương binh và Xă hội thành phố Hồ Chí Minh đối
với 173 cơ sở sản xuất trên địa bàn, có 62 cơ sở sử dụng 150 lao động là trẻ
em dưới 16 tuổi (chiếm gần một nửa số lao động là trẻ thuộc độ tuổi từ 13 đến
15) vi phạm Luật Lao động, tập trung nhiều nhất ở quận BT́nh Tân và Tân BT́nh.
Trong số các cơ sở vi phạm, nhiều nơi áp dụng thời gian làm việc quá mức.
BT́nh quân mỗi em phải lao động hơn 10 giờ/ngày, có nơi lên đến 14 giờ/ngày
và hầu hết phải làm thêm giờ nhưng rất ít chủ cơ sở trả tiền, coi đây là giờ làm
bắt buộc, nếu không làm, các em sẽ bị đuổi việc.
2.3.4.3. Đối với lao động là người tàn tật
Khoản 2 Điều 127 BLLĐ quy định: “Cấm sử dụng người tàn tật đã bị
suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên làm thêm giờ, làm thêm ban
đêm”. Dự thảo BLLĐ quy định cấm “sử dụng người lao động khuyết tật suy
giảm khả năng lao động từ 61% trở lên làm thêm giờ, làm việc ban đêm”
(Điều 188).
22



2.3.4.4. Đối với lao động là người cao tuổi
Điều 123 BLLĐ và Điều 173 Dự thảo BLLĐ quy định: “Năm cuối
cùng trước khi nghỉ hưu, người lao động được rút ngắn thời giờ làm việc
hàng ngày hoặc được áp dụng chế độ làm việc không trọn ngày, trọn tuần
theo quy định của Chính phủ”.
2.4. Một số nhận xét về thực trạng áp dụng pháp luật về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
2.4.1. Thực trạng pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
2.4.1.1. Những kết quả đạt được
Từ 1/1/1995 – thời điểm BLLĐ có hiệu lực – đến nay, một môi trường
pháp lư về lao động mới đă được thiết lập. Là một chế định quan trọng và
cũng là một trong những chế định mang tính hoàn thiện nhất của Bộ luật Lao
động, chế định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đă góp phần tạo ra khung
pháp lư quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao
động trong quan hệ lạo động; người lao động được quyền làm việc không quá
8 tiếng/ ngày hoặc 48 tiếng/ tuần. Trong khối các cơ quan Nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xă hội và các đơn vị sự nghiệp Nhà nước, người
lao động cc̣n được hưởng chế độ làm việc không quá 40 giờ/ tuần. Bên cạnh
thời giờ làm việc, người lao động cc̣n được hưởng chế độ nghỉ ngơi hợp lư với
ít nhất 01 ngày nghỉ mỗi tuần và chế độ nghỉ giữa ca, nghỉ chuyển ca. Các
quy định về nghỉ lễ tết, nghỉ hàng năm và nghỉ việc riêng cũng tạo điều kiện
cho người lao động có thêm thời gian nghỉ ngơi. Chính những quy định này
đă giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
2.4.1.2. Những điểm hạn chế
Bên cạnh các thành tựu mà chế định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi đă đạt được thT́ chế định này qua một thời gian áp dụng cũng đă bộc lộ
những hạn chế nhất định. Thứ nhất, Khi người lao động kư kết nhiều hợp
đồng lao động thT́ thời gian làm việc của người lao động được tính như thế
nào? Sẽ là không quá 8 giờ/ngày làm việc đối với một hợp đồng lao động hay

đối với tất cả các hợp đồng lao động. 11
23


Thứ hai, quy định về thời giờ làm thêm chưa hợp lư. Mức 4 giờ/ ngày
là giới hạn khá cao, bên cạnh đó mức giới hạn theo ngày và theo năm là chứ
hợp lư mà nên giới hạn mức giờ làm thêm theo ngày và theo tháng.
Thứ ba, chưa có quy định về nghỉ ăn cơm giữa ca. BLLĐ quy định mỗi
ca làm việc liên tục 8 tiếng thT́ người lao động được nghỉ giữa ca ít nhất 30
phút và ít nhất 45 phút đối với ca đêm tính vào thời giờ làm việc. Tuy nhiên,
BLLĐ hiện hành lại chưa có quy định về việc người lao động có quyền nghỉ
ăn cơm giữa ca làm việc. Bởi vT́, thời giờ nghỉ giữa ca làm việc với thời giờ
nghỉ ăn cơm là hai loại thời giờ khác nhau.
2.4.2. Thực trạng chấp hành pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi ở một số doanh nghiệp
2.4.2.1. Trong các cơ quan, đơn vị thuộc Nhà nước
NhT́n chung đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước có ư thức
chấp hành đúng các quy định của pháp luật về sử dụng thời giờ làm việc.
Nhiều cán bộ, công chức, viên chức cần cù làm việc với tinh thần trách nhiệm
cao. Các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhà nước đă chú ư áp dụng
các biện pháp tổ chức lao động một cách khoa học, sử dụng hợp lư thời giờ
làm việc của cán bộ, công chức, viên chức.
Tuy nhiên, việc quản lư lao động trong các cơ quan hành chính, đơn vị
sự nghiệp nhà nước cc̣n nhiều hạn chế và yếu kém, chất lượng hiệu quả công
tác không cao. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức nhà
nước chưa đề cao trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ; ư thức kỷ
luật lao động kém; vi phạm các quy định của pháp luật về sử dụng thời giờ
làm việc như làm việc riêng, đi muộn, về sớm, chơi games, đánh bài, uống
rượu, bia trong giờ làm việc, ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng công tác và
tác phong, uy tín của cán bộ, công chức, viên chức.

Để khắc phục những khuyết điểm trên Thủ tướng Chính phủ đă ban
hành chỉ thị 05/2008/CT-TTg về việc nâng cao hiệu quả sử dụng thời giờ làm
việc của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Mặc dù vậy, tT́nh trang “ăn
cắp” thời giờ làm việc của cán bộ công chức và người lao động trong các cơ
24


quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xă
hội vẫn diễn ra thường xuyên. Nguyên nhân dẫn đến tT́nh trạng trên là do việc
giám sát thực hiện thời giờ làm việc của cấp trên đối với cấp dưới chưa được
thực hiện một cách nghiêm túc.
2.4.2.2.Tình trạng việc chấp hành pháp luật về thời giờ làm việc và
thởi giờ các doanh nghiêp .
Đây là công ty Đất Hiếm -Hạ Long,công ty này đã không chấp hành
đúng luật lao động về thời giờ làm việc ,thời giờ nghỉ ngơi.
Theo Nghị định mới, người lao động chỉ được làm thêm không quá 12
giờ/ngày khi làm thêm vào ngày nghỉ lễ, tết và ngày nghỉ hằng tuần; số giờ
làm thêm trong ngày không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 1
ngày. Các đơn vị được tổ chức làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ là các
đơn vị sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu, cấp, thoát nước... Sau mỗi
đợt làm thêm tối đa 7 ngày liên tục trong tháng, người lao động phải được bố
trí nghỉ bù số thời gian không được nghỉ... Tuy nhiên, hiện nay, tình trạng vi
phạm về vấn đề này vẫn rất phổ biến. Trao đổi với chúng tôi rất nhiều bảo vệ
ở các trường học trên địa bàn TP Hạ Long, bức xúc cho biết: Trường chỉ có
một bảo vệ vì vậy chúng tôi phải làm 24/24 giờ, kể cả ngày nghỉ lễ nhưng
không được tính tiền làm thêm giờ, không có ngày nghỉ bù, nếu nghỉ thì trừ
lương; nếu yêu cầu tăng thêm người bảo vệ thì trường cho biết Phòng Giáo
dục chỉ cho có một biên chế. Thậm chí, bảo vệ còn hưởng lương dưới mức
lương tối thiểu nhà nước quy định và không được đóng BHXH.
Dù thời gian qua các cơ quan chức năng tăng cường thanh tra, kiểm tra,

phổ biến pháp luật, tình hình vi phạm thời giờ làm việc, nghỉ ngơi đã có
chuyển biến nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều đơn vị, cơ quan, doanh nghiệp
vi phạm về thời gian làm việc, nghỉ ngơi, giờ làm việc. Những vi phạm này
chủ yếu nằm ở việc đơn vị bắt người lao động làm thêm giờ nhưng không
thoả thuận; nếu người lao động không đi làm thêm giờ sẽ bị trừ các khoản tiền
chuyên cần, tiền thưởng dẫn đến ảnh hưởng tới thu nhập, đây là biện pháp gây
sức ép để người lao động bắt buộc phải làm thêm. Có trường hợp người lao
25


×