Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Vai trò của người phụ nữ trong bảo tồn trang phục truyền thống của dân tộc H’mông ở huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 50 trang )

Mục lục
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.Phương pháp nghiên cứu
6.Đóng góp của đề tài
7. Bố cục
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN SI MA
CAI, TỈNH LÀO CAI
1.1. Đặc điểm tự nhiên
1.2. Đặc điểm xã hội
1.3. Khái quát về người H‟mông ở huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai
1.3.1. Nguồn gốc lịch sử
1.3.2. Cấu trúc và phân bố dân cư
1.3.3. Tập quán mưu sinh
1.3.4. Xã hội truyền thống
1.3.5. Đặc điểm văn hóa vật chất
1.3.6. Đặc điểm văn hóa tinh thần
CHƢƠNG 2: VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ H’MÔNG Ở HUYỆN SI MA
CAI, TỈNH LÀO CAI ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT VÀ SỬ
DỤNG BỘ TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG
2.1 Vai trò của người phụ nữ trong quá trình sản xuất nguyên liệu dệt
2.2 Vai trò của người phụ nữ trong quá trình dệt, nhuộm
2.3 Vai trò của người phụ nữ trong quá trình may và trang trí hoa văn
2.4 Vai trò của người phụ nữ trong quá trình sử dụng bộ trang phục


CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA PHỤ NỮ H’MÔNG TRONG VIỆC BẢO VỆ TRANG PHỤC


TRUYỀN THỐNG HIỆN NAY Ở HUYỆN SI MA CAI, TỈNH LÀO
CAI
3.1. Quan điểm Đảng và nhà nước về bảo tồn Văn hóa truyền thống.
3.2 .Thực trạng về quá trình sản xuất và sử dụng bộ trang phục truyền
thống của người H‟Mông ở huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai.
3.3. Nguyên nhân của sự biến đổi trang phục truyền thống của người
H‟Mông ở huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai.
3.4. Vai trò hiện nay của người phụ nữ trong bảo tồn trang phục
truyền thống của người Hmông ở huyện Si Ma Cai.
3.5. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của người phụ nữ
H‟mông ở Si Ma Cai trong việc bảo tồn trang phục truyền thống.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người Hmông là một trong 54 tộc người đang sống trên lãnh thổ
Việt Nam. Trong quá trình tồn tại và phát triển, người Hmông sáng tạo ra
những giá trị văn hóa vô cùng đặc sắc, góp phần làm cho nền văn hóa Việt
Nam thêm phong phú và đa dạng.
Trang phục là một trong những thành tố văn hóa vật thể cơ bản
không thể thiếu được đối với cuộc sống con người. Nó không chỉ có chức
năng che đậy, bảo vệ con người về mặt sinh học mà còn là biểu hiện của
văn hóa, nếp sống tộc người, thể hiện trình độ kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo thủ
công truyền thống và quan niệm thẩm mỹ. Ngoài ra trang phục còn là cơ sở
để phân biệt và giúp cho sự nhận biết giữa tộc người này với tộc người
khác.
Về mặt ý nghĩa khoa học, dưới góc độ văn hóa, lịch sử nghiên cứu

trang phục sẽ góp phần làm sáng tạo thêm những nét đặc trưng người và
các mối quan hệ liên quan. Từ đó có thêm những cứ liệu khoa học, làm cơ
sở vững chắc cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa H‟mông ở
huyện Si Ma Cai.
Về ý nghĩa thực tiễn, nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, sự biến đổi kinh tế kéo theo những biến
đổi về mặt văn hóa và lối sống, nếp sống...trong đó, biến đổi về trang phục
đang diễn ngày cang mạnh mẽ. Xu hướng hòa đồng về lối sống, đặc biệt về
trang phục ngày càng tăng. Đây là vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với việc
nghiên cứu về trang phục của dân tộc nói chung và dân tộc H‟mông ở Si
Ma Cai nói riêng, có ý nghĩa thực tiễn lớn lao nhằm bảo tồn các giá trị
truyền thống của người Hmông ở Si Ma Cai trong bối cảnh giao lưu và hội
nhập ngày nay.
Là một sinh viên ngành Văn hóa dân tộc thiểu số kiến tập tại huyện
Si Ma Cai tôi nhận thấy sự biến đổi trang phục của dân tôc H‟mông ngày


một bị biến đổi và mất dần. Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài “ Vai trò của
người phụ nữ trong bảo tồn trang phục truyền thống của dân tộc H’mông ở
huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai“ với mong muốn góp phần giới thiệu về một
nét văn hóa về dân tộc H‟mông và góp phần bảo tồn vào việc bảo tồn văn
hóa truyền thống thông qua trang phục của người Hmông ở huyện Si Ma
Cai.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trang phục truyền thống của người H‟mông đã được đề cập trong
một số công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả như: Văn hóa các dân
tộc thiểu số vùng Tây Bắc của Trần Bình.
Tuy nhiên, riêng trang phục của người Hmông ở huyện Si Ma Cai
thì từ trước tới nay chưa có công trình hoặc bài viết nào đi sâu vào miêu tả
một cánh cụ thể, chi tiết. Vì thế, đây cũng là một trong những lý do khiến

em chọn đề tài này và địa điểm để nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nhằm tìm hiểu hiểu thực trạng biến đổi trang phục và sự
suy giảm về việc mặc trang phục truyền thống của H‟mông ở huyện Si Ma
Cai, tỉnh Lào Cai

cũng như vai trò của người phụ nữ H‟mông trong việc

bảo tồn trang phục truyền thống hiện nay. Từ đó đề xuất một số giải pháp
giúp phát huy hơn nữa vai trò của phụ nữ Hmông ở huyện Si ma Cai trong
việc bảo tồn trang phục truyền thống.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là vai trò của người phụ nữ trong bảo tồn
trang phục của người phụ nữ H‟mông cũng như các hoạt động liên quan
đến người H‟mông.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai.
5.Phương pháp nghiên cứu


Trong bài viết này, phương pháp thực hiện được đề tài sử dụng chủ
yếu là phương pháp điền dã Dân tộc học, điều tra, điền dã thực địa, quan
sát, phỏng vấn, phân tích, quan sát, thu âm, ghi chép,...
Để bổ sung thêm tư liệu cũng như để so sánh đối chiếu, tác giả có
sử dụng việc nghiên cứu thư tịch (sách, báo, tư liệu trên internet...).
6.Đóng góp của đề tài
Đề tài đóng góp về mặt tư liệu trong việc nghiên cứu về vai trò của
phụ nữ H‟mông ở huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai trong việc bảo tồn trang
phục truyền thống.
Chỉ ra được những giá trị truyền thống tốt đẹp về trang phục của
người H‟mông tại địa bàn nghiên cứu cần được bảo tồn và phát huy.

Từ những kết quả nghiên cứu đạt được đề tài sẽ cung cấp những luận
cứ khoa học cho việc đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm bảo tồn
và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp về trang phục truyền thống của
người H‟mông.
7. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, nội dung chính của đề tài
được chia làm ba chương chính:
Chương 1: Khái quát về người H‟mông ở huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào
Cai
Chương 2: Vai trò của phụ nữ H‟mông ở huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào
Cai đối với quá trình sản xuất và sử dụng bộ trang phục truyền thống.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của phụ nữ
H‟mông trong việc bảo tồn trang phục truyền thống hiện nay ở huyện Si
Ma Cai, tỉnh Lào Cai.


Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI MÔNG
Ở HUYỆN SI MA CAI, TỈNH LÀO CAI
1.1. Đặc điểm tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lí
Si Ma Cai là một huyện vùng cao biên giới nằm ở phía Đông Bắc
của tỉnh Lào Cai và được bao bọc bởi dòng sông Chảy, thị trấn huyện Si
Ma Cai cách trung tâm tỉnh Lào Cai khoảng 100 km về phía Nam.
Phía Bắc giáp với huyện Mã Quan-Vân Nam-Trung Quốc .
Phía Tây giáp với huyện Bắc Hà.
Phía Nam giáp với huyện Mường Khương.
Phía Đông giáp với huyện Xín Mần (Hà Giang) và huyện Bắc Hà
(Lào
Cai).
Si Ma Cai gồm 13 đơn vị hành chính cấp xã, 98 thôn bản

1.1.2. Địa hình

Si Ma Cai là một huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai, độ cao trung bình
từ 1200m đến 1800m, cao nhất là 1800m thấp nhất là 180m, độ dốc trung
bình từ 24 – 280. Địa hình được kiến tạo bởi nhiều dãy núi chạy theo
hướng Đông Bắc – Tây Nam, thấp dần về hướng Tây Bắc các dải núi trong
phạm vi ranh giới huyện.
1.1.3. Khí hậu

Si Ma Cai nằm ở khu vực khí hậu nhiệt đới và được chia làm 2 mùa rõ
rệt. Mùa mưa tập trung vào khoảng tháng 4 đến tháng 10 hàng năm, màu
khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau . Nhiệt độ trung bình năm là
18,90C có những tháng Nhiệt độ trung bình xuống dưới 100C. Nhiệt độ có
sự thay đổi theo các đai cao khá rõ nét, sự thay đổi này diễn ra ngay trên
địa bàn của một xã. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm rất lớn điều
này được thể hiện rõ nhất vào mùa hè, ảnh hưởng bất lợi đến sức khoẻ của
người dân, gia súc và sản xuất nông - lâm nghiệp


Si Ma Cai là huyện có lượng mưa trung bình thấp so với các vùng trên
địa bàn tỉnh Lào Cai, lượng mưa thay đổi qua các năm từ 1.300 –
2.000mm, lượng mưa chủ yếu tập trung vào các tháng 6, 7, 8 các tháng còn
lại trong năm mưa ít, cường độ không tập trung. Nhìn chung lượng mưa
trung bình thấp, cường độ mưa không đều, hiện trạng tài nguyên rừng ít
nên hiện tượng xói mòn, sụt lở, rửa trôi vẫn còn xẩy ra khá nghiêm trọng
Với nền nhiệt độ thấp, lượng mưa lớn đã tạo điều kiện khí hậu và thời
tiết phù hợp để phát triển các loại cây trồng và một số loại cây công nghiệp
khác.Tuy nhiên do các hiện tượng như khí hậu lạnh giá, sương mù dày đặc
nên đã gây ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của người dân.
1.1.4. Tài nguyên thiên nhiên.

 Tài nguyên nƣớc :

Hệ thống thuỷ văn của huyện Si Ma Cai bao gồm:
- Sông Chảy, bắt nguồn từ huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang, chảy
sát biến giới Việt- Trung, qua địa phận huyện Si Ma Cai với tổng chiều dài
43km. Sông Chảy tạo thành ranh giới tự nhiên giữa huyện Mã Quan Trung Quốc và huyện Si Ma Cai, lòng sông hẹp, sâu, nhiều thác ghềnh, ít
có tác dụng trong giao thông vận tải, trong sản xuất và dân sinh do lượng
phù sa thấp, tốc độ dòng chảy lớn, có tiềm năng phát triển thủy điện.
- Hệ thống suối nhỏ, do ảnh hưởng của địa hình chia cắt, độ cao lớn,
hình thành trên địa bàn huyện Si Ma Cai khá nhiều suối nhỏ. Tất cả các con
suối đều bắt nguồn từ các dãy núi cao chảy xuống thung lũng, thường khô
kiệt vào những tháng mùa khô. Đây là nguồn nước chính để phục vụ dân
sinh cũng như mở rộng đất canh tác sản xuất của cộng đồng các dân tộc
huyện Si Ma Cai. Tuy nhiên về mùa mưa, hệ thống khe thường xuyên có lũ
quét, gây trở ngại lớn cho sản xuất và giao thông.
 Tài nguyên đất:

Tổng diện tích tự nhiên của Si Ma Cai là 23.493,83 ha, trải qua quá
trình Feralit, bào mòn, rửa trôi, bồi tụ, hình thành mùn, trên địa bàn huyện


Si Ma Cai có các loại đất sau: Đất mùn đỏ vàng trên đất đá biến chất, loại
đá mẹ Firit (Hs), tầng dầy 50 -120cm, có tổng diện tích khoảng 5.324 ha
phân bố rộng trên khắp lãnh thổ; Đất đỏ vàng trên đá biến chất (Fs), có
khoảng 1.570 ha phân bố phần thấp ven sông Chảy, loại đất này có tầng
dày từ 50 -100cm; Đất đỏ mùn trên đá sét (Hs), diện tích khoảng 2.150 ha,
thành phần cơ giới thịt nặng; Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa (Fl), chiếm
tỷ lệ không đáng kể; Đất thung lũng dốc tụ trồng lúa (Dl); Đất phù sa, sông
suối (Py); Đất mòn, trơ sỏi đá.
 Tài nguyên rừng:


Theo số liệu thống kê, đến 01/1/2010 diện tích rừng trên địa bàn
huyện Si Ma Cai là 6.266 ha chiếm 26,67 % diện tích tự nhiên toàn huyện.
Trong đó rừng sản xuất 1.905 ha, rừng phòng hộ 4.361 ha. Về khả năng đất
đai phát triển rừng của huyện trong giai đoạn tới còn khoảng trên 2.000 ha.
Diện tích rừng của Si Ma Cai chiếm tỷ lệ còn quá thấp so diện tích tự
nhiên; đa phần là rừng nghèo, trữ lượng thấp, thực vật đa dạng chỉ còn tập
trung ở một số vùng ở các xã: Lùng Sui, Quan Thần Sán, Bản Mế, Thào
Chu Phìn.
Do rừng ở đây chiếm khoảng ½ là rừng núi đá nên động thực vật phát
triển phong phú.Động vật cũng khá đa dạng và phong phú như : chim, sóc,
mèo hoang, khỉ …và nuôi nhiều loại cá.
Về cảnh quan môi trường rất hữu tình, có con suối rất nên thơ, có
nhiều ghềnh thác đẹp và đồng thời cũng là nơi để xây dựng các khu du lịch
sinh thái với quy mô tương đối lớn và đồng thời cũng là để giữ gìn, phát
triển và bảo vệ môi trường nơi đây.
1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội.
1.2.1. Đơn vị hành chính.
Toàn huyện Si Ma Cai có 13 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm các
xã: Si Ma Cai, Thào Chư Phìn, Bản Mế, Sán Chải, Lùng Sui, Mản Thẩn,
Cán Hồ, Sín Chéng, Lử Thẩn, Quan Thần Sán, Cán Cấu, Nàn Sín, Nàn Sán.


Có 3 xã giáp biên giới là các xã: Si Ma Cai, Nàm Sán, Sán Chải, với
tổng chiều dài đường biên giới là 12,2 km giáp huyện Mã Quan - tỉnh Vân
Nam - Trung Quốc.
Trong đó có 12 xã thuộc diện xã đặc biệt khó khăn nằm trong Chương
trình 135 giai đoạn II là các xã: Thào Chư Phìn, Bản Mế, Sán Chải, Lùng
Sui, Mản Thẩn, Cán Hồ, Sín Chéng, Lử Thẩn, Quan Thần Sán, Cán Cấu,
Nàn Sín, Nàn Sán.

1.2.2. Đặc điểm về dân số, dân tộc, lao động:
Năm 2009, huyện Si Ma Cai có 5.677 hộ với 31.149 người, trung bình
5,49
người/hộ; mật độ dân số trung bình 133 người/ km2. Tốc độ tăng dân
số của huyện bình quân 3%/ năm, trong đó tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình
quân 2,4%/năm, (bằng 1,3 lần tỷ lệ tăng tự nhiên chung toàn tỉnh). Nhìn
chung, Si Ma Cai có mật độ và tỷ lệ tăng dân số cao so các huyện khác
trong tỉnh.
Si Ma Cai có 11 dân tộc anh em chung sống, trong đó chủ yếu là dân
tộc thiểu số, chiếm 96,3%, tổng dân số của huyện.
Tổng số lao động đang làm việc trên địa bàn huyện thời điểm cuối
năm 2009 là 16.117, chiếm gần 52% dân số của huyện, bằng 5% số lao
động toàn tỉnh. Hầu hết số lao động có khả năng làm việc đều có việc làm.
Về cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế, đến năm 2009: tỷ trọng lao
động trong nông, lâm nghiệp còn chiếm quá cao (83,2%), lao động công
nghiệp, xây dựng chiếm 4,2% và trong dịch vụ có 12,6%. Sự chuyển dịch
cơ cấu lao động từ 2005- 2009 diễn ra rất chậm đến năm 2009 so sánh với
năm 2005: lao động nông, lâm nghiệp giảm 2% (cả tỉnh giảm 3%), lao
động dịch vụ tăng 1,8% và công nghiệp, xây dựng tăng 0,2%.
Về chất lượng nguồn nhân lực còn thấp và chưa đồng đều. Số dân là
đồng bào dân tộc ít người chiếm tỷ trọng cao. Cơ cấu lao động còn nhiều
bất hợp lý. Trình độ văn hoá và trình độ tay nghề của người lao động thấp,


chủ yếu là lao động phổ thông, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất còn
thấp.
1.3. Khái quát về ngƣời Hmông ở huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai.

1.3.1. Nguồn gốc của ngƣời Hmông ở Si Ma Cai.
Theo các nhà sử học, các nhà nghiên cứu họ khẳng định rằng người

Hmông có nguồn gốc từ Trung Quốc.Trong lịch sử Hán học người Hmông
vẫn xuất hiện trong các thời kỳ, triều đại Trung Quốc với tên gọi tộc người
“ Miêu ” hay ngươi “Miao” và xuất hiện sớm nhất ở lưu vực sông Hoàng
Hà. Một nhà nghiên cứu khảo cổ học Trung Quốc cũng nhấn mạnh và phân
tích ý nghĩa của từ “Miêu” .Đây không phải là từ măng ý nghĩa chỉ con
Mèo (con vật) mà „Miêu” mang ý nghĩa chỉ về một tộc người trồng lúa
nước đầu tiên ở lưu vực sông Hoàng Hà. Do nhiều lần xảy ra tranh chấp đất
đai giữa người Mông và người Hán ở lưu vực sông Hoàng Hà nên người
Mông phải chạy lên núi ở ẩn (Hồ Bắc, Hồ Nam, Qúy Châu, Tứ Xuyên, Vân
Nam, Quảng Tây) và từ đó người Hmông trở thành một dân tộc thiểu số.
Do chính sách cai trị của nhà Hán làm cho người Hmông không chịu
khuất phục nên đã nổi dậy đấu tranh và đã bị nhà Hán dàn áp dã man nên
người Mông đã di tảng xuống phía Nam và tràn vào Si Ma Cai (Lào Cai)
theo 2 thời kỳ :
Thời kỳ đầu: Cách đây 300 năm (từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII)
trong cuộc nổi dậy chống chính sách “cải thổ quy lưu” kéo dài từ thời nhà
Minh đến thời nhà Thanh tại Qúy Châu. Người Mông đã di cư đến mảnh
đất Đồng Văn (Hà Giang) và một bộ phận khác đã di cư đến Si Ma Cai Bắc Hà (Lào Cai) . Đây là những nơi người Hmông đã di cư vào sớm nhất.
Thời kỳ thứ hai:Cách đây khoảng 120 năm đến 160 năm hàng vạn
người Hmông (phần lớn từ Qúy Châu,Vân Nam-Trung Quốc đã di cư vào
Si Ma Cai ( Lào Cai ) và một số tỉnh lân cận. Đây là thời kỳ gắn với sự kiện
người Hmông nổi dậy hưởng ứng phong trào “Thái Bình Thiên Quốc” từ


1840 đến 1868 chống nhà Mãn Thanh. Thời gian sau đó người Hmông di
cư rải rác vào Việt Nam.
- Phạm vi phân bố :
Người Hmông ở Si Ma Cai phân bố hầu hết tại 13 xã của huyện (Cán
Cấu, SiMaCai, Sán Chải, Quan Thần Sán, Lùng Sui, Lử Thẩn, Sín Chéng,
Mản Thẩn, Thào Chư Thìn, Bản Mế, Cán Hồ, Nàn Sán, Nàn Sín) , cả

huyện gồm 32.762 nhân khẩu với 15 dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc
Mông chiếm 78,85% tổng dân số.
- Phân loại :
Cùng là một dân tộc Hmông chung sống với nhau tại mảnh đất Si Ma
Cai nhưng tiếng nói lại phát âm không giống nhau nên đã dựa theo các ngữ
điệu đó để phân loại thì người Hmông ở Si Ma Cai được chia làm 4 loại
chính:
Mông Hoa (Hmôngz Lênhl)
Mông Trắng (Hmôngz Đơưz)
Mông Xanh (Hmôngz Ntsuaz)
Mông Đen ( Hmôngz Đuz)
1.3.2. Tập quán mƣu sinh
 Canh tác nƣơng rẫy
Do điều kiện địa hình nên người Hmông ở Si Ma Cai chủ yếu canh tác
trên đất dốc bằng khai thác ruộng bậc thang và làm nương. Cây trồng
truyền thống là lúa, nương, ngô, kê, đỗ nương, rau cải… Lương thực thu
về đối với gia đình nhiều ruộng, đất thì của cải có thể dự trữ để ăn từ hai
năm đến ba năm mà không tích lũy bằng tiền và những giá trị khác bằng
kim loại. Việc trao đổi, mua bán bằng những nông sản, vật dụng tự làm
ra.Vì vậy người Hmông quan niệm ruộng nương là tài sản cố định truyền
đời.
 Chăn nuôi .


Ở đây địa hình đồi núi cao thoáng nên thuận lợi về chăn nuôi trâu bò
và gia súc, gia cầm. Mỗi gia đình có ít nhất tầm năm đến bảy con trâu bò,
ngựa, chăn nuôi trâu bò ở đây được mọi gia đình chú trọng vì „„con trâu là
đầu cơ nghiệp‟‟. Do điều kiện nơi đây hầu như là đồi núi nên sức cày kéo,
vận chuyển trong nông nghiệp là rất quan trọng.
Không chỉ vậy mà các hộ gia đình còn chăn nuôi gà vịt, ngan, lợn rất

nhiều, nhiều gia đình đã chuyển từ nghề làm nông sang nghề chăn nuôi và
trồng cây ăn quả và giờ đây hầu như chăn nuôi gần như là nguồn thu nhập
chính của họ.
 Thủ công nghiệp .
Tộc người Mông ở nơi đây không chỉ có một kho tàng văn hóa mà còn
có nhiều nghề như đan lắt, trồng đay dệt vải, nhiều bản làng vẫn còn giữ
nguyên nghề thủ công như dệt thổ cẩm là phổ biến nhất.
Thủ công nghiệp của tộc người Mông rất phong phú, hầu mọi dụng cụ
trong gia đình là tự chế để dùng. Như nghề đan mây tre, rèn, đúc…dệt thổ
cẩm, không ít gia đình biết đan các loại như nong, nia, sàng, chiếu, hoặc
đan những chiếc rương để đựng quần áo. Họ chủ yếu sử dụng những
nguyên liệu tự nhiên như tre nứa, song, mây, không chỉ đan cho gia đình sử
dụng mà còn mang ra chợ trao đổi mua bán. Ngành dệt thổ cẩm ở đây còn
thu hút nhiều khách thập phương mua với giá cao.
Bên cạnh sản xuất lương thực, thực phẩm là nghề chính, người Mông
còn thạo đan lát đồ dùng chắc bền ( địu, rổ, mẹt, ghế ngồi, bàn ăn cơm…),
rèn đúc nông cụ sắc bén (dao, rìu, cuốc, xẻng, xà ben…) và thiêu may thổ
cẩm tinh xảo được coi là ngành phụ.
1.3.3. Đặc điểm văn hóa vật chất .
 Nhà cửa.
Đồng bào tộc người Mông ở đây do định cư trên các sườn đồi nên nhà
ở thường là rất thấp, đáng lưu ý là người Mông thường đáp tường nhà
bằng đất, máy lập bằng danh hoặc vỏ cây, nhưng ngày nay hầu như là lập


bằng tấm lập. Nhà chủ yếu là nhà cát sét ba gian hoặc bốn gian và hai máy.
Tổ tiên, bàn thờ đặt ở gian giữa đối diện với của chính. Ở trên là hai gắc để
sếp ngô hoặc thóc và một số nông phẩm khác. Bếp lửa của tộc người Mông
thường để ở hai đầu nhà, bếp chính để ở bên trái, hoặc có nhà thì họ làm
nhà bếp riêng, bếp trong nhà to chỉ đẻ tiếp khách.

 Trang phục.
Quần áo của người H‟mông chủ yếu may bằng vải tự dệt, đậm đà tính
cách tộc người trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa dạng.
Trang phục nữ người H‟mông có nhiều nhóm khác nhau, trang phục
nữ các nhóm cũng có sự khác biệt. Tuy nhiên nhìn chung có thể thấy phụ
nữ H‟mông thường mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không
khâu hoặc cho vào trong váy. Ông tay áo thường trang trí hoa văn những
đường vằn ngang từ nách đến cửa tay, đường viền cổ và nẹp hai thân trước
được trang trí viền vải các màu (thường là đỏ và hoa văn trên nền chàm).
Phụ nữ Hmông còn dùng loại áo xẻ nách phải trang trí cổ, hai vai
xuống ngực giữa và cửa ống tay áo. Phía sau gáy thường được đính miệng
và trang trí hoa văn dày đặc bằng chỉ ngũ sắc. Váy phụ nữ Hmông là loại
váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra có hình tròn. Váy là một tiêu chuẩn
nhiều người đã dựa vào để phân biệt các nhóm Hmông (Hóa, Xanh, Trắng,
Đen... ).
Trang phục nam thường mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng,
thân hẹp, ống tay hơi rộng. Aáo nam có hai loại: năm thân và bốn thân.
Loại bốn thân xẻ ngực, hai túi trên, hai túi dưới. Loại năm thân xẻ nách
phải dài quá mông. Loại bốn thân thường không trang trí loại năm thân
được trang trí những đường vằn ngang trên ống tay. Quần nam giới là loại
chân què ống rất rộng so với các tộc trong khu vực. Đầu thường chít khăn,
có nhóm đội mũ xung quanh có đính những hình tròn bạc chạm khắc hoa
văn, có khi mang vòng bạc cổ, có khi không mang.
 Ẩm thực.


Trước kia người Hmông ở đây ăn mèn mén làm từ ngô là chủ yếu,
ngày nay họ ăn cơm tẻ làm từ ruộng, nương, một số gia đình do mất mùa
hay năng suất thấp họ thường trộn gạo với sắn nấu thành cơm. Thực phẩm
dùng trong bữa ăn hàng ngày chủ yếu được chế biến từ các nông sản do họ

làm ra và những sản phẩm hoạt động săn bắt, hái lượm trong tự nhiên.
Ngày nay lương thực trong tự nhiên ngày càng khan hiếm, đồng bào
nơi đây đã cải thiện bữa ăn bằng các loại rau quả, củ được chăm sóc trong
vườn như: rau cải, rau bí, các loại đậu đỗ. Thịt chủ yếu được lấy từ các đàn
gia cầm, gia súc nuôi trong gia đình như: gà, vịt, lợn, cá.....Ngoài ra thức ăn
còn được mua ở các quán, chợ tại các dịch vụ buôn bán.
Đồ uống chủ yếu uống nước lã, ngày nay họ cũng uống nước chè,
hoặc nước nấu với các loại rễ và lá cây rừng, nước đun sôi để nguội. Bữa
ăn hằng ngày cũng như trong dịp lễ tết họ không thể không thiếu rượu, họ
uống rượu nấu từ các loại nông sản như: rượu ngô, rượu gạo….
Đồ hút: Trước kia họ hút thuốc phiện nhưng từ khi nhà nước cấm
trồng cây thuốc phiện thì họ chuyển sang hút thuốc lá, thuốc lào…
 Phƣơng tiện vận chuyển.
Ngày xưa người H'mông chủ yếu sử dụng gùi, ngựa để thồ hoặc đi lại,
sức kéo của trâu bò. Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật họ chuyển sang sử dụng các loại phương tiện như xe máy.... để vận
chuyển.
1.3.4. Đặc điểm văn hóa tinh thần .
 Tín ngƣỡng , tôn giáo.
Tín ngưỡng của người H'mông ở Si Ma Cai chủ yếu là tín ngương
nguyên thủy đa thần. Do nhận thức hạn chế về thế giới xung quanh cũng
như sự bất lực trứơc nhưỡng chi phối của tự nhiên nên họ phải thờ cúng
quanh năm. Tất cả những lực lượng siêu nhiên được người Hmông coi là
ma. Trong các hình thức tín ngưỡng thì việc thờ cúng tổ tiên là quan trọng
nhất.


Sống hồn nhiên và hòa quyện với thiên nhiên song thiên nhiên vô
cùng huyền bí, lại có thế lực siêu phàm nên người Hmông quan niệm loài
người có hồn, còn van vật đều có ma (đangz), trong đó lại có ma lành

(đangz nheenh) và mà ma hoang (đangz ku) do vậy nên khi ốm đau, mùa
màng, gia sản thất bát thì sẽ mời thầy cúng đi cúng. Vì vậy những căng
bệnh không rõ nguyên nhân thì được chữa bằng cúng; những căng bệnh
biết rõ nguyên nhân thì được chữa trị bằng thuốc nam vô cùng phong phú
tại bản địa.
 Hôn nhân
Hôn nhân của người Hmông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời.
Những người cùng dòng họ không lấy nhau. Người Hmông có tục "háy
pù", tức là trong trường hợp trai gái yêu nhau, cha mẹ thuận tình nhưng
kinh tế khó khăn, trai gái hò hẹn nhau tại một địa điểm. Từ địa điểm đó
chàng trai dắt tay cô gái về làm vợ. Vợ chồng người Hmông rất ít bỏ nhau,
họ sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ và đi
hội hè...
 Tang ma.
Theo phong tục truyền thống, lễ tang của người Mông bao gồm rất
nhiều nghi lễ khác nhau. Khi gia đình có người thân qua đời, việc đầu tiên
là con cháu sẽ mang súng kíp ra ngoài nhà bắn ba phát để báo hiệu với bà
con trong bản biết là gia đình có người qua đời. Con cháu, bà con thôn, bản
nghe thấy tiếng súng ở khu vực nào sẽ đổ về gia đình đó để chia buồn,
đồng thời xem có việc gì cùng giúp đỡ.Người chết được con cháu lau mặt,
mũi, chân tay, thay quần áo mới cho sạch sẽ trước khi về với tổ tiên. Sau
khi tắm rửa cho người chết xong, họ dùng một chiếc ván gỗ đem thi thể
người chết đặt giữa nhà rồi người con trai trưởng nhanh chóng đi mời Dở
mủ (thầy cúng chỉ đường) về làm lễ "khai kế" đưa đường chỉ lối cho linh
hồn người chết về với tổ tiên.


Những lễ tang làm to có mổ trâu thường kéo dài từ 3 - 4 ngày với rất
nhiều nghi lễ khác nhau như: lễ "treo sáng đù" (giao lễ vật), "Nùng chàn gì"
(lễ hỏi đáp), "Tiu rìa kềnh", "Gẩu trùng"… mọi người thổi khèn, đánh trống

hát thâu đêm để tiễn biệt người chết.
 Văn học dân gian.
Người Hmông cũng có nhiều thể loại văn học dân gian như thần thoại,
truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ..... Hầu hết các loại hình này đựơc lưu
truyền bằng phương thức truyền miệng nhiều nơi đều kể giống nhau.
Trong kho tàng văn nghệ dân gian truyền thống ngoài truyện cười,
ngụ ngôn, câu đố, ngụ ngôn … còn có những truyện dài kể vài đêm. Dân ca
có một số chủng loại chính như nghi lễ, hát cưới, truyện ca…với nhiều làng
điệu phong phú.
Nhạc cụ Hmông nổi bậc nhất là khèn 6 nốt, khi thổi phải bấm hợp âm
nhưng giữ âm chủ gần như đàn piano. Những động tác múa khèn phức tạp
đều là những bài võ hoặc diễn tài tử. Ngoài ra còn có sáo lam, sáo dọc, kèn
môi, kèn lá, và kèn laux puaz dùng trong lễ hội.
 Nghệ thuật dân gian.
Nghệ thuật tạo hình được thể hiện qua trang phục, đồ dùng sinh hoạt
nhưng nổi bật nhất là cách trang trí hoa văn trên trang phục, đặc bịêt là trên
váy, áo của ngời phụ nữ.
 Lễ hội.
Trong vòng một năm người Hmông có nhiều ngày lễ tết song nổi bậc
nhất là lễ Nào Lồng (naox lôngx) tức là lễ cúng Thần rừng được tổ chức
vào ngày 30 tháng 1 hoặc 1 -2 tháng 2 (Âm lịch) tùy theo từng nơi; lễ ăn
cơm mới và tết Nguyên Đán. Riêng tết nguyên đán có 3 ngày quan trọng
nhất là tết tất niên, tết mùng Một bước sang năm mới và tết Rằm gọi là Nả
cha (nav chaz) tức là tết Mẹ.


Ngày tết những gia đình làm ăn thất bát, sinh con, nuôi con khó hoặc
những gia đình không có con trai sẽ cùng với xã hoặc huyện đứng ra chủ
trì lễ hội Gầu Tào (gauk taox) cầu mong năm mới làm ăn phát đạt, con
cháu đông vui và đồng thời còn là nơi hội tụ vui chơi, trai gái tìm hiểu nhau

cùng với nhiều trò chơi thử thách tài trí.


CHƢƠNG 2: VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ HMÔNG Ở HUYỆN SI
MA CAI, TỈNH LÀO CAI ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT VÀ
SỬ DỤNG BỘ TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG
2.1 Vai trò của ngƣời phụ nữ trong quá trình sản xuất rạng
nguyên liệu dệt
2.1.1. Chọn đất trồng lanh
Theo quan niệm của đồng bào, nương là một khoảnh đất được phát đốt, dọn cỏ cây tự nhiên rồi trồng lên đó một loại cây phục vụ cuộc sống
của con người thì được gọi là nương . Điều đó có nghĩa là chỉ cần phát
được một khóm nhỏ chưa phải là một khoảnh rừng, thậm trí chỉ cần tra
được một hốc ngô xuống cũng được gọi là nương.
Theo kinh nghiệm dân gian của người H‟mông ở Si Ma Cai, muốn
cho cây lanh mọc khoẻ, đồng bào thường chọn những chỗ đất màu mỡ,
thích hợp cho việc canh tác. Đó thường là những khu đất bằng phẳng, ở
những nơi cao ráo nên đó thường là những đám nương dưới chân núi hay
gần khu vực chân núi, hoặc cũng có thể là nương ở sườn núi hoặc ven sườn
núi, ưu tiên cho cây lanh được trồng những mảnh nương mới phát, mới
gieo trồng vụ đầu tiên.
Lanh là loại cây ưa ánh sáng nên mảnh đất trồng lanh phải được phát
quang làm cho xung quanh thoáng đãng, không có cây to che bóng. Để lợi
dụng những yếu tố thuận lợi và tránh những yếu tố tiêu cực của tự nhiên,
người H‟mông ở Si Ma Cai đã căn cứ vào điều kiện địa hình thành các
dạng đồi thoải lượn sóng hoặc phân bậc của địa hình mà lựa chọn địa điểm
trồng lanh ở sát cạnh những sườn dốc chắn gió hướng Đông Bắc. Những
mảnh đất ấy thường là tương đối bằng phẳng.
2.1.2. Kỹ thuật trồng và chăm sóc lanh
2.1.2.1 Thời vụ trồng lanh.
Để tránh mưa nhiều, gió rét và các hiện tượng thời tiết đặc biệt sảy ra

theo chu kỳ đều đặn hàng năm ở đây như dông, mưa đá, mưa phùn, sương


mù và sương muối… gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng sợi
lanh, người H‟mông ở Si Ma Cai thường trồng lanh từ giữa tháng 2 đến
tháng 3 âm lịch, tuỳ theo thời tiết hàng năm, sau khi trồng ngô xong.
2.1.2.2. Lựa chọn và bảo quản hạt giống.
Hạt lanh giống phải chắc và mẩy. Để lấy hạt làm giống, người
H‟mông thường để lại các cây lanh cao to mọc xung quanh các đám nương
lanh, hay xung quanh các đám nương ngô, hoặc trồng riêng ở những nơi
sườn đồi có độ dốc cao nhưng phải gieo thật thưa để cho cây phát triển to
nhiều nhánh mới cho nhiều hạt… Những cây lanh ấy do không bị chen lấn,
đất nhiều chất dinh dưỡng nuôi cây, quả, nên thường to lớn lại có nhiều
cành, nhánh, không dùng để tước sợi mà chỉ để lấy quả, hạt làm giống.
Lượng hạt giống cho một nương lanh rộng khoảng 100 m2 là 5 ống, tương
đương 5 kg.
Khoảng tháng 9, tháng 10 âm lịch, sau khi thu hoạch ngô 1 tháng là
thời điểm người H‟mông ở Si Ma Cai thu lấy hạt lanh giống. Người ta chặt
bỏ những cành có hạt, đập lấy hạt lanh ngay tại nương, đem về cho vào bao
tải treo trên gác bếp hoặc bất cứ chỗ nào khô ráo cũng được, vì hạt lanh có
nhiều dầu nên không sợ bị mọt. Để giữ cho hạt giống được tốt, người
H‟mông thường giữ riêng, không để hạt giống tiếp xúc lẫn với bất cứ thứ
gì. Xưa nay, hạt lanh giống chỉ để dùng cho một vụ, tức là chỉ bảo quản
trong vòng một năm là phải sử dụng hết, không để tới vụ thứ hai nếu không
khả năng nảy mầm của hạt sẽ kém và chất lượng cây trồng cũng không cao.
2.1.2.3. Kỹ thuật trồng và chăm sóc lanh.
Do đặc điểm bề mặt địa chất ở Si Ma Cai đất mùn lẫn dăm sạn, trơ sỏi
đá và vỏ phong hoá vụn bở nên để tăng độ phì cho đất, trên những khoảnh
đất trồng lanh, người ta bao giờ cũng phải làm đất rất kỹ. Đất trồng lanh
sau khi đã được cày xới, phơi ải và bừa qua, người ta dùng cuốc đập đất

cho tơi nhỏ và nhặt sạch cỏ. Sau đó, người ta gieo trồng. Trước khi gieo
hạt, người H‟mông ở Si Ma Cai thường không chọn ngày tốt như khi làm


nương ngô, nương lúa. Tuy nhiên, một số người cẩn thận thì vẫn chọn ngày
để mong cho cây mau lớn và khoẻ mạnh, chống chịu được những điều kiện
khắc nghiệt của thời tiết. Theo đó, ngày được chọn để trồng lanh thường
vào ngày con rồng, ngày con mèo bởi theo quan niệm của họ thì đó là
những ngày tốt, trồng vào những ngày này cây sẽ lớn khoẻ, lớn nhanh, cho
nhiều sợi.
Gieo hạt xong, người ta dùng cuốc cào một lớp đất dầy khoảng
0,5 – 1 cm phủ lên trên hạt giống để giữ độ ẩm đủ cho hạt nảy mầm.
Hạt lanh thường nảy mầm trong điều kiện thời tiết thuận lợi chỉ sau ba
ngày những lá mầm đầu tiên đã nhô khỏi mặt đất.
Kỹ thuật gieo lanh của người H‟mông Si Ma Cai là kỹ thuật gieo vãi
hạt. Khi gieo, người ta vãy hạt lanh khá dày, như thế các cây lanh mọc xen
khít vào nhau, không có cành nhánh, nên vỏ lanh khi thu hoạch sẽ không có
mấu, chạc, thuận lợi cho việc se sợi, dệt vải. Tuy nhiên, nếu gieo dầy quá
cây lanh sẽ còi, sợi mỏng, còn nếu gieo thưa quá cây lanh sẽ mọc nhiều
cành phụ không dùng để làm sợi được, nên thông thường mỗi gốc lanh
cách nhau một chiều khoảng 1,4 – 1,6 cm và chiều kia khoảng từ 1,5 – 1,8
cm để cây thoáng và dễ hấp thu ánh sáng mặt trời.
Từ khi bắt đầu gieo hạt cho đến lúc thu hoạch, người ta gần như
không làm cỏ, bón phân, tưới nước cho lanh lần nào. Chỉ trừ những trường
hợp cây lanh quá còi cọc họ mới dùng nước giải trộn với tro để tưới. Đến
khoảng tháng 5, tháng 6 âm lịch là thời điểm cây lanh đang trong thời kỳ
phát triển tốt nhất, chất lượng lanh khoẻ nhất; và đây cũng chính là thời
điểm thu hoạch lanh.
Chất lượng vải lanh phụ thuộc nhiều vào chất lượng sợi; đồng thời
tính đồng bộ của sợi lanh cũng là một trong những yếu tố quan trọng làm

nên chất lượng vải. Tính đồng bộ đó được thể hiện ở chiều cao cũng như độ
mập của thân cây và độ dầy của vỏ cây. Vì vậy, người ta thường phân loại
lanh ngay từ khâu thu hoạch Theo kinh nghiệm dân gian, các cây lanh to


(cao trên dưới 2m; chu vi gốc khoảng 4,4 – 5 cm) được gọi là lanh bố được
bó riêng. Sợi của loại lanh này được dùng để bện dây buộc hoặc dệt vỏ bao
đựng. Các cây lanh nhỏ (cao 1,3 – 1,6 m; chu vi gốc khoảng 3 – 3,5 cm)
được gọi là lanh con dùng để dệt may trang phục và các sản phẩm may mặc
khác. Lanh nhỏ sau đó lại được phân chia thành các loại có độ dài ngắn
bằng nhau để các sợi lanh có chiều dài tương đối bằng nhau rồi mới bó lại.
Sau khi đã róc bỏ hết lá, người ta phơi nắng 3 – 4 ngày theo cách ngày
phơi, tối cất. Trước khi tươc sợi, cây lanh lại được phơi sương khoang 2
đến 3 tiếng vào buổi tối lúc này lanh có thể tước lấy sợi.
2.1.3. Kỹ thuật và các công đoạn chế biến lanh thành sợi.
Trong toàn bộ quy trình dệt thì việc làm sợi là mất thời gian nhất và
tốn khá nhiều công sức. Việc phân công lao động trong quá trình tạo
nguyên liệu cho nghề dệt của người H‟mông ở Si Ma Cai diễn ra theo giới
tính và lứa tuổi. Thông thường, người đàn ông tham gia làm đất, gieo trồng
và thu hoạch lanh, còn tất cả quá trình tạo sợi đều do những người phụ nữ
trong gia đình đảm nhiệm.
2.1.3.1 Tƣớc vỏ lanh.
Sau khi thân cây lanh đã được phơi nắng, phơi sương đủ độ, lanh được
tước lấy vỏ. Công thức tước vỏ lanh áp dụng cho cả lanh bố và lanh nhỏ
được thực hiện như sau:
Vị trí tước vỏ đầu tiên được thực hiện bắt đầu từ giữa thân về phía
ngọn. Sau đó, sợi lại tiếp tục được tước từ giữa thân cây về phía gốc. Theo
công thức đó, người phụ nữ H‟mông dùng hai đầu ngón tay trỏ và ngón tay
cái của cả hai bàn tay vê và lắc nhẹ đoạn giữa thân cây cho dập rồi luồn
móng tay cái của một bàn tay bất kỳ (với những người mới làm thì người ta

thường dùng bên bàn tay thuận) luồn vào giữa lớp vỏ và thân cây để tách
sợi. Và vẫn với móng tay ấy, người ta sẽ tước đều theo dọc thân lanh vỏ
sau khi tước ra phải to đều, không bị rách, không bị sơ, chạy đều suốt từ
đầu đến cuối là được. Thông thường, với một cây lanh, người ta có thể tước


được 4 sợi, mỗi sợi sau đó lại được tước làm 2 – 3 phần cho kết quả cuối
cùng là 8 – 12 sợi/cây. Chiều dài của sợi lanh phụ thuộc vào chiều cao của
thân cây lanh cho sợi.
2.1.3.2. Giã sợi.
Vỏ lanh sau khi tước được bó thành từng bó đều nhau cho vào cối giã
khoảng nửa giờ cho mềm sẽ dễ nối hơn và không để lại mối nối.
2.1.3.3.Nối sợi
Đây là công đoạn chiếm nhiều thời gian nhất được tiến hành sau đó.
Những sợi lanh sau khi đã tước tương đối đều nhau được nối với nhau một
cách rất đặc biệt: Người ta tách đôi một sợi lanh ở vị trí cách đầu sợi
khoảng 10 cm rồi luồn một sợi khác vào giữa, xoắn lại, sai đó lại tách đôi
sợi này và luồn sợi thứ nhất vào. Bằng cách này, sợi lanh vẫn đều, nuột,
không rõ mối nối. Người phụ nữ thường bó sợi lanh thành từng chùm nhỏ,
quấn quanh bụng, sau đó rút lấy từng sợi, từng sợi… nối lại với nhau, nối
được đến đâu người nối lại cuốn vào bàn tay đến đấy (thường cuốn vào tay
chiêu); hoặc người ta cũng có thể cuốn sợi lanh vào một vòng mây gắn vào
một que tre nhỏ. Khi nối sợi, người ta phải tuân thủ nguyên tắc nối đầu
ngọn với đầu ngọn, nối đầu gốc với đầu gốc và các đoạn nối phải to đều,
sợi nào bé thì bổ sung thêm sợi, sợi nào to quá thì phải tước bớt đi để khi
lên vải các thớ sợi mới đều, vải dệt mới phẳng, mịn. Người phụ nữ Hmông
thường tranh thủ chắp, nối sợi lanh vào bất kỳ lúc nào đôi tay họ rảnh. Với
một cuộn lanh thô bên thắt lưng, trên đường đi nương, đi chợ… thậm chí
ngay cả khi tiếp khách bên bếp lửa, họ cũng luôn tay chắp nối sợi.
2.1.3.4 .Xe sợi.

Sau khi xe và nối sợi bằng tay, sợi được đưa lên guồng xe tiếp một lần
nữa. Để khỏi bị đứt, các cuộn sợi này được nhúng vào nước từ 15 đến 20
phút trước khi xe cho mềm, tăng độ dẻo dai.
Cấu tạo guồng xe sợi của người Hmông cho phép mỗi lần xe sợi,
người ta sẽ đưa đồng thời được sợi từ 4 cuộn sợi vào 4 con suốt chỉ. Khi xe


sợi, người ta đặt 4 cuộn sợi nằm dàn hàng ngang trên một miếng gỗ phẳng
(hoặc cũng có thể đặt vào thùng hay chậu), cách trục đỡ 1,2 m. Sợi được
đưa lên vắt ngang một thanh tre cao cách mặt đất 1,5 m. Từ đây, sợi được
dẫn thẳng đến suốt cuốn sợi. Người ta sẽ dùng tay cuộn mồi một đoạn
khoảng 50 – 60 cm vào con suốt (đầu mỗi cuộn sợi cuốn vào 1 con suốt).
Mỗi con suốt được cắm vào một lỗ cắm suốt trên giá đỡ trục. Xong những
việc đó là hoàn thành công đoạn mắc sợi và người ta có thể tiến hành xe
sợi.
Người xe sợi ngồi trên một chiếc ghế cao khoảng 50 cm (độ cao này
có thể thay đổi tương ứng với chiều cao của trục đỡ bánh xe và trục đỡ cần
đạp). Hai chân người xe sợi để trên cần đạp - một chân đặt ở phía trong,
một chân đặt ở phía ngoài trục đỡ cần. Hai tay người xe sợi cầm hai đoạn
thân cây tre nhỏ hoặc gỗ tròn (đường kính khoảng 2,5 – 3 cm). Đoạn cây
bên tay trái dài khoảng 20 – 25 cm được luồn xuống dưới tuyến đi của sợi.
4 sợi chạy qua đoạn cây này được luồn qua 4 kẽ ngón tay của người xe sợi
có tác dụng như một sự phân luồng). Đoạn cây bên tay phải dài tầm 1,2 m
đặt ở trên và luôn được dìm xuống hay thả lỏng cho các đường sợi dâng lên
nhịp nhàng theo từng vòng quay có tác dụng làm cho sợi khi cuốn vào suốt
được phân chia đều đặn ở các vị trí trong - giữa – ngoài của con suốt. Nói
cách khác, cả hai đoạn cây này đều có tác dụng can thiệp vào tuyến đi của
sợi (lái sợi) trong lúc vận hành sao cho 4 dòng sợi không bị vướng vào
nhau làm rối sợi và để sợi đánh vào suốt được đều theo ý muốn của người
xe sợi.

Khi vận hành, hai chân người xe sợi đạp vào cần đạp với nhịp đạp
thay đổi đều đặn giữa hai chân, lúc nhấn mạnh đoạn phía trong, lúc nhấn
mạnh đoạn phía ngoài sẽ làm cho bánh xe chuyển động theo vòng tròn kéo
theo sự chuyển động của suối chỉ. Hai tay người xe sợi luôn luôn can thiệp
vào đường chuyển động của sợi và đôi mắt phải luôn luôn theo dõi sự can
thiệp ấy.


Sau khi được xe, sợi đã chuyển từ dạng dẹt và mỏng của vỏ cây sang
dạng tròn và xoắn bện của sợi.
2.1.3.5. Thu sợi.
Sợi sau khi được xe đã đạt được độ mềm mượt, dẻo dai, tròn, xoắn
bện và bền chắc cần thiết nhưng lúc này sợi mới chỉ được cuốn vào từng
suốt nhỏ. Muốn thực hiện được các công đoạn tiếp sau, người ta phải thu
sợi thành những bó lớn bằng guồng thu sợi.
Để thu sợi, người ta cho các con suốt sợi được vào một vật chứa (rổ
đan, thùng gỗ, gùi…) đặt ở một góc nhà. Mỗi “mẻ” thu sợi, người ta mắc
lên guồng 10 - 12 con sợi (tương ứng với 10 con suốt sợi). Đầu của các con
sợi này được buộc gắn với 1 thanh chốt chặn bất kỳ. Sau đó, người ta lần
sợi mắc vòng quanh guồng 1 vòng làm mồi rồi mới bắt đầu tiến hành khởi
động vòng guồng từ trái qua phải hoặc từ phải qua trái tuỳ theo ý muốn của
người thu sợi.
Khi guồng quay đã hoạt động trơn tru, người thu sợi ngồi ở một góc
nhà bất kỳ (trừ góc nhà có đặt vật chứa các con suốt sợi và dùng tay tác
động vào các đầu thanh cuộn từ trái qua phải hoặc từ phải qua trái theo
vòng khởi động tạo ra một lực đẩy vào thanh cuộn. Lực đẩy này sẽ được
truyền đến trục làm cho trục quay. Để tránh không cho rối sợi, người ta
không bao giờ quay nhanh quá và đặc biệt là phải quay đều tay. Mỗi khi sợi
bị rối, người ta phải dừng guồng rồi ra gỡ trước khi tiếp tục cho trục quay.
Mỗi khi các con suốt hết sợi, người ta lại phải ra nối tiếp sợi từ các con suốt

khác vào các đầu chỉ từ các con suốt vừa hết. Vì vậy, để đỡ mệt mỏi khi
thực hiện công đoạn này, thông thường người ta làm việc này 2 người: một
người chuyên quay guồng và một người chuyên gỡ và nối sợi. Khi mỏi, hai
người này có thể đổi vị trí thao tác cho nhau.
2.1.3.6. Luộc - ủ - giặt sợi.
Công đoạn này có tác dụng làm trắng sợi. Để luộc và ủ sợi, người ta
cần phải có tro bếp. Những bó sợi sau khi được tước, xe và thu thành từng


bó sợi lớn sẽ được ngâm với nước tro bếp rồi luộc chín cho bong hết vỏ
xanh. Mỗi mẻ luộc, người ta sẽ thực hiện từ 4 – 5 cuộn sợi, thời gian luộc
cho mỗi mẻ khoảng 30 – 60 phút thì vớt ra. Thông thường các gia đình
người H‟mông chỉ cần luộc một đêm là hết số sợi. Chỉ gia đình nào đông
con gái, sợi nhiều mới cần thêm một ngày hôm sau.
Sau mỗi lần luộc sợi, người ta sẽ ủ sợi bằng cách rắc một lớp tro nguội
lên tro bếp còn nóng ở đáy chảo (lượt rắc dày khoảng 1 – 2 cm). Sau đó,
người ta dùng một mảnh vải lanh hoặc một chiếc váy lanh cũ trải lên trên,
đặt các cuộn sợi này vào đó, dùng một tấm vải khác phủ lên sợi, rồi rải
thêm một lớp tro nữa lên trên (với độ dày tương đương với lớp tro ở đáy
chảo) để ủ sợi trong 5 ngày. Sau đó mới mang giặt cho sạch và cho lên
guồng thu sợi phơi khô. Tiếp theo, sợi còn được luộc và ủ tro thêm 3 lần
nữa, những lần sau chỉ cần ủ trong một ngày một đêm. Riêng lần luộc sau
cùng, người ta còn cho thêm một ít sáp ong cho sợi trắng, mịn và dai chắc.
Thứ sợi lanh đã được làm xoăn, trắng và sạch như thế người Mông gọi là
“Xur”.
2.1.3.7. Lăn sợi.
Để làm cho sợi mềm, bóng, các đầu nối sợi mỏng ra và phẳng, không
lộ ra các mối nối, người ta còn dùng một dụng cụ để lăn sợi. Đó là một
khúc gỗ tròn làm trục lăn, một phiến đá đẽo phẳng nhẵn hoặc một tấm ván
gỗ, chiều dài khoảng 1 m, chiều rộng khoảng 0,3 m. Người ta đặt sợi lên

khúc gỗ tròn, lấy phiến đá hoặc tấm ván đặt lên trục gỗ rồi đứng trên phiến
đá, vịn hai tay vào tường, chân đẩy lúc sang trái, lúc sang phải làm cho trục
gỗ chuyển động lăn đi lăn lại miết xuống sợi lanh.
2.1.3.8. Tháo sợi.
Sau khi lăn xong, sợi được đưa lên giồng thu sợi để tháo cho dễ. Cách
tháo sợi rất đơn giản, người ta đặt đầu sợi vào đáy gùi rồi xoay guồng thu
sợi, tay dỡ sợi thả dần xuống gùi. Khi tháo sợi, không cho trẻ em tới gần vì
nếu chúng nghịch sẽ làm


×