Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN Một số phương pháp giúp học sinh chủ động tích cực trong học tập bộ môn Văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 23 trang )

Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Bộ môn văn là một môn có vị trí quan trọng trong chương trình Giáo dục
nói chung và trong trường THPT nói riêng, đó là một trong hai môn chính phải
thi tốt nghiệp và tính điểm hệ số nhân đôi đối với các khối chuyên ban. Chính vì
vậy, bộ môn Văn có vai trò quan trọng quyết định tới kết quả của học sinh. Tuy
nhiên, môn Văn đã và đang mất dần vị trí của mình. Một thực tế đáng buồn
rằng: Hiện nay, đa số các em học sinh không thích và yêu môn Văn nữa. Vì sao
lại như vậy?
Trong một số trường THPT có hẳn một ban C dành cho các em yêu thích
các môn Khoa học xã hội nhưng đa số các em học ban C không phải vì yêu thích
mà vì không theo được ban A, B nên đành học ban C theo kiểu “Chuột chạy
cùng sào mới vào ban C”, còn các em yêu thích học Văn thì lại không chọn Văn,
cho dù có chọn học ban C thì khi thi Đại học các em cũng ít hoặc không theo
ban C. Theo khảo sát tình hình học tập và tâm tư của các em hiện nay phần lớn
đều cho rằng học văn không đem lại thu nhập cao, khó xin việc... trong khi nhu
cầu xã hội đang cần là phát triển về kinh tế, ngân hàng, hay các kỹ sư, bác sĩ…
với những trường đang được coi mà “mốt” và thời thượng. Vì thế đa phần học
sinh mải mê theo ban A, B mà vô tình “bỏ rơi” ban C. Các em học Văn theo kiểu
“chống đối” chỉ học đủ điểm để lên lớp và đỗ tốt nghiệp.
Hiện nay, đa phần học sinh “chống chọi” với môn Văn bằng cách sắm cho
mình một quyển “Để học tốt” cất sẵn trong cặp, học sinh soạn bài cũng chỉ
mang tính chất đối phó với thầy cô…Học sinh không cần đọc văn bản, không
cần cảm thụ và chỉ cần “tự vệ” bằng cách đó. Thậm chí, học sinh còn không cần
quan tâm tới điểm số của môn học vì bản thân các em không cho môn Văn là
quan trọng với mình. Một bộ phận học sinh thích học Văn thì lại lắc đầu vì cách
dạy Văn của cô giáo khiến cho các em không còn thích và yêu Văn nữa. Chính
vì vậy người giáo viên dạy văn cần linh hoạt áp dụng các phương pháp dạy học
mới vào trong quá trình giảng dạy.


Có rất nhiều giáo viên ứng dụng công nghệ vào trong quá trình giảng dạy,
đây là một hình thức mới gây sự chú ý và tò mò của học sinh đối với bài giảng.
Tuy nhiên, áp dụng như thế nào cho phù hợp và hiệu quả nhất cũng là một vấn
đề khó. Vì nếu giáo viên sử dụng không khéo học sinh sẽ chú ý nhiều đến hiệu
ứng, phông nền, hình ảnh mà cô giáo sử dụng nhiều hơn là nội dung bài giảng.
Và để soạn thảo một bài dạy bằng PowerPoint giáo viên sẽ mất rất nhiều
công chuẩn bị và soạn giảng, chính vì vậy mà đa số giáo viên rất ngại soạn giáo
án điện tử, phần lớn giáo viên thường chọn cách giảng truyền thống. Ngoài việc
ứng dụng công nghệ, một số giáo viên cũng đổi mới phương pháp dạy học của
1/23

1


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

mình, thay vì việc đọc chép các thầy cô để cho học sinh chủ động tiếp cận với
văn bản tác phẩm qua các hình thức như: Đóng kịch (đối với các vở kịch), đọc
phân vai đối với các tác phẩm tự sự…Học sinh được tiếp cận tác phẩm theo cách
cảm nhận của mình, học sinh trao đổi, tranh luận về các vấn đề xoay quanh các
tác phẩm. Cuối cùng giáo viên là người chốt lại vấn đề, định hướng cho học sinh
cách hiểu đúng tác phẩm…
Người giáo viên dạy Văn phải là một người thực sự yêu nghề, một người
nhạy cảm, tinh tế để cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm đồng thời cũng là
một người dẫn đường để đưa học sinh đến với văn chương. Môn Văn là một
môn học quan trọng nó không chỉ cung cấp tri thức cho học sinh như các môn
học khác mà môn Văn còn góp phần định hướng, hình thành nhân cách cho học
sinh. Học văn giúp chúng ta biết yêu cái đẹp, ghét cái xấu, giúp chúng ta hiểu
được giá trị của cuộc sống. Có ý kiến của một thầy giáo cho rằng: Cần trả lại
đúng vị trí của môn Văn bằng cách đưa môn Văn và môn Toán là hai môn thi bắt

buộc trong kì thi Đại học, cách đó chắc chắn sẽ ít nhiều đem lại hiệu quả, sẽ
giúp học sinh học Văn nhiều hơn nhưng chưa hẳn đã khiến học sinh thêm yêu
Văn.
Với mong muốn trong một tương lai không xa, Văn học sẽ trở về vị trí vốn
có của nó, tôi mạnh dạn đề xuất “Một số phương pháp giúp học sinh chủ động
tích cực trong học tập bộ môn Văn”.
2. Mục đích
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của việc học bộ môn Văn trong nhà trường
cũng như tình hình giảng dạy hiện nay mong muốn đề ra một số phương pháp để
tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy lòng yêu thích môn học trong học sinh. Phát huy
tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong cách học cũng như để các em có thể
tự do cảm thụ tác phẩm theo cách hiểu của mình không gò bó, khuôn sáo.
Nhằm tạo ra sự hợp tác, đối thoại giữa giáo viên và học sinh thông qua tác
phẩm, khích lệ tinh thần tự học ở học sinh, giúp học sinh hứng thú với bài học
khi chính các em là người chủ động khám phá tác phẩm.
Học sinh được phát huy nhiều khả năng của mình trong quá trình chuẩn bị
bài, tham gia các hoạt động trong tiết học cũng như được quyền bày tỏ chính
kiến của mình về tác phẩm trước tập thể.
Xây dựng một không khí học tập sôi động với tinh thần chung là thỏa mái,
nhẹ nhàng, không áp lực, không căng thẳng nhưng vẫn đạt được những hiệu quả
nhất định.
3. Đối tượng và phạm vi thực hiện
2/23

2


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

Học sinh khối 10 (10A7, 10A8), 11 (11A10) trong phạm vi giáo viên giảng

dạy ở trường THPT.
4. Kế hoạch nghiên cứu
Thực hiện đề tài trong năm học: Từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 4 năm
2015
5. Phương pháp thực hiện
Sử dụng phương pháp liên ngành kết hợp giữa văn học, lịch sử và giáo dục
lối sống, rèn luyện các thao tác kỹ năng mềm cho học sinh.
Áp dụng những kĩ năng và nguyên tắc chung về chuyên môn để tiến hành
thực hiện các tiết học theo đúng quy trình và yêu cầu của bộ giáo dục.
6. Ý nghĩa của đề tài
Với đề tài “Đề xuất một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích
cực trong học tập bộ môn Văn” giúp cho quá trình giảng dạy có một bước thay
đổi phù hợp với yêu cầu thực tiễn của việc học và dạy hiện nay.
Góp phần vào quá trình đổi mới trong dạy học nâng cao khả năng tiếp cận
văn bản của học sinh, tạo môi trường học tập sôi nổi, chủ động, tích cực làm
tăng khí thế học tập của học sinh trong môi trường học tập nói chung.
Góp phần vào sự đổi mới phương pháp trong môi trường sư phạm nói chung.

3/23

3


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

B. PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận
Bàn về vị trí của người thầy, W.A.Walde cho rằng: “Thầy giáo bình
thường chỉ biết thuật lại, thầy giáo giỏi thì giải thích, thầy giáo xuất sắc thì

chứng minh, còn người thầy vĩ đại thì mở lối chỉ đường”. Quả là, người thầy đạt
đến độ vĩ đại phải là người biết “mở lối chỉ đường”, tức là biết gợi mở cho học
sinh học tập, biết đánh thức tiềm năng nơi học sinh và đặc biệt là rèn luyện cho
học sinh tính tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập. Hiện nay, trong các
trường học, phương pháp giảng dạy của các thầy cô đã được đổi mới. Quan
điểm lấy học sinh là trung tâm, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, gợi mở đã
đem đến cho giáo dục những thành tích đáng kể.
Với học sinh, hành trình đến với chân trời tri thức là con đường đẹp đẽ
nhưng cũng rất gian nan. Để có thể đi đến đích nhất thiết phải chọn cho mình
một thái độ học tập đúng đắn và hợp lí. Nhà bác học Đác Uyn từng nói: “ Tất cả
những gì có giá trị một chút tôi đều thu nhận được bằng cách tự học”. Vậy tự
học là gì? Là phương pháp lấy sự chủ động, tích cực của bản thân người học làm
yếu tố cốt lõi, căn bản. Nhất là với phương pháp này, người học có thể lựa chọn
được những gì phù hợp với năng lực và nhu cầu bản thân. Trên cơ sở lựa chọn
ấy, người tiếp nhận cũng sẽ lựa chọn tốt nhất và vận dụng hiệu quả nhất kiến
thức thu được cho những mục đích học tập cụ thể. Đây chính là con đường, cách
học hiệu quả để chiếm lĩnh tri thức lớn nhất làm giàu vốn hiểu biết của bản thân.
Đổi mới phương pháp dạy học là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới giáo
dục trung học hiện nay. Luật Giáo dục (Điều 28) đã nêu: Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc điểm của lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học,
rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Như vậy, tích cực hóa chính là một
tập hợp các hoạt động nhằm chuyển biến vị trí của người học từ thụ động sang
chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang đối tượng tìm kiếm tri thức để
nâng cao hiệu quả học tập. Tất cả các phương pháp nhằm tích cực hóa hoạt động
học tập của học sinh đều được coi là phương pháp dạy học tích cực.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy rằng: Đa số các em học sinh đến
với môn Ngữ Văn không phải vì yêu thích mà xuất phát từ những động cơ khác

nhau (đối phó, bị ép buộc, để đáp ứng một điều kiện nào đó trong thi cử, hay để
4/23

4


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

đánh giá kết quả học tập...). Bởi vậy, hầu hết các em học sinh đến với môn Ngữ
Văn đều có thái độ thờ ơ, thiếu tích cực và chủ động trong học tập. Thái độ này
biểu hiện chủ yếu ở các phương diện sau:
Trong việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp: Hiện nay, việc giảng dạy bộ môn
Ngữ Văn của hầu hết các giáo viên trong trường THPT đều gặp khó khăn trong
việc đảm bảo khung thời gian theo quy định (mất thời gian cho việc đọc văn bản
và gợi mở), khó khăn trong việc khơi gợi và định hướng cho học sinh...Điều này
xuất phát từ thực trạng chuẩn bị bài và hoàn thiện bài tập trước khi đến lớp. Đa
phần các em ít đọc văn bản, soạn bài và hoàn thiện bài tập trước khi đến lớp.
Thậm chí, còn có những em không bao giờ đọc văn bản, soạn bài hay làm bài
tập. Cũng bởi vậy mà học sinh thường lơ mơ và không biết gì (dù là những điều
cơ bản nhất như: tên tác phẩm, tác giả, nhân vật chính hay tóm tắt tác phẩm...)
khi đi vào tìm hiểu tác phẩm.
Ví dụ: Trước khi học bài "Chữ người tử tù", tôi hỏi: tác giả của tác phẩm là
ai? Xuất xứ? Nhân vật chính? Học sinh chẳng những trả lời sai mà còn không trả
lời được: Tác giả là Nam Cao. Và không trả lời được hai vế còn lại.
Trong việc học tập ở trên lớp: Bên cạnh một số học sinh tích cực và hứng
thú với tiết học thì đa phần các em rất thờ ơ, thiếu tích cực trong việc tiếp thu và
xây dựng bài học. Trong tiết học, có em thì ngủ gật, có em thì mang các môn
khác ra học, có em thì nói chuyện chứ không tập trung vào bài học và định
hướng của giáo viên...Đặc biệt, sự hợp tác của học sinh với giáo viên là rất hạn
chế. Học sinh ít xung phong xây dựng bài hoặc bày tỏ quan điểm ý kiến riêng

của bản thân. Nếu bị giáo viên gọi thì học sinh thường có chung câu trả lời: Em
không biết; em chưa nghĩ ra; hoặc là em cũng có ý kiến giống bạn... Và nếu tiếp
tục nhận được sự gợi mở từ giáo viên thì học sinh thường ít tập trung và quan
tâm đến lời định hướng ấy. Thậm chí, có những đơn vị kiến thức rất cơ bản, có
sẵn trong sách giáo khoa, giáo viên chỉ rõ đoạn, rõ trang và học sinh biết nhưng
cũng không có một cánh tay nào xung phong. Trong quá trình luyện tập và củng
cố bài học: Học sinh rất lười làm bài, lười suy nghĩ. Việc mà các em thường làm
trong hoạt động này là: ngồi chờ, nói chuyện và chép bài sau khi giáo viên chữa.
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi đã tiến hành khảo sát và thu được kết quả
như sau:

5/23

5


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

Bảng thống kê kết quả học tập
Lớp

Trước thử nghiệm (Đầu học kì I)

Sĩ số

Giỏi
10A7

44


10A8

40

11A10

37

khá

Trung bình Yếu

3

10

27

4

(6,8%)

(23%)

(51%)

(9,2%)

2


8

24

6

(5%)

(20%)

(60%)

(15%)

0

5

26

6

(0%)

(13,5%)

(70,3%)

(16,2%)


Bảng thống kê kết quả khảo sát về thái độ học tập bộ môn
Lớp

Sĩ số

Trước thử nghiệm (Đầu học kì I)
Chủ động

10A7

44

10A8

40

11A10

37

Thụ động

Thờ ơ

10

30

4


(22,5%)

(68,5%)

(9%)

8

29

3

(20%)

(72,5%)

(7,5%)

4

23

10

(10,8%)

(62,2%)

(27%)


II. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP CHỦ YẾU
1. Quy trình thực hiện phương pháp tạo sự tích cực chủ động trong học
sinh
1.1.

Quy trình hình thành ý tưởng
Xây dựng môn học theo cách thức tập trung mọi hoạt động về phía học sinh
xuất phát từ chương trình giáo dục kỹ năng nhóm trong các sinh hoạt tập thể
hiện nay. Giáo viên cũng giống như người điều khiển chương trình có nhiệm vụ
6/23

6


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

điều hành một tiết học hay một buổi thảo luận mà trung tâm không phải là mình.
Xuất phát từ thực tiễn các hoạt động đội, nhóm trong các phong trào cho thấy
học sinh rất hứng khởi với cách thức chơi mà học, đa phần học sinh hiện nay
thích tự mình khám phá, tìm hiểu môn học và muốn được thể hiện mình hơn là
bị áp đặt từ nhiều phía. Với xu hướng phát triển không ngừng của hệ thống
Internet như hiện nay để học sinh tự tìm hiểu bài bằng nhiều phương thức là một
vấn đề không khó mà còn tạo ra được một sân chơi trong giờ học cho các em.
Theo xu thế phát triển chung của xã hội, học sinh không chỉ đơn thuần
trong suy nghĩ mà các em luôn muốn được khẳng định mình trước tập thể nhất
là sự cạnh tranh trong điểm số giữa các nhóm hay vì màu cờ sắc áo của nhóm
mình mà học sinh càng hăng say trong các tiết học. Để thu hút được học sinh
vào bài giảng cần có một hình thức học tập phù hợp với tâm lý lứa tuổi và môi
trường học tập của học sinh một cách cụ thể như: thuyết trình nhóm bằng hình
thức đối đáp qua lại giữa các học sinh, thuyết trình nhóm bằng mẩu chuyện vui

xoay quanh bài học, kịch hóa tác phẩm theo cách cảm nhận riêng của học sinh
vẫn giữ được nội dung nhưng mang màu sắc và tính chất đổi mới tùy theo cách
nhìn tác phẩm của các em.
Thông thường, học sinh hiện nay vốn hiếu động không thích bị gò ép vào
những khuôn mẫu nhất định nên việc mở rộng vấn đề hay tóm lược vấn đề của
bài học theo cách truyền thống đã không còn có sự phù hợp. Học sinh luôn đòi
hỏi học nhưng phải được đi đôi với chơi, do đó việc kết hợp giữa hình thức học
và một số trò chơi lồng ghép xoay xung quanh bài học sẽ có tác dụng giúp học
sinh nắm được cốt lõi của bài và ấn tượng về bài học. Có thể nói các chương
trình truyền hình ngày càng nở rộ với rất nhiều Game show và bản thân học sinh
có đã có cả một hệ thống các Game vừa chơi, vừa học cho thấy cách học truyền
thống xuất phát từ một phía có thể làm học sinh dễ nhàm chán và bỏ rơi bộ môn
Văn. Học sinh luôn có nhu cầu chơi cao hơn học do đó đưa các trò chơi vào bài
học vừa giúp học sinh phát huy được tính năng động, tích cực trong bài học của
mình đồng thời làm cho các em không còn cảm thấy nhàm chán với bộ môn
Văn.
1.2.

Quy trình thực hiện ở mỗi lớp
Để thực hiện được phương pháp học mà chơi trước hết giáo viên phải là
người có sự đầu tư suy nghĩ, có sự đầu tư về thời gian và biết cách tổ chức nhóm
hoạt động cũng như có sự thay đổi trong giáo án giảng dạy.
Tùy vào điều kiện và hoàn cảnh mỗi lớp cũng như không khí học tập hay
tâm lý học sinh trong lớp dạy mà có cách thức thực hiện sao cho phù hợp, kế
7/23

7


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn


hoạch giảng dạy theo hình thức mới phải được đưa ra trao đổi thảo luận và bàn
bạc giữa giáo viên và lớp ngay từ đầu năm học. Giúp học sinh nắm được cách
thức học tập một cách cụ thể, chi tiết và tạo cho các em nguồn hứng khởi giống
như đang bước vào một thế giới mới ngay từ đầu. Học sinh cũng cần được bày
tỏ quan điểm của mình về cách dạy và học phù hợp với các em, theo đó giáo
viên sẽ điều chỉnh cách dạy sao cho học sinh thấy hứng khởi theo đúng tâm lý
các em đồng thời người dạy cũng phải suy nghĩ để tạo ra cách thức để giảng
dạy mới.
Giáo viên cần khơi gợi sự tò mò cho học sinh về cách thức học tập theo mô
hình mình đặt ra và liên tục duy trì khí thế trong lớp học bằng sự thay đổi không
ngừng, biến hóa qua mỗi tiết. Từng bước dẫn dắt học sinh vào bài giảng bằng
chính sự hoạt động của các em, kích thích tinh thần học tập của học sinh bằng
chính khả năng của học sinh. Với những học sinh có khả năng hài hước sẽ được
phân công chuẩn bị những mẩu chuyện vui gần với bài học tạo tinh thần thỏa
mái, hứng khởi trong lớp học. Giáo viên cũng phải tự trang bị cho mình những
câu chuyện thú vị để ứng biến với bài giảng và bản thân giáo viên cũng phải tự
mình họa theo các em nhưng chỉ dừng lại ở mức độ nhất định. Học sinh đang
trong lúc vui vẻ sẽ bị giáo viên đặt những câu hỏi bất ngờ xoáy vào bài học theo
hình thức đi từ xa đến gần có thể bằng một loạt những câu hỏi trắc nghiệm buộc
các em phải phản ứng nhanh để ghi cho mình những điểm cộng. Với rất nhiều
phương pháp được áp dụng tùy thuộc vào thời lượng bài giảng theo quy định
trong mỗi tuần sẽ đưa ra hình thức phù hợp do đó làm kích thích tính chủ động
trong tiếp cận bài học của học sinh phù hợp với tâm lý lứa tuổi.
1.3 Quy trình thí nghiệm các phương pháp
Từ quá trình hình thành ý tưởng tới khi thực hiện phải trải qua thử nghiệm
bằng cách thức tiến hành tại một vài lớp nhất định trong thời gian hai tuần đầu
tiên về các cách thức giảng dạy theo ý tưởng của giáo viên. Cần xem xét đánh
giá được mức độ hoạt động của từng lớp để chon ra những phương pháp cuốn
hút các em cho phù hợp. Chẳng hạn với các lớp học sinh thích hoạt động theo

phương thức làm nhóm học tập, giáo viên cần phân chia nhóm và giao trách
nhiệm công việc cụ thể cho các thành viên trong nhóm đó khuyến khích tính
sáng tạo của nhóm bằng các điểm cộng thêm ngoài phần điểm theo quy định.
Tuy nhiên, có một số lớp học sinh lại có thiên hướng ưa hoạt động cá nhân,
với những lớp này cần thiết là tổ chức giảng dạy theo hình thức phát huy vai trò
của cá nhân trong các tiết học bằng phương thức tổ chức các game nhỏ nhỏ
giống như giải ô chữ, đoán nội dung hay tìm câu chủ điểm, tìm ý chính…với
8/23

8


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

hình thức này học sinh phát huy được tính chủ động của cá nhân mỗi học sinh.
Cũng có thể mở rộng hoạt động chơi với tác phẩm đối với các lớp chỉ thích hoạt
động theo nhóm nhỏ 3 tới 5 học sinh, mỗi nhóm này sẽ tự chuẩn bị câu hỏi xoay
xung quanh nội dung tác phẩm đã được yêu cầu chuẩn bị sẵn ở nhà và đưa ra
buộc nhóm kia phải trả lời trong thời gian quy định và ngược lại, giáo viên sẽ
đóng vai trò giám khảo cho cuộc thi giữa hai bên để giảng giải những thắc mắc
hay đáp án các em đưa ra chưa thật sự hợp lý. Các nhóm khác ngoài hai nhóm
nhỏ này sẽ được cộng điểm bổ sung nếu như câu hỏi được nhóm chơi trả lời
không chính xác.
Như vậy, để có thể ứng dụng các phương pháp tạo sự hứng khởi, chủ động
trong học sinh giáo viên cần phảo có sự thí điểm trước ở từng lớp và thực hiện
theo từng giai đoạn sao cho phù hợp với tình hình học tập chung của lớp đó.
2. Phương pháp cụ thể giúp học sinh chủ động tích cực trong học tập bộ
môn Ngữ Văn
2.1. Hoạt động nhóm học tập lớn
Giáo viên tiến hành chia nhóm học tập ngay từ đầu năm học thường là 10

thành viên, đặt tên cho mỗi nhóm theo ý muốn của mình, biến mỗi học sinh trở
thành một giáo viên trong tiết học của mình cụ thể như sau:
Giáo viên hướng dẫn nhóm học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp bao gồm
tất cả các nội dung sẽ nói đến trong bài học từ phần giới thiệu cho tới khi kết
thúc. Phần chuẩn bị này bắt buộc tất cả các học sinh phải chuẩn bị nhưng mỗi tổ
sẽ chuyên sâu hơn nội dung của tổ mình. Các buổi trình bày của học sinh được
phân theo các tổ học tập trong lớp bắt đầu từ tổ đầu tiên đến tổ cuối cùng, mỗi
thành viên trong tổ phải lên trình bày bài giảng ít nhất một lần theo hình thức
xoay vòng, có thể là trên lớp với phương tiện là phấn, bảng, có thể là sử dụng
phòng nghe nhìn thiết kế nội dung bài giảng bằng Powerpoint và trình bày theo
cách chuẩn bị của mình.
Trong khi một học sinh trong nhóm học tập đóng vai trò giáo viên lên giảng
bài thì các thành viên còn lại sẽ theo dõi nội dung bài giảng để chuẩn bị cho
cuộc thảo luận xoay quanh nội dung học sinh vừa trình bày. Đối với những bài
giảng văn học, học sinh vừa kết hợp thuyết trình vừa đặt ra các câu hỏi ngược lại
cho các tổ khác cùng suy nghĩ để sau khi kết thúc phần bài giảng của nhóm
mình, học sinh thuyết trình sẽ yêu cầu các nhóm còn lại trả lời câu hỏi. Sau phần
trả lời các câu hỏi của các nhóm khác, thành viên trong nhóm thuyết trình; phải
có nhận xét trước câu trả lời và giảng giải về câu hỏi của mình đặt ra. Phần trình
bày của học sinh kết thúc, toàn thể lớp sẽ dành một tràng pháo tay thật lớn để
9/23

9


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

chúc mừng bạn mình đã hoàn thành và bắt đầu vào cuộc thảo luận với những nội
dung:
Nhận xét ưu và khuyết điểm của người trình bày, nội dung trình bày, các em

phải học kỹ năng khen trước chê sau.
Các tổ còn lại sẽ thay phiên nhau đặt câu hỏi cho tổ có thành viên vừa trình
bày, các thành viên trong tổ trình bày phải có nhiệm vụ bảo vệ bài giảng của
mình bằng cách đưa ra các luận điểm để cho các nhóm khác thấy được sự chuẩn
bị kĩ lưỡng của nhóm mình cho đến khi giáo viên thấy ổn thì bắt đầu nhận xét và
đặt thêm câu hỏi cho người thuyết trình để xem mức độ hiểu bài tới đâu. Học
sinh sẽ ghi phần nội dung bài giảng sau khi đã có sự chọn lọc, chốt ý của giáo
viên. Trong phần này giáo viên đóng vài trò dẫn dắt, điều khiển các hoạt động
của học sinh để nội dung bài học đi đúng hướng và đúng thời gian cho phép.
Ví dụ minh họa: Khi hướng dẫn học sinh giải quyết bài tập 1 – tiết “Ôn
tập văn học trung đại Việt Nam” – Sách giáo khoa - Ngữ Văn 11 – Tập 1 (trang
77), Tôi tiến hành phương pháp thảo luận nhóm. Hoạt động nhóm diễn ra như
sau:
Quá trình chuẩn bị:
− Hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà:
+ Giáo viên hướng dẫn các nhóm học sinh ( 4 nhóm) lập bảng thống
kê các tác giả, tác phẩm trong chương trình Ngữ Văn lớp 11 gồm
các cột: Thứ tự, tác giả, tác phẩm, thể loại, nội dung, đặc sắc nghệ
thuật, giai đoạn, ghi chú. Phần ghi chú học sinh ghi rõ tác phẩm
thể hiện chủ yếu đặc điểm lớn nào về nội dung của văn học trung
đại (chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo, cảm hứng thế sự).
Bảng thống kê thể hiện trên giấy khổ lớn để lớp có thể theo dõi.
+ Học sinh chuẩn bị bảng thống kê các tác phẩm văn học trung đại
đã làm khi tổng kết phần văn học trong chương trình 10 mang đến
lớp để có dữ liệu so sánh.
− Thực hành trên lớp:
+ Giáo viên yêu cầu các nhóm học sinh treo bảng thống kê theo mẫu vào
những vị trí đã chuẩn bị sẵn.
+ Ví dụ:


10/23

10


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

TT
1

TÁC
PHẨM,
TÁC
GIẢ

THỂ
LOẠI

Vào
Kí phủ
trung
chúa
đại
Trịnh(
Thượng
kinh kí
sự) – Lê
Hữu
Trác.
........


NỘI DUNG
CHÍNH

ĐẶC SẮC
NGHỆ THUẬT

GIAI
ĐOẠN

Bức tranh sinhđộng về cuộc
sống xa hoa
quyền quý nơi
phủ
chúa
Trịnh và thái
độ coi thường
danh lợi của
tác giả.
- .....

Quan sát tỉ mỉ,
ghi chép trung
thực, tả cảnh
sinh động, lựa
chon chi tiết
đặc sắc, đan
xen tác phẩm
thơ ca.
- ...........


Văn học
thế
kỉ
XVII –
Nửa đầu
thế
kỉ
XIX
...............
.

GHI CHÚ

Cảm hứng
thế sự
.................
.

+ Sau đó, giáo viên gọi một số học sinh của các nhóm đọc nội dung thống
kê từng tác phẩm nhóm mình đã làm, cứ như thế cho đến hết. Ví dụ học
sinh A đọc thống kê về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, học sinh B trình
bày tiếp về tác phẩm Tự tình..
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra nhận xét từ bảng thống kê bằng cách
đặt câu hỏi cho 4 nhóm:
• Nhóm 1: Vậy nhìn vào bảng trên, em nhận thấy so với giai đoạn
trước, nội dung yêu nước trong văn học Trung Đại Việt Nam ở giai
đoạn từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX có những biểu hiện gì mới?
• Nhóm 2: Từ các tác phẩm của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,
kết hợp với một số tác phẩm văn học trung đại giai đoạn thế kỉ XVIII

đến hết thế kỉ XIX, em có nhận xét gì về nội dung nhân đạo trong văn
học trung đại Việt Nam ở bước phát triển này?
• Nhóm 3: Cảm hứng thế sự đã được thể hiện như thế nào trong đoạn
trích “Vào phủ chúa Trịnh”?
• Nhóm 4: Tại sao nói với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thì lần đầu tiên
trong văn học dân tộc có một tượng đài bi tráng và bất tử về người
anh hùng nông dân nghĩa sĩ?
+ Học sinh các nhóm lần lượt trả lời và cuối cùng giáo viên tổng kết, đánh
giá cho điểm.
2.2. Game show học tập

11/23

11


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

Với phương pháp này có rất nhiều hình thức tiến hành, có thể thực hiện sau
phần thuyết trình của các nhóm đã kết thúc, để chốt lại giáo viên có thể đưa ra
trò chơi giải ô chữ để chốt lại vấn đề của bài học nhằm tạo ấn tượng cho học
sinh, đồng thời cũng tránh sự nhàm chán, mệt mỏi khi phải tập trung quá nhiều
cho phần tranh luận đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi.
Cũng có hình thức sử dụng trò chơi khác trong bài học, giáo viên phân
công nhiệm vụ cho mỗi tổ chuẩn bị một trò chơi xoay xung quanh nội dung
phần bài của nhóm mình chuẩn bị giống như chương trình chiếc nón kì diệu.
Các thành viên trong tổ khác có nhiệm vụ tham gia giải đáp các ô chữ, tìm ra
đúng nội dung theo sự gợi ý của nhóm chuẩn bị. Sau khi ô chữ đã được mở ra,
nhiệm vụ của nhóm chuẩn bị là sẽ giảng giải về nội dung chuẩn bị của nhóm
mình về bài học đã được thâu tóm trong trò chơi để các nhóm khác hiểu được

nội dung tác phẩm. Với cách thức này không cần phải sử dụng phòng nghe nhìn
mà có thể làm trực tiếp trên lớp.
Tuy nhiên không nhất thiết phải là các nhóm, giáo viên sẽ tự soạn bộ câu
hỏi theo chương trình ai là triệu phú cho chơi cả lớp trước khi đi vào nội dung
chính của tác phẩm trên cơ sở đã yêu cầu các em đọc trước ở nhà. Câu hỏi được
đặt ra theo mức độ từ dễ đến khó buộc học sinh phải nắm được nội dung tác
phẩm mới hoàn thành được các câu hỏi một cách thông suốt. Việc hoàn tất các
câu trả lời cũng là kết thúc cho một bài giảng, mỗi câu hỏi được mở ra giáo viên
sẽ giảng giải nội dung có liên quan đến câu hỏi đó trước khi học sinh đi vào câu
hỏi tiếp theo. Với phương pháp này, mỗi cá nhân học sinh sẽ phải chủ động
trong câu trả lời của mình và thông qua đó có thể bao quát hết được các học sinh
trong lớp.
Ví dụ minh họa: Tổ chức giải ô chữ trong bài ôn tập văn học dân gian: đây là ô
chữ tôi sử dụng hiệu quả trong bài Ôn tập văn học dân gian lớp 10. Sau khi tìm
được 6 ô chữ hàng ngang, học sinh sẽ tìm được ô chữ hàng dọc – cụm từ gồm 6
chữ cái, là một đặc trưng cơ bản của văn học dân gian:
1
2
3
4
5
6

C


T Í
C H
D
Ậ Y

P Ê N Ê L Ố P
G I
Ả I
T R Í
S Ử T
H I
K Ể
Hệ thống câu hỏi như sau:
12/23

12


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

1. Thể loại phản ánh những xung đột xã hội, cuộc đấu tranh giữa thiện và ác,
chính nghĩa và gian tà? (6 chữ cái)
2. Đây là từ còn thiều trong câu ca dao: Nửa đêm trở...trông trời?( gồm 3
chữ cái)
3. Nhân vật chính trong đoạn trích Uy – lit – xơ trở về? (gồm 7 chữ cái)
4. Thể loại nào mà hình thức lưu truyền là hát – kể? (gồm 5 chữ cái)
5. Một trong những mục đích của truyện cười? (gồm 6 chữ cái)
6. Hình thức lưu truyền chủ yếu của truyện cười là gì? (gồm 2 chữ cái)
7. Ô hàng dọc: là một đặc trưng cơ bản của văn học dân gian? (gồm 6 chữ
cái).
2.3 Kịch hóa tác phẩm
Thông thường các tác phẩm ngữ văn tương đối đa dạng với nhiều thể loại,
mỗi thể loại có những đặc trưng riêng cho nên giáo viên có thể căn cứ vào đó tạo
ra một phương pháp mới để lôi cuốn học sinh. Với hình thức kịch hóa thực chất
cũng là một sân chơi cho học sinh thể hiện tài năng của mình. Nội dung này có

thể thực hiện bằng hình thức đối với những tác phẩm ngắn như những câu
chuyện cười trong phần dành cho học sinh khối 10, giáo viên khuyến khích học
sinh có khả năng kể lại câu chuyện mà khiến cho cả lớp có thể cười nghiêng ngả
lên độc thoại về tác phẩm. Phần trình bày của học sinh kết thúc, học sinh đó sẽ
đặt ra một loại các câu hỏi liên quan đến tác phẩm đã được chuẩn bị trước ở nhà
và chỉ định các học sinh khác trong lớp tham gia trả lời các hỏi này. Quá trình
giải đáp các câu hỏi học sinh sẽ nhận được sự hỗ trợ từ phía giáo viên, sau mỗi
câu hỏi của học sinh kể chuyện được trả lời giáo viên sẽ đặt thêm câu hỏi bổ
sung đi sâu vào tác phẩm đồng thời chốt ý luôn.
Đối với những tác phẩm văn học dài, mang kịch tính giáo viên sẽ lấy tinh
thần xung phong của các nhóm, thông thường một nhóm sẽ phụ trách một tác
phẩm, các em sẽ đóng những phân đoạn quan trọng xuyên suốt tác phẩm trong
thời gian 10. Với hình thức kịch hóa này buộc nhóm thực hiện phải viết lại kịch
bản tác phẩm thành những lời thoại phù hợp với những phân cảnh và phân chia
nhân vật hợp lý. Nhóm kịch hóa sẽ có nhiệm vụ thuyết minh về các nhân vật gắn
với các nội dung trong tác phẩm trong lúc các nhóm khác sẽ đặt câu hỏi để đối
thoại với nhóm kịch hóa này. Mỗi nhân vật tương ứng với một học sinh và tự
học sinh đó phải bảo vệ được nhân vật mình trước các câu hỏi đưa ra. Hình thức
kịch hóa tuy không mới nhưng cách thức làm sẽ thể hiện được sự năng động,
sáng tạo của học sinh và cách thể hiện nhân vật cũng cho thấy được sự cảm thụ
tác phẩm của các em. Đối với các nhóm không tham gia phần kịch hóa thì đây

13/23

13


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

cũng là dịp để các em thấy được khả năng của bạn mình đồng thời có ấn tượng

về tác phẩm ở một khía cạnh khác so với cách thức thuyết trình thông thường.
Ngoài ra, một vài tác phẩm có lời thoại kịch cá nhân học sinh sẽ được mời
phân vai giống như các diễn viên trên sân khấu nhưng không phải đóng kịch mà
chủ yếu thể hiện qua lời thoại. Cách nhấn nhá phù hợp với nhân vật của học sinh
cũng tạo ra ấn tượng rất lớn về tác phẩm đối với các học sinh khác. Trong phần
thể hiện này, học sinh phải trả lời được câu hỏi của giáo viên về nhân vật và các
em có quyền đặt câu hỏi trực diện cho các bạn còn lại trong lớp cùng tham gia
vào bài giảng.
Ví dụ minh họa: Khi tìm hiểu văn bản “Tình yêu và thù hận” (Rô – mê – ô và
Giu – li – ét), trong phần đọc – hiểu văn bản, thay vì gọi một học sinh đứng lên
đọc, tôi đã hướng dẫn các em học sinh đóng kịch. Quá trình ấy diễn ra như sau:
− Hướng dẫn học sinh chuẩn bị:
+ Thời gian hướng dẫn: đảm bảo thời gian các em học sinh có đủ thời gian
để chuẩn bị (3 tuần trước khi diễn ra tiết học).
+ Lựa chọn và phân vai học sinh tham gia (3 học sinh):
• Một học sinh đóng vai: Rô – mê –ô
• Một học sinh đóng vai: Giu – li – ét
• Một học sinh làm người dẫn chuyện.
+ Lựa chọn lời thoại: dựa vào đặc điểm của đoạn trích: dung lượng ít, lời
thoại ngắn và dễ nhớ nên đa phần lời thoại được giữ lại. Riêng lời thoại 1,
cắt bớt và chỉ giữ lại đoạn “Ấy...nhỉ”. Ngoài ra giáo viên còn định hướng
trước cho học sinh ngữ điệu của từng lời thoại (dựa vào bối cảnh và tâm
trạng nhân vật).
− Thực hiện trên lớp: học sinh trình bày phần chuẩn bị; giáo viên nhận xét
và cho điểm.
2.4. Quyền lợi của học sinh
Học sinh ngoài vấn đề yêu thích môn học, đối với các em điểm số cũng khá
quan trọng. để khích lệ tinh thần học tập tích cực, các em sẽ có cột điểm cộng và
cột điểm trừ. Giáo viên tính điểm cộng cho nhóm và người trình bày. Nếu nhóm
bảo vệ được bài giảng đến cùng thì sẽ giữ được trọn vẹn số điểm cộng, nếu

không trả lời được câu hỏi của nhóm khác thì điểm cộng được chuyển qua người
đặt câu hỏi và giải đáp câu hỏi đó (học sinh đã đưa ra câu hỏi đúng nội dung bài,
bắt buộc phải có cả câu trả lời cho câu hỏi đó khi nhóm thuyết trình không trả
lời được thì đứng lên giảng giải cũng phải trọng tâm và đúng nội dung).
Nếu nhóm nào không chuẩn bị bài tốt và không có tinh thần đoàn kết nhóm
thì sẽ bị điểm trừ. Có những nhóm mặc dù các em có thực hiện nội dung của
14/23

14


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

mình nhưng không đáp ứng được yêu cầu đặt ra sẽ không có điểm cộng và nhóm
phải tích lũy điểm thông qua tác phẩm khác.
Tương tự như vậy, trong phầm Game show mỗi câu trả lời đúng theo tinh
thần xung phong các em sẽ được đánh một dấu cộng do lớp phó học tập của lớp
sẽ phụ trách, đối với những học sinh trả lời đúng nhưng không phải tự nguyên
mà bị kêu lên các em sẽ không được cộng điểm trừ khi các em trả lời đúng 3 câu
liên tiếp mới được tính điểm cộng.
Phần kịch hóa hình thức cộng điểm cao hơn so với các nội dung trên bao
gồm: Những cá nhân trực tiếp tham gia đóng kịch các em sẽ được cộng gấp đôi
dù có hay hoặc không hay, có đạt hoặc không đạt các em vẫn được cộng điểm do
quá trình phải tập luyện. Ngược lại những học sinh không đọc tác phẩm sau khi
nhóm kịch đã trình diễn xong mà không đặt ra được câu hỏi cho bài học hay
không có sự đối thoại, tranh luận với nhóm kịch xoay quanh các nhân vật và tác
phẩm sẽ bị 1 điểm trừ.
Giáo viên là người giữ vai trò định hướng cho học sinh đi đúng trọng tâm,
vấn đề thể hiện của học sinh.
Trước mỗi bài kiểm tra 15 phút, giáo viên sẽ hệ thống lại toàn bộ điểm cộng

của học sinh trong suốt thời gian trước đó và quy đổi ra điểm số cụ thể, tối đa
nhất là cộng 1,5đ. Giáo viên sẽ công khai điểm số cộng, trừ trước lớp, phần
điểm cộng chỉ được áp dụng cho điểm miệng và 15 phút.
Như vậy, với hình thức cộng điểm cũng là một cách để học sinh luôn phấn
đấu nỗ lực không ngừng trong quá trình học tập.

3. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Kết quả chung:
15/23

15


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

Hầu hết các em học sinh nắm được cách thức học tập một cách cụ thể, chi
tiết và tạo cho các em nguồn hứng khởi giống như đang bước vào một thế giới
mới ngay từ đầu. Điều này góp phần kích thích tinh thần học tập của các em
bằng chính khả năng của mình. Cũng vì vậy mà số học sinh tích cực chủ động
ngày càng có xu hướng tăng, số học sinh thụ động, chống đối, thờ ơ với môn
học giảm rõ rệt. Điều này thể hiện rất rõ trong việc chuẩn bị bài trước khi đến
lớp; tinh thần tích cực, trách nhiệm trong việc tổ chức các game show và việc
hoàn thành thuyết trình nhóm.
Với phương pháp tạo hứng thú và nâng cao khả năng tự lĩnh hội kiến thức
cho học sinh, giáo viên đã tạo nên được những tiết học phong phú, hấp dẫn học
sinh. Đặc biệt, học sinh bước đầu ý thức được vai trò và tầm quan trọng bộ môn
để từ đó có thái độ học tập tích cực chủ động hơn.
Cùng với sự thay đổi tích cực trong nhận thức thì kết quả học tập của các
em cũng được nâng cao rõ rệt. Nhất là kết quả ấy lại là sự phản ánh một cách
trung thực nỗ lực cố gắng của các em.

Bảng thống kê kết quả học tập theo hướng tích cực chủ động với môn học:

Lớp

Sĩ số

10A7

44

10A8

40

11A10

37

Sau thử nghiệm ( Cuối học kì II)
Giỏi

Khá

Trung bình

9

23

12


(20,5%)

(51,9%)

(27,6%)

6

19

15

(15%)

(47,5)

(37,5%)

2

17

18

(5,4%)

(45,9)

(48,7%)


16/23

16


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

Bảng thống kết quả về thái độ học tập bộ môn
Lớp

Sĩ số

10A7

44

10A8

40

11A10

37

Sau thử nghiệm (Cuối học kì II)
Chủ động

Thụ động


Thờ ơ

30

14

0

(67,5%)

(32,5%)

(0%)

27

11

2

(67,5%)

(27,5%)

(5%)

20

16


1

(54%)

(43,3%)

(2,7%)

4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
4.1. Kết luận:
Trong nhà trường một thầy dạy cho một lớp đông học trò, cùng lứa tuổi và
trình độ tương đối đồng đều thì giáo viên khó có điều kiện chăm lo cho từng học
sinh nên đã hình thành kiểu dạy "thông báo - đồng loạt". Giáo viên quan tâm
trước hết đến việc hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết nội
dung quy định trong chương trình và sách giáo khoa, cố gắng làm cho mọi học
sinh hiểu và nhớ những điều giáo viên giảng. Cách dạy này sinh ra cách học tập
thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ, cho nên đã hạn chế chất lượng, hiệu
quả dạy và học, không đáp ứng yêu cầu phát triển năng động của xã hội hiện đại.
Trên thực tế, trong quá trình dạy học người học vừa là đối tượng của hoạt
động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động học, dưới
sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải tích cực chủ động cải biến chính mình
về kiến thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình
được. Như vậy, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì
đương nhiên phải phát huy tính tích cực chủ động của người học.
Trong phương pháp dạy học tích cực, học sinh - đối tượng của hoạt động
"dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" được cuốn hút vào các hoạt
động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá
những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã
được giáo viên sắp đặt. Dạy theo cách thức này thì giáo viên không chỉ giản đơn
truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải

giúp cho từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia các chương trình
hành động của cộng đồng. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương
pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói
17/23

17


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong
mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay
người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự
chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự
học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự
học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể
đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự
phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học
được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập. Tuy nhiên, trong học tập, không
phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động
độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối
quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập.
Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ,
khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm,
tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác
trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất
là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuát hiện thực sự nhu cầu phối
hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo

nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại, tính cách năng lực của mỗi thành
viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương
trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các
thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con
người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá
không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học
mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những
tình huống thực tế. Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ
không còn là một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông
tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo
viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc
theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các
mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học
sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn
giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và
18/23

18


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc
tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận
sôi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình
độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh
và tạo sự yêu thích trong quá trình học tập môn Văn cho các em.
4.2 Khuyến nghị

Đề nghị Sở giáo dục và đào tạo thường xuyên tổ chức chuyên đề “ Đổi
mới phương pháp dạy học Văn” có chất lượng và hiệu quả. Từ đó, giáo viên có
thể học tập, trao đổi và vận dụng trong quá trình dạy Văn. Đồng thời cần có
những điều chỉnh về thời gian tiết dạy phù hợp nhằm phát huy năng lực, tinh
thần chủ động tích cực của học sinh đối với bộ môn.
Đối với các thầy cô bộ môn Ngữ Văn: cần nâng cao tinh thần trách nhiệm,
tâm huyết với nghề nghiệp, thường xuyên nâng cao kĩ năng giảng dạy, trau dồi
trình độ chuyên môn. Đặc biệt cần phải xây dựng và dự kiến thực hiện kế hoạch
giảng dạy năm học phù hợp, sáng tạo và linh hoạt.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của
người khác

19/23

19


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

PHỤ LỤC

Học sinh thuyết trình nhóm

Thảo luận bảo vệ bài thuyết trình

20/23

20



Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

Học sinh chuẩn bị trả lời câu hỏi

Học sinh trả lời câu hỏi cho phần thuyết trình

21/23

21


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

Học sinh tổ chức Game show bài học

Học sinh tích cực tham gia trò chơi của giáo viên
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ ……………......…………………………………………...... 1
22/23

22


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………….........
1
2. Mục đích …………………………………………………............................ 2
3. Đối tượng và phạm vi thực hiện ………………………………………. .... 3
4. Kế hoạch thực hiện ………………………………….....................................

3
5.
Phương
pháp
hiện....................................................................................3

thực

6. Ý nghĩa của đề tài …………………………………………………...………….... 3
B. PHẦN NỘI DUNG..........................................................................................4
I. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ................................................................................4
1.

sở
luận......................................................................................................4



2. Cơ sở thực tiễn..................................................................................................4
II. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP CHỦ YẾU........................................................6
1. Quy trình thực hiện phương pháp tạo sự tích cực chủ động trong học
sinh.......................................................................................................................6
1.1. Quy trình hình thành ý tưởng ……………………………….………......6
1.2. Quy trình thực hiện ở mỗi lớp …………………………………………... 7
1.3. Quy trình thí nghiệm các phương pháp ……………………………….... 8
2. Phương pháp cụ thể giúp học sinh chủ động tích cực trong học tập bộ
môn
Ngữ
Văn........................................................................................................9
2.1. Hoạt động nhóm học tập …………………………………………….…..9

2.2. Game show học tập …………………………………………………...... 12
2.3. Kịch hóa tác phẩm ………………………………………………..…….. 13
2.4. Quyền lợi của học sinh ……………………………………………..…...14
3.
KẾT
QUẢ
HIỆN...............................................................................16

THỰC

IV. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ………………………..……….....….17
23/23

23



×