Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân ở huyện kim sơn, tỉnh ninh bình khóa luận tốt nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.05 KB, 84 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH

Chủ nghĩa xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân

DNTN

Doanh nghiệp tư nhân

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

TLSX

Tư liệu sản xuất

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TTCN

Tiểu thủ công nghiệp

KHKT


Khoa học kĩ thuật


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế có vị trí, vai trò quan trọng
trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nhất là, trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay. Phát triển kinh tế tư
nhân là một xu hướng tất yếu, một chủ trương đúng đắn và nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta.
Sự phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là sản phẩm lí luận gắn liền với thực tiễn. Những thành tựu kinh
tế quan trọng đạt được qua gần 30 năm đổi mới của đất nước là bằng chứng
sinh động, xác nhận một cách thuyết phục sự khởi sắc của nền kinh tế nói
chung và triển vọng tiềm năng của kinh tế tư nhân nói riêng. Bởi vậy, có thể
khẳng định, đối với nước ta phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, lâu dài và là nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế tư nhân phát triển đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển
chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội như: Huy động được nhiều nguồn vốn
đầu tư với số lượng lớn vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh; góp phần
nâng cao sức sản xuất của xã hội, tạo thêm nhiều việc làm mới, vừa tăng của
cải vật chất cho xã hội,vừa làm giảm áp lực giải quyết việc làm cho người lao
động; Thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại thị trường, làm tăng sức

cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước; Tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế trên thị trường; Vừa góp phần tạo nên tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, vừa tham gia giải quyết nhiều vấn đề xã hội, khơi dậy và
phát huy được tiềm năng về vốn, đất đai, lao động, kinh nghiệm sản xuất của
các tầng lớp nhân dân vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

4


Do vậy, sự phát triển của kinh tế tư nhân đã đóng góp quan trọng vào việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng,
trong thời gian qua, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh
Bình cũng đã đề ra nhiều chính sách và giải pháp để phát triển kinh tế xã hội,
nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Một trong những giải pháp cơ
bản đó là tạo điều kiện khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. Với những
chủ trương chính sách đó kinh tế tư nhân ở huyện Kim Sơn phát triển mạnh
mẽ.Kinh tế tư nhân trong các ngành, lĩnh vực trên địa bàn huyện đã đóng góp
đáng kể vào sự phát triển kinh tế- xã hội như: Đóng góp vào nguồn thu ngân
sách của huyện và tỉnh; giải quyết việc làm, giảm nghèo, tăng thu nhập, cải
thiện đời sống người lao động; huy động vốn cho đầu tư phát triển; góp phần
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của tỉnh Ninh
Bình. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, bên cạnh những kết quả tích cực
đạt được thì kinh tế tư nhân ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình cũng bộc lộ
những hạn chế như: quy mô sản xuất kinh doanh còn nhỏ, trình độ khoa họccông nghệ còn lạc hậu, việc đổi mới công nghệ chậm, chất lượng sản phẩm
chưa cao nên khó khăn về thị trường tiêu thụ, trốn lậu thuế, vi phạm pháp
luật. Vấn đề nhận thức dân cư còn nhiều bất cập, hệ thống kết cấu hạ tầng
phục vụ cho phát triển kinh tế tư nhân còn nhiều yếu kém….
Chính vì thế, cần thiết phải có những giải pháp đồng bộ, để khuyến
khích kinh tế tư nhân ở thành phố phát triển đúng hướng, hiệu quả, góp phần

thúc đẩy kinh tế- xã hội của huyện cũng như của tỉnh phát triển nhanh hơn,
bền vững hơn. Với những lí do trên tôi chọn đề tài: “Phát triển kinh tế tư
nhân ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
Với mong muốn góp phần nghiên cứu, làm rõ vai trò của thành phần kinh tế
này trên địa bàn, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm đưa kinh tế tư nhân
của huyện Kim Sơn ngày càng phát triển mạnh hơn nữa.

5


2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài.
Kinh tế tư nhân ở nước ta đã được nhiều tác giả nghiên cứu với những
góc độ, phạm vi khác nhau. Có thể nêu ra những công trình tiêu biểu có liên
quan đến đề tài như:
-

GS.TS Hồ Văn Vĩnh (năm 2001), Kinh tế tư nhân và quản lí nhà nước đối với
kinh tế tư nhân ở nước ta. Đề tài cấp Bộ- Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh; tác giả đã khẳng định vai trò to lớn của kinh tế tư nhân, nêu ra những định
hướng phát triển kinh tế tư nhân và những giải pháp về pháp luật, về chính sách,

-

về tổ chức để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển
PGS.TS Nguyễn Huy Oánh, Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế, Tạp
chí Nghiên cứu kinh tế. Bài nghiên cứu đã khẳng định vai trò quan trọng của
thành phần kinh tế tư nhân (trong đó có các doanh nghiệp tư nhân) và những
yêu cầu, giải pháp để phát huy vai trò của kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế

-


của nước ta.
PGS.TS Nguyễn Đình Kháng (năm 2002), Kinh tế tư nhân và xu hướng phát
triển của nó trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. Cuốn sách tổng kết xu hướng phát triển kinh
tế tư nhân của các nền kinh tế nói chung. Vận dụng trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường ở Việt Nam. Luận giải rõ quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân; đề xuất giải pháp cho giai đoạn

-

2005-2010.
Đào Quang Vinh (năm 2002), Doanh nghiệp tư nhân và khả năng giải quyết
việc làm qua một cuộc điều tra, Tạp chí lao động và Xã hội, số 190. Trong bài
viết tác giả đánh giá tổng quan về khả năng giải quyết việc làm của các doanh

-

nghiệp tư nhân.
TS. Vũ Thị Bạch Tuyết (Năm 2003), Con đường nào cho kinh tế tư nhân của
Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí tài chính, số tháng 4-2003. Trong

6


công trình này, tác giả đánh giá thực trạng kinh tế tư nhân từ đó nhằm tháo gỡ
-

những vướng mắc hiện nay cho khu vực kinh tế tư nhân
PGS.TS Vũ Văn Phúc (Năm 2005), Nền kinh tế quá độ trong thời kì quá độ

lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lí luận chính trị, Hà Nội. Tác giả đề
cập đến quan niệm về kinh tế tư nhân; bản chất kinh tế tư nhân; tính tất yếu
khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế hàng
hóa và kinh tế thị trường; tính hai mặt của sự phát triển kinh tế tư nhân; thực
trạng kinh tế tư nhân và một số giải pháp cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế

-

tư nhân.
PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai (Năm 2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến
trình hội nhập, Nxb Thế giới, Hà Nội. Tác giả đề cập đến những vấn đề chung
về khu vực kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện hội
nhập, các loại hình doanh nghiệp tư nhân, vốn thực tế của doanh nghiệp tư
nhân như thế nào, số lượng doanh nghiệp tư nhân Việt Nam.
Và một số bài báo, tạp chí, luận văn, luận án nghiên cứu về kinh tế tư
nhân ở các Bộ, ngành, địa phương.
Nhìn chung các công trình, đề tài trên đều nghiên cứu về kinh tế tư
nhân theo nhiều góc độ khác nhau, cách tiếp cận khác nhau, ở nhiều cấp độ
khác nhau, về vị trí, vai trò, thực trạng và đề ra những giải pháp để phát triển
kinh tế tư nhân ở nước ta. Đồng thời do giới hạn lịch sử các giải pháp phát
triển kinh tế tư nhân đã có sự thay đổi so với đòi hỏi thực tiễn hiện nay. Tuy
nhiên cho đến nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu một cách có
hệ thống về kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình dưới
góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận.
3.1 Mục đích.
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phân tích,

7



đánh giá thực trạng kinh tế tư nhân ở huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, đề xuất
giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện đến năm 2020.
3.2 Nhiệm vụ.
Để đạt được những mục đích trên luận văn cần thực hiện những nhiệm
vụ cơ bản sau:
-

Làm rõ một số vấn đề lí luận, thực tiễn về kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị

-

trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Kim Sơn,

-

tỉnh Ninh Bình trong những năm qua (từ 2000 đến nay).
Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát triển kinh tế tư nhân
trên địa bàn huyện từ nay đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận.
4.1 Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là: Kinh tế tư nhân ở huyện Kim
Sơn, tỉnh Ninh Bình dưới góc độ kinh tế chính trị.
4.2 Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là tập trung nghiên cứu kinh tế tư
nhân, bao gồm DNTN, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn thuộc
sở hữu tư nhân và hộ kinh doanh cá thể (trừ doanh nghiệp nước ngoài) trên
địa bàn huyện Kim Sơn. Các số liệu, tư liệu chủ yếu từ năm 2010- 2014.

5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1 Cơ sở lí luận.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lí luận kinh tế chính trị của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các đường lối, quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam, và kết quả
tổng kết một số vấn đề lí luận thực tiễn qua hơn 25 năm đổi mới. Đồng thời
kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố có
nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu.
5.2 Phương pháp nghiên cứu.

8


Khóa luận vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mac- Lênin, các phương pháp của kinh tế chính trị học,
kết hợp với phương pháp lịch sử, gắn lí luận với thực tiễn, phân tích tổng hợp,
thống kê, điều tra, so sánh qua biểu đồ, sơ đồ, đồ thị minh họa nhằm phản ánh
và đánh giá đúng sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân trên địa bàn
huyện Kim Sơn.
6. Ý nghĩa của đề tài.
Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên
ngành Kinh tế chính trị.Khóa luận làm sáng tỏ một số vấn đề lí luận và thực
tiễn về phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Kim Sơn.Khóa luận khi
đã được thông qua có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho lãnh đạo huyện và
các sở, ban ngành của tỉnh để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế tư nhân
và làm tài liệu tham khảo nghiên cứu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
nhu cầu tìm hiểu nhất là nhu cầu đầu tư trên địa bàn.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của khóa luận gồm 3 chương, 8 tiết.

-

Chương 1: Một số vấn đề về lí luận và thực tiễn về kinh tế tư nhân.
Chương 2: Thực trạng kinh tế tư nhân ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: .Phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở huyện
Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.

9


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1. Những vấn đề lí luận chung về kinh tế tư nhân.
1.1.1Quan niệm và bản chất của kinh tế tư nhân.
1.1.1.1 Quan niệm về kinh tế tư nhân.
* Quan niệm của chủ nghĩa Mac- Lênin
Trong lịch sử thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế tư nhân.
Tuy vậy tiếp cận dưới góc độ lịch sử về kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mac- Lênin cho thấy: Trước và sau Cách
mạng Tháng Mười Nga (1917) trong bối cảnh kinh tế xã hội của nước Nga lúc
bấy giờ, Lenin cho rằng: Có thể chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội mà
không cần phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, không cần thiết phải sử
dụng quan hệ hàng- tiền… Vì vậy, sau Cách mạng Tháng Mười Nga thành
công, dựa vào đường lối kinh tế trong luận cương tháng Chín do Lênin vạch
ra. Song song với việc củng cố chính quyền của giai cấp vô sản, Nhà nước Xô
viết đã chuẩn bị tiền đề để xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, thực hiện
quốc hữu hóa ngay và nhanh chóng toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Đầu năm 1918, Lênin đã đề ra kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế

trong thời gian trước mắt: Kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng đến
cuối năm 1918, nội chiến nổ ra ở nước Nga. Từ bên ngoài 14 nước đế quốc do
Anh, Pháp cầm đầu đã can thiệp vũ trang hòng bóp chết nhà nước Xô viết còn
non trẻ. Cuộc nội chiến nổ ra và sự can thiệp của nước ngoài đã làm cho nước
Nga vốn đã khó khăn nay lại chồng chất khó khăn. Trước tình hình đó thì
Lênin lại cho thi hành chính sách cộng sản thời chiến. Nhưng sau khi nội
chiến kết thúc chính sách Kinh tế cộng sản đã không phù hợp cho nên Đại hội

10


X của Đảng cộng sản Bonsevich Nga (tháng 3-1921) đã chủ trương thay đổi
chính sách Kinh tế cộng sản thời chiến bằng chính sách Kinh tế mới.
Trong chính sách kinh tế mới, nội dung cơ bản là bãi bỏ chế độ trưng
thu lương thực. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Những xí
nghiệp nhỏ trước đây đã quốc hữu hóa, nay cho tư nhân thuê lại hay mua lại
để kinh doanh tự do (chủ yếu là xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng). Cho phép
tự lưu thông hàng hóa, cải cách tiền tệ và nâng cao vai trò quản lí kinh tế của
nhà nước.
Từ một nước tiểu nông đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải trải qua
một thời kì quá độ đặc biệt, đầy khó khăn và phức tạp. Lênin cho rằng: một
nước càng ít phát triển thì thời kì đó càng dài. Trong thời kì quá độ tất yếu còn
tồn tại những thành phần kinh tế khác nhau. Lênin coi sự hình thành, tồn tại và
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kì quá độ là cần
thiết và hợp quy luật. Lênin cho rằng: ở một mức độ nào đó CNTB là không
thể tránh khỏi và tương ứng với nó vẫn là sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân.
Các thành phần thuộc kết cấu kinh tế- xã hội thời đó bao gồm: nông dân kiểu
gia trưởng, sản xuất hàng hóa nhỏ, CNTB tư nhân, CNTB nhà nước, CNXH.
Tuy đã khẳng định 5 thành phần kinh tế của nước Nga như vậy, song
V.I.Lênin đã khái quát trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội tại các nước

khác nhau, số lượng và tỉ trọng các thành phần kinh tế tồn tại không nhất thiết
giống nhau, trong những thời kì lịch sử khác nhau. Song về cơ bản đối với các
nước có 3 thành phần kinh tế chủ yếu là: Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa,
thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ.
Như vậy Lênin không khẳng định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là
cơ cấu bất biến mà đó là cơ cấu động và mở. Vị trí, vai trò của từng thành
phần kinh tế sẽ thay đổi cùng với sự biến đổi của cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Từ đó Lênin cho rằng không

11


chỉ và không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng người cộng sản. Mà phải
biết sử dụng, kế thừa lực lượng sản xuất đã có của chủ nghĩa tư bản. Đây là
một trong những căn cứ lí luận quan trọng đối với các quốc gia đi lên chủ
nghĩa xã hội, khi xác định cơ cấu các thành phần kinh tế, nhằm khai thác sử
dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực và sức mạnh tổng hợp của chúng,
để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Lênin đã chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần và kinh tế tư nhân là một trong những thành phần kinh tế trong thời kì
quá độ lên CNXH.
*Tư tưởng của Hồ Chí Minh và quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam về
kinh tế tư nhân
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin về thành phần kinh tế
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào thực tiến Việt Nam, sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định rằng: Nền
kinh tế nước ta (vùng tự do) còn tồn tại nhiều loại hình kinh tế. Trong
“Thường thức chính trị” (1953), Người viết: Trong chế độ dân chủ mới, có 6
loại hình kinh tế khác nhau:
-


Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô.
Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội vì nó là của chung nhân dân).
Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp có tính chất nửa chủ nghĩa xã

-

hội, và sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác

-

xã tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
Kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản quốc gia là nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh
và do nhà nước lãnh đạo. Trong loại này tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư
bản, tư bản của nhà nước là chủ nghĩa xã hội.

12


Trong sáu loại hình kinh tế nêu trên thì kinh tế quốc doanh là kinh tế
lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế nước ta sẽ phát triển theo
hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thừa nhận sự tồn tại khách quan, lâu
dài của các thành phần kinh tế. Người cho rằng, sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội là của toàn dân, vì lợi ích của toàn dân. Do đó, tôn trọng sự tồn
tại và phát triển các thành phần kinh tế sẽ huy động và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn lực của giai cấp (sức lao động, đất đai, vốn, kinh nghiệm tổ chức
quản lí để đi lên chủ nghĩa xã hội).

Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin trong điều kiện cụ thể
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng luôn khẳng định: Nền kinh tế
trong thời kì quá độ ở nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần. Song, trong
từng giai đoạn lịch sử cụ thể của cách mạng, việc xác định số lượng các thành
phần kinh tế, vai trò, vị trí của chúng cũng như tổ chức thực hiện chính sách
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự khác nhau.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã đánh dấu một bước
chuyển biến quan trọng trong đổi mới tư duy lí luận và nhận thức thực tiễn
của Đảng ta. Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu, nhằm giải phóng và khai
thác mọi tiềm năng sẵn có để phát triển lực lượng sản xuất.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) đã khẳng định 5 thành phần
kinh tế đó là: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể,kinh tế tư bản
tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) khẳng định có 5 thành phần
kinh tế:Kinh tế nhà nước, Kinh tế hợp tác xã, Kinh tế cá thể, tiểu chủ, Kinh tế
tư bản tư nhân và Kinh tế tư bản nhà nước.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) đã xác định ở nước ta có 6
thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ;

13


kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Tại hội nghị Trung Ương 5 (khóa IX) tháng 12-2002 đã xác định: Kinh
tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động
dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân;
và khẳng định: Phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế tư nhân được phát triển
rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không

cấm, không hạn chế về quy mô.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) khẳng định nền kinh tế nước
ta tồn tại 5 thành phần kinh tế là: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư
nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân); kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011) của Đảng tiếp tục đề ra
những chủ trương, chính sách nhằm:
Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển kinh tế tư nhân trở thành
một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh
tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy định của pháp luật.
Tạo điều kiện thành lập các tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào
kinh tế nhà nước…hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trang trại, hộ sản
xuất kinh doanh, đặc biệt trong nông nghiệp và khu vực nông thôn…khuyến
khích phát triển các loại hình doanh nghiệp với nhiều hình thức sở hữu hỗn
hợp như: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên,
công ty hợp danh…[11, tr209].
Như vậy trải qua các kì đại hội, từ Đại hội VI đến nay là Đại hội XI,
quan niệm, nhận thức của Đảng ta về kinh tế tư nhân và vai trò của kinh tế tư
nhân ngày càng rõ, nó thực sự được khẳng định là một bộ phận hợp thành
quan trọng, không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

14


chủ nghĩa, nó cần được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển, để trực tiếp
đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
*Quan niệm của các nhà nghiên cứu về kinh tế tư nhân.
Nhìn chung quan niệm về kinh tế tư nhân còn những ý kiến không đồng
nhất. Có thể thấy 3 quan niệm về kinh tế tư nhân như sau:
Quan niệm 1: Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư

nhân về tư liệu sản xuất và tương ứng với cách quản lí, phân phối phù hợp với
hình thức sở hữu đó.
Quan niệm 2: Kinh tế tư nhân là một loại hình kinh tế phát triển dựa trên sở
hữu tư nhân về toàn bộ các yếu tố sản xuất được đưa vào sản xuất kinh doanh.
Quan niệm 3: Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế dựa trên sở hữu toàn
bộ hay đại bộ phận tư liệu sản xuất, thuộc sở hữu tư nhân và lao động làm
thuê, người chủ chiếm đoạt giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra.
Ở đây các quan điểm có cách tiếp cận không thống nhất, chưa rõ ràng
và cũng không nhất quán, dẫn đến quan niệm, định nghĩa về kinh tế tư nhân
còn có khác biệt.
Quan niệm của tác giả về kinh tế tư nhân: Kinh tế tư nhân là thành phần
kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và tương ứng với cách
quản lí, phân phối phù hợp với hình thức sở hữu đó.
1.1.1.2 Bản chất của kinh tế tư nhân.
Khi nghiên cứu cơ sở lí luận về thành phần kinh tế cho thấy tiêu chí cơ
bản để xác định một thành phần kinh tế hay một loại hình tổ chức sản xuất,
kinh doanh thuộc về thành phần kinh tế nào chính là dựa trên quan hệ sản
xuất mà trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết
định.Do vậy khi nghiên cứu bản chất của kinh tế tư nhân phải xem xét trên 3
mặt của quan hệ sản xuất đó là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ
chức, quản lí và quan hệ về phân phối.

15


Thứ nhất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
Kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đều dựa trên hình thức
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Song mỗi loại hình khác nhau lại có phạm
vi và mức độ khác nhau. Do đó khi xem xét quan hệ sở hữu cần xuất phát từ
những hình thức cụ thể để phân tích và tiếp cận.

Đối với kinh tế cá thể dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về TLSX của
chính người lao động. Đó là hình thức sở hữu của người lao động tự do, sản
xuất ra sản phẩm chủ yếu bằng sức lao động của chính mình và các thành viên
trong gia đình. Đây không phải là phương thức sản xuất đặc trưng nhất của
một phương thức sản xuất nhất định mà nó còn tồn tại trong nhiều phương
thức sản xuất khác nhau.
Đối với bộ phận kinh tế tiểu chủ về cơ bản cũng dựa trên sở hữu tư
nhân nhỏ về TLSX nhưng có sự thuê mướn sức lao động ngoài sức lao động
của người chủ.
Kinh tế tư bản tư nhân là loại hình kinh tế được tổ chức theo quy mô,
theo hình thức như: doanh nghiệp, công ty, tập đoàn… hoạt động dựa trên cơ
sở sở hữu tư nhân về TLSX và thuê mướn lao động. Quy luật chi phối hoạt
động của doanh nghiệp là các quy luật kinh tế thị trường.
Kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tiểu chủ giống nhau ở chỗ: cùng thuê
mướn lao động, lao động làm thuê tạo ra một lượng giá trị thặng dư nhất định
cho người chủ. Như vậy tiêu chí chung để xác định một ông chủ là tư bản ở
chỗ: họ có thuê mướn công nhân và bóc lột giá trị thặng dư do lao động làm
thuê tạo ra. Nhưng không phải bất cứ người nào thuê mướn lao động cũng trở
thành nhà tư bản. Sự phân biệt giữa nhà tư bản và người tiểu chủ được thể
hiện ở chỗ: khi người chủ còn trực tiếp tham gia lao động và chưa phải là chủ
một số tiền nhất định đủ để:
+ Mua các tư liệu sản xuất cần thiết.

16


+ Thuê sức lao động để hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận thu được
phải đủ đảm bảo cho gia đình và bản thân họ có mức sống cao trong xã hội;
có tích lũy để tái sản xuất mở rộng, thì họ vẫn là người tiểu chủ.
Thứ hai, về quan hệ tổ chức và quản lí quá trình sản xuất.

Đối với bộ phận kinh tế cá thể và tiểu chủ. Dựa trên quan hệ sở hữu tư
nhân nhỏ về TLSX, quan hệ quản lí của bộ phận kinh tế này có đặc điểm: Dựa
vào sự tự điều hành, tổ chức quản lí và phân công công việc trong nội bộ gia
đình dựa trên quyền lực của người chủ trong gia đình họ hay bản thân chủ thể
tham gia trực tiếp. Các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ phục tùng sự phân
công, điều khiển của người chủ đối với các vấn đề sản xuất, kinh doanh. Quan
hệ giữa người chủ với các thành viên trong gia đình không phải là quan hệ chủ
thợ hay quan hệ bóc lột mà là quan hệ mang tính chất gia trưởng. Tuy nhiên
trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhiều hộ cá thể, tiểu chủ do
nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất đã thuê nhân công. Như vậy đã xuất hiện
mầm mống bóc lột, nhưng chừng nào người chủ vẫn trực tiếp tham gia lao
động sản xuất, nguồn thu nhập chủ yếu vẫn dựa vào lao động của họ và gia
đình thì ranh giới giữa bóc lột và bị bóc lột vẫn chưa được xác định rõ ràng.
Đối với kinh tế tư bản tư nhân: quan hệ tổ chức và quản lí có điều khác
biệt, bởi một bên là ông chủ, một bên là lao động làm thuê. Khi sức lao động
của người công nhân là hàng hóa thì phái đáp ứng yêu cầu của người mua. Vì
vậy, công nhân phụ thuộc vào ông chủ, chịu sự quản lí, kiểm soát của ông
chủ. Sự phụ thuộc này không chỉ trong lĩnh vực sản xuất mà cả trong lĩnh vực
tiêu dùng cá nhân của người công nhân.
Thứ ba, về quan hệ phân phối
Quan hệ phân phối về thực chất là giải quyết mối quan hệ về lợi ích
kinh tế giữa các cá nhân tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất. Mục
đích của phân phối là phải đảm bảo được lợi ích của các chủ thể, nâng cao

17


được hiệu quả kinh doanh. Phân phối phải dựa trên quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất và do quan hệ sở hữu quyết định.
Đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ do dựa vào sức lao động của cá nhân là

chính, nên sản phẩm và kết quả lao động chủ yếu thuộc về chính họ hay cá
nhân đó. Ở đây, quan hệ phân phối là sự tự phân phối trong nội bộ gia đình
của các hộ kinh doanh nhằm đảm bảo nhu cầu tiêu dùng của các thành viên
trong gia đình.
Đối với các hộ tiểu chủ có thuê mướn công nhân thì phân phối kết quả
sản xuất còn căn cứ vào giá trị sức lao động của công nhân làm thuê.
Với quan hệ phân phối như vậy, nên các loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ
đã gắn kết lợi ích vật chất của các thành viên trong hộ với kết quả sản xuất,
kinh doanh, phát huy được khả năng sáng tạo, lòng nhiệt tình lao động của từng
thành viên, nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ đối với tài sản, nguồn vốn và
hiệu quả kinh doanh của cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể, tiểu chủ.
Đối với kinh tế tư bản tư nhân, phân phối cho người lao động theo thỏa
thuận trong hợp đồng lao động. Trong lí luận giá trị thặng dư của C.Mac đã
phân tích rất kĩ vấn đề trên thông qua việc trình bày về quá trình sản xuất giá
trị thặng dư và hai phương pháp nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư
tuyệt đối và tương đối. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhận thức và quan niệm về phạm trù “bóc
lột” trong kinh tế tư bản tư nhân cần đầy đủ hơn ngoài tính chất tích cực của
phạm trù “bóc lột” theo nghĩa người bị bóc lột cũng có lợi. Nghĩa là người
công nhân làm thuê trong bộ phận kinh tế tư bản tư nhân cũng đem lại thu
nhập và thông qua đó có thể trực tiếp hay gián tiếp học tập được các kinh
nghiệm tổ chức sản xuất, kinh doanh, kĩ năng, trình độ tay nghề, có thể nói,
đó là việc hi sinh lợi ích trước mắt nhỏ hơn, vì lợi ích lâu dài lớn hơn trong
tương lai.

18


1.1.2 Đặc điểm của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

1.1.2.1 Về quy mô
Kinh tế tư nhân của nước ta phần lớn có quy mô vừa và nhỏ, trình độ
công nghệ lạc hậu, yếu kém, khả năng đầu tư còn hạn chế cả về chiều rộng và
chiều sâu. Căn cứ tiêu chí xếp loại doanh nghiệp theo quyết định số
56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của chính phủ cho thấy: Năm 2009 trong
tổng số 205689 doanh nghiệp các loại, thì có đến 127180 doanh nghiệp siêu
nhỏ, chiếm 61,83%; 72530 doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 35,26%; 5979
doanh nghiệp lớn. chiếm 2,9%. Trong làng doanh nghiệp, lượng chủ thể tham
gia làm kinh tế rất đông, nhưng chưa có doanh nghiệp nào tầm cỡ, có khả
năng cạnh tranh với nước ngoài, trong những năm 2011, 2012 đã có những
doanh nghiệp tư nhân phát triển nhanh, nhưng chưa đủ mạnh. Chính vì vậy,
không thể dành được ưu thế trên thị trường khu vực mà còn có nguy cơ “thua
thiệt” ngay trên sân nhà, nhất là khi chúng ta thực hiện cam kết tham gia khu
vực thương mại tự do của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AFTA) là thành
viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO.
Riêng về nguồn vốn, phần lớn các doanh nghiệp tư nhân khó tiếp cận
được nguồn vốn lớn từ các tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng thương mại, chưa
hình thành mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa người sản xuất, cung ứng dịch vụ
và người tiêu dùng. Được sự quan tâm của nhà nước, những năm gần đây vốn
đăng kí kinh doanh thuộc khu vực tư nhân tăng nhanh; Năm 2010 chiếm
22,9% trong tổng số vốn đầu tư theo thành phần kinh tế, thì đến năm 2014 đã
là 36,1%. Tuy vậy, vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của khu vực này.

19


Bảng 1.1:Vốn đầu tư theo thành phần kinh tế (theo giá thực tế)
Đơn vị: Tỉ đồng
Năm


Tổng số

Kinh tế
nhà nước

2010
Chiếm tỉ trọng

151.183
100%

89.417
59,1

Kinh tế
ngoài nhà
nước
34.594
22,9

Kinh tế có
vốn đầu tư
nước ngoài
27.172
18,0

2012
Chiếm tỉ trọng

343.135

100%

161.635
47,1

130.398
38,0

51.102
14,9

2014
830.274
316.285
Chiếm tỉ trọng
100%
38,1
Nguồn: Website của Tổng cục thống kê

299.487
36,1

214.506
25,8

1.1.2.2 Về lĩnh vực hoạt động
Hiện nay kinh tế tư nhân có mặt ở nhiều ngành kinh tế như: nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp, xây dựng, nhưng nhiều nhất tập
trung ở các ngành thương mại- dịch vụ, công nghiệp chế biến, đánh bắt và
nuôi trồng thủy sản, xây dựng, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc, khách sạn

nhà hàng, kinh doanh bất động sản, dịch vụ tư vấn, tài chính, tín dụng.
Những năm đầu đổi mới, xu hướng chủ yếu của kinh tế tư nhân là đầu
tư vào những lĩnh vực, ngành nghề có hiệu quả ngay, có tính ngắn hạn, phòng
khi bất trắc xảy ra. Từ khi có luật doanh nghiệp mới ra đời, thể hiện rõ quan
điểm, chính sách và giải pháp của nhà nước với kinh tế tư nhân, làm cho các
nhà đầu tư yên tâm sản xuất kinh doanh lâu dài, giảm tư tưởng làm ăn cầm
chừng, hạn chế được tình trạng làm ăn chụp giật, tâm lí “đánh nhanh rút gọn”.
1.1.2.3 Về loại hình tổ chức kinh doanh
Trước đây,loại hình kinh tế phổ biến là hộ cá thể, tiểu chủ và doanh
nghiệp tư nhân. Sau khi có luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, các loại
hình doanh nghiệp đã phát triển đa dạng, với nhiều hình thức như: Công ty
TNHH nhiều thành viên, công ty cổ phần, công ty hợp danh và được đăng kí

20


theo luật, quá trình này được triển khai đã giúp cho việc quản lí nhà nước về
kinh tế tư nhân được thuận lợi, chính xác và hiệu quả hơn. Trong kinh tế tư
nhân, hộ kinh doanh cá thể có số lượng đông đảo, sử dụng nhiều lao động xã
hội, huy động nhiều vốn đầu tư, đóng góp tỉ trọng lớn vào GDP. Theo số liệu
của Tổng cục thống kê số liệu báo cáo thường niên năm 2014, của phòng Công
nghiệp Việt Nam cho thấy, số doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân
tăng lên nhanh chóng, chỉ trong hơn 10 năm, số doanh nghiệp tư nhân tăng lên
2,66 lần, công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân tăng lên 18 lần, công ty hợp
danh mặc dù số lượng không lớn, nhưng trong 10 năm cũng tăng lên 17 lần.
1.1.2.4 Về nhân lực.
Về đội ngũ cán bộ quản lí, nhìn chung trình độ còn thấp và không đồng
đều, kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh trong kinh tế thị trường hạn chế; kĩ
năng quản trị, hiểu biết pháp luật, nhất là luật pháp quốc tế còn thiếu. Trong
điều kiện họi nhập và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, những tồn tai, hạn chế

này thực sự là thách thức lớn, là khoảng trống và là một trong những nguyên
nhân đẩy nhiều doanh nghiệp tư nhân vào tình trạng nợ nần, phá sản, thậm chí
vi phạm pháp luật.
Về lực lượng lao động trực tiếp, phần lớn là tay nghề thấp hoặc trung
bình. Một mặt tâm lí người lao động cũng chưa hoàn toàn thông suốt về làm
việc tại các doanh nghiệp tư nhân; mặt khác, từ khi có thành phần kinh tế đầu
tư nước ngoài, các doanh nghiệp nước ngoài đã tiến hành tuyển dụng, sàng
lọc giữ lại lao động có trình độ, kĩ năng. Bên cạnh đó, một số cán bộ nghiên
cứu khoa học muốn làm việc tại các doanh nghiệp tư nhân, nhưng lại không
đủ điều kiện nghiên cứu hoặc vấn đề thu nhập không đáp ứng. Đây cũng là
những đặc điểm cần được xem xét một cách khách quan và toàn diện.
1.1.3 Các loại hình tổ chức kinh doanh của kinh tế tư nhân.
1.1.3.1 Kinh tế cá thể

21


Loại hình kinh tế cá thể là những hộ kinh doanh nhỏ, bao gồm những
cá nhân kinh doanh và nhóm cá nhân kinh doanh thuộc phạm vi điều chỉnh
của Nghị định 66/HĐBT ngày 02/3/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (Nay là
Chính phủ), các hộ chuyên sản xuất nông, lâm,ngư nghiệp có tính chất tự sản,
tự tiêu và các hộ buôn bán hàng hóa nhỏ. Như vậy, kinh tế cá thể được quy
định bởi hai tiêu thức là trình độ thấp và sản xuất nhỏ lẻ, phân tán. Dưới góc
độ kinh tế chính trị có thể hiểu: Kinh tế cá thể là loại hình kinh tế của một hộ
gia đình hay một cá nhân những người nông dân, thợ thủ công, những người
buôn bán kinh doanh, dịch vụ…hoạt dộng dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư
liệu sản xuất và sức lao động chủ yếu của chính bản thân họ.
1.1.3.2 Kinh tế tiểu chủ
Kinh tế tiểu chủ là những hộ kinh doanh cá thể, nhỏ, không đòi hỏi vốn
lớn, không đăng kí vốn pháp định, do vậy các hộ này không cần có mức vốn

cao hơn mức vốn pháp định như các doanh nghiệp tư nhân. Đây là loại hình
có tổ chức đơn giản, để bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh thì việc đăng
kí kinh doanh cũng rất đơn giản, chỉ cần UBND xã, UBND huyện cấp giấy
phép kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, các trang trại, các làng nghề
hoặc các hộ sản xuất kinh doanh cũng có thể thuê mướn thêm lao động, ngoài
số lao động trong gia đình. Loại hình này gần đây phát triển rất nhanh, một
phần vì nó phù hợp với nhiều ngành nghề, một phần vì nó không cần lượng
vốn lớn.
1.1.3.3 Kinh tế tư bản tư nhân
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong
những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lí để kinh tế tư bản tư nhân
phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước

22


ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động;
liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước.
Kinh tế tư nhân bao gồm các doanh nghiệp được hoạt dộng theo quy
định của nhà nước, mà ở đó không có vốn đầu tư của nhà nước và nước ngoài.
-

Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh. Theo quy định, người muốn thành lập doanh nghiệp tư nhân phải có
một số vốn nhất định, số vốn này không được thấp hơn số vốn quy định đối
với từng ngành nghề kinh doanh (Nghị định 221/HĐBT ngày 23/7/1991).
Trong quá trình hoạt động có thể thuê mướn lao động hoặc thuê người khác


-

quản lí, điều hành doanh nghiệp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn: Là loại hình doanh nghiệp trong đó, các thành
viên là tư nhân cùng góp vốn để thực hiện việc kinh doanh, cùng chia sẻ lợi
nhuận, cùng chịu lỗ theo tỉ lệ tương ứng với phần góp vốn và chịu trách

-

nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn góp của mình.
Công ty cổ phần: Theo điều 77 Luật doanh nghiệp quy định “Công ty cổ phần
là doanh nghiệp, trong đó: vốn điều lệ được chia làm nhiều phần bằng nhau
gọi là cổ phần; cổ đông có thể là tổ chức hay cá nhân, số lượng cổ đông tối
thiểu là ba, không hạn chế về số lượng tối đa; cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn
đã góp vào doanh nghiệp; cổ đông có quyền chuyển nhượng cổ phần của
mình cho người khác theo luật quy định”; Đây là loại hình có tư cách pháp

-

nhân và có quyền huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán.
Công ty hợp danh: Theo khoản 1, Điều 130 Luật doanh nghiệp thì công ty
hợp danh là doanh nghiệp trong đó:
Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng
nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh),
ngoài các thành viên hơp danh còn có các thành viên góp vốn; thành viên hợp
danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các

23



nghĩa vụ của công ty; thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản
nợ của công ty trong phạm vi vốn đã góp vào công ty [28, tr.160]
Đây là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân kể tư ngày được
cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, song không được phép phát hành
bất kì loại chứng khoán nào.
1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế tư nhân
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế tư nhân,
trong đó có những nhân tố chủ yếu sau đây:
1.1.4.1 Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra hết sức
mạnh mẽ. Việt Nam cũng đang ở trong thời kì đẩy mạnh hội nhập quốc tế với
các mối quan hệ đa phương hóa, đa dạng hóa. Nhờ đó kinh tế đối ngoại của
Việt Nam ngày càng phát triển, nó cũng làm gia tăng sức ép cạnh tranh về mọi
mặt cả đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ…Đồng thời làm tăng tính phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, giữa các thành phần kinh tế ở mỗi quốc gia
trong hệ thống phân công lao động xã hội. Đây là một xu thế có tác động
mạnh đến sựu phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay.
Hội nhập quốc tế đã tạo ra những cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế ở
nước ta và là nhân tố tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của kinh tế tư nhân
mà đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên cũng có những thách thức
như do xuất phát điểm thấp của nền kinh tế, cộng với những hạn chế trong
quan hệ ngoại thương, sự thiếu kinh nghiệm trong chiếm lĩnh thị trường và
cạnh tranh quốc tế khiến cho các chủ thể của kinh tế tư nhân nước ta chịu
nhiều thua thiệt trong quan hệ làm ăn với đối tác nước ngoài.
1.1.4.2 Về cơ chế, chính sách kinh tế
Phát triển kinh tế nói chung và kinh tế tư nhân nói riêng đòi hỏi cần
phải có cơ chế, chính sách phù hợp của Nhà nước, có tác dụng thúc đẩy mạnh

24



mẽ đối với quá trình phát triển thành phần kinh tế tư nhân. Nếu cơ chế chính
sách của Nhà nước không phù hợp thì không thể tạo ra động lực cho sự phát
triển của thành phần kinh tế này, nhất là các chính sách về tài chính, tín dụng,
đất đai…trên thực tế, phần lớn các loại hình doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh
doanh cá thể ở nước ta, bước đầu hình thành và phát triển trong cơ chế thị
trường, còn gặp nhiều khó khăn, cần nhiều sự hỗ trợ về cơ chế, chính sách của
Nhà nước một cách thỏa đáng, sẽ giúp họ từng bước ổn định sản xuất, kinh
doanh có hiệu quả.
1.1.4.3 Về môi trường pháp lí
Môi trường pháp lí là nhân tố rất quan trọng nhằm tạo ra hành lang
pháp lí cho quá trình phát triển kinh tế tư nhân. Khi môi trường pháp lí được
đảm bảo sẽ tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh
doanh cá thể có thể hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ những
điều pháp luật không cấm. Và đảm bảo sự bình đẳng trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong quá
trình tổ chức thực hiện pháp luật. Đảm bảo công bằng trong xử lí các trường
hợp vi phạm của doanh nghiệp và các loại hình doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh
doanh cá thể nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, là động lực thúc đẩy các
thành phần kinh tế phát triển.
1.1.4.4 Về sự quản lí của nhà nước đối với kinh tế tư nhân
Các loại hình doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể thường bị ảnh hưởng
bởi tư tưởng làm ăn theo lối tự do, tự phát, ý thức chấp hành pháp luật và các
quy định của nhà nước còn thấp. Do vậy, để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát
triển, cần phải có sự quản lí của nhà nước theo các chức năng quy định, không
can thiệp quá sâu vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
hộ kinh doanh cá thể. Nhà nước cần phải “nắm những cái gì cần nắm, buông
những cái gì cần buông”. Nội dung chủ yếu quản lí của Nhà nước đối với khu


25


×