Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân của Ban Nội chính Tỉnh ủy, tỉnh Thái Bình giai đoạn 2015 2020”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.33 KB, 53 trang )

1

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án
Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân được quy định trong
Hiến pháp, là công cụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân khi bị xâm phạm, là biểu hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Khiếu
nại, tố cáo là một kênh thông tin quan trọng phản ánh việc thực thi quyền lực
của bộ máy Nhà nước, phản ánh tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công
chức. Do đó, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo không những có vai trò
quan trọng trong quản lý Nhà nước, mà còn thể hiện mối quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công
tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm phát huy quyền dân chủ của
nhân dân, gắn với việc xây dựng bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch,
vững mạnh đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế.
Những năm gần đây cùng với quá trình công nghiệp hóa thì quá trình
đô thị hóa đang diễn ra rất nhanh chóng, từ đó nảy sinh những vấn đề bức xúc
trong đời sống nhân dân ở nông thôn đòi hỏi phải giải quyết. Trong quá trình
công nghiệp hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế, nông dân bị thu hồi đất để
chuyển giao cho doanh nghiệp phát triển công nghiệp, du lịch và đô thị nên
dẫn đến tình trạng thiếu việc làm của nông dân. Môi trường tự nhiên ở nông
thôn bị ô nhiễm, các giá trị văn hóa truyền thống, văn hóa cộng đồng có nguy
cơ bị mai một… tai, tệ nạn xã hội ở nông thôn có chiều hướng gia tăng. Tất cả
những vấn đề trên chính là nguyên nhân dẫn đến một thực trạng đó là tình
hình khiếu nại, tố cáo của người dân ngày càng nhiều, có xu hướng phức tạp
và bức xúc ở nông thôn.


2


Thái Bình là tỉnh duyên hải thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, nằm
cách Thủ đô Hà Nội 110 km về phía Đông Nam. Là tỉnh có cơ cấu nông, lâm
nghiệp, thủy sản vẫn chiếm 33,96% nhưng trong những năm qua, hòa chung
với sự vận động phát triển của đất nước, quá trình đô thị hóa trên địa bàn tỉnh
diễn ra khá mạnh mẽ, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện, nâng
lên cả về vật chất lẫn tinh thần, bộ mặt nông thôn dần dần được đổi mới.
Những tiến bộ khoa học, kỹ thuật đã giúp cho người nông dân đỡ vất vả trong
sản xuất nông nghiệp. Phong trào xây dựng nông thôn mới trong tỉnh được
các cấp ủy đảng, chính quyền rất quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nên bước đầu đã
đạt được những kết quả hết sức tích cực, tính đến hết năm 2014, toàn tỉnh đã
có 85 xã (31%) đạt chuẩn nông thôn mới. Nhiều khu, cụm công nghiệp được
thành lập; nhiều công ty, nhà máy, xí nghiệp ra đời đã giúp cho người dân
trong tỉnh có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm, nâng cao thu nhập…. Tuy nhiên,
vẫn còn một số cấp ủy, chính quyền cơ sở do năng lực còn hạn chế, nhận thức
chưa đầy đủ và sâu sắc về việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách của Nhà nước nên quá trình công nghiệp hoá, xây dựng
nông thôn mới, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn còn chậm, thiếu đồng bộ
và chưa thật sự quyết liệt, dẫn đến hiệu quả thấp, chưa bền vững. Tình hình an
ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội có lúc, có nơi còn diễn biến phức tạp; có
nơi để xảy ra khiếu kiện đông người ảnh hưởng đến tình hình an ninh nông
thôn, tình trạng gửi đơn thư vượt cấp xảy ra nhiều. Trong những hạn chế yếu
kém đó tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực như: quản lý đất đai, tài chính
ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản ở cơ sở… Đây là một trong những nguyên
nhân chủ yếu phát sinh việc gia tăng về khiếu nại, tố cáo. Bên cạnh đó, công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, hiệu quả chưa
cao. Trong những năm gần đây, các vụ việc khiếu nại liên quan đến đất đai
chiếm trên 70%. Nhiều trường hợp khiếu nại, tố cáo có liên quan đến việc Nhà


3


nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, như đòi
được bồi thường đất ở, nâng giá bồi thường, tăng tiền hỗ trợ, bố trí nơi tái định
cư, giải quyết việc làm khi bị thu hồi đất... Ngoài ra, có một số vụ khiếu nại
liên quan đến việc thực hiện chính sách xã hội, lĩnh vực tư pháp...
Trước thực tiễn đó, nhận thức được tầm quan trọng của công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân góp phần vào ổn định tình hình an ninh
chính trị và phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Thái Bình, em mạnh dạn chọn Đề
án nghiên cứu: “Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân của Ban Nội chính Tỉnh ủy, tỉnh Thái Bình giai đoạn 2015 - 2020”.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Từ việc nghiên cứu thực trạng, kết hợp với những lý luận đã học được,
đề án đưa ra những giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế để nâng cao hiệu quả
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trên địa bàn tỉnh Thái Bình nói
chung, của Ban Nội chính Tỉnh ủy Thái Bình nói riêng giai đoạn 2015 – 2020,
góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
an ninh - quốc phòng ở địa phương.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về tiếp dân, giải quyết đơn khiếu
nại, tố cáo của công dân; giải quyết khiếu nại, tố cáo phải kịp thời, đúng trình tự,
thủ tục quy định của pháp luật và thực hiện nghiêm quyết định, kết luận giải quyết
đã có hiệu lực thi hành, không để tồn đọng kéo dài, phát sinh khiếu kiện vượt cấp,
gây mất trật tự trị an;
- Chính quyền các cấp, thủ trưởng các cơ quan phải xác định việc tiếp
dân, xử lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền là trách nhiệm của


4


chính mình. Các khiếu nại, tố cáo phải được giải quyết dứt điểm ngay tại cơ
sở; khắc phục tình trạng khiếu nại, tố cáo, vượt cấp, kéo dài.
- Các cấp uỷ Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị tiếp tục quán triệt
sâu sắc và tổ chức thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 26-5-2014
của Bộ Chính trị “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp
dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo”, Luật Tiếp công dân; Luật Khiếu nại,
Luật Tố cáo; Chỉ thị số 14/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ “Về chấn chỉnh
và nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo”; Công
văn số 1560/UBND-TCD, ngày 11-7-2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc
rà soát, giải quyết các vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài.
- Thông qua kết quả nghiên cứu đưa ra các giải pháp cụ thể để nâng cao
hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; xử lý đơn thư của cán bộ,
công chức Ban Nội chính trong thời gian tới.
3. Giới hạn của đề án
3.1. Nội dung
3.1.1. Đối tượng áp dụng
Đề án tập trung nghiên cứu vai trò của Ban Nội chính Tỉnh ủy Thái
Bình trong việc tham mưu giúp Thường trực Tỉnh ủy chỉ đạo xử lý đơn khiếu
nại, tố cáo.
3.1.2. Vấn đề cần giải quyết
Trong đề án này, tập trung nghiên cứu các chủ trương, đường lối của
của Đảng, các quy định của pháp luật về tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo và
thực trạng công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn
tỉnh Thái Bình nói chung, của Ban Nội chính Tỉnh ủy Thái Bình nói riêng, từ
đó rút ra những ưu điểm, hạn chế yếu kém và nguyên nhân. Đồng thời nghiên


5

cứu, tìm tòi, tham khảo những ý kiến đóng góp để đưa ra những giải pháp,

kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao chất lượng công tác tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân trên địa bàn tỉnh Thái Bình nói chung, của Ban
Nội chính Tỉnh ủy Thái Bình nói riêng giai đoạn 2015 – 2020.
3.2. Không gian
Chủ yếu tập trung nghiên cứu và phân tích thực trạng, kết quả giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trên địa bàn tỉnh Thái Bình nói chung;
việc xử lý đơn thư của Ban Nội chính nói riêng.
3.3. Thời gian
Các số liệu thu thập, phân tích và nghiên cứu tập trung trong khoảng
thời gian từ năm 2008 đến 2015.
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở lý luận
Nghiên cứu đề án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tiếp công
dân, giải quyết khiếu tại, tố cáo của công dân.
Cụm từ “tiếp dân” hiện nay đang ngày càng trở nên quen thuộc và cần
thiết trong sinh hoạt đời sống xã hội, trong thực thi công vụ. Có thể nói, đây
là cầu nối để lãnh đạo chính quyền, cán bộ nhà nước gần và sát dân hơn.
Thông qua các buổi tiếp dân, cán bộ lãnh đạo sẽ có cơ hội nắm bắt được tâm
tư, nguyện vọng và những băn khoăn, trăn trở của người dân, từ đó có biện
pháp giải quyết hợp tình hợp lý, tạo được niềm tin trong nhân dân, góp phần
nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp. Đây cũng là thể hiện bản chất
của Nhà nước chúng ta, một Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đồng thời,


6

công tác tiếp công dân cũng nhằm hướng dẫn người dân thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật.

Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi
nhận tại Điều 30, Hiến pháp năm 2013. Đó là hiện tượng phát sinh trong đời
sống xã hội như là một phản ứng của con người trước một quyết định, một
hành vi nào đó mà người khiếu nại cho rằng quyết định hay hành vi đó là
không phù hợp với các quy tắc, chuẩn mực trong đời sống cộng đồng, xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhà nước là công cụ của giai
cấp thống trị, thực hiện quyền quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp
luật. Trong quá trình tiến hành các hoạt động quản lý, các cơ quan nhà nước
ban hành các quyết định quản lý theo thẩm quyền để thực hiện quyền lực nhà
nước, buộc mọi người phải tuân theo. Các văn bản, quyết định có tác động
đến một người hay một nhóm người nhất định. Tuy vậy, văn bản hay quyết
định đó có sai sót hoặc do cán bộ, công chức thi hành công vụ có hành vi vi
phạm, nên phát sinh khiếu nại.
Đối tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan,
tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của công dân cơ quan, tổ chức. Như vậy,
những việc làm trái pháp luật không phải chỉ cán bộ, công chức nhà nước mà
còn cả cơ quan, tổ chức, những hành vi trái pháp luật thường bị công dân phát
hiện và báo cáo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn, phòng ngừa
hành vi vi phạm pháp luật và xử lý người vi phạm. Mục đích của người tố cáo
nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tập thể và
công dân.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị


7

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Giữ chặt mối liên hệ với dân
chúng và lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của

Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy cách xa dân chúng, không liên hệ
chặt chẽ với dân chúng, cũng như lơ lửng đứng giữa trời, nhất định sẽ thất
bại”.
Ngày 06-3-2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số
09-CT/TW về một số vấn đề cấp bách trong việc tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, trong đó quy định “Các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các
cấp phải đặc biệt quan tâm đến việc tiếp dân, giải quyết đúng đắn, kịp thời
khiếu nại, tố cáo của công dân, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ
cương, ngăn ngừa, khắc phục tình trạng công dân khiếu tố vượt cấp, không
đúng nơi quy định, gây mất trật tự nơi công sở hoặc nhà riêng các đồng chí
lãnh đạo, ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội”.
Ngày 10-01-2008, Bộ Chính trị ban hành Thông báo Kết luận số 130TB/TW, "về tình hình, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo từ năm 2006 đến
nay và giải pháp trong thời gian tới".
Ngày 26-5-2014, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 35/CT-TW “về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân”.
Trong quá trình lãnh đạo Đảng ta luôn coi trọng công tác này và xác
định làm tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo là một hình
thức biểu hiện trực tiếp của mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Các cấp, các ngành phải làm tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo thì nhân dân mới thấy rõ Đảng và Nhà nước luôn giữ chặt mối liên hệ
với nhân dân, luôn lắng nghe ý kiến của nhân dân, quan tâm lo lắng đến
quyền lợi của họ, do đó mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng càng được củng


8

cố hơn. Làm tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo là thể hiện bản
chất dân chủ, là biện pháp củng cố mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và
Nhà nước; là một biện pháp quan trọng và thiết thực để củng cố mối quan hệ

giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, là một kênh thông tin quan trọng để
kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ, công chức và cơ quan của Đảng, Nhà
nước.
Giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo của công dân đóng vai trò quan trọng
trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Thông qua công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền không những phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi
tham nhũng, lãng phí mà còn phát hiện và khắc phục được những sơ hở trong
cơ chế quản lý, chính sách đã làm cho tệ tham nhũng có cơ hội phát sinh, phát
triển. Làm tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là một biện pháp thiết
thực, có hiệu quả nhằm phát huy sức mạnh của nhân dân - một nhân tố quan
trọng đảm bảo cho thắng lợi của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí hiện nay.
Giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo của công dân sẽ thể hiện tính dân chủ cơ
sở mà Đảng và Nhà nước đã đề ra; thể hiện sự gắn bó, tin tưởng giữa nhân dân
với Đảng và Nhà nước; góp phần khắc phục sự tiêu cực trong hoạt động quản
lý nhà nước; tạo niềm tin cho người dân đối với đảng, chính quyền, góp phần
giữ vững chế độ, ổn định chính trị xã hội, quốc phòng - an ninh quốc gia.
Trên cơ sở các thông tin thu được qua việc tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà quản lý có
được các thông tin về kết quả triển khai thực hiện các mục tiêu của chính
sách, có căn cứ để xác định xem việc tồn tại chính sách có hợp lý hay không,


9

kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách và tìm kiếm các
biện pháp quản lý thích hợp và hiệu lực để thực thi chính sách đó.
1.2.2. Cơ sở pháp lý
Nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác tiếp

công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, năm 1998, Quốc hội
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Khiếu nại, tố
cáo năm 1998 và Luật sửa đổi bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004,
2005. Ngày 11-11-2011, Quốc hội đã thông qua Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo
năm 2011 và ngày 25-11-2013, Quốc hội đã thông qua Luật Tiếp công dân.
Trên cơ sở đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2012/NĐ-CP hướng
dẫn thi hành Luật Khiếu nại; Nghị định số 76/2012/NĐ-CP hướng dẫn thi
hành Luật Tố cáo. Như vậy căn cứ pháp lý để giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện
nay đã tương đối hoàn thiện.
1.2.3. Một số khái niệm cơ bản
* Tiếp công dân
Dưới góc độ pháp lý, tiếp công dân được hiểu là: “Việc cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân quy định tại Điều 4 của Luật này đón tiếp để lắng nghe,
tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích,
hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh theo đúng quy định của pháp luật.
Tiếp công dân bao gồm tiếp công dân thường xuyên, tiếp công dân định
kỳ, tiếp công dân đột xuất”. (Khoản 1, Điều 2, Luật Tiếp công dân).
Trách nhiệm Tiếp công dân: “Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tổ
chức tiếp công dân bao gồm: Chính phủ; Bộ, cơ quan ngang bộ; tổng cục và
tổ chức tương đương; Cục; Ủy ban nhân dân các cấp; Cơ quan chuyên môn


10

thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh; Các cơ quan của Quốc hội; Hội đồng nhân dân các cấp; Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toàn nhà nước.
Ngoài ra, Luật Tiếp công dân còn quy định trách nhiệm tiếp công dân

của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; các tổ chức chính
trị, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan
thuộc Chính phủ, các đơn vị sự nghiệp công lập tổ chức tiếp công dân theo
quy định”. (Điều 4, Luật Tiếp công dân).
* Khiếu nại
Dưới góc độ pháp lý, khiếu nại được hiểu là: “Việc công dân, cơ quan,
tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật Khiếu nại quy định đề
nghị với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành
chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có
căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền
và lợi ích hợp pháp của mình”. (Khoản 1, Điều 2, Luật Khiếu nại).
* Người bị khiếu nại
“Người bị khiếu nại là cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước có quyết định hành chính,
hành vi hành chính bị khiếu nại; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có
quyết định kỷ luật cán bộ, công chức bị khiếu nại”. (Khoản 5, Điều 2, Luật
Khiếu nại).
* Người giải quyết khiếu nại
“Người giải quyết khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại”. (Khoản 6, Điều 2, Luật Khiếu nại).


11

* Giải quyết khiếu nại
“Giải quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định
giải quyết khiếu nại”. (Khoản 11, Điều 2, Luật Khiếu nại).
* Tố cáo
Dưới góc độ pháp lý, tố cáo được hiểu: “Là việc công dân theo thủ tục
do Luật Tố cáo quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền

biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”. (Khoản 1, Điều 2, Luật Tố
cáo).
* Người bị tố cáo
“Người bị tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi bị tố cáo”.
(Khoản 5, Điều 2, Luật Tố cáo).
* Người giải quyết tố cáo
“Người giải quyết tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
giải quyết tố cáo”. (Khoản 6, Điều 2, Luật Tố cáo).
* Giải quyết tố cáo
“Giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố
cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo”. (Khoản 7, Điều 2, Luật
Tố cáo).
1.2.4. Thẩm quyền, thời hạn, trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại, tố
cáo
1.2.4.1. Về khiếu nại
- Thẩm quyền giải quyết khiếu nại


12

“Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã),
thủ trưởng cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính,
hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực
tiếp”.
“Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(gọi chung là cấp huyện) có thẩm quyền:
Giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi

hành chính của mình.
Giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Ủy ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc
khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết”. (Điều 18, Luật
Khiếu nại).
- Thời hạn giải quyết khiếu nại
“Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày
thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn
nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý.
Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại
không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn
giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý”.
(Điều 28, Luật Khiếu nại).
- Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại lần đầu
Căn cứ Điều 27; 28; 29; 30; 31; 32; 33; 34 và Điều 35 của Luật Khiếu
nại thì trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại như sau:


13

+ Thụ lý giải quyết khiếu nại;
+ Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu;
+ Xác minh nội dung khiếu nại;
+ Tổ chức đối thoại;
+ Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu;
+ Gửi quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu;
+ Khiếu nại lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành chính;
+ Hồ sơ giải quyết khiếu nại;
+ Áp dụng biện pháp khẩn cấp.

Người khiếu nại lần đầu phải khiếu nại với người ra quyết định hành
chính hoặc cơ quan có cán bộ, công chức có hành vi hành chính mà người
khiếu nại có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Theo quy định, việc khiếu nại của công dân, cơ quan, tổ chức phải
được thực hiện bằng đơn, ghi rõ ngày, tháng, năm khiếu nại; tên, địa chỉ của
người khiếu nại; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại; nội
dung, lý do khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và phải ký tên. Đơn khiếu
nại phải do người khiếu nại ký tên. Nếu người khiếu nại đến khiếu nại trực
tiếp thì cán bộ có trách nhiệm hướng dẫn người khiếu nại viết thành đơn.
Trong trường hợp người khiếu nại thông qua người đại diện thì người đại diện
phải có giấy tờ chứng minh tính hợp pháp của việc đại diện và việc khiếu nại
phải thực hiện đúng theo thủ tục quy định.
Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành
chính hoặc biết được có hành vi hành chính. Trong trường hợp vì ốm đau,


14

thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khác
mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời
hiệu, thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại, nếu xét thấy việc thi hành quyết
định hành chính bị khiếu nại sẽ gây hậu quả khó khắc phục, thì người giải
quyết khiếu nại lần đầu phải ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết
định đó. Thời hạn tạm đình chỉ không vượt quá thời gian còn lại của thời hạn
giải quyết lần đầu.
Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày kể từ ngày thụ
lý giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài
hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết. Ở vùng sâu,

vùng xa, đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá
45 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn
giải quyết khiếu nại có thể kéo dài, nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ
lý để giải quyết.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần đầu, người giải quyết khiếu nại
phải gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại để làm
rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu
nại. Trong trường hợp người khiếu nại nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật thì
luật sư có quyền tham gia trong quá trình giải quyết khiếu nại. Người giải
quyết khiếu nại lần đầu phải ra quyết định giải quyết khiếu nại bằng văn bản
và phải gửi quyết định này cho người khiếu nại, người có quyền, lợi ích có
liên quan; khi cần thiết thì công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại
đối với người khiếu nại và người bị khiếu nại.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết mà khiếu nại
không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu


15

nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý, thì có ý quyền khiếu nại đến
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc khởi kiện vụ án hành
chính tại Tòa án theo quy định của pháp luật; đối với vùng sâu vùng xa thời
hạn có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày.
Trong trường hợp tiếp tục khiếu nại, thì người khiếu nại phải gửi đơn
kèm theo bản sao quyết định giải quyết khiếu nại trước đó và các tài liệu có
liên quan cho người giải quyết khiếu nại tiếp theo. Trong thời hạn 10 ngày kể
từ ngày nhận được khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình và không
thuộc một trong các trường hợp không được thụ lý để giải quyết của Luật
khiếu nại, tố cáo, người giải quyết khiếu nại tiếp theo phải thụ lý để giải quyết
và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, người giải quyết khiếu nại

lần đầu biết; trường hợp không thụ lý để giải quyết thì thông báo bằng văn
bản cho người khiếu nại và nêu rõ lý do.
Thời hạn giải quyết khiếu nại mỗi lần tiếp theo không quá 45 ngày, kể
từ ngày thụ lý để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết
có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày kể từ ngày thụ lý để giải quyết.
Ở vùng sâu, vùng xa, vùng đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại
mỗi lần tiếp theo không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết; đối với
vụ việc phức tạp thì thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 70 ngày từ ngày
thụ lý.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn giải quyết ở lần khiếu
nại kế tiếp mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được
quyết định giải quyết khiếu nại mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền
tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, trừ
trường hợp quyết định đó là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng. Đối


16

với vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn thì thời hạn nói trên có thể kéo dài hơn,
nhưng không quá 45 ngày.
- Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại lần hai
Căn cứ các Điều 36; 37; 38; 39; 40; 41; 42; 43 của Luật Khiếu nại thì
trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại lần hai như sau:
+ Thụ lý giải quyết khiếu nại lần hai;
+ Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai;
+ Xác minh nội dung khiếu nại lần hai;
+ Tổ chức đối thoại lần hai;
+ Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
+ Gửi công bố quyết định giải quyết khiếu nại;
+ Khởi kiện vụ án hành chính;

+ Hồ sơ giải quyết khiếu nại lần hai.
1.2.4.2. Về tố cáo
- Thẩm quyền giải quyết tố cáo
“Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà
nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ
quan đó có trách nhiệm giải quyết. Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành
chính trong cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với
hành vi vi phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý được giao, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.
Tố cáo có nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của
nhiều cơ quan thì các cơ quan có trách nhiệm phối hợp để xác định thẩm
quyền giải quyết hoặc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước cấp trên quyết định
giao cho một cơ quan chủ trì giải quyết; tố cáo có nội dung thuộc thẩm quyền
giải quyết của nhiều cơ quan thì cơ quan thụ lý đầu tiên có thẩm quyền giải
quyết.


17

Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến
hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự”. (Điều
31, Luật Tố cáo).
- Thời hạn giải quyết tố cáo
“Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố
cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết là 90 ngày, kể từ ngày thụ
lý giải quyết tố cáo.
Trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể gia
hạn giải quyết một lần nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc phức tạp thì
không quá 60 ngày”. (Điều 21, Luật Tố cáo).
- Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo

Căn cứ Điều 18, Luật Tố cáo thì việc giải quyết tố cáo được thực hiện
theo trình tự sau đây:
- Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo;
- Xác minh nội dung tố cáo;
- Kết luận nội dung tố cáo;
- Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo;
- Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm
bị tố cáo.
Người tố cáo phải gửi đơn đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền. Trong đơn tố cáo phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ người tố cáo; nội dung tố
cáo. Trong trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người có trách
nhiệm tiếp nhận phải ghi lại nội dung tố cáo, họ, tên, địa chỉ của người tố cáo,
có chữ ký của người tố cáo.


18

Chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày nhận được tố cáo, cơ quan, tổ chức,
cá nhân tiếp nhận tố cáo phải thụ lý để giải quyết; trong trường hợp tố cáo
không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì phải chuyển cho cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo khi họ yêu cầu.
Thời hạn giải quyết tố cáo không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải
quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn
nhưng không quá 90 ngày kể từ ngày thụ lý để giải quyết. Trong trường hợp
cần thiết, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể gia hạn thời hạn giải
quyết một lần nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc phức tạp thì không
quá 60 ngày.
Người giải quyết tố cáo phải ra quyết định về việc tiến hành xác minh
và kết luận về nội dung tố cáo. Xác định trách nhiệm của mỗi người có hành
vi vi phạm, áp dụng biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan,

tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người vi phạm. Trong trường hợp có
căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn
quy định mà tố cáo không được giải quyết thì người tố cáo có quyền tố cáo với
cơ quan với cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của người giải quyết tố cáo.
Trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố cáo, nếu thấy có dấu hiệu phạm
tội thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận, giải quyết tố cáo phải chuyển tin báo,
chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật
tố tụng hình sự. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tin bằng văn
bản về việc xử lý cho cơ quan, tổ chức đó biết; trường hợp tố cáo có nội dung
phức tạp thì thời hạn trả lời có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 60 ngày.
1.2.5. Phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo
Khiếu nại, tố cáo đều là các quyền chính trị cơ bản của công dân, tuy
nhiên, giữa khiếu nại và tố cáo có những đặc điểm khác nhau cả về nội dung


19

và cách thức giải quyết. Quá trình thực thi pháp luật khiếu nại, tố cáo đã chỉ ra
không ít trường hợp còn chưa phân biệt rõ ràng, chính xác thế nào là khiếu
nại, thế nào là tố cáo nhất là khi đơn thư của công dân có nội dung chứa đựng
cả việc khiếu nại và việc tố cáo thì vấn đề thụ lý và giải quyết còn nhiều lúng
túng. Đây là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh những nhầm lẫn,
thiếu sót, thậm chí là sai lầm trong việc xử lý đơn thư, tiến hành xác minh,
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân khiến người dân phải khiếu nại
nhiều lần hoặc tố cáo sai sự việc. Do vậy, việc phân biệt khiếu nại và tố cáo
có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố
cáo của mình đúng pháp luật và giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại, tố cáo nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đỡ mất thời
gian, công sức, tránh được nhầm lẫn, sai sót trong khi giải quyết khiếu nại, tố
cáo.

- Thứ nhất, về chủ thể: Theo quy định của Luật Khiếu nại năm 2011, thì
chủ thể của hành vi khiếu nại là cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có
thầm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước có quyết định hành chính,
hành vi hành chính bị khiếu nại; cơ quan tổ chức, cá nhân có quyết định kỷ
luật cán bộ, công chức bị khiếu nại. Hành vi khiếu nại phải là của người bị tác
động trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ
luật buộc thôi việc. Trong khi đó, chủ thể của hành vi tố cáo chỉ có thể là cá
nhân, tức là chỉ bao gồm công dân và người nước ngoài. Cá nhân thực hiện
hành vi tố cáo có thể chịu tác động trực tiếp hoặc không chịu tác động của
hành vi vi phạm pháp luật. Bởi vậy, khi tham gia vào quá trình giải quyết
khiếu nại, tố cáo thì pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của chủ thể khiếu
nại, tố cáo cũng khác nhau. Nếu chủ thể khiếu nại thực hiện không đúng pháp
luật quyền khiếu nại của mình thì họ sẽ mất cơ hội được yêu cầu Nhà nước
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Còn nếu chủ thể tố cáo thực hiện


20

quyền của mình không đúng quy định của pháp luật như tố cáo nặc danh, mạo
danh thì tố cáo của họ không được giải quyết.
- Thứ hai, về đối tượng: Trong khi đối tượng của khiếu nại là quyết
định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công
chức phải có tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người
khiếu nại. Thì đối tượng của tố cáo rộng hơn rất nhiều, công dân có quyền tố
cáo những hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Có nghĩa là hành vi vi phạm
pháp luật là đối tượng của tố cáo có thể tác động trực tiếp đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người tố cáo hoặc có thể không. Chính sự khác nhau này đã
dẫn đến sự khác nhau về thẩm quyền, thủ tục giải quyết, về quyền và nghĩa vụ

của chủ thể thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo… Cụ thể:
Về thẩm quyền, khiếu nại được giải quyết lần đầu tại chính cơ quan có
thẩm quyền ra quyết định hoặc thực hiện hành vi trái pháp luật là đối tượng của
hành vi khiếu nại. Trong trường hợp đương sự không đồng ý với quyết định
giải quyết khiếu nại lần đầu sẽ tiếp tục thực hiện quyền khiếu nại của mình lên
cấp trên trực tiếp của cấp đã có thẩm quyền giải quyết hoặc khởi kiện tại Tòa
án. Còn đối với giải quyết tố cáo thì tại Điều 12, Luật Tố cáo nêu rõ: “Tố cáo
hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công
chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý
cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật
trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực
tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết”. Như vậy, khác với thẩm quyền giải
quyết khiếu nại, người đứng đầu cơ quan, tổ chức nào đó là chủ thể giải quyết
tố cáo không có thẩm quyền giải quyết đối với đơn tố cáo hành vi vi phạm


21

pháp luật của chính bản thân mình. Họ chỉ có quyền giải quyết những đơn tố
cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người thuộc cơ quan,
tổ chức mà mình quản lý trực tiếp;
Về trình tự giải quyết, có thể chỉ ra một điểm khác nhau giữa khiếu nại,
tố cáo là vấn đề thời hiệu. Đối với khiếu nại: “Thời hiệu được tính là 90 ngày
kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành
chính. Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai địch họa, đi công tác, học tập ở
nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không
thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại
đó không được tính vào thời hiệu khiếu nại”. (Điều 9, Luật Khiếu nại). Đối
với tố cáo, pháp luật hiện hành không quy định về thời hiệu tố cáo.

- Thứ ba, về mục đích: Nếu như mục đích của khiếu nại là nhằm bảo vệ
và khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại bị xâm hại bởi
quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hoặc người có thẩm
quyền. Thì mục đích của tố cáo không chỉ dừng ở việc bảo vệ và khôi phục
quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo mà cao hơn thế nữa là nhằm bảo
vệ lợi ích của Nhà nước.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Ban Nội chính Tỉnh ủy được thành lập ngày 22-4-2013, theo Quyết
định số 1364-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình với chức năng
nhiệm vụ là tham mưu giúp Tỉnh ủy mà trực tiếp, thường xuyên là Ban
Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy về công tác nội chính và phòng, chống tham
nhũng. Theo quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ban Nội chính Tỉnh
ủy Thái Bình có 02 phòng nghiệp vụ (Phòng Theo dõi công tác các cơ quan
Nội chính, Phòng Theo dõi công tác phòng, chống tham nhũng) và Văn phòng
Ban, hiện nay có tổng số 21 biên chế. Do chức năng nhiệm vụ tương đối nhạy


22

cảm, phức tạp trong giai đoạn hiện nay nên kể từ khi thành lập đến nay, Ban
đã nhận được 137 đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, tập trung vào
các lĩnh vực như: tư pháp, đất đai, chế độ chính sách, tham nhũng...Tuy nhiên,
theo chức năng nhiệm vụ thì Ban Nội chính không có chức năng giải quyết
đơn thư mà chỉ có chức năng chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc cơ quan có thẩm
quyền giải quyết đơn thư, nên những đơn thư Ban Nội chính nhận được đều
phải chuyển cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Là một Ban mới được thành lập, cán bộ từ nhiều cơ quan, đơn vị
chuyển về nên kinh nghiệm phân loại xử lý đơn thư khi chuyển đi của một số
cán bộ chưa có nhiều, phải tự học hỏi, nghiên cứu để nâng cao trình độ. Tuy
nhiên kết quả công tác thời gian qua cho thấy những đơn thư Ban Nội chính

chuyển đi đều đảm bảo đúng thời hạn, đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải
quyết và những cơ quan này đều có báo cáo kết quả giải quyết và những khó
khăn, vướng mắc gửi đến Ban để cho ý kiến và báo cáo Thường trực Tỉnh ủy.
Trong thời gian tới nhiệm vụ của Ban tương đối nặng nề đó là ngoài
việc xử lý đơn thư theo chức năng nhiệm vụ thì đối với những đơn thư tố cáo
có liên quan đến lĩnh vực nội chính và phòng, chống tham nhũng Ban sẽ tiến
hành xác minh ban đầu sau đó mới chuyển cho cơ quan có thẩm quyền giải
quyết. Do vậy việc tự nghiên cứu, học hỏi lý luận, kinh nghiệm thực tiễn về
lĩnh vực khiếu nại, tố cáo là vần đề rất cấp thiết trong giai đoạn hiện nay và
trong thời gian tới.
2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
2.1.1. Khái quát về tình hình phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Thái
Bình trong 5 năm 2010 – 2014
2.1.1.1. Vị trí địa lý


23

Thái Bình là tỉnh duyên hải thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, có 52
km bờ biển; diện tích tự nhiên 1.570,5 km2; có 7 huyện và 1 thành phố với
286 xã, phường, thị trấn. Nằm cách Thủ đô Hà Nội 110 km về phía Đông
Nam; tiếp giáp với 5 tỉnh, thành: Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Nam
Định, Hà Nam có 2 tuyến quốc lộ đi qua là Quốc lộ 10 và Quốc lộ 39. Có vị
trí địa lý khá thuận lợi nằm cách không xa các trung tâm đô thị lớn, đặc biệt là
thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng, cùng với hệ thống đường giao thông tốt,
thuận tiện, đó là lợi thế trong quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, giao lưu
kinh tế và văn hoá. Dân số của tỉnh Thái Bình tại thời điểm năm 2013 là:
1.788.400 người; với 90,1% nhân khẩu ở khu vực nông thôn và 9,9% nhân
khẩu thành thị. Mật độ dân số trung bình là 1.139 người/km2.

2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội của tỉnh qua 5 năm (2010
- 2014) như sau:
Năm 2010: Tổng sản phẩm toàn tỉnh (GRDP) đạt 29.069.5 tỷ đồng; thu
nhập bình quân đầu người đạt 16,3 triệu đồng/năm.
Năm 2011: Tổng sản phẩm toàn tỉnh (GRDP) GDP đạt 31.099.5 tỷ
đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt 20.79 triệu đồng/năm.
Năm 2012: Tổng sản phẩm toàn tỉnh (GRDP) đạt 33.156.4 tỷ đồng, thu
nhập bình quân đầu người đạt 22,25 triệu đồng/năm.
Năm 2013: Tổng sản phẩm toàn tỉnh (GRDP) đạt 35.558.2 tỷ đồng, thu
nhập bình quân đầu người đạt 23.99 triệu đồng/năm.
Năm 2014: Tổng sản phẩm toàn tỉnh (GRDP) đạt 38.341 tỷ đồng (tăng
7,83% so với năm 2013), thu nhập bình quân đầu người đạt 25.7 triệu
đồng/năm.
Là một trong những tỉnh đi đầu về phong trào xây dựng nông thôn mới


24

trên cả nước, đến hết năm 2014, toàn tỉnh có 85 xã (31,8%) đạt chuẩn nông
thôn mới và dự kiến đến cuối năm 2015 có 135 xã (51,1%) đạt chuẩn nông
thôn mới; tỷ lệ hộ nghèo hiện nay còn 3,42%.
- Tình hình phát triển nông nghiệp
Tỉnh Thái Bình luôn xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, vì vậy,
trong những năm qua các cấp, các ngành luôn tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
chuyển dịch mạnh cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi, cơ cấu trà vụ, đẩy mạnh
các biện pháp thâm canh, tăng vụ, củng cố, tu bổ hệ thống đê kè, kênh,
mương nội đồng, phục vụ sản xuất. Chỉ đạo nghiêm túc, có hiệu quả việc đầu
tư, hỗ trợ, đưa các tiến bộ, khoa học, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng
năng suất, chất lượng nông sản, phát triển các loại hình kinh tế trang trại với

quy mô lớn.
- Tình hình phát triển khu công nghiệp
Tính đến hết năm 2014 toàn tỉnh có 08 Khu công nghiệp tập trung, đó
là:
+ Khu công nghiệp Phúc Khánh, diện tích 300 ha.
+ Khu công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh, diện tích 102 ha.
+ Khu công nghiệp Tiền Phong, diện tích 56 ha.
+ Khu công nghiệp Tiền Hải diện tích 250 ha.
+ Khu công nghiệp Cầu Nghìn diện tích 214 ha.
+ Khu công nghiệp Gia Lễ diện tích 85 ha.
+ Khu công nghiệp Diêm Điền diện tích 100 ha.
+ Khu công nghiệp Sông Trà diện tích 250 ha.
- Về phát triển công nghiệp, thương mại, du lịch
Cùng với phát triển nông nghiệp, công nghiệp, tỉnh Thái Bình tiếp tục
duy trì và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống như:
Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm, Làng Nguyễn, Làng Chiếu Tân Lễ....


25

Tiềm năng du lịch ở Thái Bình tương đối lớn, với nhiều di tích lịch sử
được xếp hạng, trong đó có một số di tích lịch sử độc đáo được Nhà nước xếp
hạng Quốc gia đặc biệt như: Đền thờ các vua Trần, Chùa Keo..., du lịch biển
có Cồn Vành, Cồn Đen...
Hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển đa dạng, phong phú. Sự hình
thành các trung tâm thương mại và mạng lưới chợ nông thôn được quan tâm
đầu tư nâng cấp, cải tạo, hoạt động ngày càng có hiệu quả, đáp ứng tốt nhu
cầu sinh hoạt của nhân dân.
Ảnh hưởng lớn nhất của quá trình phát triển kinh tế - xã hội là quá trình
đô thị hoá và xây dựng nông thôn mới. Nhu cầu vốn để xây dựng cơ sở hạ

tầng như đường, trường, trạm, cứng hóa kênh tưới, tiêu, nhà văn hóa thôn,
khu phố, nghĩa trang nhân dân, bãi tập kết rác thải... của các địa phương đã
dẫn đến việc giao đất trái thẩm quyền; cùng với sự biến động của giá đất tăng
cao trong các năm qua đã nảy sinh tranh chấp đất đai ở nội bộ dân cư. Người
nông dân mất đi một phần diện tích đất canh tác nông nghiệp để dành đất cho
các khu đô thị, khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung. Hệ quả của nó là
một số lượng lớn lao động nông thôn thiếu việc làm trong khi số người trong
độ tuổi lao động thì liên tục tăng. Đó là nguy cơ sẽ nảy sinh một lực lượng thất
nghiệp, ăn bám khi vẫn đang trong độ tuổi lao động, dẫn tới nhiều vấn đề xã
hội khác nảy sinh mà điển hình đó là sự ảnh hưởng không tốt đến tình hình an
ninh trật tự (gia tăng tai, tệ nạn xã hội...) phát sinh nhiều mâu thuẫn, tranh chấp
trong nội bộ nhân dân và khiếu nại, tố cáo.
2.2. Thực trạng công tác tiếp dân, xử lý, giải quyết đơn khiếu nại, tố
cáo ở tỉnh Thái Bình từ năm 2008 đến năm 2013; của Ban Nội chính từ
năm 2014 đến năm 2015
2.2.1. Thực trạng công tác tiếp dân, xử lý, giải quyết đơn khiếu nại, tố
cáo ở tỉnh Thái Bình


×