Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN một số biện pháp giúp trẻ 5 6 tuổi chuẩn bị tâm thế sẵn sàng vào lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.74 KB, 18 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp trẻ 5 - 6 tuổi chuẩn bị tâm thế sẵn
sàng vào lớp một.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng vào việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ 5
- 6 sẵn sàng vào lớp một
3. Tác giả:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Vi. Giới tính: Nữ
- Ngày, tháng, năm sinh: Ngày 05 tháng 01 năm 1985
- Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm mầm non
- Chức vụ: Giáo viên
- Đơn vị công tác: Trường Mầm non Bắc An
- Điện thoại: 0984085116
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu:
- Tên đơn vị: Trường mầm non Bắc An
- Địa chỉ : Xã Bắc An - Thị xã Chí Linh - Tỉnh Hải Dương.
- Điện thoại: 0320.2223962
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Sự quan tâm tạo điều kiện của BGH nhà trường để áp dụng sáng kiến vào
quá trình dạy trẻ trên lớp.
- Sự giúp đỡ quan tâm của đồng nghiệp trong trường.
- Phụ huynh quan tâm phối hợp cùng cô giáo trong việc áp dụng đề tài vào thử
nghiệm.
- Thời gian tìm hiểu về đề tài.
- Một số tài liệu về tâm lý học trẻ em độ tuổi 5 - 6 tuổi
6. Thời gian áp dụng: Năm học 2013 - 2014
HỌ TÊN TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN
VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Vi


1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Trẻ em muốn trở thành con người có ích cho xã hội trẻ phải được giáo
dục và chỉ có đến trường thì trẻ mới được giáo dục một cách bài bản và khoa
học. Hay nói đúng hơn trường học chính là những bậc thang vững chắc giúp
trẻ bước vào đời. Trẻ từng bước đi hết các nấc thang đó và sẽ trải qua rất nhiều
những thay đổi nhưng khó khăn nhất đối với trẻ có lẽ là giai đoạn chuyển từ
mầm non lên tiểu học. Đó là việc trẻ được chuyển qua một lối sống mới với
những hoạt động mới, với những mối quan hệ mới của một người học sinh
thực thụ. Khi trẻ vào lớp một cần chuẩn bị những gì để trẻ không bị hẫng hụt,
trẻ có một tâm thế sẵn sàng cho việc tiếp thu các kiến thức. Trên thực tế có
không ít giáo viên và phụ huynh nhầm tưởng rằng chuẩn bị cho trẻ vào lớp
một là phải dạy cho trẻ biết đọc, biết viết, biết cộng trừ…Chính quan điểm sai
lầm này đã dẫn đến hậu quả không ít trẻ mắc phải căn bệnh như: bệnh chủ
quan, bệnh sợ học, bệnh kém tập trung, bệnh thụ động, bệnh ỷ lại…Vậy cần
chuẩn bị những gì khi trẻ vào lớp một? Để tìm được câu trả lời tôi đã chọn đề
tài “Một số biện pháp giúp trẻ 5 - 6 tuổi chuẩn bị tâm thế sẵn sàng vào lớp
một.”
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
2.1. Điều kiện
- Sự quan tâm tạo điều kiện của BGH nhà trường để áp dụng sáng kiến
vào quá trình dạy trẻ trên lớp. Sự giúp đỡ quan tâm của đồng nghiệp
trong trường.
- Phụ huynh quan tâm phối hợp cùng cô giáo trong việc áp dụng đề tài
vào thử nghiệm.
- Thời gian tìm hiểu về đề tài.
- Một số tài liệu về tâm lý học trẻ em độ tuổi 5 - 6 tuổi

2.2. Thời gian
- Áp dụng trong năm học 2013 - 2014
2.3. Đối tượng : Áp dụng tại các lớp 5 tuổi ở trường nơi tôi đang công tác.
2


3. Nội dung sáng kiến
Giáo dục giúp trẻ phát triển toàn diện về đức, trí, lao, thể, mỹ là nhiệm vụ
của ngành giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng. Việc chuyển
giao giữa các bậc học đang được chú trọng và quan tâm nhất là độ tuổi từ
mầm non bước sang tiểu học. Đây có thể được coi là bước ngoặt vô cùng quan
trọng đối với trẻ. Nhiệm vụ của các cô giáo mầm non đặc biệt là giáo viên dạy
lớp 5 tuổi là phải chuẩn bị cho trẻ một tâm thế vững vàng, sẵn sàng bước vào
lớp một để trẻ tiếp cận môi trường mới một cách tốt nhất, nhanh nhất nhằm
giúp trẻ tiếp thu tri thức dễ dàng. Tạo cho trẻ tính tự lập, mạnh dạn không phụ
thuộc vào cô giáo, bố mẹ hay các bạn trong lớp. Đây cũng là điểm mới, điểm
nổi bật của đề tài tôi đang nghiên cứu áp dụng và thử nghiệm tại nơi đang
công tác.
Các giải pháp của đề tài có tính khả thi cao bởi vì các biện pháp rất thiết
thực, dễ áp dụng tại các lớp 5 tuổi tại tất cả các trường mầm non trong toàn thị
xã. Cách thức áp dụng sáng kiến cũng rất đơn giản trước tiên giáo viên 5 tuổi
cần tìm hiểu tâm sinh lý của trẻ tại lớp mình đang giảng dạy. Khi đã lắm chắc
được tâm sinh lý của trẻ giáo viên sẽ tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi,
lao động phù hợp với trẻ từ đó sẽ chuẩn bị được tâm thế sẵn sàng cho trẻ vào
lớp một.
4. Giá trị đạt được của sáng kiến
Sáng kiến mang lại hiệu quả, giá trị cao sau khi được áp dụng, trẻ đã có
một tâm lý sẵn sàng trước những thay đổi trong cuộc sống, trẻ biết cách ứng
xử, lễ phép với mọi người, trẻ dần thích nghi được với môi trường mới. Trẻ
hứng thú đi học và thích được đến trường tiểu học.

5. Đề xuất kiến nghị để mở rộng sáng kiến
Để sáng kiến được mở rộng cần sự tham gia tích cực của cộng đồng phối
hợp chặt chẽ với phụ huynh trong giáo dục học sinh; đặc biệt sự quan tâm chỉ
đạo của Đảng và Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương trong việc quản
lí, giám sát, xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục của nhà trường.

3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1.

Lý do chọn đề tài

Trẻ mẫu giáo hoạt động chủ đạo là hoạt động vui chơi, học chỉ mang tính
chất “Học mà chơi, chơi mà học”. Trẻ rất hiếu động tò mò, ham muốn học hỏi,
tìm hiểu thế giới xung quanh. Trẻ thực sự học trong khi chơi để lĩnh hội các
khái niệm ban đầu hoặc các tri thức tiền khoa học. Ở trẻ mẫu giáo lớn các yếu
tố của hoạt động học tập đã xuất hiện, nhưng mới ở dạng sơ khai. Chương
trình nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ tạo cơ hội cho trẻ hoạt động, học bằng
hành, giải quyết vấn đề, trải nghiệm tìm tòi…giúp trẻ phát triển nhận thức,
ngôn ngữ, tư duy, phát triển các kỹ năng thực hành, giao tiếp ứng xử. Nhưng
trên thực tế hiện nay rất nhiều các bậc cha mẹ cho rằng muốn con học tốt khi
vào lớp một là phải dạy con biết đọc, biết viết, biết làm các phép toán cộng,
trừ thành thạo…Điều này đã khiến cho trẻ mệt mỏi với lượng kiến thức vượt
quá sức mình. Trẻ cảm thấy chán nản khi học lại các kiến thức đó ở lớp một,
nhiều trẻ tỏ ra chủ quan khi học những kiến thức mà mình đã biết dẫn đến trẻ
kém tập trung và lực học sa sút dần.
Chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp một là công việc cần thiết nhưng không

phải là làm thay cho công việc dạy học ở lớp một. Không nên dạy trước những
gì mà sau này trẻ sẽ được học một cách bài bản ở trường phổ thông. Nhiều
giáo viên mầm non do không chịu được áp lực từ phía phụ huynh đã nén nút
dạy trẻ 5 tuổi tập viết, do giáo viên mầm non không được học bài bản về dạy
viết nên đã dạy sai, khi trẻ vào lớp một rất vất vả cho giáo viên lớp một sửa
lại lỗi sai đó, có nhiều trường hợp không thể sửa được.
Từ thực tế trên tôi nhận thấy cần có biện pháp giúp trẻ có một tâm thế sẵn
sàng vào lớp một để tránh những hậu quả không mong muốn xẩy ra.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp sử dụng lời nói
- Phương pháp giáo dục bằng tình cảm và khích lệ
- Phương pháp trực quan - minh họa
4


- Phương pháp nêu gương - đánh giá
- Phương pháp so sánh đối chứng
2.3. Một số điểm mới của vấn đề nghiên cứu
Chuẩn bị tâm thế cho trẻ sẵn sàng vào lớp một cần sự vào cuộc của toàn
Đảng, toàn dân, toàn xã hội. Thế nhưng không phải ai cũng nhận thức được
vai trò quan trọng cũng như những việc làm cần thiết để chuẩn bị cho trẻ sẵn
sàng vào lớp một. Trẻ được phát triển tốt ở mầm non cũng chính là sự chuẩn
bị tốt cho bậc học tiếp theo là tiểu học. Vì vậy, việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ
vào lớp một phải vừa phù hợp với tâm lý trẻ vừa phù hợp với yêu cầu của
ngành học đề ra.
2. Cơ sở lý luận của đề tài
Ngày nay trong môi trường giáo dục hiện đại mối quan tâm hàng đầu của
giáo viên, phụ huynh và toàn xã hội là khi trẻ chuẩn bị bước vào lớp một cần
chuẩn bị cho trẻ những gì? Để trẻ không gặp khó khăn trong quá trình chuyển
tiếp giữa hai bậc học mầm non và tiểu học dẫn đến tình trạng sốc học đường.

Hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo là hoạt động vui chơi, trẻ quen được
chăm sóc, vui chơi phải chuyển sang môi trường mới, môi trường tiểu học mà
nơi học tập được xem là chủ đạo thì đó quả là bước chuyển lớn. Đa số trẻ sẽ
bỡ ngỡ và gặp không ít khó khăn với sự thay đổi này. Với tâm lý lo lắng sợ
con không theo kịp các bạn khi vào lớp một nhiều phụ huynh đã cố gắng trang
bị cho các con nhiều kiến thức bằng cách cho con biết đọc, biết viết, cho con
học kiến thức lớp một. Chính việc làm tưởng chừng có lợi của phụ huynh cho
các con lại là việc làm phản khoa học, dẫn đến tâm lý sợ học và mặc cảm của
trẻ.
3. Khảo sát thực trạng
31.Thuận lợi
- Ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, đồ
dùng, đồ chơi trong lớp đảm bảo đúng chủng loại, số lượng đủ theo thông tư
02.

5


- Phòng học và sỹ số lớp hợp lý nên việc tổ chức giảng dạy cho trẻ cũng
thuận tiện hơn.
- Được sự giúp đỡ của đồng nghiệp trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ.
- Bản thân có nhiều năm kinh nghiệm trong việc giảng dạy tại lớp 5 tuổi.
- Trẻ ngoan ngoãn có nề nếp trong các hoạt động
- 100% số trẻ ở lớp đều ăn bán trú tạo điều kiện cho giáo viên nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trẻ.
3.2. Khó khăn
- Đa số phụ huynh học sinh có trình độ học vấn còn thấp chưa có nhiều
kiến thức trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Các bậc phụ huynh
đều muốn giáo viên dạy con em họ biết đọc, biết viết ngay từ lớp mẫu giáo 5

tuổi.
- Gia đình trẻ còn nghèo bố mẹ mải làm kinh tế ít có thời gian chăm sóc và
gần gũi trò chuyện với trẻ.
- Thể chất của các em không đồng đều có tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở thể nhẹ
cân và thể thấp còi còn chiếm tỷ lệ rất cao.
- Công tác tuyên truyền cho phụ huynh hiểu về việc chuẩn bị cho trẻ vào
lớp một chưa thường xuyên.
- Thiếu sự phối hợp giữa trường mầm non, phụ huynh và trường tiểu học.
Để tìm ra được biện pháp giúp trẻ chuẩn bị tâm thế sẵn sàng vào lớp một
tôi đã khảo sát trẻ đầu năm học và có bảng kết quả thực tế như sau:
Bảng 1: Kết quả khảo sát tâm lý trẻ
Số lượng
Thời gian
Đầu năm

trẻ
35

Trẻ tự tin
8

Tỉ lệ

Trẻ nhút

Tỉ lệ

(%)
23


nhát
27

(%)
77

- Qua tiếp xúc trò chuyện, qua một số trò chơi tôi thấy trẻ rất nhút nhát,
chưa có tâm lý vững vàng khi tham gia hoạt động cùng cô giáo, trẻ chưa có
tính kỷ luật khi tham gia nhóm.
Bảng 2: Kết quả khảo sát sức khỏe trẻ
6


Thời

Số

Trẻ

gian

lượng

bình

trẻ

thường

35


29

Đầu
năm

Trẻ
Tỉ lệ

SDD

Tỉ lệ

(%)

thể nhẹ

(%)

cân
83

4

11

Trẻ SDD
thể thấp
còi
2


Tỉ lệ
(%)

6

- Sau khi thực hiện cân, đo và chấm biểu đồ sức khỏe tôi nhận thấy tỉ lệ trẻ
bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và thấp còi còn cao. Trẻ chậm chạp, kém linh
hoạt.
4. Một số biện pháp thực hiện
4.1. Tìm hiểu tâm sinh lý trẻ 5 - 6 tuổi
Muốn chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi lên lớp một thì việc
quan trọng đầu tiên người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm sinh lý của
lứa tuổi từ đó mới đưa ra phương pháp phù hợp với độ tuổi trẻ. Theo các công
trình nghiên cứu khoa học, trẻ em 5 - 6 tuổi cơ tay còn yếu, khi cầm bút chỉ
viết được những nét sổ thẳng, nét nghiêng, cong. Vì thế, trẻ chỉ nên tô theo
những nét có sẵn, tập điều khiển cơ tay để dần dần có thể học viết chữ ở lớp
một. Khi học viết sớm, cơ tay yếu, trẻ dễ cầm bút tùy tiện, sai tư thế ngồi viết
và sai cách cầm bút. Ngoài ra, khi phải ngồi nhiều để tập viết, làm toán, trẻ sẽ
căng thẳng, mệt mỏi, cảm thấy bị áp lực. Nguy cơ tiềm ẩn nhất là khi đã biết
trước các kiến thức của lớp một trẻ sẽ chủ quan không tập chung chú ý những
kiến thức mình đã biết, dẫn đến kết quả học tập ngày càng giảm sút.
Tâm lý trẻ 5 - 6 tuổi chưa ổn định trẻ rất nhanh nhớ nhưng cũng lại
nhanh quên, trẻ học cần có đồ dùng, hình ảnh trực quan sinh động, độ tuổi này
thời gian để trẻ tập trung chú ý thường không kéo dài quá 35 phút. Hiểu được
đặc điểm này giáo viên sẽ tổ chức các hoạt động vui chơi và học tập hợp lý,
khoa học hơn.
4.2. Chuẩn bị về mặt kiến thức cho trẻ
7



Trẻ mẫu giáo 5 tuổi là lứa tuổi khởi đầu làm quen với chữ viết, làm quen
với việc học đọc, học viết là vô cùng quan trọng. Nếu trẻ không nắm vững 29
chữ cái và 10 con số từ số 1 đến số 10 thì lên lớp một trẻ sẽ không thể học
được. Ở lớp một trẻ phải học kết hợp âm và chữ, học cách ghép vần, cách cầm
bút đúng, về con số trẻ phải cộng trừ trong phạm vi 100. Nếu ở mẫu giáo trẻ
không nắm vững 29 chữ cái và 10 chữ số thì vào lớp một trẻ sẽ không tự tin và
lúng túng cho nên phải dạy cho trẻ nắm vững 29 chữ cái tiếng Việt, trẻ nhận
biết chữ cái thông qua tri giác bằng tri giác âm thanh, nhận biết các chữ in
thường, viết thường, trẻ biết cách liên hệ các chữ cái đó với các từ và tìm ra
chữ cái mình đã học. Ngoài nắm chắc các con số từ 1 đến 10 trẻ cần biết định
hướng trong không gian, thời gian, biết màu sắc, hình dạng các đồ vật, các
khối. Dạy trẻ học toán thường khô khan, cứng nhắc vì vậy đòi hỏi giáo viên
cần có sáng tạo bằng cách lồng ghép các trò chơi, các tình huống nhằm gây
hứng thú cho trẻ tham gia học tập
Ví dụ: Trong tiết dạy trẻ nhận biết, phân biệt khối cầu, khối trụ tôi đã dựa
trên nền nhạc bài thể dục buổi để sáng tác ra một đoạn bài hát có kèm nhạc vui
nhộn mà vẫn nhấn mạnh được đặc điểm của hai khối để giúp trẻ nhớ lâu mà
tiết học không nhàm chán. Miêu tả hình dạng khối cầu tôi có đoạn bài hát như:
“Cô dạy em tìm hiểu về các khối, tròn xoe xoe đó chính là khối cầu khối cầu”.
Về khối trụ: “Cô dạy em tìm hiểu về các khối, một hai ba bốn xếp chồng, xếp
chồng, xếp chồng , lăn lăn lăn bền này, lăn lăn lăn ngược lại, lăn cả hai bên. Ta
cùng hô to khối trụ”. Ngoài ra tôi còn làm baboy có hình ảnh động của các
khối để trẻ quan sát, nhận xét…từ đó khắc sâu được đặc điểm các khối cho trẻ.
Giáo viên cho trẻ rèn luyện các thao tác mở vở, mở sách, luyện cho trẻ khả
năng ghi nhớ, chú ý có chủ định, biết tập trung lắng nghe, rèn những kỹ năng
nghe và nói, mở rộng vốn hiểu biết để dần hình thành 4 kỹ năng nghe, nói,
đọc, viết cho trẻ khi học tiểu học.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động góc cô cho trẻ học cách mở sách, mở vở, cách
cầm sách đúng chiều không cầm ngược, góc âm nhạc cho trẻ hát và nghe hát

để rèn tai nghe…
8


Giáo viên tăng cường tổ chức các buổi tham quan tại trường tiểu học, tổ
chức các buổi dạo chơi, lao động, các trò chơi từ đó khuyến khích trẻ đọc các
chữ cái, chữ số rõ ràng, mạch lạc, không nói ngọng, nói lắp, phát âm chính
xác. Trẻ luyện đếm số cây, số đồ vật, đồ chơi trên sân trường từ đó trẻ hình
thành các biểu tượng sơ đẳng về toán học giúp trẻ có kiến thức vững chắc khi
bước chân vào tiểu học.
Ngoài ra giáo viên còn cho trẻ học 29 chữ cái và 10 chữ số, không gian,
thời gian… qua các hình ảnh, đồ dùng, đồ chơi, các trò chơi trí tuệ, thông qua
các hoạt động khác như: tạo hình, thể dục, âm nhạc, thơ, truyện, khám phá xã
hội, khám phá xã hội…Đó chính là cơ sở, là tiền đề vững chắc giúp trẻ tiếp
thu kiến thức sau này.
4.3. Chuẩn bị kỹ năng sống cho trẻ
Trẻ muốn phát triển toàn diện thì cần được chăm sóc ngay từ trong bào thai
khi ở gia đình cho đến khi đứa trẻ đó tới trường. Khi trẻ ở trường mầm non trẻ
được chăm sóc chu đáo từ giấc ngủ tới bữa ăn, khi bước vào môi trường tiểu
học trẻ sẽ khó thích nghi với sự thay đổi đó vì vậy nhiệm vụ của giáo viên
mầm non là rèn cho trẻ những kỹ năng sống cần thiết cơ bản nhất để trẻ sẵn
sàng cho hành trang bước vào bậc học phổ thông.
Kỹ năng đầu tiên giáo viên cần dạy trẻ đó là kỹ năng tự lập, tự phục vụ.
Cần hình thành cho trẻ thói quen tự lập không phụ thuộc vào người khác. Trẻ
biết tự mặc quần áo, giầy dép, tự phục vụ vệ sinh cá nhân của bản thân chỉ có
như vậy trẻ mới không bỡ ngỡ khi học lớp một.
Ví dụ: Dạy trẻ tự cất đồ dùng cá nhân, biết rửa tay bằng 7 bước, biết rửa
mặt thành thạo, biết đánh răng đúng cách. Dạy trẻ phụ cô kê bàn ghế giờ ăn,
giờ học, tập quét lớp, biết gấp khăn ăn, quần áo…
Một kỹ năng quan trọng không kém đó là kỹ năng giao tiếp. Nhờ ngôn ngữ

mà trẻ gần gũi, hiểu và thông cảm cho nhau, biết chia sẻ những khó khăn gặp
phải ở môi trường mới do đó giáo viên rèn cho trẻ kỹ năng nói mạch lạc, rõ
ràng, biết chú ý lăng nghe ý kiến của cô giáo và các bạn.

9


Vào học lớp một là bước ngoặt lớn trong cuộc đời mỗi trẻ. Đang từ cuộc
sống khá thoải mái về mặt thời gian cũng như tinh thần, bé phải chuyển qua
một môi trường đòi hỏi “làm việc” một cách thực sự, phải tập trung chú ý
trong cả một tiết học dài nhiều trẻ khó có thể thích nghi được chính vì vậy đòi
hỏi người giáo viên cần phải rèn cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi tính tập trung chú ý
để khi bước vào lớp một trẻ không cảm thấy bị căng thẳng và mệt mỏi sau một
tiết học dài.
Ngoài ra giáo viên còn cần dạy trẻ các kỹ năng tránh xa những nơi nguy
hiểm, đồ dùng nguy hiểm, không theo những người lạ mặt khi người thân
chưa đến đón kịp. Ở trường mầm non giáo viên đón và trả trẻ tận tay phụ
huynh nhưng ở trường tiểu học có trống tan là cô và trẻ cùng về nếu phụ
huynh chưa kịp đón trong khi trẻ chưa được trang bị những kiến thức đầy đủ
khi vào lớp một trong trường hợp này trẻ sẽ tự ý đi về hoặc theo một người lạ
mặt vì vậy dễ xẩy ra tai nạn hoặc bị bắt cóc.
4.4. Chuẩn bị về thể chất cho trẻ
Chuẩn bị về thể chất cho trẻ cẩn chuẩn bị cả hai mặt đó là dinh dưỡng và
sức khỏe của trẻ. Có một chế độ dinh dưỡng tốt, cân đối, hợp lý đảm bảo vệ
sinh trẻ sẽ có một cơ thể cường tráng, khỏe mạnh, lanh lợi, thông minh. Muốn
trẻ đạt được điều đó giáo viên cần phối hợp với cô nuôi, phụ huynh xây dựng
thực đơn hợp lý, đủ 4 nhóm thực phẩm tránh lặp lại thực phẩm giữa hai bữa
trên lớp và hai bữa ở nhà. Kết hợp với ban giám hiệu nhà trường khám sức
khỏe định kỳ 2 lần trên một năm để kịp thời phát hiện những trẻ bị mắc bệnh
có biện pháp xứ lý ngay. Ngoài ra cần thực hiện cân trẻ 3 tháng một lần và đo

6 tháng một lần đối với trẻ bình thường. Cân 1 tháng 1 lần và đo 3 tháng 1 lần
đối với trẻ suy dinh dưỡng ở thể nhẹ cân, thể thấp còi nhằm theo dõi sát sao sự
tăng cân, chiều cao của trẻ. Bên cạnh đó cần chú ý vệ sinh cá nhân của trẻ, vệ
sinh môi trường trong và ngoài lớp tạo không gian xanh - sạch - đẹp cho trẻ
vui chơi, học tập.
Trẻ có một sức khỏe tốt còn cần có một chế độ luyện tập thể dục hợp lý
tăng dần từ khó đến dễ nhằm rèn luyện sức dẻo dai cho trẻ khi bước vào lớp
10


một. Đặc biệt cần chú ý những bài thể dục nhằm phát triển vận động tinh vì
khi học lớp một trẻ cần có sự khéo léo của đôi tay, cổ tay, các ngón tay để trẻ
cầm bút viết lên những nét chữ đầu đời. Để luyện cử động ngón tay, bàn tay
tôi xây dựng một số bài vận động tinh như: Bé làm con mèo, con trâu (chủ đề:
Bé yêu động vật), bé gấp máy bay, gấp thuyền giấy (chủ đề: Bé với phương
tiện giao thông)…
4.5. Phối kết hợp với phụ huynh
Phụ huynh có vai trò vô cùng quan trọng trong việc chuẩn bị tâm thế cho
trẻ sẵn sàng vào lớp một. Giáo viên cần tuyên truyền cho phụ huynh biết
những gì cần chuẩn bị cho trẻ vào lớp một, gợi ý và động viên phụ huynh tạo
môi trường cho trẻ làm quen với các chữ số, các chữ cái ngay tại góc học tập ở
nhà như: ghi lịch sinh hoạt trong ngày cho trẻ, ghi tên trẻ…để trẻ làm quen
dần với cách đọc chữ.
Ngoài ra giáo viên giúp các bậc phụ huynh phát triển tai nghe và ngôn ngữ
cho trẻ bằng cách thường xuyên kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe.
Giáo viên tranh thủ trong những giờ đón và trả trẻ trao đổi, trò chuyện với
phụ huynh nhằm tìm hiểu lắm bắt được tâm tư nguyện vọng của phụ huynh
trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Đồng thời cũng tuyên truyền
cho phụ huynh biết rõ tầm quan trọng của việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào
lớp một. Nhờ có sự liên kết chặt chẽ này trẻ được chăm sóc chu đáo hơn về

mọi mặt, từ thông tin hai chiều mà phụ huynh và giáo viên lắm bắt được
những thay đổi về tâm lý của trẻ hàng ngày từ đó có kế hoạch điều chỉnh dạy
và học hợp lý hơn.
5. Đánh giá kết quả
Sau khi áp dụng đề tài chất lượng trên trẻ được nâng cao rõ rệt: Trẻ hứng
thú đi học, mong muốn trở thành học sinh. Ngôn ngữ trẻ phát triển nhanh, trẻ
nói rõ ràng, tự tin. Nhận thức của trẻ phát triển, trẻ biết định hướng không
gian, thời gian. Biết cách ứng xử với mọi người
Bảng 1: Kết quả khảo sát tâm lý trẻ
Số lượng

Trẻ tự tin

Tỉ lệ

Trẻ nhút

Tỉ lệ
11


Thời gian
trẻ
(%)
nhát
(%)
Cuối năm
35
32
91

3
9
Sau một thời gian áp dụng sáng kiến tôi thấy trẻ có kết quả thay đổi rõ
rệt, trẻ mạnh dạn, tự tin trong giáo tiếp, trong mọi hoạt động. Trẻ chủ động
đưa ra ý kiến, đề xuất ý tưởng trong cách chơi các trò chơi và trong học tập.
Bảng 2: Kết quả khảo sát sức khỏe trẻ
Trẻ

Thời

Số

Trẻ

gian

lượng

bình

trẻ

thường

35

33

Cuối
năm

5.1.

Tỉ lệ

SDDthể

Tỉ lệ

(%)

nhẹ

(%)

Trẻ SDD
thể thấp
còi

cân,
94

1

3

1

Tỉ lệ
(%)


3

So sánh đối chứng:
Bảng 1: Kết quả khảo sát tâm lý trẻ
Số lượng

Thời gian
Đầu năm
Cuối năm

Trẻ tự tin

Tỉ lệ

Trẻ nhút

trẻ
(%)
nhát
35
8
23
27
35
32
91
3
Bảng 2: Kết quả khảo sát sức khỏe trẻ
Trẻ


Tỉ lệ
(%)
77
9

Thời

Số

Trẻ

gian

lượng

bình

trẻ

thường

35

29

83

4

11


2

6

35

34

94

1

3

0

0

Đầu
năm
Cuối
năm

Tỉ lệ

SDDthể

Tỉ lệ


(%)

nhẹ

(%)

cân,

Trẻ SDD
thể thấp
còi

Tỉ lệ
(%)

Sức khỏe của trẻ có nhiều tiến bộ tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và
thể thấp còi giảm đi rõ rệt so với đầu năm. Đầu năm trẻ bình thường chiếm
83%, cuối năm là 94% tăng 11%. Tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân đầu
năm 11%, cuối năm 3% giảm 8% không còn trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi
như đầu năm.
12


5.2.

Bài học kinh nghiệm

- Xây dựng kế hoạch năm, tháng, tuần, ngày phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý trẻ, phù hợp với điều kiện thức tế của lớp, của địa phương.
- Định ra những quy định, nội quy của lớp cho trẻ thực hiện tuy nhiên

giáo viên không quá nghiêm khắc làm trẻ sợ hãi mà mất đi sự hồn nhiên, mạnh
dạn, tự tin của trẻ.
- Báo cáo đề xuất kịp thời với BGH nhà trường trong quá trình nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ.
- Phụ huynh không quá chăm sóc trẻ làm cho trẻ có tính ỷ lại mà phải dạy
trẻ biết tự lập. Nhưng cũng tránh tình trạng thờ ơ không quan tâm đến việc học
của trẻ làm trẻ phát triển không tốt sẽ ảnh hưởng tới tương lai trẻ sau này.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
Sau khi nghiên cứu và áp dụng đề tài tôi nhận thấy để sáng kiến được
nhân rộng cần các điều kiện sau:
- Cần có sự vào cuộc của ngành giáo dục và toàn xã hội chúng ta trong
việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi vào lớp một.
- Việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi vào lớp một đòi hỏi giáo
viên phải lắm chắc đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ở lứa tuổi này. Giáo viên cần
tìm đọc và nghiên cứu kỹ các tài liệu về tâm sinh lý của trẻ để có những biện
pháp, phương pháp đúng nhất trong quá trình giáo dục trẻ.
- Giáo viên phải có sự phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để kịp thời
chỉnh sửa những sai sót trong quá trình chuẩn bị tâm thế cho trẻ. Đồng thời
phải nâng cao nhận thức của phụ huynh học sinh và người dân thì sáng kiến
mới có điều kiện nhân rộng.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Sau khi nghiên cứu và áp dụng đề tài tôi đã nắm rõ hơn về cơ sở lý luận
cũng như tìm hiểu được về thực trạng của công tác chuẩn bị tâm thế sẵn sàng
cho trẻ 5 - 6 tuổi vào lớp một tại nơi tôi đang công tác. Qua việc tìm hiểu đó
13


tôi nhận thấy rõ hơn tầm quan trọng của việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ đến
trường tiểu học, thấy được phải làm thế nào để công tác chuẩn bị được tốt hơn

từ đó đã đưa ra các giải pháp, biện pháp phù hợp.
Kết quả thu được sau khi áp dụng các giải pháp đó là trẻ hình thành các kỹ
năng học cần thiết trong môi trường tiểu học như: biết lắng nghe, biết tập
trung và làm theo hướng dẫn của giáo viên từ đó trẻ học tốt hơn. Các bé được
chuẩn bị tâm lý sẵn sàng hơn để làm quen với môi trường mới ở lớp một,
tránh được những rối loạn về tâm lý hay cảm xúc có thể xảy ra. Trẻ hòa nhập,
giao tiếp tôt hơn khi vào lớp một. Từ đó hình thành kỹ năng giải quyết vấn đề
căn bản trong những tình huống thường gặp ở môi trường tiểu học.
Trẻ biết đồng cảm, yêu thương và chia sẻ với những người xung quanh. Trẻ
tránh được những hành vi, những cách cư xử không hay, những thói quen xấu.
Tránh được việc bị bạn bè bắt nạt, kỳ thị hoặc biết cách ứng xử phù hợp nếu
rơi vào những tình huống đó. Trẻ tránh được việc bị mất bình tĩnh, bị kích
động, bị lôi kéo…vào những tình huống mà trẻ không làm chủ được mình.
2. Một số khuyến nghị
2.1. Đối với ngành giáo dục
- Đặt ra mục tiêu giáo dục, phương pháp giáo dục phải phù hợp với từng
đối tượng học sinh. Ngoài việc đòi hỏi chất lượng của học sinh cần chú trọng
đến việc giáo dục tình cảm, đạo đức và kỹ năng sống cho trẻ.
- Tổ chức các chuyên đề cho giáo viên, đặc biệt là giáo viên 5 tuổi về
cách thức chuẩn bị tâm thế cho trẻ sẵn sàng vào lớp một.
2.2. Đối với nhà trường
- Tham mưu với các cấp lãnh đạo trong việc tu sửa, mua sắm thêm cơ
sở vật chất cho nhà trường như: Đồ chơi ngoài trời, máy chiếu…
- Tăng cường công tác tuyên truyền cho cha mẹ trẻ và cộng đồng địa
phương về việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp một. Từ đó có biện pháp nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ phù hợp.

14



- Kêu gọi, vận động các tổ chức nhận đạo từ thiện hỗ trợ kinh phí học
tập và phục vụ sinh hoạt cho trẻ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn ăn bán trú tại
trường.
2.3. Đối với phụ huynh học sinh
- Quan tâm chú ý đến việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp một, tích
cực trò chuyện, trao đổi với trẻ hiểu và thông cảm với những thay đổi về tâm
lý của trẻ qua từng giai đoạn phát triển.
- Không làm mọi việc cho trẻ mà tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm
mọi công việc để tránh trẻ có thói quen ỷ lại vào người khác.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non( từ lọt lòng đến 6 tuổi )

15


Nguyễn Thị Ánh Tuyết (chủ biên) - Nguyễn Như Mai - Đinh Kim Thoa.
NXB Đại học sư phạm Hà Nội 2003.
2. Chương trình giáo dục mầm non. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
3. Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện, câu đố theo chủ đề.
TS: Lê Thu Hương (chủ biên). NXB giáo dục Việt Nam
4. Tham khảo một số trang Web về tâm lý trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Thông tin về sáng kiến……………………………………………. 1
16


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến…………………………..………….


2

2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến……..………….

2

3. Nội dung sáng kiến…………………………………………………. 3
4. Giá trị đạt được của sáng kiến……………………………………… 3
5. Đề xuất kiến nghị để mở rộng sáng kiến…………………………… 3
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến…………………………..…………

4

2. Cơ sở lý luận của đề tài…………………………………..………… 5
3. Khảo sát thực trạng………………………………………..………
3.1.

Thuận

5

lợi………………………………………………..…………

5
3.2.

Khó


khăn…………………...…………………………..…………

5
4. Một số biện pháp thực hiện………………………………………...
4.1.

7

Tìm hiểu tâm sinh lý 5 - 6 tuổi…………………..……..…………
7

4.2.

Chuẩn bị về mặt nhận thức cho trẻ…………………………..……
8

4.3.

Chuẩn bị kỹ năng sống cho trẻ….. …………………………..……
9

4.4.

Chuẩn bị về thể chất cho trẻ…………………………………..…..
10

4.5.

Phối kết hợp với phụ huynh……..…………………………..……
11


5. Đánh giá kết quả…………………………………………………… 11
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng…………………………… 13
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận………………………………………………………..……

14

2. Một số khuyến nghị…………………………………………….….

14
17


2.1.Đối với ngành giáo dục…………………………………………...

14

2.2.Đối với nhà trường………………………………………………..

14

2.3. Đối với phụ huynh học sinh……………………………….…...

15

18




×