Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.22 KB, 29 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn lịch sử trường THCS Ninh Thành.
3. Tác giả :
- Họ và tên : Đào Thị Mai Phương



- Ngày tháng năm sinh : 01/8/1978.
- Trình độ chuyên môn: CĐ Văn – Sử. Đại học Văn .
- Chức vụ- Đơn vị công tác : Giáo viên trường THCS Ninh Thành- Tổ
phó tổ Lao động xã hội.
- Điện thoại: 0983624356.
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường THCS Ninh Thành, xã Ninh
Thành, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
- Điện thoại: 03203760668
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường THCS Ninh Thành.
6. Các điều kiện để áp dụng sáng kiến : Đối tượng học sinh.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu : Năm học 2015-2016.
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG

§ào Thị Mai Phương

SÁNG KIẾN

XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD& ĐT

1



TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Thực trạng của việc dạy và học lịch sử trong nhà trường
phổ thông hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài
giảng lịch sử rất khô khan, nhiều sự kiện nên chưa tạo được
hứng thú học lịch sử đối với học sinh. Học sinh hiểu một cách
rời rạc, nông cạn về kiến thức lịch sử, không nắm được mối
liên hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã
hội, về kiến thức liên môn…
Dạy học theo chủ đề tích hợp là một trong những
nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học
lịch sử nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện
đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời
nâng cao chất lượng giáo dục. Dạy học tích hợp làm cho
người học sử nhận thức được sự phát triển xã hội một cách
liên tục, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các
lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục được tính tản mạn rời
rạc trong kiến thức.
Dạy học liên môn trong môn Lịch sử là hình thức liên
kết những kiến thức giao thoa với môn Lịch sử như Ngữ văn,
Địa lí, Mĩ thuật, Giáo dục công dân, Rèn luyện kĩ năng sống,
Giáo dục bảo vệ di sản văn hóa địa phương… để học sinh
tiếp thu kiến thức, biết vận dụng kiến thức lịch sử vào cuộc
sống và ngược lại từ cuộc sống để giải quyết các vấn đề liên
quan đến lịch sử…
Trong chương trình THCS, giáo viên có thể sử dụng
phương pháp tích hợp trong hầu hết các bài dạy, từ đó làm
2



tăng hứng thú cho học sinh, giúp các em hăng say ham học
hơn ở bộ môn Lịch sử bởi sự nhàm chán dần bị thay thế .
Việc sử dụng “ Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử ”có tác dụng
rất lớn, đỡ mất thời gian học, học sinh tiếp thu bài một cánh nhanh nhất, nhớ
lâu, dễ hiểu, tránh được một giờ học gò bó, áp đặt. Học sinh tiếp thu bài một
cách nhẹ nhàng giờ học diễn ra sinh động đầy hứng thú. Qua đó học sinh
biết được hiện tượng, sự kiện lịch sử gắn liền với kiến thức bộ môn. Học
sinh phân tích, so sánh hiểu được bản chất cuả sự kiện, đặc thù riêng của
môĩ vùng, môĩ chiến dịch, mỗi địa danh Học sinh sẽ thấy được cái hay cái
đẹp trong khi học bộ môn lịch sử. Khi giảng dạy lịch sử cô giáo đọc thơ,
văn minh hoạ, cả lớp chăm chú lắng nghe và tỏ ra rất thích thú, sau tiết học,
nhiều em còn nhờ cô giáo đọc để chép vào sổ tay, hoặc qua tiết học này sẽ
giúp các em tìm hiểu được thêm kiến thức môn mĩ thuật trong việc xây
dựng những công trình kiến trúc, ngoài ra học Lịch sử còn giúp các em có
thêm kĩ năng sống, dạy cho các em biết giữ gìn và bảo vệ thành quả các di
tích lịch sử mà các em được học trong bài. Những tiết học như thế đã để lại
trong lòng các em những ấn tượng lâu bền. Chắc chắn những sự kiện trong
bài học Lịch sử sẽ lưu lại trong ký ức các em sâu hơn, lâu hơn do đó chất
lượng giảng dạy và học môn lịch sử được nâng lên rõ rệt , góp phần không
nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Sau đây
tôi xin trình bày sáng kiến của mình.

3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN.
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến .
1.1. Theo từ điển Tiếng Việt: Tích hợp là sự kết hợp
những hoạt động, chương trình hoặc các thành phần khác
nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có nghĩa là sự

thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp.
1.2. Theo từ điển giáo dục học: Tích hợp là hành động
liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của
cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng
một kế hoạch dạy học.
1.3. Trong tiếng Anh, tích hợp có nghĩa là toàn bộ, toàn
thể. Có nghĩa là sự phối hợp các hoạt động khác nhau, các
thành phần khác nhau của một hệ thống ấy.
Tích hợp là một xu thế, một trào lưu dạy học và giáo
dục phổ biến trên thế giới trong nhiều thập kỉ qua. Đưa tư
tưởng sư phạm tích hợp vào trong quá trình dạy học là cần
thiết. Dạy học tích hợp là một xu hướng của lí luận dạy học
và được nhiều nước trên thế giới thực hiện. Quan điểm dạy
học tích hợp được xem là định hướng lí luận của chương trình
giáo dục Việt Nam hiện hành và những năm sắp tới.
“ Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử ” là yêu cầu của mục tiêu dạy
học phát triển năng lực học sinh, đòi hỏi phải tăng cường yêu cầu học sinh
4


vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Khi giải quyết
một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và xã hội, đòi hỏi học sinh
phải vận dụng kiến thức tổng hợp, liên quan đến nhiều môn học. Vì vậy, dạy
học cần phải tăng cường theo hướng tích hợp, liên môn .
Với đề tài này, tôi sử dụng kiến thức một số môn học
khác như Địa Lí, Ngữ Văn, GDCD, Mĩ thuật ... để giảng dạy và
làm nổi bật những nội dung trọng tâm của từng bài. Quá
trình thực hiện đề tài, tôi mong muốn giờ học Lịch sử phải
thực sự là một giờ học hấp dẫn, có ý nghĩa giáo dục, giáo
dưỡng và thực sự tạo được hứng thú học tập và phát triển

toàn diện cho học sinh.
2. Thực trạng của vấn đề.
2.1. “ Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử ” có nghĩa là đưa những nội
dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học các môn học như: tích
hợp giáo dục đạo đức, lối sống ; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền
quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và
hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông...
2.2. “ Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử ” là phải xác định các nội
dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học để dạy học, tránh việc
học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học
khác nhau. Đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm
ưu thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại
ở các môn khác. Trường hợp nội dung kiến thức có tính liên môn cao hơn thì
sẽ tách ra thành các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học riêng vào một thời
điểm phù hợp, song song với quá trình dạy học các bộ môn liên quan.
2.3. “ Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử ” nhằm giúp học sinh nắm
5


vững kiến thức , thành thạo kĩ năng , phát triển phương pháp làm việc , có
cách học tập thông minh , biết vận dụng sáng tạo kiến thức , kĩ năng và
phương pháp trong hoạt động học tập . Cho đến nay, tích hợp vẫn là một xu
thế dạy học hiện đại và ngày càng được quan tâm . Đây thật sự là con đường
đổi mới phương pháp học tập , đổi mới cách dạy và cách học để góp phần
giải quyết một số vấn đề của xã hội mới nảy sinh một cách kịp thời trong khi
thực hiện chương trình giáo dục .
2.4. “ Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử ” còn giúp tiết kiệm thời gian
trong dạy học , góp phần giảm tải chương trình , đồng thời đa dạng hóa hình
thức tổ chức hoạt động dạy học . Dạy học tích hợp liên môn sẽ giúp học
sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn

học khác nhau , không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng
ứng dụng tổng hợp vào thực tiễn.
3. Các giải pháp, biện pháp thực hiện.
3.1 . Thiết kế giáo án tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử.
3.1.1. Các bước để soạn một giáo án theo hướng tích hợp liên môn.
Giáo án giờ học tích hợp liên môn không phải là một bản đề cương kiến
thức để giáo viên lên lớp giảng giải, truyền thụ áp đặt cho học sinh, mà là
một bản thiết kế các hoạt động, thao tác nhằm tổ chức cho HS thực hiện
trong giờ lên lớp để lĩnh hội tri thức, phát triển năng lực và nhân cách theo
mục đích giáo dục và giáo dưỡng của bộ môn. Đó là bản thiết kế gồm hai
phần :
- Một là, hệ thống các tình huống dạy học được đặt ra từ nội dung khách
quan của bài dạy, phù hợp với tính chất và trình độ tiếp nhận của học sinh.
- Hai là, một hệ thống các hoạt động, thao tác tương ứng với các tình huống
trên do giáo viên sắp xếp, tổ chức hợp lí nhằm hướng dẫn HS từng bước tiếp
cận, chiếm lĩnh bài học một cách tích cực và sáng tạo.
6


Thiết kế giáo án giờ học tích hợp liên môn phải bám chặt vào những kiến
thức các bộ môn có liên quan.
Thiết kế giáo án giờ học tích hợp liên môn phải bảo đảm nội dung và
cấu trúc đặc thù nhưng không gò ép vào một khuôn mẫu cứng nhắc mà cần
tạo ra những chân trời mở cho sự tìm tòi sáng tạo trong các phương án tiếp
nhận của học sinh, trên cơ sở bảo đảm được chủ đích, yêu cầu chung của giờ
học.
Nội dung dạy học của thiết kế giáo án tích hợp liên môn phải làm rõ
những tri thức và kĩ năng cần hình thành, tích luỹ cho HS qua phân tích,
chiếm lĩnh kiến thức; mặt khác, phải chú trọng nội dung tích hợp giữa tri
thức bộ môn mình dạy với các bộ môn khác.

Giáo án giờ học tích hợp liên môn theo quan điểm tích hợp phải chú
trọng thiết kế các tình huống tích hợp và tương ứng là các hoạt động phức
hợp để học sinh vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ năng của các phân môn
vào xử lí các tình huống đặt ra, qua đó chẳng những lĩnh hội được những tri
thức và kĩ năng riêng rẽ của từng phân môn mà còn chiếm lĩnh tri thức và
phát triển năng lực tích hợp.
Giáo viên phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học
khác.
Vấn đề tâm lý chủ yếu vẫn quen dạy theo chủ đề đơn môn nên khi dạy
theo chủ đề tích hợp, liên môn, các giáo viên sẽ vất vả hơn, phải xem xét, rà
soát nội dung chương trình, sách giáo khoa (SGK) hiện hành để loại bỏ
những thông tin cũ, lạc hậu, đồng thời bổ sung, cập nhật những thông tin
mới, phù hợp. Nội dung của phương pháp dạy tích hợp, liên môn cũng yêu
cầu GV cấu trúc, sắp xếp lại nội dung dạy học trong chương trình hiện hành
theo định hướng phát triển năng lực học sinh nên không tránh khỏi làm cho
giáo viên có cảm giác ngại thay đổi.
7


Môi trường " Trường học kết nối ” rất thuận lợi để giáo viên đổi mới
trong dạy tích hợp, liên môn.
3. 1. 2. Phương pháp dạy học theo hướng tích hợp liên môn.
Phương pháp dạy học theo hướng tích hợp liên môn là lồng ghép nội
dung tích hợp vào các bài dạy, tùy theo từng môn học mà lồng ghép tích hợp
ở các mức độ như liên hệ, lồng ghép bộ phận hay là toàn phần,( Phần nội
dung bài học, phần bài tập hay là tổng kết toàn bài...) Khi tích hợp giáo viên
cần sử dụng ngôn từ kết nối sao cho lô- gic và hài hòa....từ đó giáo dục và
rèn kĩ năng sống, giá trị sống cho học sinh.
Để nâng cao hiệu quả của môn học tích hợp liên môn , giáo viên có thể
sử dụng một số phương pháp để dạy học tích hợp như sau:

+ Dạy học theo dự án.
+ Phương pháp trực quan.
+ Phương pháp thực địa.
+ Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề.
+ Phương pháp khăn trải bàn . . . . . .
Trong các phương pháp trên, chúng ta thường sử dụng phương pháp thứ tư
đó là: Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề. Phương pháp dạy học
đặt và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học trong đó giáo viên tạo ra
những tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động
tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó
chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập
khác. Đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn là
“tình huống gợi vấn đề” vì “Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có
vấn đề”.
8


3.1.3. Tác dụng khi thực hiện hương pháp dạy học theo hướng tích hợp
liên môn.
Dạy học theo hướng tích hợp liên môn giúp cho giờ học sẽ trở nên sinh
động hơn, vì không chỉ có giáo viên là người trình bày mà học sinh cũng
tham gia vào quá trình tiếp nhận kiến thức, từ đó phát huy tính tích cực
củahọcsinh.
Dạy học theo hướng tích hợp liên môn cũng góp phần phát triển tư duy
liên hệ, liên tưởng ở học sinh. Tạo cho học sinh một thói quen trong tư duy,
lập luận tức là khi xem xét một vấn đề phải đặt chúng trong một hệ quy
chiếu, từ đó mời có thể nhận thức vấn đề một cách thấu đáo.
- Giúp học sinh hứng thú học tập, từ đó khắc sâu được kiến thức đã học.
- Hiểu được bản chất của kế hoạch dạy học tích hợp.
- Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa.

Bằng cách gắn học tập với cuộc sống hàng ngày, trong quan hệ với các
tình huống cụ thể mà học sinh sẽ gặp sau này, hòa nhập thế giới học đường
với thế giới cuộc sống.
Dạy cho học sinh sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể.
Thay vì tham nhồi nhét cho học sinh nhiều kiến thức lí thuyết đủ loại, dạy
học tích hợp chú trọng tập dượt cho học sinh vận dụng các kiến thức kĩ năng
học được vào các tình huống thực tế, có ích cho cuộc sống sau này làm công
dân, làm người lao động, làm cha mẹ, có năng lực sống tự lập.
3.1.4. Xác lập mối quan hệ giữa các khái niệm đã học.
Trong quá trình học tập, học sinh có thể lần lượt học những môn học
khác nhau, những phần khác nhau trong mỗi môn học nhưng học sinh phải
biết đặt các khái niệm đã học trong những mối quan hệ hệ thống trong phạm
9


vi từng môn học cũng như giữa các môn học khác nhau. Thông tin càng đa
dạng, phong phú thì tính hệ thống phải càng cao, có như vậy thì các em mới
thực sự làm chủ được kiến thức và mới vận dụng được kiến thức đã học khi
phải đương đầu với một tình huống thách thức, bất ngờ, chưa từng gặp.
3. 2. Tổ chức giờ dạy tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử.
Tổ chức giờ học trên lớp là tiến trình thực thi bản kế hoạch phối hợp hoạt
động của giáo viên và học sinh theo một cơ cấu sư phạm hợp lí, khoa học,
trong đó giáo viên giữ vai trò, chức năng tổ chức, hướng dẫn, định hướng
chứ không phải truyền thụ áp đặt một chiều. Học sinh được đặt vào vị trí
trung tâm của quá trình tiếp nhận, đóng vai trò chủ thể cảm thụ, nhận thức
thẩm mĩ, trực tiếp tiến hành hoạt động tiếp cận, khám phá, chiếm lĩnh kiến
thức.
Tổ chức hoạt động đọc hiểu vận dụng kiến thức liên môn trên lớp, giáo
viên phải chú trọng mối quan hệ giữa học sinh và nội dung dạy học, phải coi
đây là mối quan hệ cơ bản, quan trọng nhất trong cơ chế giờ học. Muốn vậy,

giáo viên phải từ bỏ vai trò, chức năng truyền thống là truyền đạt kiến thức
có sẵn cho học sinh, còn học sinh không thể duy trì thói quen nghe giảng,
ghi chép, học thuộc, rồi “làm bài” theo lối tái hiện, sao chép, làm thui chột
dần năng lực tư duy sáng tạo, khả năng tự đọc, tự tìm tòi, xử lí thông tin, tổ
chức các kiến thức một cách sáng tạo.
Tổ chức chủ đề tích hợp liên môn tuyệt đối không cho học sinh biết
trước hệ thống câu hỏi và nội dung kiến thức mà chúng ta chỉ thông báo chủ
đề dạy học để các em tự tìm tòi, khám phá nội dung liên quan.
* Ví dụ . Khi sử dụng phương pháp tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử
ở bài 20-lịch sử 7 : Nước Đại Việt thời Lê sơ (1428-1527). GV có thể sử
dụng kiến thức liên môn các môn học như: Mĩ thuật; Giáo dục công dân,
10


Văn học; Rèn kĩ năng sống cho học sinh.....
* Tích hợp Ngữ văn:
+ Khi dạy phần tình hình giáo dục, khoa cử thời Lê sơ, giáo viên nêu vấn
đề:
? Nội dung học tập thi cử thời Lê sơ?
GV sẽ giải thích để học sinh thấy được nội dung học tập, thi cử thời Lê sơ
là các sách của đạo Nho , chủ yếu có “Tứ thư” và “Ngũ kinh”.
“Tứ thư”: Gồm có :Đại Học; Trung Dung; Luận Ngữ; Mạnh Tử.
“ Ngũ Kinh “ : Kinh Thi; kinh Thư; kinh Dịch; kinh Lễ; kinh Xuân Thu.
Đây được coi là bộ sách giáo khoa chính thức dành cho hoạt động khoa cử
của người Việt .
Nho giáo do Khổng Tử sáng lập ra ở Trung Quốc từ TK VI đến TK V TCN
và được truyền bá vào nước ta từ TK I đến TK VI. Theo Nho giáo mọi người
phải coi Vua là Thiên Tử (con trời), có quyền quyết định tất cả , vì vậy Nho
giáo phục vụ đắc lực cho bộ máy nhà nước tập quyền . Nho giáo chiếm địa
vị độc tôn và được coi là quốc giáo nên Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế.

? Em hãy trình bày thành tựu nổi bật về văn học thời Lê sơ ?
- Văn học chữ Hán: Quân trung từ mệnh tập; Quỳnh uyển cửu ca và đặc
biệt phải kể đến là tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.Bình Ngô
đại cáo là một văn kiện lịch sử , cuối năm 1427( cũng có tài liệu cổ cho rằng
dầu năm 1428) được lệnh của Lê Lợi , Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo và
văn bản này được công bố vào tháng 4/1428 , bố cáo cho toàn quân , toàn
dân biết sự nghiệp bình Ngô đã hoàn thành thắng lợi , quân thù đã thảm bại
và phải rút khỏi nước ta , một vận hội mới đã mở ra cho giang sơn xã tắc.
Đây là một thành tựu đột xuất của lịch sử tư tưởng Việt Nam thời ấy.
11


- Văn học chữ Nôm: Thập giới cô hồn quốc ngữ văn ; Hồng Đức quốc âm
thi tập - Lê Thánh Tông và tập Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Quốc âm
thi tập là tập thơ Nôm của Nguyễn Trãi , đây là tập thơ Nôm cổ nhất, phong
phú nhất của Việt Nam còn lại đến ngày nay gồm 254 bài . Đặc biệt là ngôn
từ trong tác phẩm thường là từ Thuần việt thay từ Hán Việt.
? Em hãy nêu nội dung đoạn trích?
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chí
Phong tục Bắc- Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý , Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có...”
(Trích Bình Ngô đại cáo- Nguyễn Trãi.)
Giáo viên sử dụng kiến thức liên môn môn Ngữ văn để học sinh hiểu được
tác giả, nội dung đoạn trích :
Nguyễn Trãi là một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà quân sự tài ba, không

những thế ông còn là một nhà thơ, nhà văn kiệt xuất của cả dân tộc. Nguyễn
Trãi đã để lại cho nền văn học nước nhà một khối lượng tác phẩm đồ sộ,
trong số đó phải kể đến “Bình Ngô đại cáo”. Đây là bài cáo mà Nguyễn Trãi
viết thay vua Lê Thái Tổ để tuyên cáo rộng rãi trong nhân dân về quá trình
kháng chiến và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Tinh thần yêu nước được thể hiện trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn
12


Trãi là bản anh hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta ở TKXV,
tác phẩm vừa có giá trị lịch sử vừa có giá trị văn học , không chỉ lưu giữ
những sự kiện lịch sử mà còn lưu truyền lòng yêu nước , tự hào dân tộc đến
các thế hệ người Việt Nam.
? Cuộc sống của người nông dân được thể hiện như thế nào qua những câu
thơ sau ?
“ ... Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ...
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc
Ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng
Khốn nỗi rừng sâu nước độc ...”
( Trích Bình Ngô đại cáo –Nguyễn Trãi)
Những câu thơ trên được trích trong Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi ,
nói về cuộc sống của nhân dân ta dưới ách đô hộ của nhà Minh chính quyền
đô hộ ra sức bóc lột nhân dân, chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế, vơ vét
khoáng sản tài nguyên khiến đời sống nhân dân ta bị bần cùng lầm than.
Tiếp đó chiến tranh xảy ra làm cho ruộng đồng làng xóm bị tiêu điều,
những nơi chiến tranh đi qua trở thành bãi chiến trường, nhân dân loạn lạc
phiêu tán khắp nơi.
Sau cuộc KN Lam Sơn toàn thắng , đời sống của nhân dân ta có nhiều thay

đổi , thể hiện ở những câu ca :
“ Thời vua Thái Tổ Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng , trâu chẳng buồn ăn”
13


* Tích hợp môn Giáo dục công dân:
+ Khi dạy phần khoa cử thời Lê sơ, giáo viên nêu vấn đề:
? Những người đỗ đạt trong thi cử sẽ được nhà nước đối đãi như thế nào?
Những người đỗ tiến sĩ sẽ được ban mũ , áo, phẩm tước , vinh quy bái tổ,
khắc tên vào bia đá và được bổ nhiệm làm quan.
Sau khi đưa ra kiến thức trọng tâm, giáo viên sử dụng kiến thức môn Giáo
dục công dân để khắc sâu hơn nội dung đối với học sinh:
? Ngày nay, ngành giáo dục và các trường học đã có những chính sách gì
đối với học sinh có thành tích cao trong học tập?
Giáo viên liên hệ đến những tấm gương nghèo vượt khó, những học sinh
có hoàn cảnh khó khăn nhưng đã đạt thành tích cao trong học tập để động
viên , khuyến khích các em luôn có ý thức phấn đấu cao hơn nữa trong học
tập cho dù ở hoàn cảnh nào.
Giáo viên kể cho học sinh nghe một số câu chuyện mang tính giáo dục về
tấm gương người tốt- việc tốt ; cho học sinh quan sát tranh ảnh minh họa
trao quà tặng của nhà trường đến các em đạt thành tích cao trong học tập;
tìm hiểu về một số tổ chức hỗ trợ cho học sinh , sinh viên nghèo; tìm hiểu
về cuộc thi đường lên đỉnh Ôlimpia dành cho học sinh...
? Khi đến thăm Văn Miếu , có bạn học sinh leo trèo, nô nghịch , thậm chí là
ngồi cả lên bia đá, xả rác bừa bãi, trước những hành động ấy em sẽ làm gì?
Với câu hỏi này, giáo viên để học sinh tự do thảo luận các em đưa ra ý kiến
của mình trước những hành động đó. Cuối cùng giáo viên chốt lại ý kiến và
khẳng định mang tính giáo dục đối với các em : Trước mỗi một khu di tích
lịch sử , các em cần có thái độ trang nghiêm , tôn kính , không nên làm

những điều không được phép làm , chúng ta phải chung tay cùng nhau gìn
14


giữ những di tích lịch sử ấy bằng những hành động đơn giản như: Giữ gìn vệ
sinh chung, không xả rác bừa bãi, có thái độ đúng mực, không nói to, nô
nghịch ...
Qua lời giải thích của giáo viên phần nào sẽ giúp cho các em có thái độ đúng
mực và suy nghĩ đúng đắn hơn trước những hành động của mình.
+ Khi dạy phần nghệ thuật truyền thống thời Lê sơ, giáo viên nêu vấn đề:
? Bạn em lần đầu tiên đến thăm quê hương em, em hãy giới thiệu với bạn
về quê hương mình?
Sau khi học sinh giới thiệu bằng lời, giáo viên sử dụng kiến thức kiên môn
để giúp các em hiểu sâu sắc hơn về quê hương mình qua các ý :
Quê hương em có những phong cảnh gì?
Làng nghề truyền thống của quê hương em là gì?
Hiện nay làng nghề ấy còn tồn tại hay không?
Em đã làm gì để phát huy làng nghề ấy?
Sau khi học sinh giới thiệu một số nét về quê hương với người bạn, giáo
viên giúp học sinh khắc sâu hơn về nét văn hóa cổ truyền của địa phương
như:
Trong các lễ hội Côn Sơn- Kiếp Bạc, Lễ Hội Đền Tranh.- Ninh Giang,
người ta thường biểu diễn các làn điệu chèo. Mà điều đặc biệt là những
người biểu diễn các làn điệu chèo ấy thường là những người nông dân , sáng
vác cuốc ra đồng, tối họ lại quây quần bên nhau trên chiếc chiếu , trước sân
đình cùng biểu diễn những làn điệu chèo mộc mạc , gần gũi như chính bản
chất con người mộc mạc bình dị , chân quê của họ.
Thôn Bồ Dương- xã Hồng Phong- Ninh Giang có đội múa rối nước

15



thường thể hiện những tích truyện cổ, một phần giúp họ quên đi những vất
vả thường ngày một phần là ý thức giữ gìn nét văn hóa truyền ông cha ta tạo
dựng lên. Ngày nay khách xa gần và cả khách nước ngoài cũng đến đây
thưởng thức nét văn hóa truyền thống này trên quê hương chúng ta, các em
cần phải có ý thức gìn giữ, học hỏi những loại hình dân gian cổ truyền ấy...
Làng nghề truyền thống ở trên địa bàn tỉnh Hải Dương chúng ta như :
bánh gai Ninh Giang, bánh đậu xanh, nghề mộc ... Hải Dương chúng ta có
làng gốm Chu Đậu xuất hiện từ TK XIV, cực thịnh vào TK XV, XVI, tàn lụi
vào TK XVII... sang đến TK XIX gốm Chu Đậu bắt đầu có tiếng vang trên
thị trường trong và ngoài nước. Dân gian ta vẫn truyền tụng câu nói:
“ Có gốm Chu Đậu trong nhà
Như là được thấy ông bà tổ tiên”
Bởi lẽ gốm Chu Đậu có đủ các tiêu chuẩn ; Trong như ngọc, trắng như
ngà, sáng như gương, kêu như chuông, mỏng như giấy .
Những người đi thưởng lãm , đặc biệt là du khách nước ngoài không khỏi
trầm trồ trước sự khéo léo của các nghệ nhân, họ như thu gọn cả thế giới
thiên nhiên rộng lớn vào sản phẩm của mình.
Giáo viên sử dụng kiến thức liên môn giáo dục công dân để nhắc nhở học
sinh phải biết trân trọng, gìn giữ nét văn hóa truyền thống được lưu giữ từ
xưa cho đến ngày nay, các em phải học hỏi góp phần lưu giữ và phát triển
hơn nét văn hóa truyền thống vô cùng quý báu ấy.
* Tích hợp môn Mĩ thuật.
+ Khi dạy phần nghệ thuật kiến trúc thời Lê s, giáo viên nêu vấn đề:
? Nhận xét về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc thời Lê sơ.
Sau khi học sinh trả lời , giáo viên sử dụng kiến thức môn mĩ thuật miêu tả
16



thêm cho học sinh nắm được các công trình được xây dựng theo hình thức
sau:
Bia Vĩnh Lăng ( viết về vua Lê Thái Tổ ) cao 2m79, rộng 1m92, dựng
trên một con rùa đá dài 3m46, rộng 1m94.
Bia đá hình chữ nhật, trán cong hình bán nguyệt, chính giữa có biểu tượng
trời/đất (hình vuông, trong tròn), ở chính giữakhắc nổi hình rồng cuộn, uốn
khúc quanmặt Trờih với ý nghĩa thiên tử (con trời) là do sự giao hòa của trời
đất tạo nên. Hai bên là hình rồng chầu với thân dài uốn khúc cùng văn mây
nước. Diềm bia được trang trí (từ trên xuống), 9 hình rồng trang trí tinh xảo
bố cục trong 1/2 lá đề, đan xen hoa cúc dây mang phong cách nghệ thuật
thời Lý - Trần. Theo nghiên cứu, bên cạnh hình ảnh con rồng truyền thống,
thì hình rồng ở giữa trán bia Vĩnh Lăng lại mang ảnh hưởng của rồng
phương bắc(phong cách rồng yên ngựa ảnh hưởng từ thời Minh) rất rõ nét:
mắt nhìn thẳng với vẻ dữ tợn, thân mình vặn khúc, mang một dáng đe dọa.
Được bố cục gọn gàng trong một bố cục hình tròn, hình tròn đấy lại nằm gọn
trong một hình vuông.
Văn bia viết trên một mặt, trán bia viết chữ kiểu triện, bài văn trên thân bia
gồm 25 cột chữ viết chân. Cũng theo lệ thường, văn bia có lối viết sang cột
giữa chừng và viết "đài lên" một hàng các chữ như "Thái, Đế, Tằng, Hoàng,
Sắc"… để tỏ ý kính trọng nhà vua và vương quyền. Căn cứ nội dung khắc
trên bia thì tác giả văn bia là Nguyễn Trãi, soạn thảo vào niên hiệuThuận
Thiên thứ 6 (1433) ngay sau khi vua Lê Thái tổ băng hà và được táng ở Vĩnh
Lăng. Nội dung bia ngắn gọn, súc tích, thuật lại thân thế sự nghiệp của vua
Lê Thái tổ, quá trình khởi nghĩa Lam Sơn cho đến khi đánh tan quân Minh,
xây dựng lại quốc gia Đại Việt.
Công trình Lam Kinh được xây dựng từ năm 1433 sau khi Lê Thái Tổ

17



qua đời , xây dựng trên một khu đất hình chữ nhật dài 314m, rộng 254m, có
tường thành bao bọc dày 1m.
Năm 1433, sau khi vua Lê Thái Tổ mất được đem về an táng ở Lam Kinh
các điện miếu cũng bắt đầu được xây dựng.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi rõ: Lam Kinh được xây dựng vào năm
1433, vua sai Hữu Bộc xạ Lê Nhữ Lãm đến Lam Kinh dựng miếu cung từ
Thái mẫu, cùng năm đó điện Lam Kinh bị cháy.
Năm 1448, vua Lê Nhân Tông xuống chiếu cho Thái uý Lê Khả và Cục
bách tác làm lại điện miếu Lam Kinh. Lam Kinh được tiếp tục xây dựng
chưa đầy một năm, đến tháng 2 năm 1449 công việc xây dựng hoàn thành.
Năm 1456, trong dịp hành lễ ở Lam Kinh vua Lê Nhân Tông đã đặt tên
cho 3 toà của Chính điện là Quang Đức, Sùng Hiếu, Diễn Khánh.
Quy mô công trình kiến trúc Lam Kinh được ghi trong Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú như sau:
"Điện Lam Kinh đằng sau gối vào núi, trước mặt trông ra sông, bốn
bên non xanh nước biết, rừng rậm um tùm. Vĩnh Lăng của Lê Thái Tổ, Thiệu
Lăng của Lê Thái Tông và các lăng của vua nhà Lê đều ở đây cả. Lăng nào
cũng có bia. Sau điện lấy Tây hồ làm não, giống như hồ Kim Ngưu. Hồ rất
rộng lớn, nước các ngả đều chảy cả vào đó. Có con sông phát nguyên từ hồ
ấy, chạy vòng trước mặt, lòng sông có những viên đá nhỏ, tròn và nhẵn trông
rất thích mắt nhưng không ai dám lấy trộm. lại có lạch nước nhỏ, chảy từ
bên tay phải qua trước điện, ôm vòng lại như cánh cung. Trên lạch có cầu
giống như Bạch Kiều ở giảng đình điện Vạn Thọ Đông Kinh, đi qua cầu mới
tới điện. Nền điện rất cao, hai bên mở rộng, dưới chân điện có làn nước
phẳng, giống như trước điện nhà vua coi chầu. Ngoài cửa Nghi Môn có hai
con chó ngao bằng đá, tục truyền là rất thiêng. Điện làm ba ngôi liền nhau,
kiểu chữ Công, mẫu mực theo đúng kiểu các miếu ở kinh sư. Theo từng bậc

18



mà lên, rồi từ đó trông xuống thì thấy núi khe hai bên Tả, Hữu, cái nọ, cái
kia vòng quanh thật là một chỗ để xây dựng cơ nghiệp".
Tuy nhiên, các công trình kiến trúc như xưa đến nay không còn nhiều,
nhưng với ý nghĩa giá trị to lớn về mặt lịch sử, văn hoá, tâm linh với lòng
thành kính tôn vinh các vua triều Hậu Lê đã có công lao to lớn với đất nước.
Năm 1962, di tích lịch sử Lam Kinh được xếp hạng cấp quốc gia, đến 1994
được Chính phủ phê duyệt dự án trùng tu tôn tạo. Từ đó đến nay nhiều hạng
mục công trình khu di tích đã được phục hồi tôn tạo, tránh được sự hoang
phế, bảo vệ được nhiều di tích di vật cổ thời Lê.
Quần thể di tích Lam Kinh với tượng voi chầu bằng đá, một số con vật
bằng đá, bia Vĩnh Lăng ... đều được thiết kế bởi những khối đá lớn , đồ sộ
qua bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân đã trở thành những con vật có hồn
mang vẻ uy nghi nơi cung điện , lăng tẩm.
? Quan sát bia Vĩnh Lăng, quần thể di tích Lam Kinh và cho biết đặc điểm
nổi bật của các công trình kiến trúc thời Lê sơ (qua mái, ngói của các công
trình)
Giáo viên cung cấp thêm thông tin: Kiến trúc cổ phản ánh rõ nét đời sống
vật chất tinh thần của người Việt cổ như mái cong hình mui thuyền , đây là
phương tiện đi lại chủ yếu của cư dân vùng sông nước . Mái lợp ngói vảy
rồng gắn liền với tín ngưỡng dân gian thờ cúng các con vật linh thiêng đặc
biệt là con Rồng của dân tộc ta
Vậy có thể khẳng định nghệ thuật Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc thời Lê
sơ đặc sắc mang phong cách đồ sộ, kĩ thuật điêu luyện và đây cũng là bước
phát triển toàn mĩ của nghệ thuật truyền thống.
+ Khi dạy phần thương nghiệp thời Lê sơ, giáo viên nêu vấn đề:
? Liên hệ với ngày nay và cho biết việc trao đổi buôn bán của nước ta với
19



Trung Quốc diễn ra như thế nào ?
Sau khi học sinh trả lời , giáo viên phân tích thêm để học sinh nhận thức
được tình hình thương nghiệp giữa 2 nước hiện nay:
Vân Đồn là nơi buôn bán tấp nập sầm uất có vị trí tự nhiên rất thuận lợi cho
thuyền bè qua lại và trú đỗ , lại nằm trên trục hàng hải từ Trung Quốc xuống
các nước Đông Nam Á .
Do nhu cầu trao đổi rất lớn của nhân dân 2 nước nên hoạt động buôn bán
diễn ra tấp nập ở các cửa khẩu thuộc vùng biên giới 2 nước Việt – Trung tạo
nên mối quan hệ bang giao hòa hảo giữa 2 nước .
? Gần đây Trung Quốc đã có hành động gì ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa
hai nước? Trước hành động đó chúng ta phải làm gì?
Ngày 2 tháng 5 năm 2014, giàn khoan HD 981 được Trung Quốc đưa đến
tọa độ

15°29′58″B 111°12′1″Đ, cách đảo Tri Tôn (Trung Quốc gọi là

đảo Trung Kiến, thuộc quần đảo Hoàng Sa và đang là đối tượng tranh chấp
chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc) 17 hải lý (khoảng 30 km) về phía
nam, cách đảo Hải Nam 180 hải lý về phía nam, cách đảo Lý Sơn (tỉnh
Quảng Ngãi, Việt Nam) khoảng 120 hải lý về phía đông. Đảo Tri Tôn cũng
như toàn bộ quần đảo Hoàng Sa hiện đang do Trung Quốc kiểm soát từ sau
trận Hải chiến Hoàng Sa 1974 với Việt Nam Cộng hòa.
Theo Việt Nam, vị trí mà Trung Quốc đặt giàn khoan nằm hoàn toàn
trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam. Theo
Trung Quốc, giàn khoan hoạt động trong vùng biển của quần đảo Tây
Sa (quần đảo Hoàng Sa). Mặc dù, Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền đối
với đảo Tri Tôn cùng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa theo nguyên tắc chiếm hữu
thực sự, nhưng quan điểm chính thức của Việt Nam cho rằng: Quần đảo
20



Hoàng Sa, cũng như quần đảo Trường Sa, đều là tập hợp của các đảo, đá và
bãi cạn nhỏ bé, không đủ lớn để có đời sống kinh tế riêng. Trung Quốc cũng
như Việt Nam đều là các quốc gia ven biển không phải là những quốc gia
quần đảo, nên theo công ước luật biển của Liên Hợp Quốc 1982 không thể
áp dụng những quy định của quốc gia quần đảo vào các quần đảo xa bờ của
quốc gia ven biển. Mà trong trường hợp này là quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa)
không thể có đường cơ sở chung bao lấy toàn bộ quần đảo như đường cơ sở
Trung Quốc công bố năm 2006, và quần đảo này cũng không thể có vùng
đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở đó. Từng đảo thuộc
quần đảo Hoàng Sa chỉ có độc lập từng vùng lãnh hải tối đa 12 hải lý quanh
mỗi đảo mà thôi. Nên Việt Nam không đề cập đến quần đảo Hoàng Sa trong
tuyên bố về vị trí của giàn khoan Hải Dương-981, mà chỉ nói giàn khoan
nằm hoàn toàn trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
không liên quan đến vùng biển mà Trung Quốc gọi là Tây Sa (tức Hoàng Sa
theo Việt Nam).
Vị trí này thuộc trong lô dầu khí mà Việt Nam đánh số 143 và chưa thăm
dò, khai thác, nhưng được đánh giá là ít trữ lượng dầu. Vùng biển đặt giàn
khoan sâu khoảng 1.000 m, trong đó nơi Trung Quốc đặt giàn khoan thì sâu
khoảng 1.100 m. Vì vậy, Trung Quốc phải dùng giàn khoan đặc biệt, dạng
nửa chìm nửa nổi. Giàn này có hai cách định vị, dùng neo xuống đáy biển
hoặc các chân vịt để tự cố định.
Về tiềm năng dầu khí, chính quyền Việt Nam Cộng hòa trước đây đã hợp
tác với một hãng dầu khí của Mỹ nghiên cứu, và đến năm 1972 đã khảo sát
địa chấn nhưng chưa rõ kết quả khảo sát ra sao.
Trước những hành động đó chúng ta phải giữ vững độc lập chủ quyền
nhưng dùng biện pháp mềm dẻo đấu tranh ngoại giao và tranh thủ sự ủng hộ

21



của quốc tế để tránh ảnh hưởng mối quan hệ bang giao hai nước đã được vun
đắp từ lâu.
4. Kết quả đạt được .
Sau khi áp dụng phương pháp tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử tôi
nhận thấy học sinh thật sự có hứng thú hơn, các em hăng hái hơn trong tiết
học vì ngoài kiến thức lịch sử các em còn được tìm hiểu thêm kiến thức ở
các môn học khác, mang lại sự thích thú , tìm tòi ở mỗi học sinh. Sau thời
gian áp dụng sáng kiến tôi đã thu được kết qủa như sau:
- Lớp 6A giảng dạy khi chưa áp dụng phương pháp tích hợp liên
môn trong dạy học lịch sử.
- Lớp 7A đã áp dụng phương pháp tích hợp liên môn trong dạy học
lịch sử.
Lớp
7A
6A

Sĩ số
39

Giỏi

Khá

Trung Bình

Yếu

SL


%

SL

%

SL

%

SL

%

12

30,7

19

48,7

8

20,5

0

0


40
8
20
15
37,5 14
35
3
7,5
Một trong cách thức dạy học để góp phần đổi mới nội dung phương

pháp dạy học của tôi nhằm nâng cao chất lượng dạy - học của nhà trường tôi
đã sử dụng tích hợp liên môn trong giảng dạy nhằm giúp học sinh rèn luyện
kỹ năng trong dạy học lịch sử như trên tôi đã khái quát trình bày. Nhờ đó đến
nay, chất lượng dạy học lịch sử của chúng tôi nâng lên rõ ràng; Chất lượng
đại trà thường đạt 90 - 95% (khảo sát), năm nào tôi cũng có học sinh giỏi cấp
huyện và được tuyển chọn dự thi cấp tỉnh, giáo viên giảng dạy đã đạt giải
cao trong Hội thi Giáo viên giỏi cấp Huyện, cấp Tỉnh.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
22


1. Kết luận.
Như vậy, qua việc vận dụng một số kiến thức của các
môn học liên quan giáo viên có thể làm bớt đi sự khô khan,
nhàm chán của các sự kiện, sự căng thẳng trong giờ học lịch
sử, thậm chí có thể rút gọn lượng thời gian của bài mà vần
đạt hiệu quả theo yêu cầu bài học. Góp phần củng cố kiến
thức các môn học được tích hợp qua tiêt dạy.
Để phương pháp tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử

đạt được kết quả như mong muốn, đối với giáo viên và học
sinh đều phải có sự thay đổi trong cách dạy và học, cụ thể
như :
*Đối với học sinh .
Trước hết, các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động,
hấp dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học
tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng
cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn,
ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Điều quan trọng hơn là các chủ
đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng
một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm
chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng
dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn.
* Đối với giáo viên.
Dạy học theo phương pháp tích hợp liên môn không những giảm tải cho
giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên môn trong môn học của mình mà
còn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo
viên, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ môn hiện nay thành đội ngũ

23


giáo viên có đủ năng lực dạy học kiến thức liên môn, tích hợp. Thế hệ giáo
viên tương lai sẽ được đào tạo về dạy học tích hợp, liên môn ngay trong quá
trình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm.
2. Khuyến nghị
- Nhà trường cần tăng cường đưa phương pháp tích hợp liên môn vào
các dịp hội giảng
- Đưa hoạt động trên trường học kết nối vào hoạt động bắt buộc với
các tổ bộ môn và giáo viên hằng năm.

- Giáo viên cần chủ động trong việc tiếp cận chủ đề dạy học tích hợp
liên môn.
- Tích cực cho học sinh tham gia các cuộc thi liên quan đến chủ đề
tích hợp, liên môn mà Bộ đã phát động.
- Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên được giao lưu với các đơn vị
trên địa bàn thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề.
Tuy nhiên đây mới chỉ là ý chủ quan đề xuất của cá nhân
tôi , nội dung sáng kiến còn sơ lược rất mong nhận được sự
đóng góp xây dựng của các đồng chí giáo viên trong tổ
chuyên môn để chuyên đề được hoàn thiện hơn, góp phần
vào việc xây dựng chủ đề tích hợp trong dạy học Lịch sử nói
riêng và các môn học khác nói chung của chương trình giáo
dục THCS.

Xin chân thành cảm ơn !

24


Tài liệu tham khảo
- Sách giáo khoa lịch sử lớp 7.
- Tác phẩm “ Bình ngô đại cáo ” - Nguyễn Trãi.
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 7.
- Sách tham khảo lịch sử 7.
- Các văn bản hướng dẫn phương pháp dạy học theo chủ đề tích hợp
liên môn .

25



×