Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Luận văn huyện uỷ hà trung, tỉnh thanh hoá lãnh đạo chuyển dịch CCKT trên địa bàn huyện trong giai đoạn hiện nayban sua moi ngay 12 9 08

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.82 KB, 112 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xác định cơ cấu kinh tế hợp lý là một trong những vấn đề rất quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về đổi mới kinh tế, trong đó chuyển
dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) là một chủ trương lớn và rất quan trọng của
Đảng; là nội dung trọng yếu trong đường lối phát triển kinh tế thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế. Việc chuyển dịch CCKT thời gian qua tương đối hợp
lý và đúng hướng, nền kinh tế nước ta nhiều năm liên tục có tốc độ tăng trưởng
khá cao. Đánh giá kết quả 20 năm đổi mới (1986-2006) Đảng ta khẳng định:
Hơn 20 năm qua thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chúng
ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội và có ý nghĩa
lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự
thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh [20, tr.67].
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn,
sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tại Đại hội X Đảng đề ra mục tiêu
và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006-2010 là:
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát
huy sức mạnh của toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; tăng cường quốc phòng - an ninh, mở rộng quan hệ đối
ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn
định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát



2
triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại [20, tr.23].
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó đòi hỏi toàn Đảng, trước hết là các
cấp uỷ Đảng phải lãnh đạo tốt chuyển dịch CCKT hợp lý và đúng hướng ở
mỗi địa phương, đơn vị; góp phần làm cho nền kinh tế nước ta tăng trưởng
với tốc độ cao, bền vững, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH. Đây là nhiệm vụ
trọng yếu trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng địa phương.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Huyện ủy Hà Trung, tỉnh Thanh
Hoá luôn coi trọng và có nhiều tiến bộ trong lãnh đạo chuyển dịch CCKT, phát
triển kinh tế trên địa bàn huyện và đã đạt được những thành tựu quan trọng, mở
ra triển vọng mới về phát triển mạnh kinh tế - xã hội (KT - XH) của huyện. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, sự lãnh đạo của Huyện uỷ đối với
chuyển dịch CCKT trên địa bàn còn những thiếu sót, khuyết điểm: kinh tế phát
triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh; kết quả chuyển dịch CCKT mới
chỉ là bước đầu chưa thực sự vững chắc; thu nhập của nhân dân trong huyện còn
thấp; chưa coi trọng tổng kết sự lãnh đạo chuyển dịch CCKT của Huyện uỷ, rút ra
những bài học kinh nghiệm để định hướng, lãnh đạo chuyển dịch CCKT trong
thời gian tới, đảm bảo cho kinh tế của huyện phát triển với tốc độ cao, bền vững.
Trong những năm tới, sự lãnh đạo của Huyện uỷ Hà Trung về chuyển
dịch CCKT phải được tăng cường hơn nữa, nhằm thực hiện thắng lợi những
mục tiêu KT - XH giai đoạn (2006-2010), do Nghị quyết (NQ) Đại hội Đảng
bộ huyện lần thứ XIX đề ra, tạo tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế thời
kỳ (2010-2015). Đây là vấn đề rất quan trọng và cấp bách, là trọng tâm lãnh
đạo của Huyện uỷ và các cấp uỷ Đảng trong huyện.
Là cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ huyện, được học tập cơ bản
hệ thống về lý luận Xây dựng Đảng, có thời gian khá dài trực tiếp công tác ở
huyện, giữ cương vị chủ chốt nhiều năm, tôi luôn trăn trở và xác định trách
nhiệm của mình đối với việc phát triển KT - XH của huyện, trọng tâm là
chuyển dịch CCKT đảm bảo cho kinh tế của huyện phát triển nhanh, mạnh,



3
đúng hướng và bền vững. Vì vậy, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Huyện uỷ Hà
Trung, tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo chuyển dịch CCKT trên địa bàn huyện
trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên
ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, ở nước ta việc chuyển dịch CCKT ở các địa
phương đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của
các công trình đó đã được nghiệm thu, công bố và đăng tải trên các sách, báo,
tạp chí, tiêu biểu như:
* Sách và đề tài khoa học:
“Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân”
nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (Nxb CTQG), tập II, Hà Nội 1994 của GS
Ngô Đình Giao.
“Mối quan hệ công - nông nghiệp, dịch vụ (DV) trong sự hình thành
nền kinh tế thị trường ở nước ta” Nxb CTQG, Hà Nội 1997 do GS, TS Trần
Ngọc Hiên chủ biên.
“Sự lãnh đạo của Đảng trong một số lĩnh vực trọng yếu của đời sống
xã hội nước ta” do PGS Lê Văn Lý chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội 1999, trong
đó có một chương về Đảng lãnh đạo kinh tế.
“Chuyển dịch CCKT công - nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng, thực
trạng và triển vọng” Nxb CTQG, Hà Nội 1999 do PGS, TS Lê Du Phong và
PGS, PTS Nguyễn Thành Đô đồng chủ biên.
“Thực tiễn lãnh đạo chuyển dịch CCKT ở Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá
(1991 - 2001)” Nxb CTQG, Hà Nội 2002, do TS Nguyễn Dũng Sinh chủ
biên.
Ban tư tưởng văn hoá Trung ương (TW) và Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn: “Con đường công nghiệp hoá Nông nghiệp, nông thôn Việt

Nam” Nxb CTQG, Hà Nội 2003.
“Tác động của Nhà nước đối với quá trình chuyển dịch CCKT nông
nghiệp và nông thôn theo hướng CNH, HĐH” đề tài cấp Bộ năm 1997 do


4
PGS, TS Nguyễn Văn Cúc làm chủ nhiệm.
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2003 “Cơ sở khoa học của việc
đẩy mạnh chuyển dịch CCKT ở Thanh Hoá thời kỳ 2001-2010” đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ trọng điểm năm 2001-2002, do PGS, TS Mai Ngọc
Cường làm chủ nhiệm.
Viện Khoa học chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
(1999) “Sự lãnh đạo kinh tế của Tỉnh uỷ trong điều kiện hiện nay”, đề tài
khoa học cấp Bộ do GS, TS Lưu Văn Sùng làm chủ nhiệm.
Tỉnh uỷ Thanh Hoá năm 2004, Báo cáo tổng kết tình hình chuyển dịch
CCKT ở Thanh Hoá trong thời kỳ đổi mới, số 105-BC/TU ngày 20/8/2004.
* Ngoài ra còn một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ về vấn đề liên
quan đến CCKT và chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH đã bảo vệ
thành công ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, như:
- Chu Phạm Ngọc Hiển: “Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH ở Thanh Hoá", Luận văn thạc sỹ
kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000.
- Nguyễn Ngọc Hồng “Phương hướng và những giải pháp chủ yếu
nhằm chuyển dịch CCKT ngành Lâm nghiệp tỉnh Hoà Bình”, Luận án PTS
khoa học kinh tế, Hà Nội, 1996.
- Mai Văn Ninh viết về đề tài: “Tỉnh uỷ Thanh Hoá lãnh đạo kinh tế
trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Xây dựng Đảng, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006.
- Đặng Thị Kim Oanh “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo chuyển dịch
CCKT từ năm 1997-2003”, Luận văn Thạc sỹ Lịch sử Đảng, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005.
- Nguyễn Văn Phát “Chuyển dịch CCKT ngành ở Thừa Thiên Huế theo
hướng CNH, HĐH”, Luận án TS kinh tế, Hà Nội, 2004.
- Nguyễn Ngọc Thanh “Đảng bộ huyện Gia Lâm (Hà Nội) lãnh đạo
thực hiện chuyển dịch CCKT”, Luận văn Thạc sỹ Lịch sử Đảng, Học viện


5
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004.
- Đào Thị Vân “Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch CCKT
theo hướng CNH, HĐH giai đoạn 1997-2003”, Luận văn Thạc sỹ Lịch sử
Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004.
* Các bài đăng trên báo, tạp chí về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch
CCKT như:
- Phạm Quang Diệu “Chiến lược CNH lan toả - chuyển đổi nền kinh tế
từ nông nghiệp sang công nghiệp”, Viện Kinh tế Nông nghiệp - Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn.
- Vũ Ngọc Hùng “Chuyển dịch CCKT ở Quảng Nam”, Tạp chí Cộng
sản số 72 tháng 2/2004.
- Lê Thị Phương Mai “Chuyển dịch CCKT ở tỉnh Hà Tây”, Tạp chí
Cộng sản số 670 tháng 3/2003.
- Nguyễn Sỹ “Bắc Ninh đẩy nhanh lộ trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn”, Tạp chí Cộng sản số 761 tháng 8/2006.
Các công trình nghiên cứu nói trên, chủ yếu đề cập đến chuyển dịch
CCKT nền kinh tế quốc dân. Một số công trình có đề cập đến sự lãnh đạo của
Đảng bộ huyện, Tỉnh về chuyển dịch CCKT, nhưng dưới góc độ chuyên ngành
Lịch sử Đảng, quản lý kinh tế. Các bài viết đăng trên các báo, tạp chí đề cập các
khía cạnh khác nhau về chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH.
Đến nay chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu có hệ
thống, toàn diện về: “Huyện uỷ Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo

chuyển dịch CCKT trên địa bàn huyện trong giai đoạn hiện nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
+ Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về Huyện uỷ Hà
Trung lãnh đạo chuyển dịch CCKT trên địa bàn huyện từ năm 1996 đến nay.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp tăng cường sự lãnh đạo chuyển


6
dịch CCKT của Huyện uỷ Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá đến năm 2015.
* Nhiệm vụ:
+ Khái quát, làm rõ các quan niệm và những vấn đề lý luận, thực tiễn
về chuyển dịch CCKT và Huyện uỷ Hà Trung lãnh đạo chuyển dịch CCKT
trên địa bàn huyện.
+ Khảo sát, nghiên cứu thực trạng quá trình lãnh đạo chuyển dịch
CCKT của Huyện uỷ Hà Trung từ năm 1996 đến nay, chỉ ra ưu điểm, khuyết
điểm, nguyên nhân và tổng kết những kinh nghiệm.
+ Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để tăng cường sự
lãnh đạo chuyển dịch CCKT trên địa bàn huyện của Huyện uỷ Hà Trung đến
năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu: Sự lãnh đạo của Huyện uỷ Hà Trung, tỉnh
Thanh Hoá đối với chuyển dịch CCKT trên địa bàn huyện.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn nghiên cứu quá trình chuyển dịch CCKT ở huyện Hà Trung,
tỉnh Thanh Hoá và sự lãnh đạo của Huyện uỷ đối với chuyển dịch CCKT từ
năm 1996 đến nay.
- Phương hướng và những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo
chuyển dịch CCKT của Huyện uỷ Hà Trung được đề xuất trong luận văn có
giá trị đến năm 2015.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phát triển kinh tế, chuyển dịch CCKT.
* Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin; đồng thời, sử dụng các phương pháp chuyên ngành
như: phương pháp chuyên gia, phân tích và thống kê; phương pháp tổng kết


7
thực tiễn; phương pháp điều tra; phương pháp lịch sử, logíc...
6. Đóng góp của luận văn
+ Quan niệm về Huyện uỷ Hà Trung lãnh đạo chuyển dịch CCKT và
những kinh nghiệm về lãnh đạo chuyển dịch CCKT của Huyện uỷ Hà Trung,
tỉnh Thanh Hoá từ năm 1996 đến nay.
+ Những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm tăng cường sự lãnh
đạo của Huyện uỷ Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá đối với chuyển dịch CCKT trên
địa bàn huyện đến năm 2015.
+ Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình
lãnh đạo chuyển dịch CCKT của Huyện uỷ Hà Trung trong những năm tới.
Các huyện có đặc điểm, điều kiện tương tự Hà Trung có thể tham khảo kết
quả của luận văn trong quá trình lãnh đạo chuyển dịch CCKT.
+ Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể được dùng làm tài liệu
phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại trường Chính trị tỉnh Thanh
Hoá và các Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện Hà Trung và các huyện
khác của tỉnh Thanh Hoá.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.



8
Chương 1
HUYỆN UỶ HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. HUYỆN HÀ TRUNG VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TRÊN
ĐỊA BÀN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.1.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Hà
Trung, tỉnh Thanh Hoá hiện nay
1.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế
Hà Trung là huyện đồng bằng của tỉnh Thanh Hoá, trung tâm huyện lỵ
cách Thành phố Thanh Hoá 25 km về phía Bắc. Huyện có 24 xã và một thị
trấn, phía Bắc huyện giáp Thị xã Tam Điệp (tỉnh Ninh Bình), Thị xã Bỉm Sơn;
phía Nam giáp huyện Hậu Lộc; phía Tây giáp các huyện Vĩnh Lộc, Thạch
Thành; phía Đông giáp huyện Nga Sơn.
Do kiến tạo địa chất, Hà Trung có địa hình bán sơn địa nghiêng từ Tây
Bắc xuống Đông Nam, độ cao trung bình từ 3 - 5m; vùng đồi núi có độ cao
trên 100m; nhiều vùng trũng có độ cao từ 1 - 1,5m so với mặt nước biển.
Do đặc điểm tự nhiên và tiềm năng, lợi thế của địa phương, huyện Hà
Trung được chia thành 3 vùng khá rõ rệt:
Vùng Đồng bằng: gồm 16 xã, có diện tích là 9.844 ha, dân số 65.636
người. Vùng này có thế mạnh phát triển nông nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng
thuỷ sản (NTTS).
Vùng Trung du - Miền núi: gồm 8 xã, trong đó có 6 xã miền núi, diện
tích tự nhiên là 13.924,76 ha; trong đó, diện tích đồi núi là 2.821 ha, dân số
49.873 người. Đây là vùng có nhiều tài nguyên khoáng sản, có thế mạnh phát
triển vật liệu xây dựng, phát triển kinh tế gò đồi.
Vùng Đô thị: Thị trấn Hà Trung có diện tích là 201,4ha, dân số 7.500
người; là trung tâm chính trị, kinh tế - văn hoá của huyện, có thế mạnh phát

triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (CN - TTCN), dịch vụ và văn hoá.


9
Huyện Hà Trung nằm trong tiểu vùng khí hậu của vùng Bắc Trung bộ,
với hai mùa chính là mùa hạ và mùa đông; mùa hạ khí hậu nóng ẩm, ảnh
hưởng của gió tây khô nóng; mùa Đông khí hậu khô hanh, lạnh giá, sương
muối. Nhiệt độ trung bình trong năm là 23,40C; những ngày có sương muối,
nhiệt độ trung bình từ 170C-180C. Lượng mưa trung bình nhiều năm từ 1.600 1.900mm, mưa nhiều vào tháng 8-10, lượng mưa chiếm tới 80% - 86% lượng
mưa cả năm, cao nhất (tháng 9) xấp xỉ 400mm, thấp nhất (tháng 01) dưới
20mm. Hàng năm thường có 01 cơn bão ảnh hưởng trực tiếp đến huyện và
thường gây lũ lụt, mất mùa.
Về tài nguyên nước: Hà Trung có nguồn nước của hệ thống sông Hoạt
và sông Mã.
Sông Hoạt có chiều dài 35,8 km và diện tích lưu vực 250 km 2, chảy ra
biển tại cửa Càn (Nga Sơn). Tổng lượng nước sông Hoạt trung bình nhiều
năm là 150.000.000m3; lớn nhất là 223.000.000m3, nhỏ nhất là 95.000.000m3.
Sông Mã phân lưu thành 2 nhánh, nhánh thứ 2 (sông Lèn) chảy qua
huyện Hà Trung, Hậu Lộc, Nga Sơn và chảy ra biển tại cửa Lạch Sung, thuận
lợi cho khai thác nguồn nước phục vụ dân sinh, kinh tế; xây dựng bến cảng,
phát triển giao thông đường thuỷ. Ngoài các hệ thống sông Hoạt, sông Lèn,
trên địa bàn huyện còn có các suối nhỏ, hồ đập có tác dụng dự trữ, điều tiết
nguồn nước chung toàn huyện.
Về tài nguyên đất: tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện: 24.401,96ha,
trong đó đất nông nghiệp là 14.058,78 ha, chiếm 57,6% diện tích tự nhiên bao
gồm: đất trồng lúa 7.521,83 ha, đất đồng cỏ 56,46 ha, đất trồng cây hàng năm
1.037,06 ha; đất lâm nghiệp 4.172,43 ha; đất có mặt nước NTTS 588,51 ha.
Các loại đất khác 10.343,18 ha, chiếm 43% diện tích tự nhiên.
Về tài nguyên rừng: Toàn huyện có 4.172,43 ha rừng chiếm 17,1% diện
tích tự nhiên, trong đó rừng phòng hộ 1.701,91ha, rừng đặc dụng 292,86ha và

rừng sản xuất 2.177,66 ha. Đặc biệt có 300 ha rừng Sến Tam Quy là khu bảo
tồn thiên nhiên, nguồn zen thực vật quý hiếm, có các loài gỗ quí: Lim, Sến...


10
Hà Trung là huyện có nhiều khoáng sản như mỏ Sắt, Mn, Puzolan, mỏ
sét trữ lượng từ 1 - 4 triệu tấn. Quặng Quắc zít, đá xẻ ốp lát, Cao Lin...
Về kết cấu hạ tầng KT - XH: Hệ thống giao thông, đường bộ, đường sắt
và đường thuỷ trên địa bàn huyện, rất thuận lợi cho việc giao lưu với các
huyện, thị, thành phố trong tỉnh và cả nước.
Giao thông đường bộ huyện Hà Trung có tuyến Quốc lộ 1A dài 10km,
nối Hà Trung với Thị xã Bỉm Sơn về phía Bắc và thành phố Thanh Hóa về
phía Nam; tuyến Quốc lộ 217 dài 10 km nối Hà Trung với các huyện Vĩnh
Lộc, Cẩm Thủy. Ngoài ra còn có 2 tuyến đường tỉnh lộ gồm: tuyến đường 508
và đường Cừ dài 19 km, nối Hà Trung với Nga Sơn và huyện Thạch Thành.
Giao thông đường sắt, trên địa bàn huyện có đường sắt Bắc - Nam đi
qua dài 12km và một nhà ga thuận tiện vận chuyển hàng hoá, hành khách.
Giao thông đường thuỷ, Hà Trung có 2 sông chính là sông Mã và sông
Hoạt thuận tiện cho vận chuyển và giao lưu hàng hoá, các phương tiện từ 20500 tấn vận tải ra biển thông thương trong tỉnh và cả nước.
Hệ thống thủy lợi: những năm gần đây được Bộ, Tỉnh quan tâm từng
bước đầu tư nâng cấp 21 km đê Trung ương và 100 km đê địa phương cùng
các cống dưới đê; với 48 trạm bơm có tổng công suất tưới, tiêu 210.000 m 3/h
và có hai âu lớn là Báo Văn và Mỹ Quan Trang, đảm nhiệm phần lớn việc tiêu
thoát nước, phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tuy vậy, hiện tại đã có nhiều cống
dưới đê hư hỏng, hệ thống sông Hoạt đã lâu không được nạo vét, nên việc tiêu
thoát lũ gặp khó khăn, nhất là trong những năm sảy ra mưa lụt lớn (cơn bão số
5 tháng 10/2007), làm cho sản xuất và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Hệ thống điện: mạng lưới điện của Hà Trung có bước phát triển khá,
100% số xã, thị trấn có điện và 95% số dân dùng điện lưới; trên địa bàn huyện
có trạm 110KV phục vụ đắc lực cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống

của nhân dân. Song, mạng lưới điện hạ thế xuống cấp khá nặng, tỷ lệ thất
thoát điện năng lớn, chất lượng cung cấp điện còn nhiều hạn chế. Hiện nay
huyện đã quy hoạch phát triển lưới điện và đang từng bước đầu tư, chuyển đổi
phương thức quản lý kinh doanh điện.


11
Hệ thống thông tin, liên lạc của huyện có bước phát triển nhanh chóng,
trang thiết bị khá hiện đại đã nâng cao chất lượng dịch vụ. Toàn huyện có 1
Bưu điện trung tâm và 25 điểm Bưu điện văn hóa xã; đến hết năm 2007, toàn
huyện có 25.500 máy điện thoại, bình quân 20 máy/100 dân, 25/25 xã, thị trấn
có máy điện thoại, đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH.
Hệ thống cấp, thoát nước sinh hoạt: trên địa bàn huyện hiện nay có 01
Nhà máy nước ngầm với công suất 2.000 m 3/h, phục vụ cho nhân dân thị trấn
Hà Trung và một số xã lân cận. Đa số nhân dân trong huyện sử dụng nước
mưa, nước giếng để sinh hoạt; đến hết năm 2007, toàn huyện có 95% dân số
sử dụng nước hợp vệ sinh. Tuy nhiên, việc thoát nước chưa tốt nên ảnh hưởng
đến môi trường.
Tóm lại: Huyện Hà Trung có vị trí địa kinh tế thuận lợi về giao thông
thuỷ, bộ, sắt, cận kề với khu kinh tế động lực phía Bắc của tỉnh Thanh Hoá
(khu công nghiệp Bỉm Sơn - Thạch Thành). Có tài nguyên, khoáng sản phong
phú, qui mô, trữ lượng trung bình, chất lượng tốt; kết cấu hạ tầng những năm
qua được tăng cường đầu tư đáng kể, nhất là giao thông, thuỷ lợi, điện và các
công trình phúc lợi. Với những đặc điểm tự nhiên, kinh tế như vậy đang tạo
điều kiện thuận lợi cho huyện Hà Trung chuyển dịch mạnh mẽ CCKT trong
tời gian tới, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân và xây dựng huyện
Hà Trung nhanh chóng trở thành huyện giàu mạnh.
1.1.1.2. Đặc điểm chính trị, văn hoá - xã hội
Huyện Hà Trung nằm ở phía Bắc tỉnh Thanh, có vị trí rất quan trọng
trong lịch sử chống giặc ngoại xâm. Nơi đây Nguyễn Huệ - Quang Trung đã

dừng chân chỉnh đốn quân sỹ trên đường tiến quân đánh giặc nhà Thanh giải
phóng Thăng Long năm 1789, đem lại nền độc lập cho dân tộc.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Hà Trung là địa bàn trọng yếu, phối
hợp thành lập các chiến khu Ngọc Trạo (Thạch Thành); Ba Đình (Nga Sơn)
ngăn chặn không cho quân Pháp tiến đánh Thanh Hoá, giữ an toàn vùng hậu
phương lớn cho cả nước. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân


12
và lực lượng vũ trang Hà Trung đã chiến đấu anh dũng giữ vững mạch máu
giao thông, phục vụ sản xuất và chiến đấu; đóng góp không nhỏ sức người,
sức của giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Huyện và 12 xã của
huyện được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân.
- Về chính trị: trong công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Huyện
uỷ, KT - XH có bước phát triển khá tốt, chính trị ổn định; hệ thống chính trị
từ huyện đến cơ sở được củng cố, phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng,
hoạt động của chính quyền trong huyện có nhiều đổi mới, năng động, sáng tạo
và hiệu quả hơn. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng; trình
độ, năng lực tổ chức chỉ đạo và kinh nghiệm thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ
chốt, đảng viên trong huyện được nâng lên một bước.
Nhân dân trong huyện phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
trước hết là Huyện uỷ và cấp uỷ Đảng trong huyện, khắc phục mọi khó khăn,
vượt qua thử thách, đoàn kết thống nhất; ra sức thi đua lao động sản xuất,
chuyển dịch CCKT, xây dựng nông thôn mới; đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân được cải thiện rõ rệt, bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc.
- Về văn hoá, xã hội:
+ Dân số trung bình của huyện năm 2007, có 127.445 người. Trong đó,
nam chiếm 48%, nữ chiếm 52%. Dân tộc Kinh có 125.849 người, chiếm
98,7%; dân tộc Mường 1.596 người, chiếm 1,3% dân số toàn huyện. Dân cư

nông thôn chiếm 94%, dân cư đô thị 6%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân
hàng năm là 0,7%, toàn huyện có 29.752 hộ, trong đó số hộ nông nghiệp là
22.692 hộ, chiếm 76,3% tổng số hộ trong huyện; số hộ phi nông nghiệp 7.060
hộ, chiếm 23,7%; lao động nông nghiệp 53.600, chiếm 81,2% lao động xã
hội. Huyện đạt phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và Trung học cơ sở; có trên 40%
số trường đạt chuẩn quốc gia, số phòng học kiên cố đạt 78%, tỷ lệ người biết
chữ chiếm trên 99% dân số, cao hơn mức bình quân của tỉnh; mỗi năm có từ
700 - 800 em đậu vào Đại học, Cao đẳng. Năm 2007, Hà Trung là huyện thứ


13
hai trong tỉnh đạt chuẩn quốc gia về y tế; do đó, việc chăm sóc sức khoẻ ban
đầu, phòng, khám chữa bệnh cho nhân dân được nâng lên một bước đáng kể.
+ Số lượng và chất lượng lao động: năm 2007, toàn huyện có 66.015
lao động, chiếm 52% dân số. Tỷ lệ lao động được đào tạo chiếm 16,63% tổng
số lao động toàn huyện; trong đó, số lao động có trình độ Đại học, trên Đại
học chiếm 12,5 % số lao động được đào tạo; Trung cấp chiếm 24,6%, công
nhân và lao động qua đào tạo 62,9%.
+ Lễ hội: ở Hà Trung có nhiều lễ hội văn hoá đặc sắc như: lễ hội Hàn
Sơn, đốt đuốc Đình Liệu…, nhiều di tích lịch sử, văn hoá; cùng với Thành
nhà Hồ (Vĩnh Lộc), hang Từ Thức (Nga Sơn), Đền Bà Triệu (Hậu Lộc)... hình
thành quần thể di tích, danh lam thắng cảnh đẹp, là tiềm năng lớn để phát
triển kinh tế du lịch trong thời gian tới.
Bên cạnh những đặc điểm thuận lợi về tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn
hoá - xã hội nêu trên, Hà Trung đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức
trong thời kỳ hội nhập kinh tế và phát triển: điểm xuất phát thấp về kinh tế,
tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh, thiếu tính bền
vững; sản xuất nông nghiệp vẫn là chủ yếu và thường bị úng lụt, gây nhiều
khó khăn cho sản xuất, đời sống, CN - TTCN phát triển chưa mạnh; CCKT
chuyển dịch chậm, cơ cấu lao động chủ yếu là trong nông nghiệp, số lao động

có tay nghề kỹ thuật trên các lĩnh vực còn quá thấp, chủ yếu là lao động giản
đơn, thủ công; việc thu hút đầu tư còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển KT - XH; văn hoá, xã hội tuy có nhiều tiến bộ; song,
nhiều mặt còn hạn chế, chưa tạo ra động lực mạnh để thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch CCKT trên địa bàn huyện.
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh
Hoá hiện nay
1.1.2.1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- CCKT: là một phạm trù kinh tế học, phản ánh cấu trúc bên trong, tỷ lệ
và các mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của hệ thống kinh tế. CCKT


14
được tập hợp có tổ chức, các yếu tố cấu thành hệ thống có những mối quan hệ
liên kết hữu cơ với nhau. CCKT quyết định bản chất, nội dung, sự tồn tại và
phát triển của hệ thống kinh tế.
+ Nền kinh tế quốc dân là một hệ thống động và phức tạp (cả trong
không gian và thời gian), bao gồm nhiều cơ cấu nhỏ hơn có tính độc lập
tương đối và phụ thuộc lẫn nhau, có sự khác nhau về bản chất và hoạt động
theo qui luật khác nhau; thường xuyên tác động qua lại với qui mô và cường
độ khác nhau trong một trật tự và hình thành nên một cơ cấu nhất định của
nền kinh tế hay một CCKT.
Khi phân tích quá trình phân công lao động xã hội, C.Mác chỉ rõ:
“chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp
với quá trình phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất” [37, tr.70].
Giáo trình kinh tế học chính trị Mác - Lê nin có đoạn viết: “Cơ cấu kinh
tế quốc dân là tổng thể các cơ cấu ngành, vùng và các thành phần kinh tế.
Trong hệ thống các cơ cấu đó cơ cấu ngành là quan trọng nhất” [26].
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2003 thì: “Cơ cấu kinh
tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương

đối ổn định hợp thành” [51, tr.610].
Vậy CCKT là một phạm trù kinh tế, thể hiện các mối quan hệ giữa các
bộ phận hợp thành nền kinh tế, bao gồm các lĩnh vực sản xuất, phân phối,
trao đổi và tiêu dùng; các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, giao
thông vận tải, dịch vụ, thương mại...; các thành phần kinh tế nhà nước, tập
thể, tư nhân,... Mỗi vùng, mỗi ngành lại có CCKT riêng trong các thời kỳ phát
triển tuỳ theo điều kiện tự nhiên, địa lý, KT - XH cụ thể.
+ CCKT thể hiện ở các loại hình: trên quan điểm tổng hợp, về cơ bản
CCKT thể hiện là CCKT ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh
tế. Trong đó CCKT ngành là nội dung cơ bản và có tính chất quyết định.
Cơ cấu kinh tế ngành: là bộ phận cấu thành cơ bản của nền kinh tế quốc
dân, nòng cốt trong chiến lược phát triển kinh tế. Nó phản ánh phần nào trình


15
độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất (LLSX). Thay đổi mạnh mẽ CCKT ngành là nét đặc trưng
của các nước đang phát triển như ở nước ta.
Phân tích CCKT ngành bao gồm các ngành lớn là nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ. Trong mỗi ngành lại phân chia thành các ngành nhỏ hơn,
nằm trong một CCKT, tác động qua lại lẫn nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển.
Nông nghiệp, bao gồm nông - lâm - thuỷ sản (N - L - TS) là ngành trực
tiếp sản xuất vật chất chủ yếu, tạo ra sản phẩm thiết yếu cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội, là nơi cung cấp nhân lực, nguyên liệu, là thị trường rộng lớn
tiêu thụ sản phẩm cho CN - TTCN và dịch vụ.
Công nghiệp, bao gồm công nghiệp chế tạo, khai khoáng và luyện kim,
chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, công nghiệp điện tử,... Công
nghiệp quyết định sản xuất ra tư liệu sản xuất (TLSX) và tư liệu tiêu dùng. Do
vậy, nó đóng vai trò rất quan trọng trong CCKT, phát triển kinh tế chung của
quốc gia và mỗi địa phương.

Dịch vụ, là cầu nối giữa sản xuất nông nghiệp với công nghiệp, sản
xuất với tiêu dùng; thực hiện quá trình trao đổi giữa các vùng, miền, giữa
thành thị với nông thôn, trong nước với nước ngoài. Trong quá trình sản xuất,
dịch vụ có vai trò đáp ứng đầy đủ các nhu cầu đầu vào và đầu ra cho sản
phẩm; nó thực hiện mối quan hệ tương tác, giữa các bộ phận hợp thành
CCKT. Khi trình độ phát triển kinh tế hàng hoá ngày càng cao, sự phân công
lao động xã hội ngày càng nhanh, càng sâu rộng thì tỷ lệ dịch vụ trong CCKT
ngày càng lớn.
CCKT ngành luôn vận động và phát triển không ngừng, nhất là trong
nền kinh tế thị trường. Do vậy, điều quan trọng là nhận thức đúng đắn, thấy rõ
tính quy luật của sự vận động, tìm ra phương hướng chuyển dịch CCKT
ngành phù hợp với bộ phận khác trong CCKT. Xu hướng vận động của CCKT
ngành theo hướng tiến bộ là giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng
ngành công nghiệp và dịch vụ trên hai phương diện chủ yếu là giá trị sản xuất


16
và lực lượng lao động xã hội. CCKT ngành còn định hướng và quyết định cơ
cấu đầu tư vào mỗi ngành trong từng thời kỳ; để từ đó, đánh giá được hiệu
quả đầu tư mỗi ngành, tính toán được cơ cấu sản phẩm và khả năng thoả mãn
nhu cầu thị trường từng loại sản phẩm.
Cơ cấu vùng kinh tế: thể hiện sự phân công lao động trên lãnh thổ với
lợi thế về điều kiện tự nhiên, KT - XH của mỗi vùng, hình thành các vùng
chuyên môn hoá, đa dạng hoá; nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực và tiềm
năng kinh tế trong vùng. Cơ cấu vùng kinh tế gắn chặt với CCKT ngành, hợp
thành hai mặt của quá trình phát triển.
Xu hướng vận động của cơ cấu vùng kinh tế là phát triển theo hướng
tăng cường hợp tác, liên kết các vùng làm cho mỗi vùng có CCKT hợp lý và
các vùng đều phát triển, giảm sự chênh lệch giữa các vùng với nhau.
Cơ cấu thành phần kinh tế: chế độ sở hữu là cơ sở hình thành cơ cấu

thành phần kinh tế. Đại hội X Đảng chỉ rõ ở nước ta hiện nay có 5 thành phần
kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tâp thể, kinh tế tư nhân (kinh tế cá thể,
doanh nghiệp tư nhân), kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, đều là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN), bình đẳng trước pháp luật và cùng phát triển.
Xu hướng vận động của các thành phần kinh tế là phát huy vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, xây
dựng các tập đoàn kinh tế mạnh làm nòng cốt trong nền kinh tế Quốc dân.
Đồng thời, khuyến khích và tạo môi trường pháp lý, điều kiện thuận lợi để các
thành phần kinh tế khác cùng phát triển và thúc đẩy chuyển dịch CCKT.
Ba bộ phận cơ bản hợp thành CCKT là: CCKT ngành, cơ cấu thành
phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế; chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó CCKT ngành có vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu vùng kinh tế có ý
nghĩa trong việc hoạch định chiến lược phát triển KT - XH, đảm bảo sự phát
triển cân đối, hài hoà giữa các vùng, miền; đồng thời, phát huy được tiểm


17
năng, lợi thế của từng vùng. Cơ cấu thành phần kinh tế phù hợp, sẽ tạo ra nội
lực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển. Nhưng CCKT ngành và thành
phần kinh tế, chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian
lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Mặt khác, việc phân bố không gian lãnh thổ
một cách hợp lý có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy phát triển các thành phần
kinh tế trên lãnh thổ và sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Xác định CCKT hợp lý có ý nghĩa chiến lược quan trọng, thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế nhanh với tốc độ cao và bền vững, ổn định chính trị ở mỗi
quốc gia, mỗi địa phương. Để có CCKT hợp lý, ngoài sự phụ thuộc vào các
yếu tố như: điều kiện tự nhiên, KT - XH, lợi thế so sánh của mỗi vùng, địa
phương, quốc gia và khả năng tổ chức sản xuất, quản lý kinh tế; thì vai trò

lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành một cách năng động, sáng tạo của TW Đảng và
các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương là rất quan trọng.
CCKT hợp lý phải thoả mãn được 5 tiêu chí cơ bản:
CCKT phải phù hợp với qui luật khách quan, trước hết là qui luật kinh
tế cơ bản.
Khai thác hợp lý và phát huy được nguồn lực, tiềm năng của đất nước,
từng vùng, từng địa phương, vận dụng được tiến bộ khoa học - kỹ thuật (KH KT) và công nghệ hiện đại.
Tạo nên sự phát triển cân đối, phát huy lợi thế của các vùng, các ngành
kinh tế.
Sự gắn kết giữa các loại thị trường trong và ngoài nước, mở rộng quan
hệ hợp tác kinh tế quốc tế và phù hợp với xu thế kinh tế, chính trị của khu vực
và thế giới.
Tạo được tích luỹ ngày càng tăng cho nền kinh tế quốc dân, xã hội phát
triển lành mạnh, giữ vững quốc phòng-an ninh.
- Chuyển dịch CCKT: Trong quá trình sản xuất và tái sản xuất, LLSX
luôn biến động. Vì vậy, để phù hợp với qui luật phát triển kinh tế khách quan,
CCKT cũng thường xuyên biến đổi (lượng và chất) từ trạng thái này sang trạng
thái khác cho phù hợp. Sự biến đổi ấy được gọi là sự chuyển dịch CCKT.


18
Nói cách khác chuyển dịch CCKT là quá trình làm thay đổi các yếu
tố lạc hậu hoặc không còn phù hợp của CCKT hiện tại và được bổ sung,
thay thế bằng các yếu tố mới tiên tiến làm cho CCKT mới phù hợp hơn.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2003:
Chuyển dịch CCKT là quá trình cải biến KT - XH từ trạng thái
lạc hậu, mang nặng tính chất tự cấp, tự túc từng bước chuyên môn
hoá hợp lý, trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại; trên cơ sở đó, tạo
ra năng xuất lao động cao, hiệu quả kinh tế cao và nhịp độ tăng
trưởng mạnh, cho nền kinh tế nói chung. Chuyển dịch CCKT bao

gồm việc chuyển biến CCKT theo ngành, theo vùng lãnh thổ và các
thành phần kinh tế [51, tr.535].
Như vậy, thực chất của chuyển dịch CCKT là sự điều chỉnh cơ cấu trên
3 mặt là CCKT ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế.
Nhằm hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu KT - XH
đã được xác định cho từng thời kỳ phát triển.
Quá trình chuyển dịch CCKT không phải là tự phát mà do con người
tác động, trên cơ sở vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan. Quá trình
chuyển dịch CCKT gắn liền với quá trình phân công lao động xã hội, sự biến
đổi của LLSX và quan hệ sản xuất (QHSX) phù hợp với trình độ phát triển
của LLSX.
Trong thời kỳ quá độ, chuyển dịch CCKT là quá trình chuyển từ nền
kinh tế có CCKT: nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang CCKT: công
nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Đặc trưng cơ bản của quá trình chuyển dịch là
giá trị sản xuất của 3 ngành trên đều tăng qua các giai đoạn, nhưng tỷ trọng
của ngành nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng của công nghiệp, dịch vụ tăng dần.
Tỷ lệ lao động trong nông nghiệp giảm, trong công nghiệp và dịch vụ ngày
càng tăng, tạo cho kinh tế tăng trưởng nhanh, cao và bền vững.
Quá trình chuyển dịch CCKT chịu tác động của nhiều yếu tố được chia
thành 3 nhóm chính, đó là: các yếu tố tự nhiên, KT - XH; khác quan, chủ
quan; bên trong, bên ngoài.


19
Thành tựu và kết quả đạt được hơn 20 năm qua thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng; nguyên nhân quan trọng là CCKT chuyển dịch đúng hướng và
hiệu quả hơn, tỷ trọng N - L - TS giảm dần, công nghiệp - xây dựng (CN XD) và dịch vụ tăng dần trong CCKT quốc dân, kinh tế tăng trưởng khá và
ngày càng có tính bền vững. Tuy nhiên, hiện nay nước ta vẫn trong tình trạng
kém phát triển. Vì vậy, Đảng ta chủ trương tiếp tục phát triển mạnh kinh tế thị
trường định hướng XHCN, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,

để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp.
Chuyển dịch mạnh mẽ CCKT, là một trong những nội dung kinh tế cốt
lõi trong toàn bộ sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng, tiến lên CNXH.
Quá trình chuyển dịch CCKT ở nước ta là một quá trình phức tạp kéo dài
trong suốt cả thời kỳ quá độ, chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Do đó, đòi
hỏi Đảng, Nhà nước, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong cả nước
phải quan tâm hơn nữa trong lãnh đạo, chỉ đạo, rút kinh nghiệm thời gian qua;
nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước đi trước, đề ra chiến lược và
bước đi thích hợp, chuyển dịch mạnh mẽ CCKT đúng hướng và hiệu quả cao.
Từ thực tiễn lãnh đạo chuyển dịch CCKT trên địa bàn, có thể khái quát
về chuyển dịch CCKT ở huyện Hà Trung hiện nay gồm những nội dung sau:
+ Trên cơ sở chủ trương, NQ của Đảng, của Tỉnh uỷ Thanh Hoá về
chuyển dịch CCKT, Huyện uỷ và các cấp uỷ Đảng trong huyện phải nắm
vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn vào điều kiện cụ thể của huyện, xây
dựng NQ và tập trung lãnh đạo chuyển dịch mạnh mẽ CCKT theo đúng qui
hoạch, kế hoạch, nội dung và mục tiêu NQ Huyện uỷ đề ra.
+ Xác định đúng đắn CCKT của huyện trong từng thời kỳ phát triển,
chú trọng các thành phần kinh tế, ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong
việc chuyển dịch CCKT trên địa bàn huyện để tập trung lãnh đạo. Hiện nay
các thành phần kinh tế được xác định trên địa bàn huyện Hà Trung là: kinh tế
Nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân.
+ Từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xác định rõ tiềm năng và lợi thế của
địa phương, qui hoạch thành 3 vùng kinh tế: đồng bằng, trung du - miền núi


20
và đô thị để có chủ trương, NQ lãnh đạo đúng đắn phát triển đồng bộ cả các
vùng kinh tế và toàn huyện.
+ Huyện uỷ và cấp uỷ Đảng trong huyện bàn và quyết định những chủ
trương lớn và ra NQ quan trọng phát triển các thành phần kinh tế, kinh tế

ngành và vùng kinh tế để chuyển dịch mạnh mẽ CCKT theo đúng định hướng
NQ của Đảng, của Huyện uỷ và NQ Đại hội Đảng bộ huyện và cơ sở.
+ Phát huy vai trò to lớn của Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân trong việc xây dựng đề án, dự án quan trọng, phát huy nội
lực và động viên nhân dân thực hiện tốt chủ trương, NQ của Đảng, của Huyện
uỷ về chuyển dịch CCKT đạt kết quả.
+ Trong quá trình lãnh đạo chuyển dịch CCKT trên địa bàn huyện,
Huyện uỷ phải thường xuyên tranh thủ sự lãnh đạo của TW Đảng, các Bộ của
Tỉnh uỷ, các ngành cấp tỉnh và huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển,
lãnh đạo chuyển dịch CCKT đạt kết quả cao.
Từ lý luận và thực tiễn lãnh đạo chuyển dịch CCKT trên địa bàn huyện
thời gian qua, có thể đưa ra quan niệm về chuyển dịch CCKT ở huyện Hà
Trung hiện nay, là toàn bộ hoạt động kinh tế nhằm phát triển các thành phần
kinh tế, vùng kinh tế, các ngành kinh tế một cách đồng bộ trên địa bàn huyện
đạt giá trị ngày càng lớn, theo đúng chủ trương, NQ của Huyện uỷ, NQ Đại
hội Đảng bộ huyện và cơ sở đề ra trong từng thời gian, thời kỳ phát triển,
kinh tế của huyện tăng trưởng với tốc độ cao và bền vững
1.1.3. Đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của Huyện uỷ Hà Trung hiện nay
1.1.3.1. Đặc điểm của Huyện uỷ huyện Hà Trung
Căn cứ vào Điều lệ Đảng, các văn bản hướng dẫn của Đảng và của cấp
uỷ cấp trên, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hà Trung (gọi tắt là cấp uỷ
huyện) là cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ huyện giữa 2 nhiệm kỳ Đại hội, do
Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIX (nhiệm kỳ 2005-2010) bầu ra
gồm: 37 đồng chí, trong đó nam 31 đồng chí chiếm 84%, nữ 6 đồng chí chiếm
16%. Ban Chấp hành bầu 11 đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ Huyện uỷ và


21
bầu 01 đồng chí Bí thư - Phụ trách chung, 02 đồng chí Phó Bí thư (01 đồng
chí Phó Bí thư Thường trực, 01 đồng chí Phó Bí thư - Chủ tịch Uỷ ban nhân

dân (UBND) huyện.
Các đồng chí Thường vụ Huyện uỷ được phân công các chức danh như
sau: Bí thư, Phó Bí thư, Trưởng các Ban của Đảng, Trưởng Công an, Quân sự,
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân (HĐND), một Phó Chủ tịch UBND huyện.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện được cơ cấu: cơ quan Huyện uỷ 08
đồng chí, UBND huyện 10 đồng chí; xã, Thị trấn 06 đồng chí; Bí thư, Thủ
trưởng các ngành 05 đồng chí; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể 04 đồng chí;
khối Nội chính 04 đồng chí.
Về trình độ chuyên môn: Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, thạc sỹ có
4/37 đồng chí chiếm 11%, Đại học có 28/37 đồng chí chiếm 75%, Trung cấp
có 5/37 đồng chí chiếm 14%.
Về trình độ chính trị: Cử nhân, Cao cấp chính trị, Ban Chấp hành Đảng
bộ huyện có 30/37 đồng chí, chiếm 81%; Trung cấp 7/37 đồng chí, chiếm
19%; tuổi đời bình quân là 46,7 (năm 2005).
Đặc điểm và vai trò của cấp uỷ huyện Hà Trung (Huyện uỷ Hà Trung)
gắn liền với nhiệm vụ của cấp huyện, là cấp trên trực tiếp của cơ sở chịu trách
nhiệm quán triệt, triển khai và lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi mọi chủ
trương của Đảng và Nhà nước, của Tỉnh uỷ và Huyện uỷ trên địa bàn huyện.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hà Trung là hạt nhân lãnh đạo chính trị,
đại biểu cho trí tuệ, năng lực và phẩm chất đạo đức của Đảng bộ. Các đồng
chí cấp uỷ viên được lựa chọn kỹ từ các tổ chức cơ sở Đảng trong Đảng bộ
huyện theo đúng qui trình, qui hoạch, đủ tiêu chuẩn và được bầu một cách dân
chủ, công khai theo đúng Điều lệ Đảng.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện có nhiệm vụ chung là tiếp thu, quán
triệt đầy đủ các Chỉ thị, NQ của cấp trên và cấp mình; đồng thời, chịu trách
nhiệm trước Đảng bộ huyện và cấp trên trong việc lãnh đạo tổ chức thực hiện
tốt Chỉ thị, NQ của Đảng trên địa bàn huyện đạt kết quả; là cơ quan lãnh đạo


22

công tác xây dựng Đảng bộ huyện trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ
chức; Huyện uỷ thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tất cả tổ chức Đảng và đảng viên của Đảng bộ huyện, hoàn thành tốt nhiệm vụ
chính trị được giao.
Để phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện của Huyện uỷ trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong chuyển dịch CCKT trên địa bàn huyện, Huyện uỷ
quan tâm xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo,
đảm bảo cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội
trên địa bàn hoạt động đúng đường lối, chủ trương của Đảng, xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân; tích cực xây dựng Đảng, Chính quyền, phát huy được
tinh thần cách mạng, yêu nước của nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương
của Đảng, NQ của Huyện uỷ và cấp uỷ Đảng trong huyện.
1.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ cụ thể, trách nhiệm và quyền hạn của
Huyện uỷ Hà Trung
- Chức năng của Huyện uỷ Hà Trung:
+ Vai trò, chức năng chung nhất của Đảng là đội tiên phong chính trị
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chức năng
chủ yếu của cấp uỷ Đảng nói chung và của Huyện uỷ Hà Trung nói riêng là
chức năng lãnh đạo chính trị đối với toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội trên
địa bàn huyện một cách trực tiếp và toàn diện.
+ Chức năng lãnh đạo của Huyện uỷ thể hiện ở việc cụ thể hoá, thể chế
hoá, các chủ trương đường lối, chiến lược KT - XH của Đảng và của Tỉnh uỷ
Thanh Hoá; xác định nhiệm vụ chính trị của địa phương mình đúng đắn, sáng
tạo; tạo ra những chuyển biến tiến bộ trong việc tổ chức thực hiện các NQ,
Chỉ thị của Đảng. Làm tốt công tác cán bộ, làm trong sạch và nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, đội ngũ đảng viên; thường
xuyên chăm lo củng cố và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và củng cố
mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân.
+ Chức năng lãnh đạo của Huyện uỷ còn được thể hiện rõ ở việc kiểm
tra và giám sát, lãnh đạo mà không kiểm tra coi như không lãnh đạo. Vì vậy,



23
lãnh đạo và kiểm tra, giám sát là 2 mặt cơ bản thống nhất trong hoạt động của
mỗi cấp uỷ Đảng. Nội dung kiểm tra, giám sát của cấp uỷ Đảng chủ yếu là
việc thực hiện các NQ, chủ trương, nguyên tắc, Điều lệ Đảng. Thông qua
kiểm tra, giám sát cấp uỷ Đảng nâng cao năng lực lãnh đạo của mình.
Trên cơ sở Điều lệ Đảng và thực tiễn trên địa bàn huyện Hà Trung,
Huyện uỷ xây dựng và ban hành qui chế làm việc của Uỷ ban kiểm tra
(UBKT) Huyện uỷ khoá XIX (2005-2010), gồm 4 chương với 10 điều qui
định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc và chế độ làm việc của UBKT
Huyện uỷ; mối quan hệ công tác giữa UBKT Huyện uỷ với các Ban của
Huyện uỷ; chế độ báo cáo với Ban Thường vụ và Ban Chấp hành Huyện uỷ
về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng. Nhiệm vụ cụ thể của
Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm và các thành viên UBKT Huyện uỷ.
- Nhiệm vụ cụ thể của Huyện uỷ Hà Trung:
Tuỳ theo phạm vi và đặc điểm của Đảng bộ, mỗi cấp uỷ có những chức
năng, nhiệm vụ cụ thể khác nhau. Căn cứ vào nguyên tắc, Điều lệ Đảng và
điều kiện cụ thể của huyện, Huyện uỷ Hà Trung có các nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Lãnh đạo các mặt công tác của Đảng bộ huyện trong thời gian giữa
hai kỳ Đại hội, trong đó lãnh đạo chuyển dịch CCKT, phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
+ Quán triệt và tổ chức thực hiện các NQ Đại hội Đảng toàn quốc, NQ
của cấp trên và của Đảng bộ huyện; vận dụng đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước trên địa bàn huyện; đồng thời, quyết định những
chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ huyện đúng đắn và sáng tạo.
+ Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ huyện vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức; xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, đội ngũ cán bộ,
đảng viên TSVM.
+ Tích cực tham gia vào việc xây dựng và cụ thể hoá đường lối, chính

sách của Đảng, chuẩn bị nội dung và kế hoạch tiến hành Đại hội Đảng từ cơ
sở đến huyện theo qui định của Điều lệ Đảng và sự chỉ đạo của cấp trên.


24
+ Xây dựng và thực hiện qui chế làm việc của cấp uỷ, bảo đảm vai trò
lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị trên địa bàn huyện; sự đoàn kết
thống nhất trong cấp uỷ Đảng, trước hết là trong Ban Thường vụ, thường trực
cấp uỷ; lãnh đạo thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội Đảng
bộ huyện đề ra và nhiệm vụ của cấp trên giao.
- Trách nhiệm và quyền hạn của Huyện uỷ Hà Trung:
Căn cứ vào Điều lệ Đảng, hướng dẫn của Tỉnh uỷ, đặc điểm và phạm vi
lãnh đạo trên địa bàn huyện; trách nhiệm và quyền hạn của Huyện uỷ Hà
Trung, bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
+ Quyết định các chủ trương, biện pháp quan trọng để cụ thể hoá đường
lối, NQ của Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và lãnh đạo tổ chức thực
hiện các Chỉ thị, NQ của TW, của Tỉnh uỷ.
+ Quyết định các chủ trương, biện pháp lớn về tổ chức và cán bộ, về bố
trí, đề bạt và thi hành kỷ luật đối với cán bộ thuộc diện cấp uỷ huyện quản lý.
Thường xuyên lãnh đạo công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền; định kỳ nghe báo cáo và lãnh đạo cấp uỷ Đảng trực thuộc, các ban của
Huyện uỷ thực hiện chức trách, nhiệm vụ theo qui định của Điều lệ Đảng.
Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện các mặt hoạt động của cấp uỷ Đảng.
+ Lãnh đạo Đại hội Đảng bộ, chi bộ trực thuộc và chuẩn bị Đại hội
Đảng bộ huyện, thường xuyên báo cáo với cấp trên và thông báo cho cấp dưới
tình hình chung và hoạt động của cấp uỷ, bảo đảm chế độ thông tin cho từng
cấp uỷ viên và cấp uỷ cơ sở theo đúng quy định của Điều lệ Đảng.
+ Trách nhiệm và quyền hạn của Huyện uỷ Hà Trung được cụ thể hoá
thành qui chế làm việc, phù hợp với đặc điểm tình hình của Đảng bộ huyện
trong giai đoạn hiện nay.

Qui chế làm việc của Huyện uỷ Hà Trung khoá XIX (2005-2010) gồm:
3 chương với 18 điều, qui định nội dung cụ thể về trách nhiệm và quyền hạn
của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện uỷ, Bí thư, các Phó Bí thư; xây
dựng chương trình công tác toàn khóa, xây dựng và ban hành quy chế làm


25
việc của UBKT Huyện uỷ; xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển KT XH, quốc phòng - an ninh, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị; chủ trương
đầu tư các dự án quan trọng có ảnh hưởng lớn đến KT-XH, quốc phòng-an
ninh. Qui hoạch, quyết định về tổ chức bộ máy và cán bộ của hệ thống chính
trị được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ phân cấp quản lý. Kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các Chỉ thị, NQ của Huyện uỷ và cấp trên. Qui định chế độ làm việc
và phương pháp công tác của tập thể Huyện uỷ và cá nhân cấp uỷ viên, chế độ
hội nghị, giao ban của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực Huyện
uỷ và chế độ thông tin báo cáo.
1.2. HUYỆN UỶ HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ - QUAN NIỆM, NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC, QUY
TRÌNH LÃNH ĐẠO

1.2.1. Quan niệm về lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Huyện
uỷ Hà Trung
Để đưa ra quan niệm về Huyện uỷ Hà Trung lãnh đạo chuyển dịch
CCKT, cần làm rõ khái niệm “lãnh đạo” và “Huyện uỷ lãnh đạo chuyển dịch
CCKT”. Theo nghĩa rộng thì “lãnh đạo” có 2 nghĩa chính: Với tư cách là
động từ, thì “lãnh đạo” nghĩa là dẫn dắt, tổ chức phong trào theo đường lối
cụ thể, như lãnh đạo nhân dân, lãnh đạo cách mạng… Với tư cách là danh từ,
thì “lãnh đạo” chỉ tên các cơ quan lãnh đạo, bao gồm những người có khả
năng tổ chức, dẫn dắt phong trào như: chờ lãnh đạo cho ý kiến, Ban lãnh đạo
đi vắng cả,… (60, tr.997).
Đã có nhiều công trình nghiên cứu và đưa ra các khái niệm, định nghĩa

về lãnh đạo khác nhau tuỳ theo cách tiếp cận, diễn đạt khác nhau, nhưng tựu
trung đều có những điểm chung: lãnh đạo là cách con người ứng xử với con
người trong hoạt động thực tiễn, là cách làm việc với con người, là qui trình
gây ảnh hưởng, tác động đến con người và tổ chức, là đưa ra chủ trương,
phương hướng và chính sách phát triển tổ chức nhằm thực hiện mục tiêu
chính trị, KT - XH trong từng thời kỳ, phù hợp với tiến trình khách quan và
yêu cầu, điều kiện, bước đi cụ thể.


×