Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Chăm sóc người cao tuổi ở nông thôn trung du miền núi phía bắc (nghiên cứu trường hợp xã yên mỹ, huyện lạng giang, tỉnh bắc giang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 109 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HUYỀN GIANG

CHĂM SÓC NGƢỜI CAO TUỔI Ở NÔNG THÔN
TRUNG DU MIỀN NÚI PHÍA BẮC
(Nghiên cứu trƣờng hợp xã Yên Mỹ, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

Hà Nội , năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HUYỀN GIANG

CHĂM SÓC NGƢỜI CAO TUỔI Ở NÔNG THÔN
TRUNG DU MIỀN NÚI PHÍA BẮC
(Nghiên cứu trƣờng hợp xã Yên Mỹ, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang)
Chuyên ngành : Xã hội học
Mã số : 60 31 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC CHIỆN



Hà Nội , năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Nguyễn
Đức Chiện, người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi từ việc gợi mở ý tưởng nghiên cứu
cho đến những nhận xét, góp ý quý báu giúp tôi hoàn thành tốt luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi tham gia khoá đào tạo cao
học năm 2015 - 2017 tại Học viện Khoa học Xã hội.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn trân trọng tới các thầy giáo, cô giáo, các cán bộ của
Học viện Khoa học Xã hội đã trang bị cho chúng tôi đầy đủ cơ sở, trang thiết bị học
tập, và trang bị những kiến thức và bài học bổ ích trong quá trình tôi học tập tại đây.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ xã Yên Mỹ, các cá nhân, gia đình
đã tham gia vào cuộc nghiên cứu giúp tôi có nguồn dữ liệu phong phú.
Sau cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, người thân, bạn bè và
đồng nghiệp - những người đã luôn ủng hộ, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá
trình tôi học tập và làm việc trong thời gian qua.
Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền Giang


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này là trung thực, khách quan và
chưa từng được công bố ở các nghiên cứu khác. Các thông tin trích dẫn trong luận
văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.

Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền Giang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
NỘI DUNG ...............................................................................................................20
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU .. 20
1.1. Khái niệm chủ chốt ............................................................................................20
1.2. Các lý thuyết nghiên cứu....................................................................................22
1.3. Cách tiếp cận nghiên cứu ...................................................................................25
1.4. Đặc điểm địa bàn khảo sát .................................................................................30
1.5. Đặc điểm người cao tuổi trong mẫu khảo sát tại địa phương ............................33
CHƢƠNG 2: TÌNH HÌNH CHĂM SÓC NGƢỜI CAO TUỔI TRONG GIA
ĐÌNH Ở XÃ YÊN MỸ, LẠNG GIANG, BẮC GIANG .......................................38
2.1. Sắp xếp nơi ở của người cao tuổi .......................................................................38
2.2. Lao động - việc làm của người cao tuổi .............................................................44
2.3. Chăm sóc vật chất cho người cao tuổi ...............................................................50
2.4. Chăm sóc tinh thần đối với người cao tuổi ........................................................57
CHƢƠNG 3: TÌNH HÌNH CHĂM SÓC NGƢỜI CAO TUỔI CỦA HỌ
HÀNG, LÀNG XÓM VÀ NHÀ NƢỚC .................................................................65
3.1. Anh em họ hàng và làng xóm chăm sóc người cao tuổi ....................................65
3.2. Các chương trình chăm sóc của Nhà nước đối với người cao tuổi ....................69
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .........................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................81
PHỤ LỤC .................................................................................................................87



DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT

ASXH

An sinh xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

NCT

Người cao tuổi

GSO

Tổng cục thống kê

KTXH

Kinh tế xã hội

TDMN

Trung du miền núi

UBND

Ủy ban nhân dân


UNFPA

Quỹ Dân số Liên hợp quốc

VHLSS

Điều tra hộ gia đình Việt Nam

VLSS

Điều tra mức sống dân cư

VNAS

Điều tra về người cao tuổi Việt Nam


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Thành phần dân số xã Yên Mỹ năm 2014 ............................................31
Biểu đồ 2.2: Số lượng NCT nam, nữ theo nhóm tuổi năm 2017 ..............................32


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Già hóa dân số và tuổi già song hành với nhau. Châu Âu và Bắc Mỹ là những
khu vực đầu tiên trên thế giới bước vào thời kỳ già hóa dân số. Ngày nay, già hóa
dân số đang là một hiện tượng mang tính toàn cầu, xảy ra với tốc độ khá nhanh, ở các
nước phía Nam nhanh hơn ở các nước phía Bắc. Theo Liên Hợp quốc tỷ, lệ người già

trong tổng số dân Hàn Quốc tăng từ 7% lên 14% chỉ mất 18 năm, Nhật Bản mất 24
năm, Hoa kỳ mất 73 năm, Thụy Điển mất 85 năm và Pháp là 140 năm. Theo quy ước
của Liên hợp quốc, một quốc gia có tỷ lệ NCT từ 65 tuổi trở lên chiếm từ 10% dân số
được coi là bước vào giai đoạn già hóa dân số. Năm 2002, gần 4/5 dân số già của thế
giới sống tại Châu Á (52%) và Châu Âu (24%). Việt Nam không nằm ngoài xu hướng
này. Theo Tổng cục Thống kê năm 2011 (GSO, 2011), tỷ lệ dân số cao tuổi ở Việt
Nam sẽ chạm ngưỡng 10% tổng dân số vào năm nay (2017).
Phương Tây là trường hợp ngoại lệ trong cách đối xử với tuổi già vì gắn giai
đoạn của cuộc sống này với sự xuống sức trong khi ở hầu hết các nền văn hóa khác
tuổi già được diễn giải bằng việc tích lũy kiến thức và gia sản. Ở Việt Nam cũng
vậy, NCT luôn được trọng vọng trong gia đình và ngoài xã hội, là chỗ dựa về mặt
tinh thần, giữ gìn đạo đức và ổn định. Nhưng thực tế hiện nay thì sao. Bộ Lao động
– Thương binh & Xã hội cho biết 1/3 người cao tuổi trong diện hộ nghèo và cận
nghèo, nhất là ở nông thôn, miền núi (Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội, 2006).
Bộ Y tế chỉ ra rằng có khoảng 95% NCT có bệnh, trung bình mỗi người có 2,69
bệnh chủ yếu là bệnh mãn tính không lây (Bộ Y tế, 2006). 70% NCT sống ở nông
thôn (HLHPN, 2011), người có lương hưu và được trợ cấp xã hội rất ít. Tỷ lệ NCT
lao động tạo thu nhập là 40%, tuy nhiên 90% số NCT này lao động không chính thức,
không có bảo hiểm xã hội.
Hiện nay, hộ gia đình hạt nhân 2 thế hệ (cha mẹ và con cái) chiếm 70% trong
khi gia đình mở rộng từ 3 thế hệ trở lên (ông bà – cha mẹ - con cái) ở mức 30% tùy
theo từng khu vực (Lê Ngọc Văn, 2010). Kết quả Điều tra mức sống dân cư (VLSS,
2008), tỷ lệ NCT sống cùng con cái giảm từ 79,7% (1992/93) xuống còn 62,61%

1


(2008), tỷ lệ NCT sống cô đơn tăng từ 3,47% (1992/93) lên tới 6,14% (2008). Nghiên
cứu về NCT ở các vùng khác nhau đã chỉ ra những nét đặc trưng của khu vực, tác
động trực tiếp tới việc chăm sóc NCT. Nghiên cứu ở vùng đồng bằng sông Hồng và

vùng Đông Nam Bộ cho thấy mô hình sắp xếp nơi ở và những quan niệm về việc
chăm sóc NCT có sự khác biệt đáng kể.
Ở nông thôn nói chung và nông thôn Trung du miền núi nói riêng, việc con
cái di cư đi làm ăn xa khiến việc chăm sóc NCT diễn ra không thường xuyên. Mặt
khác, do những quan niệm về nhận thức của các thế hệ và do chính bản thân NCT
nên việc sắp xếp cuộc sống của NCT cũng có sự thay đổi đáng kể. Thực trạng kinh
tế - xã hội và đời sống của NCT hiện nay đã đặt ra những câu hỏi như NCT ở nông
thôn được chăm sóc về vật chất, tinh thần và y tế như thế nào? Họ có những nhu
cầu và nguyện vọng gì? Việc đáp ứng các nhu cầu nguyện vọng đó đến đâu? Các
chủ thể nào tham gia vào việc chăm sóc người cao tuổi? Các chính sách của Nhà
nước quan tâm đến NCT như thế nào? Đâu là chủ thể có vai trò quan trọng nhất
trong bối cảnh hiện nay? Dù đã có nhiều nghiên cứu về việc chăm sóc NCT, nghiên
cứu chuyên sâu về chăm sóc NCT tại một địa phương thuộc Trung du miền núi vẫn
chưa được tiến hành. Đây chính là lý do tôi chọn đề tài “Chăm sóc ngƣời cao tuổi
ở nông thôn Trung du miền núi phía Bắc (Nghiên cứu trƣờng hợp xã Yên Mỹ,
huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang)” làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Nghiên cứu trên thế giới
Theo Tổ chức Hỗ trợ NCT Quốc tế, năm 2015, châu Á đứng đầu về tốc độ
già hóa dân số. Số người trên 60 tuổi tại châu lục này chiếm tới 52% số NCT trên
toàn cầu. Số liệu của Liên Hợp Quốc năm 2016 cũng cho thấy, trong 10 quốc gia có
tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới, một nửa là các nước châu Á, thậm chí
Hàn Quốc, Singapore còn đứng đầu danh sách. Dự kiến đến năm 2050, số NCT tại
châu Á sẽ tăng gấp 5 lần và sẽ chiếm tới 2/3 số NCT trên thế giới1. Mô hình chăm
sóc tại gia đình ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singarpore có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. Các nghiên cứu trong khu vực

1

/>

2


đều cho thấy NCT sống trong gia đình là nhiều nhất và thực tế sự hỗ trợ của gia
đình đối với NCT cũng rất quan trọng.
Hàn Quốc có tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm 11% năm 2010. Quốc gia
này đã có nhiều chính sách chăm sóc NCT ngay từ trong gia đình. Việc chăm sóc
NCT trong gia đình được chia thành 2 loại: Loại chăm sóc sống cùng và loại chăm
sóc sống xa. Khi nghiên cứu về sự chăm sóc của gia đình, các nhà khoa học Hàn
Quốc cho rằng với những gia đình sống tách biệt, con cái vẫn luôn quan tâm, chăm
sóc và có những hỗ trợ về kinh tế cũng như những động viên, thăm hỏi về tinh thần
đối với cha mẹ mình (78% NCT Hàn Quốc nói rằng những hỗ trợ của họ nhận được
chủ yếu vẫn là từ gia đình) (Choi, 1996. Dẫn theo Nguyễn Thị Vân Hạnh, 2011).
Ở Singapore, Chính phủ đặc biệt đánh giá cao vai trò của gia đình trong việc
chăm sóc NCT và cho rằng gia đình là nơi chăm sóc NCT lý tưởng nhất. Khoảng
85% NCT ở đất nước này đang sống với ít nhất một người con (Angelique Chan,
2001. Dẫn theo Lê Ngọc Lân, 2010).
Những năm trước chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đặc biệt nhấn mạnh
tới vai trò của con trai trưởng trong việc chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ già. Tuy
nhiên sau đó, việc con cái tham gia vào thị trường lao động nhiều nên việc chăm sóc
NCT đã thay đổi, dù gia đình vẫn giữ một vai trò quan trọng, tỷ lệ NCT sống cùng
con cháu đã giảm đáng kể. Quan điểm về sự phụ thuộc của NCT vào việc chăm sóc
sức khỏe của gia đình bắt đầu thay đổi vào cuối những năm 1980. Một trong những
yếu tố quan trọng thúc đẩy sự biến đổi quan điểm này chính là sự phát triển các
chương trình phúc lợi hưu trí và chăm sóc sức khỏe của Chính phủ (Reiko Yamato,
2006. Dẫn theo Lê Ngọc Lân, 2010)3.
Tại Trung Quốc, nghiên cứu về việc chăm sóc NCT ở các vùng nông thôn
cũng cho thấy có mối quan hệ chặt chẽ giữa các thế hệ, chủ yếu là sự hỗ trợ tài
chính của cha mẹ cho con cái và ngược lại con cái cho cha mẹ. Tuy nhiên sự hỗ trợ
của con cái cho cha mẹ bao gồm cả về tài chính và sức lao động, chủ yếu là làm

nông nghiệp lúc mùa vụ được coi là lớn hơn so với cha mẹ cho con. Điều này cho
thấy đời sống của NCT ở nông thôn Trung Quốc ở mức độ lớn hơn còn dựa vào sự

3

Lê Ngọc Lân, 2010, Một số vấn đề cơ bản về NCT Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020

3


hỗ trợ của con cái (Shuzhou Li, Marcus W. Feldman ang Xiaoyi Jin, 2004. Dẫn theo
Lê Ngọc Lân, 2010).
Chăm sóc NCT ở châu Âu
Chúng tôi muốn đưa ra một góc nhìn về việc chăm sóc NCT ở châu Âu với
nhiều quốc gia nhất có thể nên chúng tôi sẽ dựa vào bài viết của hai tác giả4 về kết
quả cuộc điều tra chăm sóc người cao tuổi trong Liên minh châu Âu có tên SHARE
(Survey of Health, Ageing and Retirement in Euroupe), được tiến hành trong 10
nước Đức, Áo, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Pháp, Hy Lạp, Ý, Hà Lan, Thụy Điển và
Thụy Sỹ vào năm 2004-2005 về chủ đề già hóa và tuổi già. Cuộc điều tra SHARE
lần đầu cho phép xem xét những chiều cạnh trong 10 quốc gia ở châu Âu.
Kết quả cuộc điều tra cho thấy gần một nửa số họ sống gần bố mẹ về mặt địa
lý và 58% tiếp xúc nhiều lần trong tuần với bố mẹ. Việc sống chung cũng tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc. 1/5 người Ý và Tây Ban Nha sống cùng nhà hay
cùng tòa nhà với bố mẹ, và tỷ lệ này ít hơn ở Thụy Điển và Đan Mạch. Tuy nhiên,
sự độc lập của các thế hệ không đồng hóa với việc mất đi các mối liên hệ. Điều
khác biệt chính là việc ở chung rất phổ biến ở các nước phía Nam châu Âu.
Tần suất gặp gỡ với bố mẹ diễn ra thường xuyên, sự ủng hộ và giúp đỡ có
như vậy không? Các nước phương Bắc (Đan Mạch và Thụy Điển) với sự giúp đỡ là
40% trong khi ở các nước phương Nam (Tây Ban Nha và Hy Lạp) là 25% . Tuy
nhiên, nhìn về bản chất và tần suất giúp đỡ, can thiệp hàng ngày hay giúp đỡ như

mặc, tắm rửa, ăn hay giúp ra vào giường, đi vệ sinh thì ở các nước phía Nam (Tây
Ban Nha và Ý) cao hơn. Nếu ở chung hay gần như ở chung (sống cùng tòa nhà), tỷ
lệ giúp đỡ thì gần như giống nhau. Dù giúp đỡ như thế nào ở Bắc hay Nam thì đó là
một hoạt động chủ yếu dành cho nữ giới. Với câu hỏi “Ai trong cặp vợ chồng chăm
sóc bố mẹ già?” 90% phụ nữ trả lời họ tham gia vào việc chăm sóc trong khi chỉ có
50% nam giới. Sự khác biệt này chắc chắn tìm thấy trong việc tổ chức mang tính
truyền thống của gia đình, thường là để phụ nữ chăm sóc những người còn lại.

4

Jim Ogg, Sylvie Renaut “Les quinquagénaires européens et leurs parents. De la famille ou de l'État, qui doit
s'occuper des ascendants?”

4


Khi được hỏi về tài chính, Nhà nước đứng ra lo ở 10 quốc gia. Cụ thể, Nhà
nước và ít nhiều với sự giúp đỡ của gia đình ở nam Âu, hay ở Áo và Đức. Còn ở
Đan Mạch và Thụy Điển hay Hà Lan, Nhà nước được chỉ định để đáp ứng kiểu nhu
cầu này. Điều này thể hiện sự độc lập về mặt tài chính giữa các thế hệ. Còn về giúp
đỡ trong nhà hay chăm sóc, chăm sóc cá nhân thì chủ yếu cũng là Nhà nước, chỉ trừ
Hy Lạp, gia đình xuất hiện như là cứu cánh có thể để đến giúp người cao tuổi.
Trong các nước này, Đan Mạch thể hiện sự can thiệp của Nhà nước vào tất cả mọi
lĩnh vực giúp đỡ bố mẹ già, ngược lại với Hy Lạp.
Cuối cùng, cần phải nhấn mạnh rằng ở các quốc gia ràng buộc trách nhiệm
chăm sóc người cao tuổi cho gia đình (Nam Âu, Đức hay Áo). Người trả lời cũng
cho rằng không phải chỉ có gia đình phải chăm sóc NCT. Do vậy, sự ủng hộ của gia
đình đối với NCT không có nghĩa là không cần có sự can thiệp của Nhà nước.
Những kết quả nghiên cứu khác cũng cho thấy rằng ở Tây Ban Nha, người
cao tuổi góp phần vào việc chăm sóc cháu vì các bà mẹ trẻ tham gia nhiều vào thị

trường lao động. Chỗ ở cũng quyết định lớn vì 56% phụ nữ làm việc có mẹ đẻ sống
trong cùng thành phố và trong số này thì một nửa sống trong cùng khu phố và 43%
sống cạnh mẹ chồng trong cùng thành phố. Nếu như ông bà ở Pháp, theo mô hình
chung thì trông trẻ vào cuối tuần hay trong kỳ nghỉ thì ông bà ở Tây Ban Nha lại
trông trẻ ở nhà mình, nhà con gái hay con dâu, trên cơ sở hàng này như đón ở nhà
trường hay chuẩn bị bữa ăn cho trẻ. Sự giúp đỡ quan trọng đến mức mà không có sự
ủng hộ của ông bà, phụ nữ trẻ Tây Ban Nha không thể làm việc (Tobio, 2001, dẫn
theo Martine Ségalen, 2014). Tuy nhiên, theo mong muốn của gia đình, thì Nhà
nước phải can thiệp để xây dựng các cơ sở cho việc giữ trẻ. Điều này có thể làm
tăng tỷ lệ sinh đẻ.
Tình hình cũng giống như ở Italia, ông bà, đặc biệt là bà cũng giữ một vai trò
quan trọng trong việc giữ cháu cho con gái hay con dâu làm việc. Điều này quan
trọng tới mức mà người cao tuổi cũng là đối tượng tranh luận về vị trí của mình
trong đoàn kết công cộng và tư nhân, cũng như trong chính sách đối với gia đình. Ở
Pháp thì cũng tương tự, vào đầu thế kỷ thứ 21, ông bà có thể tỏ ra hào phóng, bởi vì
họ có lương hay trợ cấp và một khoản tiết kiệm trong quá trình làm việc nên các
mối liên hệ tình cảm và quà, ví như mua quần áo cho trẻ là một sự giúp đỡ gián tiếp
5


những gia đình trẻ. Tuy nhiên, điều này không tạo ra một sự phụ thuộc (Martine
Ségalen, 2014).
Tình hình không như thế ở nước Nga hậu Xô-viết, nơi mà ông bà duy trì một
vị trí thống trị bởi vì họ là những người duy nhất có khoản thu nhập ổn định. Đối
lập với những người bằng lứa tuổi ở tây Âu thể hiện cho sự năng động, ông bà ở
Nga không tìm cách để mình tươi trẻ, thường chùm khăn trên đầu. Họ tự động gán
cho mình vào vai trò của người già; bằng cách đổi lại sự mất tuổi trẻ và sự quyến rũ
của mình, họ thống trị toàn bộ gia đình bởi vì họ đảm bảo sự sống còn của con và
cháu, lương thì có thể không có nhưng trợ cấp thì có, những người làm bà thường
có những ngôi nhà nhỏ, có vườn, đảm bảo một phần cho lương thực gia đình.

(Elizabeth Gessat, 2001; dẫn theo Martine Segalen, 2014).
NCT ở Hoa Kỳ
NCT ở Hoa Kỳ phân bố không đồng đều và các chính sách chăm sóc NCT
cũng khác nhau. Các Bang bảo thủ phía Nam và phía Tây với các Bang ở phía Bắc
và Đông có nhiều chương trình công giúp cho những người yếu thế. Phải ghi nhận
một điều ở Mỹ, NCT không đồng nhất với những người về hưu như ở Pháp hay các
quốc gia châu Âu khác bởi vì rất nhiều trong số họ, gần 1/5 tiếp tục làm việc trên 65
tuổi. Điều này được giải thích bằng sự năng động của NCT, vai trò của họ trong xã
hội cạnh tranh và những hệ quả của “chính sách của tuổi già”.
Ở Hoa kỳ, cũng như nhiều quốc gia phát triển khác, trên 65 tuổi thì được coi
là NCT. Theo ước tính vào năm 2005, Hoa Kỳ có gần 36 triệu NCT. Theo dự đoán
sẽ có 72 triệu người vào năm 2030, khoảng 1/5 dân số, và số lượng những người rất
già tức trên 80 tuổi sẽ vượt 10 triệu người. Trong số NCT, NCT da trắng chiếm
83%. Những người già chủ yếu sống ở ngoại thành, và có 3 nơi tập trung những
người già cao nhất là Floride, các bang thuộc trục Đông – Bắc (Pennsylvania,
Virginia) và các bang nông thôn của Middle West do tác động của lực hút và đẩy.
Có thể nói, ở nơi nào có ánh mặt trời, sự năng động của thị trường bất động sản hay
các dịch vụ mà các bang này cung cấp ra đều lôi cuốn được người cao tuổi
(Christian Pihet, 2003).
Một trong những thách đố chính mà NCT ở Hoa Kỳ phải đối diện là sự cân
bằng cần phải thiết lập giữa việc rút lui khỏi đời sống xã hội (về hưu) và hệ tư
6


tưởng thống trị của xã hội về việc làm và thành đạt. Thực ra, NCT Mỹ làm việc dài
hơn những người châu Âu, chỉ 40% người Pháp làm việc giữa 55 và 64 tuổi thì ở
Mỹ là 62%. Gần 20% các cụ ông trên 65 tuổi vẫn còn làm việc, tỷ lệ này chỉ dừng
lại khi họ trên 75 tuổi (Christian Pihet, 2003). Nhiều yếu tố giải thích hiện tượng
này. Thứ nhất, tuổi hạn chế để về hưu bị bác bỏ đối với hầu hết cả nghề nghiệp vào
năm 1984. Họ chỉ về hưu khi mà các cá nhân tìm được mức trợ cấp cao nhất có thể.

Hai yếu tố giải thích việc kéo dài thời gian làm việc: Chủ nghĩa tiêu dùng và sự lao
động như là một giá trị xã hội. Thứ nhì, khoảng 10% những người cao tuổi nhất có
thu nhập dưới mức nghèo khổ, thường là những người làm việc chân tay không có
tay nghề. Thứ 3, đời sống hội đoàn cũng là một nhân tố quan trọng. Hiệp hội những
người về hưu Hoa Kỳ được thành lập năm 1958, là hiệp hội mạnh nhất của những
NCT trên thế giới, có tới 35 triệu thành viên tức là một nửa số người Mỹ trên 50
tuổi với chức năng cung cấp những lời khuyên về nhà ở, giúp đỡ gia đình…
Trong những năm 1960, nhờ vào các đời tổng thống Kennedy và Johnson với
khẩu hiệu “xã hội vĩ đại” với việc thông qua các văn bản luật về NCT: Năm 1965,
thông qua Đạo luật người cao tuổi Mỹ (Older Americans Act) dẫn đến việc thành
lập nhiều dịch vụ trong đó có giúp đỡ tại nhà. Sau đó tạo ra Medicare, bảo hiểm ốm
đau dành cho người trên 65 tuổi và Medicaid, bảo hiểm bổ sung cho bệnh tật dành
cho người nghèo. Thành lập nhiều phòng chăm sóc sức khỏe (health centers), người
nghèo tiếp cận tốt hơn. Dưới thời tổng thống Reagan, sự bỏ rơi của thiết chế liên
bang để mặc cho thị trường với các tập đoàn tư nhân thao túng kéo theo sự tụt lùi
nhiều dịch vụ. Phát huy giá trị cá nhân và cộng đồng theo một lô-gic tự giúp mình
(self-help). Điều này dẫn đến sự phân biệt giữa NCT giàu và NCT nghèo, làm tăng
khoảng cách giữa các hộ gia đình. Hai khuynh hướng xuất hiện: Thứ nhất, những
công ty tư nhân nhìn thấy trong số những người cao tuổi giàu có nhiều tiềm năng và
đưa ra các ý tưởng để thu hút họ đến sống bằng cách xây dựng những khu cư trú an
toàn được chuẩn mực hóa ở các vùng ngoại ô và du lịch, các sản phẩm về bảo hiểm
bệnh tật theo yêu cầu. Thứ hai, mong muốn thành lập Bảo hiểm bệnh tật dành cho
mọi người (Universal health coverage) hay đoàn kết liên thế hệ, đây là mục tiêu của
AARP (Hiệp hội những người về hưu Hoa Kỳ). Tuy nhiên thành công thì vẫn chưa
thực sự có được.
7


Nhìn chung, tuổi già ở Mỹ gắn với trách nhiệm cá nhân và gia đình song
hành với những người cao tuổi. Những cam kết đoàn hội thay thế cho những cam

kết của các cơ quan công quyền. Kinh nghiệm của nước Mỹ là thành quả gặp gỡ
giữa một lịch sử xã hội đặc biệt, lịch sử xã hội của chủ nghĩa cá nhân được xây
dựng với một lãnh thổ đủ lớn để có thể phát triển những kinh nghiệm đa dạng nhất.
Nguồn gốc của những quyền lợi này khác nhau. Ở Pháp, quyền lợi của NCT đặt
trọng tâm vào vai trò người sử dụng các dịch vụ xã hội và y tế xã hội của họ, trong
khi mà quyền lợi trước tiên hướng về quyền lao động và công việc của những người
tình nguyện ở Hoa Kỳ. Đối với nền kinh tế tự do của Hoa Kỳ hậu công nghiệp, việc
tạo ra một đội quân lao động NCT là cần thiết (Christian Pihet, 2003).
2.2. Nghiên cứu trong nước
Tổng cục thống kê (GSO, 1999) cho biết năm 1999, Việt Nam có số khoảng
6.1 triệu NCT, năm 2009 xấp xỉ 7,7 triệu NCT và năm 2011 khoảng 8,6 triệu NCT.
Dự báo đến năm 2039, Việt Nam sẽ có 19.8 triệu người NCT.
Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam năm 2016 là 73,4 tuổi (GSO). Tuổi
thọ trung bình của nam và nữ chênh lệch 4-5 năm, xu hướng nữ hóa tuổi già thể
hiện ở các nhóm tuổi cao. Trong những năm qua có nhiều nghiên cứu về chăm sóc
NCT đã được tiến hành và chỉ ra tình trạng lao động, chăm sóc vật chất, chăm sóc
tinh thần, sắp xếp chỗ ở cho NCT:
Thứ nhất, NCT nước ta vẫn phải lao động, làm nhiều loại công việc, được trả
công hoặc làm các công việc nội trợ. Số liệu điều tra NCT (VNAS, 2011), có
khoảng 39% NCT vẫn đang làm việc (tham gia các hoạt động kinh tế trực tiếp hoặc
gián tiếp) với những công việc khác nhau. Có 60% NCT trong độ tuổi 60 – 69 đang
làm việc nhưng tỷ lệ làm việc của nhóm 70 – 79 và 80 trở lên giảm rất nhanh (tương
ứng 30% và 11%). Tỷ lệ NCT ở nông thôn làm việc cao hơn so với NCT ở thành
thị. Bế Quỳnh Nga (2001) cho thấy rằng NCT ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam vẫn
còn tiếp tục lao động để tăng thu nhập, thậm chí trong một số trường hợp để kiếm
sống. Bùi Thế Cường, (1999) cho thấy tỷ lệ lao động của NCT tương ứng là 41% và
35% ở miền Bắc và miền Nam. Theo cuộc Điều tra NCT (VNAS, 2011) có khoảng
39% NCT vẫn đang làm việc (tham gia các hoạt động kinh tế trực tiếp hoặc gián
tiếp) với những công việc khác nhau. Ở độ tuổi 60 - 69 vẫn có tới 60% NCT đang
8



làm việc, nhưng tỷ lệ làm việc của nhóm 70-79 là 30% và 80 tuổi trở lên giảm rất
nhanh còn 11%.
Với trình độ phát triển kinh tế chưa cao và thực trạng mức sống thấp, NCT mặc
dù đã hết tuổi lao động nhưng nhìn chung đại bộ phận vẫn tham gia các hoạt động kinh
tế ở các mức độ khác nhau nhằm cải thiện đời sống của bản thân và gia đình. Do NCT
còn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp rất lớn nên tỷ lệ NCT nông thôn làm việc
cao hơn so với tỷ lệ NCT ở thành thị (67,2% trong khi ở thành thị chỉ là 20,0%
(VNAS, 2011). Như vậy, các nghiên cứu cho thấy NCT vẫn tham gia tích cực vào các
hoạt động lao động.
Thứ hai, hỗ trợ vật chất cho NCT được biết là sự cung cấp, hỗ trợ cho NCT
tiền, lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng. Việc chăm sóc này trước hết đến từ con
cháu trong gia đình. Nghiên cứu của Trương Sĩ Ánh (1999) cho thấy 90% các bậc
cha mẹ lớn tuổi được con cái cung cấp hoặc hỗ trợ lương thực thực phẩm và các vật
dụng sinh hoạt hằng ngày, 78% nhận được sự hỗ trợ về tiền bạc và những vật dụng
có giá trị. Tác giả cho rằng những người con sống gần nhà hoặc cùng nhà với cha
mẹ thì thường cung cấp, hỗ trợ về lương thực thực phẩm và đồ dùng sinh hoạt,
trong khi đó những người con sống ở xa lại giúp đỡ cha mẹ thông qua việc gửi tiền
và hàng hóa có giá trị. Con trai, nhất là những người đã lập gia đình chính là nguồn
hỗ trợ kinh tế quan trọng đối với cha mẹ già. Bùi Thế Cường (2000) cho rằng sự hỗ
trợ và chăm sóc từ các con sống chung hoặc không sống chung, con trai hay con gái
đều là nguồn quan trọng nhất đối với NCT. Việc giúp đỡ hỗ trợ vật chất của con
cháu bao gồm tiền bạc, thức ăn, vật dụng sinh hoạt và hỗ trợ sản xuất kinh doanh
cho cha mẹ là khá phổ biến ở đồng bằng sông Hồng. Khi được hỏi về các nguồn thu
nhập 42,8% người được hỏi nói được con chu cấp thường xuyên. Nguồn này đứng
thứ hai sau nguồn từ kinh tế hộ gia đình nhưng cũng rất quan trọng đối với NCT.
Kết quả nghiên cứu định tính của tác giả Bế Quỳnh Nga (2005), phần lớn những
người được phỏng vấn đều cho rằng sự trợ giúp của con trai và con gái đều bằng
nhau, đôi khi con gái còn có đóng góp hơn con trai. Trong cuộc Điều tra về NCT

(VNAS, 2011), 32% NCT cho rằng hỗ trợ từ con cái là nguồn quan trọng nhất. Tuy
nhiên, sự giúp đỡ có sự khác nhau theo tuổi, theo giới tính và khu vực vùng miền.
Ví dụ NCT ở độ tuổi 60 - 69 thì có 47% cho rằng thu nhập từ công việc và 13% cho
9


rằng thu nhập từ hỗ trợ của con cái, trong khi điều này là hoàn toàn ngược lại với
NCT từ 80 tuổi trở lên với các tỷ lệ tương ứng là 5% và 66%. Hỗ trợ từ con cháu
đối với NCT ở thành thị và nông thôn cũng có sự khác nhau đáng kể, NCT ở thành
thị hoặc có mức sống cao hơn nhận được nhiều sự hỗ trợ từ con hơn những NCT ở
nông thôn hoặc có mức sống thấp hơn. Có sự khác nhau như vậy là do NCT sống ở
khu vực đô thị có các nhu cầu cho cuộc sống cao hơn, đời sống ở đô thị đắt đỏ hơn
ở nông thôn nên việc con cháu hỗ trợ cho các nhu cầu đó sẽ lớn hơn ở nông thôn.
Bên cạnh đó, NCT sống ở nông thôn có đất đai và các điều kiện để lao động để tự
cung tự cấp, sản xuất ra nhiều sản phẩm tự phục vụ cuộc sống tốt hơn ở đô thị. Vì
vậy, việc hỗ trợ của con cái đối với NCT có sự khác nhau đáng kể ở khu vực nông
thôn và đô thị.
Các nguồn hỗ trợ của Nhà nước cũng góp phần chăm sóc đời sống vật chất
tốt hơn cho NCT. Nghiên cứu của Bùi Thế Cường cho rằng Bảo trợ xã hội của Nhà
nước là nguồn thu nhập đáng kể của NCT. Thu nhập từ tiền hưu trí phổ biến ở các
cụ sống nội thành Hà Nội, khu vực thị xã (74,9% và 67,8%). Tỷ lệ phụ nữ và các cụ
trên 70 tuổi có nguồn thu nhập từ trợ cấp chính sách xã hội khá cao so với nam giới
và các cụ độ tuổi 60 (xấp xỉ gấp đôi). Kết quả Điều tra về NCT (VNAS, 2011) cho
thấy khoảng 16% những NCT được hỏi cho rằng lương hưu là nguồn quan trọng
nhất và 9% cho rằng trợ cấp xã hội là quan trọng nhất.
Như vậy, cùng với sự hỗ trợ giúp đỡ từ gia đình đặc biệt là con cháu đối với
NCT thì nguồn hỗ trợ từ Nhà nước dành cho NCT cũng là nguồn vật chất quan
trọng của NCT, giúp họ có được cuộc sống ổn định, đảm bảo mức sống tối thiểu.
Thứ ba về chăm sóc tinh thần đối với NCT. NCT thích trò chuyện tâm sự với
những người xung quanh như con cháu, bạn bè, hàng xóm, việc trò chuyện tâm sự

này có ý nghĩa rất quan trọng bởi tình hình hiện nay khi con cháu phải lo toan nhiều
việc, di cư đi làm ăn xa, lo được cho cha mẹ đầy đủ vật chất hơn nhưng ngược lại
việc trò chuyện, viếng thăm cha mẹ lại không được thường xuyên. Theo điều tra về
Gia đình Việt Nam (2006) cho biết những khi vui, buồn 37,5% NCT cho biết họ
thường trò chuyện và tâm sự với vợ hoặc chồng của mình, 24,8% tâm sự, trò
chuyện với con và 12,5% tâm sự với bạn bè hàng xóm. Có sự khác biệt giữa NCT là

10


nam và NCT là nữ trong việc trò chuyện tâm sự, các cụ bà nói chuyện với con nhiều
hơn các cụ ông.
Ngoài nói chuyện tâm sự, việc con cái đã tách hộ về thăm cha mẹ là một chỉ
báo giúp cuộc sống của NCT vui vẻ hơn. Tâm lý của NCT là thích đông con nhiều
cháu, và sự thăm hỏi động viên của con cháu đối với họ làm cho tinh thần vui vẻ,
phấn chấn hơn. Hirschman và Vũ Mạnh Lợi7 (1996) cho thấy sự liên lạc và thăm
nom thường xuyên diễn ra giữa NCT với các con. Trong số những người con trưởng
thành, khoảng 60% là sống gần cha mẹ, thăm nom hằng ngày hoặc ít nhất là một lần
trong tuần. Đối với những người sống ở xa hơn (ở những khu vực khác nhau của
thành phố) giao tiếp ít hơn một chút (20% hằng ngày và 40% hằng tuần) nhưng vẫn
còn rất cao. Một tỷ lệ rất nhỏ người trả lời sống rất xa với bố mẹ của họ (làng, thị xã
khác nhưng cùng tỉnh hoặc khác tỉnh), chỉ có 10% hoặc ít hơn là có thể viếng thăm
bố mẹ hằng tuần. Khoảng cách rõ ràng là một trở ngại chủ yếu đối với những quan
hệ gia đình gần gũi giữa các thế hệ. Theo kết quả của Điều tra gia đình Việt Nam
năm 2006, việc thăm hỏi cha mẹ có những mức độ khác nhau, 28% thăm hỏi cha
mẹ hằng ngày, 21,5% thăm hỏi một vài lần trong tuần, 17,8% thăm hỏi vài lần trong
tháng, 24,3% thăm hỏi vài lần trong năm; 8,1% thăm hỏi vài năm một lần và 3,6%
chưa về thăm bố mẹ lần nào trong năm. Gia đình ở thành thị có con thăm hỏi cha
mẹ thường xuyên hơn so với gia đình ở nông thôn, đó có thể là do ở nông thôn có
sự di cư từ nông thôn đi kiếm sống nhiều cho nên việc thăm nom cha mẹ sẽ không

được thường xuyên vì điều kiện công việc và điều kiện địa lý. Điều này phù hợp với
nghiên cứu của Hirschman và Vũ Mạnh Lợi cho rằng sự thăm nom của con cái phụ
thuộc vào bán kính nơi ở, khoảng cách càng gần thì đến thăm càng nhiều. Dù là
thăm nom thường xuyên hay không thường xuyên thì tác giả Trương Sĩ Ánh cho
rằng hầu hết các bậc cha mẹ đều được con cái thăm viếng.
Cùng với sự viếng thăm động viên của con cháu, sự hỗ trợ của con cháu thì
bản thân NCT cũng là chỗ dựa của con cháu trong cuộc sống hằng ngày. Điều tra về
gia đình Việt Nam năm 2006 cũng cho thấy NCT coi việc hỗ trợ con cháu là niềm
vui và trách nhiệm, qua đó cảm nhận mình là người có ích cho con cháu. Đối với
7

Gia đình và hộ gia đình Việt Nam – Vài nét đại cương từ một cuộc khảo sát xã hội học gần đây. Những
nghiên cứu xã hội học trong gia đình Việt Nam, NXB khoa học xã hội, 1996.

11


con cháu, sự hỗ trợ này của NCT cũng rất quan trọng, bao gồm việc dạy dỗ con
cháu, trông nom nhà cửa, nội trợ và chăm sóc các cháu nhỏ.
Có thể thấy, việc chăm sóc tinh thần đối với NCT không chỉ là hoạt động trò
chuyện tâm sự, viếng thăm NCT mà đôi khi bao gồm cả những hoạt động mà NCT
tình nguyện giúp đỡ, giáo dục con cháu, đó cũng là niềm vui của NCT.
Thứ tư, nhìn vào sự sắp xếp cuộc sống của NCT Việt Nam có thể thấy đây là
một bản sắc trong văn hóa người Việt “Trẻ cậy cha, già cậy con”, NCT luôn tâm
niệm trông cậy vào con cái và lựa chọn mô hình chung sống với con cái là phổ biến.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng hầu hết NCT sống chung hoặc sống rất gần với con
cái của họ. Tác giả Trương Sĩ Ánh8 cho biết đa số NCT đều sống chung với một
hoặc nhiều trong số con cháu của mình, việc NCT sống độc thân không phổ biến ở
vùng Đông Nam Bộ. Phần lớn NCT sống chung với con, thích được sống chung với
con trai đã kết hôn đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Hồng (Knodel và cộng sự,

2000, dẫn theo Giang Thanh Long và Wade Donald Pfau).
Việc lựa chọn sống với ai là một sự kiện quan trọng của NCT để có thể đảm
bảo được cuộc sống ổn định về mặt vật chất và tinh thần. NCT chủ yếu sống với
con và phần lớn sống với gia đình con trai. Trước đây NCT thường sống với gia
đình người con trai trưởng nhưng hiện nay có bước chuyển đó là sống với gia đình
người con trai út (Bế Quỳnh Nga, 2005). Một số nghiên cứu khác cho rằng, xu
hướng sắp xếp cuộc sống thiên đằng nội phổ biến ở miền Bắc và miền Trung đặc
biệt là ở khu vực nông thôn nhưng tiến đến miền Nam khá nhiều trường hợp NCT
lại sống chung với con gái, lý do những người được phỏng vấn đưa ra là con gái
thường thương bố mẹ hơn, chu cấp, thăm nom nhiều hơn.
Trong bài viết “Bản sắc văn hóa Việt nhìn từ góc độ sắp xếp gia đình” Bùi
Thế Cường cũng cho thấy Việt Nam là một đất nước đa dạng về mặt sắp xếp cuộc
sống gia đình xét theo khu vực và tộc người. Nhưng tính đa dạng này lại tuân theo
một sự phân bố khu vực từ Bắc vào Nam thể hiện sự quá độ giữa bản tính Đông Á
8

Tạp chí Xã hội học số 2, 1999. Bài viết là kết quả chủ yếu rút ra từ cuộc điều tra NCT được thực hiện đầu
năm 1997 theo chương trình hợp tác giữa Viện Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm Nghiên cứu
dân số của trường Đai học Michigan (Mỹ). Mẫu điều tra được thiết kế nhằm đại diện cho 3 khu vực dân cư
trong toàn vùng: 1. Khu vực đô thị của thành phố Hồ Chí Minh; 2. Khu vực thành thị của các tỉnh khác trong
vùng và 3. Khu vực nông thôn của vùng. 840 NCT trở lên (tính đến tháng 12.1996) được chọn ngẫu nhiên tại
địa bàn.

12


(định hướng đằng nội) và Đồng Nam Á (định hướng gia đình song phương). Điều này
lý giải tại sao càng tiến vào miền Nam thì lại càng có xu hướng sống với con gái, bởi
miền Nam nghiêng nhiều hơn về đặc tính văn hóa Đông Nam Á. Lê Văn Dụy và cộng
sự sử dụng chỉ số mẫu hệ (số hộ có con rể trên 100 hộ có con dâu) và chỉ ra rằng chỉ số

này tăng lên từ Bắc vào Nam, điều đó có nghĩa là định hướng đằng nội tăng lên từ phía
ngược lại, từ Nam lên Bắc. Chỉ số mẫu hệ ở miền Bắc là 6,8% so với 16,7% ở miền
Trung và 26,7% ở miền Nam (Lê Văn Dụy, 1997. Dẫn theo Trương Sĩ Ánh, 1999). Sắp
xếp cuộc sống của NCT theo tình trạng hôn nhân của cũng cho thấy có sự khác biệt, tỷ
lệ NCT sống với con chưa kết hôn cao hơn tỷ lệ NCT sống với con đã kết hôn (Tỷ lệ
NCT ở nông thôn: sống với con chưa kết hôn 37,8% so với con sống con đã kết hôn là
30,1%) (VNAS, 2011). Việc các con sau khi lập gia đình sống “tách hộ” nhất là các gia
đình đông con) có thể là một nguyên nhân khiến cho tỷ lệ NCT sống với con đã kết
hôn thấp hơn (Bế Quỳnh Nga, 2005)
Mặc dù các cuộc điều tra đều cho thấy, ở Việt Nam việc sắp xếp cuộc sống
của NCT là sống với con cái nhưng hiện nay đang có sự thay đổi khi mà tỷ lệ NCT
sống độc thân tăng từ 3,47% năm 1992/93 lên 6,14% năm 2008 (UNFPA, 2011).
Theo kết quả phân tích của Giang Thanh Long9 (2011) tỷ lệ NCT sống độc thân cao
hơn ở phụ nữ và phổ biến ở khu vực nông thôn. Điều này do phụ nữ có tuổi thọ cao
hơn nam giới và phụ nữ tái hôn thấp hơn nam giới. Tỷ lệ NCT sống trong hộ gia
đình khuyết thế hệ chiếm không cao (0,68% năm 1992/93) nhưng tăng lên rõ rệt
(1,14% năm 2008) phần lớn loại hộ gia đình này ở nông thôn. Đó là do hệ quả của
việc di cư nông thôn – đô thị của một độ tuổi lao động nhất định. Trong điều kiện
an sinh nước ta còn hạn chế việc sắp xếp cuộc sống như vậy sẽ là một thách thức
lớn đối với việc chăm sóc NCT đặc biệt là những NCT ở khu vực nông thôn.
2.2.2. Các chính sách chăm sóc NCT
Chăm sóc NCT luôn được Đảng và Nhà nước có những chính sách phù hợp
nhằm giúp NCT có cuộc sống ổn định, phát huy vai trò trong gia đình và cộng đồng.
Điều 64 của Hiến pháp năm 1992 quy định: “Cha mẹ có trách nhiệm nuôi
dạy con cái. Con cái có trách nhiệm kính trọng và chăm sóc ông bà cha mẹ”. Và

9

/>
13



điều 87 Hiến pháp ghi rõ: “Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa
được nhà nước và xã hội giúp đỡ”.
Các Bộ Luật của cũng quy định rõ việc chăm sóc và nuôi dưỡng cha mẹ
trong đó có Luật Lao động, Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình.
Luật lao động (1994): Định nghĩa NCT, xác định các điều điều kiện lao
động, chế độ nghỉ hưu cho NCT tại các điều 123,124 và 145.
Năm 2004, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 02/2004/TT- BYT hướng dẫn
thực hiện công tác chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi như được khám chữa bệnh
khi ốm đau, bệnh tật; được chăm sóc sức khoẻ ban đầu, được ưu tiên trong việc
khám và chữa bệnh khám. Ngoài ra, Tổ chức mạng lưới tình nguyện viên chăm sóc
sức khoẻ cho người cao tuổi tại nhà. Trường hợp người cao tuổi bị tàn tật, cô đơn
không nơi nương tựa bị ốm đau thì trưởng trạm y tế cấp xã cử cán bộ y tế đến khám,
chữa bệnh tại nhà người cao tuổi.
Luật NCT ban hành ngày 23/11/2009 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2010.
Nghị định số 06/2011/NĐ-CP ngày 14/1/2011 quy định chi tiết và thi hành
một số điều của Luật NCT,
Thông tư số 21 ngày 18/2/2011 quy định về quản lý và sử dụng kinh phí
chăm sóc sức khỏe ban đầu cho NCT tại nơi cư trú, chúc thọ, mừng thọ, biểu
dương, khen thưởng đối với NCT. Theo đó, đối tượng NCT được hưởng trợ cấp đã
được mở rộng, NCT được hưởng trợ cấp từ 85 nay đã hạ thấp xuống từ 80 tuổi trở
lên với mong muốn tăng độ che phủ của trợ cấp xã hội cho đối tượng yếu thế này.
Việc ra đời Bộ Luật NCT đã góp phần thể chế hóa đầy đủ, toàn diện đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về NCT, đáp ứng được nhu cầu hội
nhập có tính lâu dài.
Thông tư 71/2011/TT-BGTVT, Thông tư số 127/2011/TT-BTC đã thể hiện
sự quan tâm của Nhà nước, tổ chức xã hội đối với người cao tuổi và nâng cao hơn
đời sống tinh thần của người cao tuổi. Tuy nhiên, về cơ sở hạ tầng, phương tiện đi
lại chưa chú trọng đến việc thiết kế tạo thuận lợi cho người cao tuổi và rất dễ gây ra

tại nạn cho người cao tuổi.
Theo Khoản 5, Điều 5 Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 quy
định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội từ đủ 80 tuổi trở lên.
14


Nhìn chung, các chính sách chăm sóc của Nhà nước được nhiều NCT đánh
giá tốt. NCT không có lương hưu và các khoản trợ cấp từ bảo hiểm từ đủ 85 tuổi trở
lên được nhận trợ cấp hàng tháng, nhưng hiện nay đã giảm xuống còn 80 tuổi. Điều
này làm nhiều NCT hài lòng vì có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều ý kiến không hài lòng với dịch vụ y tế cụ thể là trạm y tế
xã, nhiều ý kiến cho rằng, trạm y tế xã có trách nhiệm chăm sóc sức khỏe ban đầu
cho NCT, lập sổ theo dõi sức khỏe hay khám sức khỏe định kỳ, cử người đến khám
bệnh cho người già yếu tại nơi cư trú, nhưng thực tế trạm y tế xã không làm được.
NCT cho rằng điều này không phải là họ không muốn làm hoặc không đủ trình độ
làm mà là do Nhà nước không cấp kinh phí.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu này tìm hiểu thực trạng chăm sóc và chiến lược sống của NCT ở
nông thôn Trung du miền núi trong bối cảnh biến đổi xã hội cũng như chuyển đổi
vai trò của các chủ thể tham gia chăm sóc NCT hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Làm rõ khái niệm, cơ sở lý luận, các quan điểm lý thuyết nghiên cứu về
chăm sóc NCT.
Làm rõ đặc điểm kinh tế, đặc điểm nhân khẩu NCT hiện nay tại địa bàn nghiên
cứu. Tìm hiểu thực trạng chăm sóc NCT ở trung du miền núi phía Bắc về vật chất, tinh
thần và y tế. Tìm hiểu sự tham gia của các chủ thể xã hội vào việc chăm sóc NCT ở
Trung du miền núi phía bắc hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng

Đối tượng nghiên cứu: Chăm sóc NCT ở nông thôn Trung du miền núi phía bắc.
4.2 Khách thể nghiên cứu
Khách thể bao gồm những NCT ở nông thôn từ 60 tuổi trở lên đang sinh
sống trên địa bàn khảo sát. Các mạng lưới chăm sóc NCT bao gồm gia đình, dòng
họ, các tổ chức xã hội.

15


4.3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn cao học, tính đến nguồn lực như thời gian và tài
chính hạn chế nên chúng tôi chỉ nghiên cứu trường hợp tại một xã và làm rõ những
vấn đề liên quan đến công tác chăm sóc NCT tại địa phương, đề tài tập trung nghiên
cứu tình hình chăm sóc NCT tại 1 xã thuộc tỉnh Bắc Giang, đại diện cho vùng trung
du miền núi phía Bắc Việt Nam
Giới hạn nội dung nghiên cứu: chúng tôi tập trung nghiên cứu mối quan hệ
giữa NCT với các mạng lưới gia đình, dòng họ và các tổ chức chăm sóc NCT ở địa
bàn nghiên cứu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Trong bối cảnh già hóa dân số đang diễn ra nhanh chóng và chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường, tình hình chăm sóc NCT ở nông thông Trung du miền núi
như thế nào? Vai trò của các chủ thể trong chăm sóc người cao tuổi (Gia đình, cộng
đồng và Nhà nước)?
Trong quá trình chăm sóc NCT, liệu có sự thay đổi trong các mặt chăm sóc
đối với NCT không? NCT triển khai những chiến lược sống như thế nào để thích
ứng với hoàn cảnh mới? Vai trò của NCT ra sao? Có khác biệt như thế nào trong
chăm sóc các nhóm NCT ở cộng đồng nông thôn miền núi phía Bắc
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Một mặt, gia đình vẫn là chủ thể quan trọng nhất trong việc

chăm sóc NCT. Mặt khác, Nhà nước ngày càng có nhiều chính sách chăm sóc đối
với người cao tuổi về chăm sóc y tế, vật chất và tinh thần. Gia đình và Nhà nước
đang có sự kết hợp với nhau trong việc chăm sóc NCT.
Giả thuyết 2: Con cái làm những công việc phi nông nghiệp và làm ăn xa,
khiến việc chăm sóc NCT không được thường xuyên về mặt tình cảm nhưng sẽ
chăm sóc tốt hơn về mặt vật chất. NCT ý thức được áp lực mưu sinh của con cháu,
nên việc tự chăm sóc bản thân trở thành phổ biến hơn và thông cảm nhiều hơn với
con cháu. Họ vẫn tiếp tục các hoạt động bình thường hoặc tìm ra những hoạt động
mới, hoặc điều chỉnh các hoạt động để tìm thấy sự cân bằng trong cuộc sống.

16


5.3. Khung phân tích
Anh em
họ hàng
và làng
xóm

Gia
đình

Nhà
nước
và các
tổ chức
XH

Chăm sóc Người
cao tuổi


Bối cảnh kinh tế xã hội

Chăm
sóc vật
chất

Chăm
sóc
tinh
thần

Đặc điểm nhân khẩu
và đặc điểm gia đình
đình

Chăm
sóc ý
tế

5.4. Phương pháp nghiên cứu
* Phân tích tài liệu thứ cấp
- Phân tích tài liệu: Đề tài sẽ tiến hành tổng hợp, phân tích các nguồn tài liệu
(thống kê, khảo sát, nghiên cứu) liên quan đến chủ đề già hóa và chăm sóc NCT
cũng như các báo cáo tài liệu thống kê ở địa phương.
* Phương pháp khảo sát định tính: phỏng vấn sâu và quan sát không tham dự.
- Thu thập thông tin tại thực địa: Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn thăm dò
với 03 trường hợp nhằm xem xét lại giả thuyết, bổ sung và rà soát bảng hướng dẫn
phỏng vấn sâu và bảng hướng dẫn quan sát. Sau đó, chúng tôi thực hiện phỏng vấn
sâu và quan sát 25 (13 nữ và 12 nam) trường hợp chính, được chia thành 3 nhóm

tuổi 60 – 69, 70 – 79 và trên 80. Người có lương hay không có lương hưu, nguồn
lực thực hiện việc chăm sóc (tự bản thân, gia đình, dòng họ, các mạng lưới chăm
sóc), nhu cầu NCT như thế nào… Thời gian mỗi cuộc phỏng vấn kéo dài từ 45 – 60
phút. Ngoài ra, chúng tôi đã hỏi 3 đại diện của một số tổ chức trong việc chăm sóc
17


NCT ở địa phương. Việc sử dụng phương pháp định tính đánh giá được thực trạng
chăm sóc đối với NCT, thu được nhiều thông tin về nhu cầu, mong muốn của họ.
- Quan sát không tham dự: Cũng như kỹ năng phỏng vấn, chúng tôi thiết kế
bảng hướng dẫn quan sát. Trong quá trình phỏng vấn các đối tượng, đề tài kết hợp
quan sát và ghi chép những thông tin liên quan tới vấn đề nghiên cứu. Ví dụ quan
sát cách sắp xếp, tổ chức cuộc sống của NCT, các trang thiết bị đồ dùng tiện nghi
trong nhà, trang phục (quần áo, giày dép, chăn màn), hay miêu tả những dấu hiệu
tuổi già ở họ để có đánh giá thêm về cuộc sống của NCT qua đó thấy được thực
trạng trong chăm sóc NCT ở địa phương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu vận dụng lý thuyết hoạt động, lý thuyết buông bỏ, cũng như hai
cách tiếp cận thế giới xã hội và tách rời để làm sáng tỏ những vấn đề phức tạp của
già hóa dân số và tuổi già của NCT ở nông thôn TDMN. Chúng tôi thấy rằng NCT
vẫn tiếp tục làm việc vừa là để kiếm sống, vừa là để tìm thấy sức khỏe cũng như
niềm vui trong cuộc sống. NCT cũng có thể từ bỏ những hoạt động cũ để tìm một
cuộc sống yên bình, hay việc họ dần buông bỏ những hoạt động cũ hay rút bớt
những công việc cũ để đi tìm những hoạt động mới để bù đắp lại, hay việc duy trì
các hoạt động thói quen bằng cách thay đổi hình thức hoạt động. Nhìn chung, quá
trình này diễn ra phức tạp và việc áp dụng các lý thuyết và cách tiếp cận như vậy là
bổ sung cho nhau để giải thích quá trình già hóa và chiến lược sống của NCT.
Cách tiếp cận phúc lợi xã hội thông qua khái niệm thế hệ dẫn đến hai loại đoàn
kết gia đình và xã hội, từ đó trách nhiệm chăm sóc NCT thuộc về gia đình hay Nhà nước

và xem xét xem hiện trạng chăm sóc NCT theo kiểu loại Nhà nước phúc lợi nào. Chúng
ta thấy nên vận dụng khái niệm ấy để lý giải xem trách nhiệm của mỗi bên ra sao.
Chúng tôi giới thiệu và vận dụng các lý thuyết và cách tiếp cận về già hóa và
tuổi già vào nghiên cứu. Điều này giúp ích cho những nghiên cứu sau vận dụng nó
và có thể tìm hiểu hay phát triển những điểm mà chúng tôi chưa đề cập đến hoặc
chưa hoàn thiện.

18


×