Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TIÊU HỒNG PHÚC

PHÒNG NGỪA CÁC TỘI PHẠM
THAM NHŨNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH THUẬN

Chuyên ngành : Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số

: 60.38.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI MINH THANH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoạn luận văn là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của Đại tá, Phó giáo sư, Tiến sĩ Bùi Minh Thanh.
Trong quá trình nghiên cứu để hình thành luận văn bản thân tôi có tham khảo
các tài liệu, có kế thừa và vận dụng lý luận của những tài liệu tham khảo theo
danh mục ghi rõ nguồn gốc trích dẫn. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu là hoàn
toàn trung thực và không trùng lắp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Số
liệu sử dụng trong luận văn là hoàn toàn tin cậy được cung cấp từ nguồn của
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận qua công tác xét xử từ 2012-2016.



Tác giả

TIÊU HỒNG PHÚC


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
PHẠM VỀ THAM NHŨNG ................................................................................... 07
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng ........... 07
1.2. Mục đích, nguyên tắc phòng ngừa tội phạm về tham nhũng ............................. 13
1.3. Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng ....................... 15
1.4. Chủ thể phòng ngừa tình hình các tội phạm tham nhũng .................................. 17
1.5. Các loại biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng ........................... 21
Chƣơng 2: TÌNH HÌNH VÀ THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
VỀ THAM NHŨNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH THUẬN ............................ 29
2.1. Thực trạng nhận thức về mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc, nội dung

phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng ............................................. 29
2.2. Thực trạng các giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn
tỉnh Bình Thuận .................................................................................................................. 42

2.3. Nhận xét, đánh giá chung ............................................................................................ 53
Chƣơng 3: TĂNG CƢỜNG PHÒNG NGỪA CÁC TỘI PHẠM THAM
NHŨNG TỪ THỰC TRẠNG TỈNH BÌNH THUẬN ........................................... 57
3.1. Dự báo tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận trong
thời gian đến .............................................................................................................. 57
3.2. Một số giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm về tham nhũng trên địa bàn
tỉnh Bình Thuận......................................................................................................... 58

KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 79


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

GS.TS

Giáo sư, Tiến sĩ

PGS.TS

Phó giáo sư, Tiến sĩ

ThS

Thạc sĩ

VKSNDTC

Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao

BLHS

Bộ luật Hình sự

HĐND

Hội đồng nhân dân


UBND

Ủy ban nhân dân

PCTN

Phòng, chống tham nhũng

CCHC

Cải cách hành chính

CNTT

Công nghệ thông tin

CQNN

Cơ quan nhà nước


DANH SÁCH CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Tình hình tội phạm tham nhũng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 20122016.
Bảng 2.2: Tình hình tội phạm về tham nhũng xảy ra trên địa bàn các huyện
giai đoạn 2012-2016.
Bảng 2.3: Cơ cấu tội danh trong tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa
bàn tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2012-2016.
Bảng 2.4: Cơ cấu theo loại tội của tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa
bàn tình Bình Thuận giai đoạn 2012-2016.

Bảng 2.5: Cơ cấu tình hình tội phạm về tham nhũng qua nhân thân người
phạm tội giai đoạn 2012-2016.
Bảng 2.6: Cơ cấu tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận trong các lĩnh vực giai đoạn 2012-2016.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời,
cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần tập trung giải
quyết [11, Tr 16]. Trong đó, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, tệ quan liêu, tham nhũng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi hiệu quả, đã và đang trở thành một vấn đề nhức nhối
của toàn xã hội, đe dọa sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ ta [17, Tr 9].
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng đã cảnh báo nguy cơ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí là một thách thức lớn đối với sự nghiệp đổi mới và
đã đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tệ nạn này. Với sự ra đời
của Nghị quyết Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII), kết luận hội nghị Trung ương 4
(khóa IX), Nghị quyết hội nghị Trung ương 3 (khóa X), Luật Phòng, chống tham
nhũng, trong những năm qua cuộc đấu tranh này đã được tăng cường và đạt được
một số kết quả nhất định, nhưng chưa được như mong muốn. Báo cáo tổng kết một
số vấn đề lý luận- thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016) của Đảng đã khẳng
định “Tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng và diễn biến phức tạp” [9, tr 75].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đã thẳng thắn nhìn
nhận tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng
tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng niềm tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước. [10, Tr 185]. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, ở nước ta hiện

nay bất kể ngành nào, kể cả trong ngành giáo dục, trong các cơ quan nghiên cứu
khoa học; bất kể địa phương nào, cấp nào cũng đều có tham nhũng tuy mức độ có
khác nhau [17, Tr 90].
Là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Ninh Thuận, phía
Tây Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Tây giáp tỉnh Đồng Nai, phía Đông Nam giáp
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Tỉnh lỵ của Bình Thuận là thành phố Phan Thiết. Diện tích
7.828 km2, dân số 1176,9 nghìn người, với 34 dân tộc cùng sinh sống. Trong những


năm qua, cùng với cả nước, công cuộc đổi mới của tỉnh Bình Thuận đã mang lại
nhiều kết quả quan trọng, tương đối toàn diện, tạo chuyển biến căn bản trong đời
sống xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn nhiều khó khăn, hạn chế làm cản ngại
không ít đến quá trình phát triển của tỉnh, trong đó có nạn tham nhũng. Văn kiện
Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XIII đã chỉ ra “tệ lãng phí, quan
liêu, tham nhũng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả”[35, Tr 78]. Mặc dù
cấp ủy, chính quyền và nhân dân Bình Thuận đã tích cực triển khai nhiều giải pháp
phòng, chống tham nhũng nhưng vấn nạn này tiếp tục xảy ra trong nhiều lĩnh vực, ở
nhiều cấp, nhiều ngành, gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản nhà nước, xói mòn
lòng tin của nhân dân [37, Tr 16]. Vì vậy, trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, không chỉ đơn thuần tiếp cận, nghiên cứu các tội phạm tham nhũng trên địa
bàn tỉnh dưới góc độ áp dụng các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng,
Luật hình sự và Tố tụng hình sự để thanh tra, kiểm tra, phát hiện, giải quyết các vụ
án, hành vi tham nhũng mà cần nghiên cứu chuyên sâu, tập trung làm rõ khái niệm,
tình hình tội phạm tham nhũng trong mối liên hệ với việc đấu tranh phòng và chống
tham nhũng thuộc phạm vi chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
[43, Tr 4], từ đó tìm ra những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm tham nhũng,
làm rõ nhân thân người phạm tội tham nhũng, thực trạng và hiệu quả của các giải
pháp phòng ngừa tham nhũng đã và đang đang triển khai, góp phần đề xuất việc áp
dụng các giải pháp phòng ngừa thật sự hiệu quả. Trên cơ sở những kiến thức đã học
và những hiểu biết thực tế cũng như những tài liệu thu thập được, tác giả đã chọn đề

tài: “Phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận” để làm luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành: Tội phạm học và phòng
ngừa tội phạm.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: Giáo trình
Luật Hình sự Việt Nam,Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2000;
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, phần các tội phạm, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb Công an nhân dân, 1997; Sách chuyên khảo: GS.TS. Võ Khánh Vinh, Tìm
hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1996; GS.TS. Võ Khánh Vinh, Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa

2


học xã hội, Hà Nội, 2013; GS.TS. Võ Khánh Vinh, Luật hình sự Việt Nam – Phần
các tội phạm, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2014; Sách chuyên khảo: GS.TS.
Nguyễn Xuân Yêm, PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình, TS. Bùi Minh Thanh, Phòng
chống tham nhũng ở Việt Nam và thế giới, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007;
ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự-Phần các tội phạm, Tập V
- Các tội phạm về chức vụ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2006; Kinh nghiệm
phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế giới, sách tham khảo, Ban Nội
chính Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, biên soạn Nguyễn Văn Quyền, Nxb
Chính trị Quốc gia, 2005… Những giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận này tập
trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất về mặt lý luận đối với tội phạm về tham
nhũng, trang bị cho người đọc những kiến thức chung, cơ bản về loại tội phạm này.
Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề cập
đến tội tham nhũng như: Đề tài về tham nhũng và chống tham nhũng ở Việt Nam do
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí làm Chủ nhiệm, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2001; Một số ý kiến hoàn thiện quy định của pháp luật về phòng, chống tham
nhũng, Nguyễn Đình Bính, Tạp chí Kiểm sát, VKSNDTC, số 09/2008; ThS. Bùi

Thế Tỉnh, Hình sự hóa hành vi tham nhũng trong lĩnh vực công theo công ước
chống tham nhũng của Liên Hợp quốc năm 2003, Tạp chí Khoa học pháp lý, số
01/2012; Các giải pháp nâng cao hiệu quả phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng,
Phạm Mạnh Khải, Tạp chí Thanh tra Chính phủ, Số 11/2009; Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao ban hành kế hoạch thực hiện chiến lược quốc gia phòng, chống tham
nhũng đến năm 2020, Văn Công, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 18/2009; …
Đây là những công trình nghiên cứu chuyên sâu tội phạm về tham nhũng đã được
đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Các công trình này tiếp cận nhóm tội phạm này
từ nhiều góc độ khác nhau, phân tích thực trạng, nguyên nhân của tham nhũng và đề
ra những giải pháp phòng, chống tội phạm về tham nhũng…
Ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài của các tác giả: Trần Đăng
Vinh (2012), Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện
nay; Trần Văn Đạt (2012), Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự
Việt Nam; Trần Công Phàn (2004), Tình hình, nguyên nhân và các biện pháp đấu
tranh phòng, chống các tội tham nhũng… Ở cấp độ luận văn thạc sĩ có các đề tài

3


của các tác giả: Hoàng Anh Tuyên, Phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng ở Việt
Nam; Nguyễn Văn Hải, Các tội phạm về tham nhũng trong Luật hình sự Việt Nam;
Trần Mai Phương, Phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi... Những luận văn, luận án này ở những góc độ khác nhau đã nghiên cứu tội
phạm về tham nhũng ở những khía cạnh chung, những vấn đề lý luận, tình hình tham
nhũng và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, cũng như việc đổi mới tư duy
trong phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam nhưng đến nay chưa có
một đề tài nào nghiên cứu riêng về phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng trên
địa bàn tỉnh Bình Thuận dưới góc độ tội phạm học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của tình hình tội
phạm về tham nhũng, cũng như thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tình hình
tội phạm về tham nhũng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận, tìm hiểu về nguyên nhân,
điều kiện phát sinh tội phạm tham nhũng, luận văn hướng đến mục đích đề xuất
hoàn thiện và triển khai đồng bộ các giải pháp, biện pháp nhằm tăng cường công tác
phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích đề ra, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể sau:
Thứ nhất, nghiên cứu tài liệu, bao gồm tài liệu về tội phạm học, Nghị quyết,
Chỉ thị của Đảng, Pháp luật của Nhà nước.
Thứ hai, nghiên cứu thực tế từ số liệu thống kê, thu thập được và đánh giá
các vấn đề nghiên cứu qua hồ sơ vụ án, bản án, các báo cáo tổng kết năm của các
ngành Tư pháp hình sự, Ban Nội chính của cấp ủy Đảng.
Thứ ba, nghiên cứu sáng tạo, bao gồm:
- Phân tích thực trạng nhận thức về mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, nội dung
phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận giai
đoạn 2012-2016 qua tình hình, nguyên nhân, điều kiện các tội phạm tham nhũng
trên địa bàn tỉnh Bình Thuận trong giai đoạn này.

4


- Phân tích đánh giá thực trạng các giải pháp phòng ngừa cũng như thực
trạng áp dụng các giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa
bàn tỉnh Bình Thuận.
- Thư tư, đề xuất, kiến nghị xác định các giải pháp trọng tâm, hoàn thiện, áp
dụng đồng bộ các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm về tham
nhũng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tình hình tội phạm về tham nhũng trên
địa bàn tỉnh Bình Thuận. Trong đó, bao gồm thực trạng, cơ cấu, diễn biến, tính chất,
nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận giai đoạn 2012-2016. Đồng thời, nghiên cứu đánh giá thực trạng, kết quả
thực hiện các giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng trong thời
gian qua trên địa bàn tỉnh, từ đó đề xuất, bổ sung, hoàn thiện các giải pháp phòng
ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tình hình tội phạm về tham nhũng dưới góc độ tội
phạm học và phòng ngừa tội phạm. Những khảo sát thực tiễn của đề tài dựa trên
những số liệu thống kê tình hình tội phạm về tham nhũng của Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Thuận, giai đoạn 2012-2016 và các bản án hình sự sơ thẩm xét xử về tội phạm
tham nhũng trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn này.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong công
tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Biện chứng;
Lôgic; kế thừa; hệ thống; thống kê; phân tích; tổng hợp; so sánh; quy nạp; diễn

5


dịch; phương pháp mô tả bằng bảng; nghiên cứu vụ án điển hình; nghiên cứu thực
tiễn để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra đối với luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện lý luận phòng ngừa
tình hình tội phạm về tham nhũng nói riêng, hoàn thiện lý luận về tội phạm học và
phòng ngừa tội phạm nói chung; là một trong những tài liệu tham khảo cho các cán
bộ, sinh viên trong các cơ sở đào tạo.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ thực trạng của tình
hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện tội phạm về tham nhũng; thực trạng áp dụng
các giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận, góp phần đi sâu, làm rõ hơn cơ sở khoa học, thực tiễn về công tác phòng
ngừa tội phạm về tham nhũng dưới góc độ tội phạm học để các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng các kế hoạch, giải pháp đấu
tranh phòng, chống có hiệu quả đối với tình hình tội phạm về tham nhũng và hoàn
thiện cơ cấu tổ chức, đổi mới công tác bố trí cán bộ, phương pháp hoạt động, cơ chế
phát huy hiệu quả các chủ thể có trách nhiệm trong cuộc đấu tranh phòng, chống
nhóm tội phạm này ở địa bàn tỉnh Bình Thuận.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận phòng ngừa tình hình tội phạm về tham
nhũng.
Chƣơng 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng trên
địa bàn tỉnh Bình Thuận.
Chƣơng 3: Tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng trên
địa bàn tỉnh Bình Thuận.

6


Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng
1.1.1. Khái niệm tham nhũng, tội phạm về tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng tiêu cực của xã hội, có tính lịch sử và phổ
biến ở tất cả các nước. Đây là một hiện tượng xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà
nước, xuất hiện khi có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Tham nhũng xuất hiện khi
một số người sử dụng quyền lực được giao để thỏa mãn lòng tham, tính vụ lợi của
mình, suy đến cùng tham nhũng là sự tha hóa của quyền lực [1, Tr 24]. Tham nhũng
từ lâu được nghiên cứu dưới nhiều phương diện và góc độ khác nhau: kinh tế, chính
trị, triết học, tâm lý xã hội, pháp lý, hình sự… Mỗi ngành khoa học đều nghiên cứu
hiện tượng tham nhũng theo cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu riêng của
mình. Mục tiêu ở đây là nhận diện tham nhũng, từ đó tìm ra được những giải pháp
hữu hiệu để ngăn chặn, khắc phục và hạn chế được căn bệnh mang tính chất toàn
cầu này. Hiện nay có nhiều khái niệm về tham nhũng.
Theo tài liệu của Liên hợp quốc thì “Tham nhũng đó là sự lạm dụng quyền
hạn Nhà nước để trục lợi cho mục đích cá nhân” [56, tr. 538]. Theo Đại từ điển
tiếng Việt định nghĩa “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để tham ô, hạch sách và
nhũng nhiễu dân”[29, Tr 1458]. Theo từ điển Luật học Việt Nam “Tham nhũng là
hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật, gây thiệt
hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của
các cơ quan, tổ chức” [30, Tr 965]. Theo Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005
thì “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó vì vụ lợi”[22, tr. 8].
Như vậy, hiện tượng tham nhũng có thể được nghiên cứu và tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau tùy thuộc vào mục đích và yêu cầu của việc nghiên cứu. Nhìn chung,
các khái niệm nói trên cho thấy tham nhũng có các dấu hiệu đặc trưng cơ bản:
- Thứ nhất, tham nhũng phải được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền
hạn. Người có chức vụ quyền hạn là người được giao một công vụ hoặc nhiệm vụ
nhất định và có quyền hạn nhất định đối với công vụ, nhiệm vụ đó. Đây là những


7


người mà quyền hạn của họ có được do bổ nhiệm, bầu cử, do hợp đồng hoặc do một
hình thức khác. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, với bản tính vụ lợi
trong con người đó, cùng với những điều kiện thuận lợi nhất định của hoàn cảnh
khách quan, họ đã sử dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thỏa mãn lòng tham,
tính vụ lợi của mình.
- Thứ hai, người có hành vi tham nhũng đã lợi dụng, lạm dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công vụ, nhiệm vụ được giao. Sự lợi dụng chức vụ,
quyền hạn thể hiện ở chổ họ sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình làm sai lệch hoạt
động của cơ quan, tổ chức gây nên những thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Thứ ba, tham nhũng là động cơ vụ lợi, tức người phạm tội thực hiện hành vi
phạm tội nhằm thu lợi vật chất cho cá nhân, gia đình hoặc một nhóm người mà mình
quan tâm. Đây là dấu hiệu bắt buộc phải có để phân biệt hành vi tham nhũng với những
hành vi vi phạm pháp luật khác do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện.
Từ nghiên cứu những vấn đề lý luận, những định nghĩa được nêu trong nhiều
tài liệu và biểu hiện trong thực tiễn của hành vi tham nhũng, kết hợp nghiên cứu các
quy định của BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 định nghĩa về tội phạm
và các tội phạm cụ thể về tham nhũng, tác giả luận văn đưa ra định nghĩa tội phạm
về tham nhũng như sau:
“Tội phạm về tham nhũng là hành vi nguy hiểm cho xã hội của người có chức
vụ, quyền hạn đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi gây thiệt
hại cho Nhà nước, tổ chức, tập thể, doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân hoặc xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan,
tổ chức được quy định trong BLHS”.
Theo quy định của BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, tội phạm về
tham nhũng bao gồm các tội sau:

- Tội tham ô tài sản (Điều 278 BLHS);
- Tội nhận hối lộ (Điều 279 BLHS);
- Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280 BLHS);
- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281
BLHS);

8


- Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282 BLHS);
- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng tới người khác để trục lợi
(Điều 283 BLHS);
- Tội giả mạo trong công tác (Điều 284 BLHS);
Từ thực tế đấu tranh với tội phạm, bên cạnh khuynh hướng đấu tranh chống
tội phạm bằng Luật hình sự và cho ra đời các khoa học pháp lý chống tội phạm, một
khuynh hướng khác cũng đã xuất hiện, đó là khuynh hướng phòng ngừa tội phạm
mà di sản khoa học của nó chính là tội phạm học - khoa học về phòng ngừa tội
phạm. Khách thể nghiên cứu của nó cũng là tội phạm, song không phải ở dạng hành
vi mà ở dạng hiện tượng, tức là tình hình tội phạm [43, Tr 6], áp vào tội phạm tham
nhũng thì được gọi là tình hình tội phạm tham nhũng và được định nghĩa như sau:
Tình hình tội phạm về tham nhũng là hiện tượng tâm-sinh lý- xã hội tiêu cực, vừa
mang tính lịch sử và lịch sử cụ thể, vừa mang tính pháp lý hình sự với hạt nhân là
tính giai cấp, được thể hiện thông qua tổng thể những hành vi phạm tội về tham
nhũng đã xảy ra và các chủ thể đã thực hiện các hành vi đó trong một đơn vị thời
gian nhất định và trên một địa bàn hành chính- lãnh thổ hay trong một lĩnh vực
kinh tế - xã hội nhất định.
1.1.2. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng
Phòng ngừa tội phạm là nội dung nghiên cứu quan trọng của tội phạm học.
Khái niệm phòng ngừa tội phạm đã được dùng thống nhất trong hầu hết các công
trình nghiên cứu về tội phạm học ở Việt Nam [12, Tr 189] và phòng ngừa tình hình

tội phạm về tham nhũng là một bộ phận của hoạt động phòng ngừa tội phạm nói
chung dưới góc độ tội phạm học. Vì vậy, để nhận thức về phòng ngừa tình hình tội
phạm về tham nhũng, phải dựa trên cơ sở phòng ngừa tội phạm. Trong tội phạm học,
do tuân thủ cái biện chứng giữa hành vi và hiện tượng, nên việc dùng từ “tội phạm”
hay “tình hình tội phạm”, “phòng ngừa tội phạm” hay “phòng ngừa tình hình tội
phạm” đều không sợ sai [42, Tr 75].
Tình hình tội phạm hay tội phạm xảy ra ở một địa bàn trong một khoảng thời
gian là một thực tế không ai bác bỏ. Trong cái thực tế đó lại chứa đựng những yếu
tố tiêu cực mà trong sự tác động qua lại ở những hoàn cảnh, tình huống nhất định đã
sinh ra chính thực tế như vậy, tức là chứa đựng quy luật của sự phạm tội mà tội

9


phạm học gọi là nguyên nhân và điều kiện cần phải được hạn chế, xóa bỏ. Vì vậy,
phòng ngừa tội phạm là hoạt động của Nhà nước, xã hội và mọi công dân tiến hành
bằng mọi biện pháp cần thiết nhằm hướng đến mục tiêu hạn chế, xóa bỏ nguyên
nhân, điều kiện, tình huống tội phạm, làm giảm, tiến tới loại trừ hiện tượng tội
phạm trong đời sống xã hội [4, Tr 387]. Vấn đề nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm hay của tội phạm cũng vậy, tội phạm học nói chung và tội phạm học
Mác-xít nói riêng đều có chung một quan điểm rõ ràng, đây là vấn đề nhân-quả. Do
vậy, phòng ngừa tội phạm bao giờ cũng gồm hai tạo phần không tách rời nhau, có
quan hệ biện chứng với nhau. Một tạo phần gồm các biện pháp tác động vào nhân
(tức là nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ở giai đoạn tương tác nhập
tâm), được gọi là các biện pháp loại trừ tội phạm; một tạo phần khác gồm các biện
pháp tác động vào quả (tức là phản ứng trực diện với hiện trạng của tình hình tội
phạm), được gọi là các biện pháp ngăn chặn tội phạm [42, Tr 75]. Phòng ngừa tội
phạm được xác định là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội, được
tiến hành bằng nhiều biện pháp [3, Tr 33]. Từ những vấn đề lý luận trên, có thể đưa
ra khái niệm: “Phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng là hoạt động của Nhà

nước, xã hội và mọi công dân tiến hành bằng mọi biện pháp cần thiết nhằm hướng
đến mục tiêu hạn chế, xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện, tình huống làm phát sinh tội
phạm tham nhũng, làm giảm, tiến tới loại trừ hiện tượng tội phạm này trong đời
sống xã hội”.
1.1.3.Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng
1.1.3.1. Ý nghĩa về mặt chính trị
Phòng ngừa tội phạm có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn trong kiểm soát xã
hội hay nói cách khác, phòng ngừa tội phạm là phương tiện đắc lực của nhà nước
nhằm kiểm soát tội phạm, ngăn chặn không để cho tội phạm xảy ra, góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội [18, Tr 220]. Phòng ngừa tội phạm là
hoạt động để thực hiện đúng và nghiêm chỉnh các Nghị quyết của Đảng, quy định
của pháp luật nhằm phục vụ việc nghiên cứu khoa học, triển khai các kết quả nghiên
cứu và hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và phòng
ngừa tội phạm tham nhũng cũng vậy. Tham nhũng hiện nay được xem vấn đề bức
xúc của toàn cầu, là quốc nạn, giặc nội xâm của mỗi quốc gia, tham nhũng ảnh

10


hưởng rất nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế-xã hội của các quốc gia nói chung,
của Việt Nam nói riêng. Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc đều đề cập đến
vấn đề phòng, chống tham nhũng và do tình hình tham nhũng ngày càng gia tăng
nghiêm trọng cả bề rộng lẫn chiều sâu ở nhiều cấp, nhiều ngành nên Đảng ta xác
định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế
độ [16, Tr 4]. Tham nhũng làm tha hóa, biến chất đội ngũ cán bộ, đảng viên, xói
mòn lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, đối với Nhà nước và chế
độ, nguy cơ đến sự tồn vong của chế độ. Trong phát biểu khai mạc hội nghị lần thứ
5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn
mạnh “Đây là vấn đề nhức nhối, gây bức xúc trong nhân dân và gắn trực tiếp với
việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về một số vấn đề cấp bách trong công tác

xây dựng Đảng”[46, Tr 94]. Phòng ngừa tham nhũng hiệu quả là góp phần bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ, củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, phát huy được sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tạo ra môi trường ổn định để đất nước
phát triển tiến lên, thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.3.2. Ý nghĩa về mặt kinh tế
Tội phạm nói chung bao giờ cũng gây ra thiệt hại cho nhà nước, xã hội và
nhân dân, tội phạm tham nhũng cũng vậy. Ngoài những thiệt hại về mặt tinh thần,
lòng tin, cán bộ… thì tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về kinh phí, nhiều vụ án gây
thất thoát hàng nghìn tỉ đồng cho ngân sách nhà nước, nhân dân nhưng việc thu hồi
sau phát hiện, xử lý không hiệu quả. Bên cạnh đó, còn nhiều hậu quả khác cho xã
hội như: Chi phí cho việc giải quyết các vụ án, chi phí cho việc giáo dục, cải tạo
phạm nhân, chi phí cho việc tái cơ cấu kinh tế, doanh nghiệp… Do đó, phòng ngừa
hiệu quả tội phạm tham nhũng có ý nghĩa tiết kiệm một khoản rất lớn về chi phí,
tiền của và sức lực cho Nhà nước, xã hội trong việc điều tra, truy tố, xét xử, cải tạo,
giáo dục người phạm tội; trong việc khắc phục hậu quả do tội phạm gây ra; tạo điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của đất nước.
1.1.3.3. Ý nghĩa về mặt xã hội
Tội phạm hay tình hình tội phạm về lý luận là hiện tượng tâm sinh lý-xã hội
tiêu cực, không bao giờ và không ở đâu, tình hình tội phạm lại là một hiện tượng

11


thuần túy sinh học, nhân chủng học, tâm lý học hay thuần túy kinh tế hoặc chính trị,
tư tưởng [4, Tr 108]. Phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm tham nhũng nói
riêng là tham gia vào hạn chế, loại bỏ những nguyên nhân, điều kiện xã hội góp
phần làm phát sinh tội phạm. Bên cạnh đó, tham nhũng tác động mạnh đến các vấn
đề xã hội như: nghèo đói, bần cùng hóa người lao động, khoảng cách giàu nghèo
tăng lên, những bất bình đẳng trong thực hiện những quyền cơ bản của con người,

tạo ra sự xung đột xã hội. Phòng ngừa tội phạm tham nhũng là hoạt động không chỉ
của một cấp, một ngành mà cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng “Đảng lãnh đạo chặt chẽ công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của
toàn dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, lý tưởng, tổ chức hành chính,
kinh tế, hình sự” [7, Tr 2]. Vì vậy, phòng ngừa tội phạm tham nhũng có ý nghĩa rất
lớn về mặt xã hội.
1.1.3.4. Ý nghĩa về mặt văn hóa, truyền thống
Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực
đạo đức xã hội, tha hóa, suy thoái đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Trước
những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi tham nhũng, nhiều
cán bộ, công chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức của người cán bộ, chạy
theo lối sống hưởng thụ, hám danh, hám lợi, làm việc không vì mục đích phục vụ
nhân dân mà hướng tới việc thu được lợi ích bất chính, bất chấp pháp luật, làm trái
công vụ, trái lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Hơn thế, tham nhũng còn xâm phạm
những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, khi người thực hiện hành vi tham
nhũng là giáo viên, bác sĩ, những người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn
hóa, xã hội… những người xây dựng nền tảng tinh thần cho xã hội.
Phòng ngừa tội phạm nói chung hay tội phạm về tham nhũng nói riêng còn
có ý nghĩa nhân văn cao cả ở chỗ nó hạn chế tới mức thấp nhất trong xã hội không
có bất cứ thành viên nào phải bị điều tra, truy tố, xét xử và phải chịu hình phạt của
Nhà nước.
Do vậy, phòng ngừa hiệu quả tình hình tội phạm tham nhũng có ý nghĩa tích
cực, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống của dân tộc.

12


1.2. Mục đích, nguyên tắc phòng ngừa tội phạm về tham nhũng
1.2.1. Mục đích phòng ngừa tội phạm về tham nhũng

Về góc độ thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham
nhũng của Đảng và Nhà nước ta thì mục đích của công tác phòng ngừa tội phạm về
tham nhũng được thể hiện khá rõ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa X là
“Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt
để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xã hội; củng cố lòng tin của nhân
dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, công chức
kỷ cương, liêm chính”[7, Tr2].
Ở góc độ tội phạm học, phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng là
việc khắc phục, hạn chế, loại trừ các nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình
hình tội phạm tham nhũng; đồng thời trên cơ sở nghiên cứu nguyên nhân và điều
kiện của tội phạm về tham nhũng đề ra các giải pháp tổng thể và mang tính hệ
thống, phòng ngừa các hiện tượng tiêu cực, hành vi tham nhũng, những yếu tố ảnh
hưởng cũng như những sơ hở, thiếu sót trong cơ chế quản lý của cơ quan nhà nước
trên các mặt; kiến nghị khắc phục những lỗ hổng trong quản lý, hoàn thiện hệ thống
pháp luật giúp cho việc phòng, chống tham nhũng đạt hiệu quả. Đây là mục đích
tổng quát, xuyên suốt của công tác phòng ngừa tội phạm về tham nhũng. Bên cạnh
đó, công tác phòng ngừa tội phạm về tham nhũng còn nghiên cứu môi trường sống
xung quanh các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi tham nhũng. Từ đó, có biện
pháp tác động để hạn chế, ngăn chặn những hiện tượng có ảnh hưởng bất lợi và sai
lệch đến việc hình thành nhân cách, phẩm chất cá nhân tiêu cực của những người có
khả năng, điều kiện thực hiện hành vi tham nhũng.
1.2.2. Nguyên tắc phòng ngừa tội phạm về tham nhũng
Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm về tham nhũng ở Việt
Nam nói riêng là chiến lược hành động của toàn xã hội đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng nên nó phải tuân thủ nhiều nguyên tắc, phụ thuộc vào mục đích, vi mô và
phạm vi tác động của biện pháp áp dụng. Tuy nhiên, tất cả những biện pháp phòng
ngừa dù ở phạm vi nào, với tính chất và mức độ nào cũng không thể thoát ly khỏi
những nguyên tắc chung sau:
1.2.2.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo
Nội dung của nguyên tắc Đảng lãnh đạo thể hiện ở chỗ mọi hoạt động phòng

ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng cũng như mọi chủ thể tiến hành các hoạt

13


động phòng ngừa đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam với lý luận
khoa học chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp tư tưởng Hồ Chí Minh làm sợi chỉ đỏ dẫn
đường. Phòng chống tham nhũng, lãng phí là công việc khó khăn, phức tạp, là nhiệm
vụ quan trọng, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc [2, Tr 166].
1.2.2.2. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong phòng ngừa tình hình
tội phạm về tham nhũng
Mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đều phải trên cơ sở quy
định của Pháp luật. Vì vậy, không vì bất kỳ lý do nào mà hoạt động phòng ngừa tội
phạm nói chung, phòng ngừa tội phạm về tham nhũng nói riêng và việc áp dụng các
biện pháp phòng ngừa tội phạm về tham nhũng có thể tiến hành ngoài các quy định
của Hiến pháp và pháp luật, hay nói cách khác hoạt động phòng ngừa tội phạm về
tham nhũng phải có cơ sở quy định của pháp luật. Trong quá trình tiến hành các
hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng các chủ thể tuân thủ
nghiêm chỉnh, nhất quán các quy định của pháp luật và chỉ khi thực hiện đúng các
quy định của pháp luật, phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng mới đảm bảo
mục đích của nó là phục vụ lợi ích xã hội, Nhà nước và công dân.
1.2.2.3. Nguyên tắc dân chủ trong phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng
Nguyên tắc dân chủ trong phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng đòi
hỏi sự tham gia tích cực và có hiệu quả vào hoạt động phòng ngừa tội phạm của các
chủ thể như Nhà nước, các tổ chức và mọi công dân. Các chủ thể tham gia phòng
ngừa đều có quyền bàn bạc, phát huy sáng kiến của mình, đảm bảo cho hoạt động
phòng ngừa có hiệu quả, đặc biệt là từng công dân phải được tham gia theo đúng cơ
chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
1.2.2.4. Nguyên tắc phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng

Phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng là hoạt động có tính chất quốc
gia và đặt trên bình diện xã hội rộng lớn nên đòi hỏi phải có sự tham gia của các lực
lượng xã hội, của cơ quan nhà nước, đoàn thể, quần chúng và mọi công dân. Tuy
nhiên, hoạt động này nhất thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải có cơ chế
phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, có sự điều chỉnh thống nhất giữa các cơ quan chuyên
trách và không chuyên trách, giữa cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ
chức kinh tế và mọi công dân, giữa Trung ương với địa phương. Hình thức, nội
dung và phạm vi phòng ngừa cần phải được xác định thống nhất giữa các chủ thể

14


tiến hành hoạt động phòng ngừa. Đề cao và phát huy vai trò, trách nhiệm của xã hội
trong phòng, chống tham nhũng đặc biệt là vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên, của cộng đồng, nhân dân trong việc phát hiện, đấu tranh với hiện
tượng tham nhũng [6, Tr 5].
1.2.2.5. Nguyên tắc khoa học trong phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng
Nội dung của nguyên tắc khoa học và tiến bộ của hoạt động phòng ngừa tình
hình tội phạm về tham nhũng thể hiện ở chỗ các biện pháp phòng ngừa, tổ chức hệ
thống phòng ngừa, các chủ thể phòng ngừa phải được xây dựng có khoa học, tức là
có cơ sở lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đấu tranh với tội phạm tham
nhũng, mang tính chất đồng bộ, có hệ thống, đạt hiệu quả cao.
1.2.2.6. Nguyên tắc quốc tế trong phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng
Tội phạm tham nhũng hiện nay là vấn nạn toàn cầu. Vì vậy, các hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm này ở nước ta cũng phải phù hợp với xu thế và quan
điểm của các nước trên thế giới. Sự phù hợp này là cơ sở để Nhà nước ta tham gia
ký kết các Hiệp định, Điều ước song phương, đa phương trong lĩnh vực đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm về tham nhũng nói riêng.
1.3. Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng
Tình hình tội phạm tham nhũng cũng như tội phạm tham nhũng là hiện tượng

xã hội hết sức phức tạp, nó chịu sự chi phối, tác động của hàng loạt các yếu tố, các
quá trình xã hội [41, Tr 34]. Do vậy, để phòng ngừa tội phạm tham nhũng hiệu quả
phải hướng vào giải quyết tốt các nội dung sau:
1.3.1. Nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm về
tham nhũng
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về tham nhũng được hiểu là
hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa
tư tưởng, tâm lý xã hội… của chế độ xã hội quyết định sự ra đời của tình hình tội
phạm như là hệ quả tất yếu; các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về
tham nhũng tạo thành một hệ thống gồm nhiều bộ phận cấu thành nó [50, Tr 86].
Chỉ có nghiên cứu làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm tham nhũng mới
tìm được quy luật phát sinh, tồn tại của nó cũng như các yếu tố tác động đến tình
hình tội phạm. Làm rõ, phát hiện các sơ hở thiếu sót trên các lĩnh vực để kịp thời
khắc phục, bổ sung, chỉnh lý nhằm ngăn chặn tội phạm. Trên cơ sở làm rõ được

15


nguyên nhân, điều kiện của tội phạm mới đưa ra các giải pháp, biện pháp phòng
ngừa hiệu quả.
1.3.2. Nghiên cứu, soạn thảo đề ra các chủ trương, giải pháp, biện pháp thích
hợp nhằm từng bước xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm về tham nhũng
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm về tham
nhũng, căn cứ vào điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể và thực tiễn cuộc đấu tranh phòng
chống tham nhũng mà các chủ thể phòng ngừa tội phạm soạn thảo, đề xuất các
phương pháp, biện pháp phòng ngừa tội phạm về tham nhũng cho phù hợp. Tùy
thuộc vào nguyên nhân của tình hình tội phạm trên từng lĩnh vực mà đưa ra giải
pháp phù hợp nhưng phải mang tính cụ thể, đảm bảo tính khả thi trong thực hiện và
đối với từng chủ thể phòng ngừa.
1.3.3. Tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm

Nếu chỉ nghiên cứu, soạn thảo đề ra các chủ trương, giải pháp, biện pháp
phòng ngừa mà không tổ chức thực hiện thì hoạt động phòng ngừa tội phạm về
tham nhũng chỉ dừng lại trên phương diện lý luận chưa đi vào thực tiễn. Để phát
huy được hiệu quả và đạt được mục đích phòng ngừa thì tổ chức triển khai các hoạt
động phòng ngừa là khâu quan trọng. Hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về
tham nhũng là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Nó đòi hỏi các chủ thể tham gia
phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể của mình để chủ động và phối hợp tiến
hành các hoạt động phòng ngừa. Trong quá trình tổ chức tiến hành phòng ngừa, cần
phải xây dựng được kế hoạch phòng ngừa cho từng cấp, từng ngành, từng lực
lượng, phải xây dựng, xác định các lực lượng phòng ngừa theo chức năng, nhiệm vụ
cụ thể, có sự phân công, phân cấp và phối hợp chặt chẽ.
1.3.4. Phân tích hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về
tham nhũng
Cũng như bất kỳ hoạt động nào khác, phòng ngừa tội phạm về tham nhũng
cần được đánh giá hiệu quả sau khi triển khai thực hiện. Việc đánh giá hiệu quả
phòng ngừa tội phạm sẽ góp phần hoàn thiện hoạt động phòng ngừa tội phạm trong
tương lai, xác định trách nhiệm của các chủ thể trong suốt quá trình phòng ngừa tội
phạm và hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư cho hoạt động phòng ngừa tội phạm
này, kiểm tra, tổng kết rút kinh nghiệm để đánh giá xem biện pháp nào có hiệu quả,

16


lực lượng nào làm tốt, biện pháp nào kém tác dụng,…để kịp thời bổ sung, sửa đổi,
hoàn thiện cho phù hợp.
1.4. Chủ thể phòng ngừa tình hình các tội phạm tham nhũng
Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm
về tham nhũng nói riêng là cuộc đấu tranh phức tạp, đòi hỏi nỗ lực chung của toàn
bộ hệ thống chính trị, toàn xã hội [32, Tr 98]. Sự tham gia của toàn xã hội, bao gồm
các cơ quan nhà nước ở các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và mọi công dân thì

phòng ngừa tình hình tội phạm mới đạt hiệu quả cao. Có thể coi các cơ quan và tổ
chức sau đây là những chủ thể chính của hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm
tham nhũng.
1.4.1. Đảng Cộng sản Việt Nam
Là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn
coi vấn đề phòng ngừa tình hình tội phạm là nội dung quan trọng trong hoạt động
của các tổ chức Đảng. Các Chủ trương, đường hướng của Đảng trong các giai đoạn
lịch sử cụ thể đã quy định phương hướng chung phát triển của xã hội và đề ra
đường lối, phương pháp giải quyết những nhiệm vụ này. Phòng ngừa tình hình tội
phạm về tham nhũng là một bộ phận không thể tách rời trong công tác chính trị tư
tưởng của Đảng để giáo dục Cộng Sản chủ nghĩa cho những người lao động. Trong
quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta đã ban hành rất nhiều Chỉ thị,
Nghị quyết để lãnh đạo cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng. Nghị quyết số 14NQ/TW ngày 15/5/1996 của Bộ Chính trị khóa VII đã chỉ rõ: Đấu tranh phòng,
chống tham nhũng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp đấu
tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay, góp phần nâng cao vai trò lãnh
đạo của Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng Đảng và kiện toàn
bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền dân chủ của nhân dân
[41, Tr 24]. Đảng lãnh đạo phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng thông qua
chủ trương, đường lối, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và những
Chỉ thị, Nghị quyết chuyên đề về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Trên cơ sở đó, được cụ thể hóa thành các chính sách, quy định của pháp luật để các
cấp, các ngành và toàn xã hội tham gia một cách hiệu quả vào công tác phòng ngừa

17


tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm về tham nhũng nói riêng. Đại
hội lần thứ XII của Đảng xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là
nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng; đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu

dài là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng [11, Tr 211].
1.4.2. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực Nhà nước ở
Trung ương và địa phương, có thẩm quyền xây dựng Luật, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, các Nghị quyết, chương trình, kế hoạch chỉ đạo, tổ chức giám sát
các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm về
tham nhũng nói riêng. Trên thực tế, hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về
tham nhũng của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp mang tính định hướng chung,
thúc đẩy hoạt động phòng ngừa của các chủ thể khác, hoạt động này luôn thu hút sự
tham gia của đông đảo các thành phần xã hội, có giá trị thực tiễn cao. Hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm về tham nhũng của Quốc hội thường được thể hiện
thông qua việc nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật nhằm hạn chế cơ
hội tham nhũng, trong việc phê chuẩn và kiểm soát ngân sách, quyết định các
chương trình, dự án quan trọng của quốc gia, bảo đảm sự minh bạch về tài sản và
thông tin trong hoạt động của bộ máy nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao
của Quốc hội trong công tác phòng, chống tham nhũng. Đối với Hội đồng nhân dân
các cấp thể hiện qua việc tham gia vào chương trình phòng ngừa tội phạm tham
nhũng nói chung của nhà nước, ban hành các Nghị quyết để thực hiện và chỉ đạo
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội thực hiện vai trò phòng ngừa tham nhũng;
tham gia giám sát việc thực hiện các chương trình, kế hoạch đó và giám sát chuyên
đề về phòng, chống tham nhũng… Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp “Quyết định biện
pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các hành
vi vi phạm pháp luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong phạm vi được
phân quyền” [27, Tr 23].
1.4.3. Các cơ quan chấp hành của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương
Là những chủ thể có trách nhiệm quản lý, tổ chức chỉ đạo, điều hành triển
khai thực hiện các mặt hoạt động của đời sống xã hội nên các cơ quan chấp hành

18



của Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong công tác phòng ngừa tình hình tội
phạm nói chung và tội phạm về tham nhũng nói riêng. Hoạt động phòng ngừa tội
phạm của các cơ quan này thường được thực hiện bằng các hình thức như: quản lý,
giáo dục cán bộ, nhân viên trong cơ quan; thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra để
kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong quản lý, những biểu hiện tiêu cực để
đề ra biện pháp khắc phục kịp thời; tham gia vào các chương trình, kế hoạch, các
hoạt động phòng ngừa tội phạm của Nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ của mình;
phối hợp với các chủ thể khác trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm.
1.4.4. Các cơ quan bảo vệ pháp luật: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ
quan Thi hành án
Các cơ quan bảo vệ pháp luật và cơ quan tư pháp có vai trò quan trọng trong
công tác phòng ngừa tội phạm, nhất là phòng ngừa nghiệp vụ. Vai trò của các cơ
quan này được thể hiện trước hết ở chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan. Các hoạt
động phòng ngừa tội phạm của các cơ quan này mang tính nghiệp vụ cao, có tác
động mạnh mẽ đến hạn chế tình hình tội phạm cũng như phát hiện nguyên nhân và
điều kiện của tội phạm, thực hiện các biện pháp nhằm triệt tiêu (loại trừ) nguyên
nhân và điều kiện đó. Các cơ quan bảo vệ pháp luật và cơ quan tư pháp thực hiện
chức năng và nhiệm vụ trong công tác phòng ngừa tội phạm được nhà nước trang bị
các kiến thức, công cụ, biện pháp và phương tiện cần thiết để thực hiện, luôn giữ vai
trò nòng cốt trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cơ quan thanh tra, kiểm
toán nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm phối hợp trong
phòng, chống tham nhũng [22, Tr 12].
- Ngành Công an thực hiện việc phân tích thực trạng tình hình tội phạm, các
khuynh hướng, các nguyên nhân của sự thay đổi về các khuynh hướng của tình
hình tội phạm và thông báo về những vấn đề không thuộc thẩm quyền giải quyết
của ngành công an cho các chủ thể phòng ngừa khác để phối hợp thực hiện. Các cơ
quan thuộc ngành công an là một trong những cơ quan tham gia chính vào việc phối
hợp và kế hoạch hóa tổng thể việc phòng ngừa tội phạm. Giữa các lực lượng trong

ngành Công an có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, phối hợp với các tổ chức
bảo vệ trật tự pháp luật, trật tự quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, bảo vệ cán bộ
khác để thực hiện phòng ngừa tình hình tội phạm tham nhũng.

19


- Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt
động tư pháp và thực hiện công tố tại các phiên tòa. Chính vì vậy, trong quá trình
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân các cấp tham gia
phát hiện những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tham nhũng, phát
hiện những sơ hở, thiếu sót trong quản lý nhà nước để kiến nghị các cơ quan hữu
quan có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục kịp thời nhằm ngăn ngừa tội phạm. Phối
hợp với các cơ quan nhà nước hữu quan trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến
pháp luật để phòng ngừa tội phạm.
- Tòa án nhân dân thực hiện công tác phòng ngừa tội phạm thông qua công
tác xét xử các vụ án tham nhũng. Tòa án chủ động phối hợp với các cơ quan tiến
hành tố tụng để giải quyết các vụ án tham nhũng đúng thời hạn, đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật. Từ thực tiễn xét xử, Tòa án có thể tổng kết được diễn biến của
tình hình tội phạm tham nhũng, có thể tìm ra và làm rõ nguyên nhân, điều kiện của
tình hình tội phạm về tham nhũng và yêu cầu các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá
nhân áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm; đưa ra các kiến nghị với Nhà
nước về phương hướng thực hiện các chính sách xã hội liên quan đến phòng, chống
tham nhũng; đồng thời thông qua hoạt động xét xử , góp phần giáo dục công dân ý
thức tuân thủ pháp luật.
- Các cơ quan tư pháp thực hiện việc tổ chức các biện pháp giáo dục pháp
luật- một bộ phận hợp thành của việc giáo dục tổng hợp đối với công dân, trong
tổng thể các biện pháp giáo dục đó cò việc phòng ngừa. Tham gia xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, thi hành án và qua việc tham gia nghiên cứu hoàn thiện hệ
thống lý luận về phòng, chống tội phạm; tổ chức phối hợp cùng các cơ quan bảo vệ

pháp luật khác thực hiện công tác phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm
tham nhũng nói riêng.
1.4.5. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Tổ chức thành viên
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên là những tổ chức thuộc hệ thống
chính trị, tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện
chính sách pháp luật của nhà nước, do đó góp phần tạo nên hiệu quả của hoạt động
phòng ngừa tội phạm về tham nhũng [28, Tr 33], thể hiện qua việc phối hợp với các
cơ quan có thẩm quyền tuyên truyền, giáo dục nhân dân và các thành viên tổ chức
mình thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng [33, Tr

20


×