Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Thực trạng và diễn biến của tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2001 đến năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.78 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

2

NỘI DUNG

2

I. Khái quát

2

II. Tóm tắt kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm của tác giả

3

1.Thực trạng và diễn biến của tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh từ năm 2001 đến năm 2005

3

2.Cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

5

3. Đặc điểm nhân thân người phạm tội

7

4.Kết luận của tác giả.



8

III. Nhận xét cá nhân về kết quả nghiên cứu của luận văn.

9

1. Đánh giá về đề tài nghiên cứu

9

2. Đánh giá về hình thức

9

3. Đánh giá về nội dung

10

4. Một số nhận xét khác

13

KẾT LUẬN

13

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1



LỜI MỞ ĐẦU
Tình hình tội phạm là nội dung quan trọng của tội phạm học. Nghiên cứu những đặc
trưng của tình hình tội phạm có thể đưa ra các giải pháp phòng ngừa tội phạm tương ứng,
ngăn chặn kịp thời sự gia tăng tỉ lệ tội phạm, kiểm soát tội phạm có hiệu quả. Để tìm hiểu
rõ hơn về tình hình tội phạm, em xin lựa chọn luận văn thạc sỹ luật học: “Đấu tranh
phòng, chống tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” của tác giả Phạm
Tiến Quang để nghiên cứu.
NỘI DUNG
I. Khái quát
Khái niệm tình hình tội phạm theo TS Dương Tuyết Miên:
“Tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận động của (các) tội phạm (hoặc nhóm
tội phạm trong một loại tội phạm) đã xảy ra trong một đơn vị không gian và thời gian nhất
định. Tình hình tội phạm được thể hiện thông qua thực trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất
của tình hình tội phạm, trên cơ sở đó giúp cho các cơ quan có thẩm quyền xây dựng được
biện pháp phòng ngừa tội phạm sát hợp với thực tiễn.”
Các nội dung - bộ phận hợp thành của tình hình tội phạm có quan hệ, ảnh hưởng đến
nhau ở mức độ nhất định, tạo nên bức tranh tổng thể về tội phạm - tình hình tội phạm. Các
bộ phận hợp thành của tình hình tội phạm bao gồm : thực trạng của tình hình tội phạm,
diễn biến của tình hình tội phạm, cơ cấu của tình hình tội phạm, tình chất của tình hình tội
phạm. Các bộ phận này xếp thành:
+ Thông số về lượng của tình hình tội phạm bao gồm : thực trạng và diễn biến của
tình hình tội phạm.
+ Thông số về chất của tình hình tội phạm bao gồm : tính chất và cơ cấu của tình
hình tội phạm.
Thực trạng của tình hình tội phạm là tổng thể các số liệu về vụ phạm tội xảy ra, số
lượng người thực hiện các tội đó và số lượng người được coi là nạn nhân trên một địa bàn
nhất định và trong khoảng thời gian nhất định.


2


Diễn biến của tình hình tội phạm là sự phản ánh xu hướng tăng, giảm hoặc ổn định
tương đối của tội phạm nói chung (hoặc một tội hoặc nhóm tội phạm) xảy ra trong khoảng
thời gian nhất định và trên một địa bàn nhất định.
Cơ cấu của tình hình tội phạm là tỉ trọng, mối tương quan giữa nhân tố bộ phận và
tổng thể của tình hình tội phạm trong khoảng thời gian nhất định và trên một địa bàn nhất
định.
Tính chất của tình hình tội phạm phản ánh những đặc điểm đặc trưng, nổi bật nhất
trong cơ cấu của tình hình tội phạm.
II. Tóm tắt kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm của tác giả:
Trong luận văn thạc sỹ của tác giả Phạm Tiến Quang, phần tình hình tội phạm được
chia làm 3 mục:
Thứ nhất : Thực trạng và diễn biến của tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh từ năm 2001 đến năm 2005.
Thứ hai : Cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm ma túy trên đại bàn tỉnh Quảng
Ninh.
Thứ ba : Đặc điểm nhân thân người phạm tội.
Sau đây xin được tóm tắt kết quả nghiên cứu theo 3 mục của tác giả :
1.Thực trạng và diễn biến của tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh từ năm 2001 đến năm 2005.
Năm 1993 số người nghiện trên địa bàn tỉnh được thống kê là 282 người, nhưng đến
năm 2005 con số này đã tăng lên 1.642 người có hồ sơ quản lý và khoảng 2.000 người
chưa được quan lý. Với tốc độ tăng nhanh, tính đến thời điểm hiện nay số người nghiện
còn cao hơn nhiều so với thực tế thống kê. Sơ qua về số người nghiện nói trên, ta thấy
được phần nào về tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh.
Theo số liệu thống kê từ năm 2001 đến năm 2005, Tòa án nhân dân tỉnh, huyện, thị
xã, thành phố xét xử sơ thẩm 3.148 vụ án hình sự về ma túy với 3.949 bị cáo. Bình quân
hàng năm Tòa án đưa ra xét xử 629 vụ án về ma túy với 789 bị cáo. Bảng số liệu dưới đây

thể hiện cụ thể số vụ và số bị cáo trong các vụ án về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
được xét xử trong từng năm.
3


Bảng số 1. Thống kê số vụ và số bị cáo trong các vụ án về ma túy đã được xét xử
sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Năm
Số vụ
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng

Tội phạm về ma túy đã được xét xử
So với năm 2001 (%)
Số bị cáo
So với năm 2001(%)

438
824
679
606
601
3.148

100
188,1

155
138,3
137,2

497
977
862
821
792
3.949

100
186,5
173,4
165,2
159,3

Ngoài ra, tác giả còn so sánh diễn biến tình hình phạm tội ma túy so với tình hình
tội phạm nói chung trên địa bàn Quảng Ninh và rút ra nhận xét rằng tình hình tội phạm về
ma túy và tình hình tội phạm nói chung có sự tương xứng mức độ tăng giảm trong từng
thời kì nhất định. Qua so sánh số vụ tội phạm về ma túy ở Quảng Ninh so với số vụ tội
phạm về ma túy trên cả nước, tác giả cũng rút ra nhận xét diễn biến tội phạm về ma túy
trong phạm vi toàn quốc và tội phạm ma túy trên địa bàn Quảng Ninh về cơ bản có sự biến
động tương đồng với nhau.
Bên cạnh số liệu tội phạm rõ, tác giả còn nêu ra số tội phạm ẩn. Thực tế cho thấy tỉ
lệ tội phạm ẩn trong tội phạm ma túy chiếm tỉ lệ rất cao, cao hơn nhiều so với các tội phạm
khác. Trong luận văn của mình, tác giả có viết : “ Căn cứ vào số lượng ma túy bị bắt giữ
qua các năm, các chuyên gia nghiên cứu tội phạm học nước ngoài đánh giá Việt Nam mới
chỉ phát hiện được từ 5-10% tội phạm về ma túy, như vậy tội phạm ẩn về ma túy tới 9095%”.
Bản thân tác giả cũng phải thừa nhận rằng : “Song ngay chính với những số liệu

thống kê này cũng có những sai số nhất định so với thực tế. Việc sai số trong thống kê hình
sự có thể do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, về kỹ thuật, phương pháp thống kê,
thời điểm thống kê,… Tuy số liệu trong luận văn này không chính xác số tội phạm xảy ra
trên thực tế nhưng đây cũng là số liệu cần và đủ để phân tích, đánh giá được thực trạng
của tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.”
2.Cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
4


a) Cơ cấu.
Trong thời gian 5 năm số vụ án ma túy được đưa ra xét xử là 3.148 vụ trên tổng số
7.081 vụ án hình sự các loại. Mặc dù tội phạm về ma túy được quy định trong Bộ luật hình
sự chưa đến 4% tổng số các điều luật được quy định về tội phạm (10/226) song số vụ tội
phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh chiếm đến 44,5% tổng số vụ án đưa ra xét
xử. Cũng trong thời gian này, toàn quốc xét xử 45.280 vụ án về may túy với 59.354 bị cáo,
Quảng Ninh xét xử 3.148 vụ với 3.949 bị cáo. Số lượng các vụ án ma túy trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh và số bị cáo đưa ra xét xử chiếm tỉ lệ cao trong tổng số án ma túy và số bị cáo
đã bị xét xử trong toàn quốc.
Trong khoảng thời gian 5 năm (2001-2005), các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép và chiếm đoạt chất ma túy chiếm tỉ lệ lớn trong số các tội phạm về ma túy đã đưa
ra xét xử. Nếu như năm đầu của giai đoạn nghiên cứu tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
hoặc chiếm đoạt chất ma túy chiếm tỷ lệ 95,67% thì đến năm 2005 tỷ lệ tội phạm này tăng
lên là 98,52%. Trong số các tội phạm về ma túy đã đưa ra xét xử trên địa bàn tỉnh thì tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt chất ma túy chiếm tuyệt đại đa số với tỷ lệ
trung bình là 97,77%. Số các vụ tội phạm này đã được đưa ra xét sử phản ánh khá chính
xác sự gia tăng nghiêm trọng của thực tế mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma
túy trên địa bàn Quảng Ninh. Trong gia đoạn 2001-2005. Tội tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy được đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ trung bình 1,16%, tội mua bán dụng cụ dùng
vào việc sử dụng trái phép chất ma túy chiếm tỷ lệ 0,17%, tội chứa chấp sử dụng trái phép
chất ma túy chiếm tỷ lệ 0,36%,…

Theo tác giả nhận định “ số tội phạm này đưa ra xét xử chưa phản ánh chính xác
cơ cấu của tình hình tội phạm trên thực tế, không tương xứng số lượng người nghiện và
tình hình sử dụng ma túy rất phức tạp trên đại bàn Quảng Ninh trong thời gian gần đây.”
Sự đa dạng về chủng loại và sự tăng về số lượng các chất ma túy thu giữ được trong
thời gian 2001-2005 cũng cho thấy tình trạng báo động về mức độ phức tạp của loại tội
phạm này. Nếu như năm 2001 thu giữ được 1.687,45 gam hêroin thì đến năm 2005 thu giữ
được 40.358 gam hêroin (tăng 2.291%) và gấp 31 lần so với năm 2004. Năm 2005 phát
hiện được 5.248 viên ma túy tổng hợp tăng 2.152,3% so với năm 2001, tăng 6147,6% so
5


với năm 2004. Cơ quan chức năng đã bắt giữ nhiều vụ mua bán, vận chuyển với số lượng
lớn ma túy, đặc biệt có vụ lượng ma túy thu giữ lên đến hơn 25kg. Điều đó thể hiện công
tác phòng, chống ma túy còn nhiều sơ hở để tội phạm ma túy chọn Quảng Ninh là địa bàn
hoạt động chính.
Ngoài việc nghiên cứu số lượng các vụ án được Tòa đưa ra xét xử cũng như số
lượng các chất ma túy bị thu giữ, tác giả cũng đưa ra số liệu về hình phạt đã tuyên với
người phạm tội. Từ năm 2001 đến năm 2005, chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các bị cáo đã
xét xử có đến 2.668 bị cáo nhận mức hình phạt từ 7 năm tù trở xuống ( chiếm 67,6%) hình
phạt này chủ yếu được áp dụng đối với người phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
Hình phạt tù chung thân có 15 bị cáo (0,38%), hình phạt tử hình có 9 bị cáo (0,23%)…
b) Tính chất.
Về phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm ma túy, tác giả có viết : “ Người
phạm tội về ma túy luôn hoạt động thống nhất với những phương thức, thủ đoạn tinh vi,
xảo quyệt và thường xuyên thay đổi quy luật hoạt động nhằm đối phó với các cơ quan
chức năng. Trong các vụ án lớn mang tính chất liên tỉnh, xuyên quốc gia, đường dây được
tổ chức một cách chặt chẽ thể hiện tính chuyên nghiệp cao và còn có sự tham gia của ngời
nước ngoài. Người phạm tội luôn câu kết, móc nối với những người địa phương am hiều
địa bàn, thông thuộc địa hình để thuận lợi cho việc vận chuyển, che giấu và tiêu thụ.”
Về địa bàn hoạt động, tội phạm ma túy tập trung chủ yếu tại khu vực thành thị,

thương mại như thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả, Uông Bí, Móng Cái và các tuyến
giao thông quan trọng. Với đặc điểm Quảng Ninh là tỉnh có đường biên giới dài trên đất
liền và trên biển, phía Bắc là đường biên giới quốc gia trên đất liền giáp Trung Quốc có
chiều dài 132,8 km, phía Tây giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, phía Nam giáp Hải
Phòng, phía Đông giáp hải phận quốc gia Trung Quốc, thành địa hình rất thuận lợi cho
hoạt động của tội phạm ma túy cả trên đất liền và trên biển. Người phạm tội còn lợi dụng
những đường mòn, đường rừng, bờ sông, địa hình hiểm trở cũng như trốn tránh, vận
chuyển ma túy qua hai bên “cánh gà” cửa khẩu Việt Nam - Trung Quốc.Tác giả lấy ví dụ :
“ Vào khoảng 4 giờ 30 sáng ngày 24/11/2005, Bộ đội biên phòng cửa khẩu Móng Cái bắt
gặp Trần Thị Lâm đang đi xuống bờ song Bắc Luân để trốn sang Trung Quốc. Khi kiểm
6


tra hành thu được của Lâm một túi ni-lon màu hồng, bên trong có chứa 4 bao cao su,
trong mỗi bao cao su có chứa các cục chất bột màu trắng. Kết quả giám định, các chất bột
màu trắng đó là hêroin có trọng lượng 129,27 gam.”
Động cơ và mục đích của người phạm tội chủ yếu xuất phát từ lợi nhuận, chính vì
lợi nhuận siêu ngạch mà người phạm tội bất chấp pháp luật lao vào con đường phạm tội.
Người phạm tội thấy trước được hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội gây ra và cũng
đã thấy trước được hình phạt nghiêm khắc dành cho họ, nhưng vì lợi nhuận, họ bất chấp
pháp luật, sử dụng những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt nhất để đối phó cơ quan chức năng.
Cũng vì lợi nhuận mà nhiều đối tượng đã lôi kéo cả người trong gia đình, họ hàng thân
thích vào con đường phạm tội dù biết hình phạt hết sức nghiêm khắc, ngay cả hình phạt tử
hình cũng chỉ phần nào hạn chế tình hình phạm tội. Chỉ tính riêng 5 năm (2001-2005) có 9
án tử hình và 15 án chung thân nhưng nhiều người không lấy đó là bài học mà vẫn lao vào
con đường phạm tội. Vì vậy có thể khẳng định lợi nhuận thúc đẩy hoạt động của tội phạm
ma túy mãnh liệt hơn nhiều loại tội phạm khác.
Hậu quả của tội phạm ma túy : Tội phạm ma túy gây những tác hại vô cùng nghiêm
trọng trên các lĩnh vực kinh tế, tài chính, trật tự an toàn xã hội. Tội phạm ma túy liên quan
trực tiếp đến các tội phạm khác như tội rửa tiền, tham nhũng, bạo lực… làm cạn kiệt tài

chính, nguồn nhân lực, là nguyên nhân trực tiếp hủy hoại sức khỏe con người, vắt kiệt sức
lao động. Những người nghiện ma túy không những hủy hoại sức khỏe bản thân mà còn
làm kinh tế gia đình kiệt quệ, hạnh phúc gia đình tan vỡ, làm mất trật tự an toàn xã hội.
Hơn nữa, những người nghiện ma túy còn dễ mắc phải các bệnh như gan, thận, và đặc biệt
là có nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS rất cao. Tác giả viết : “Hiện nay Quảng Ninh có số
lượng người nhiễm HIV/AIDS sau thành phố Hồ Chí Minh nhưng đứng đầu toàn quốc về tỉ
lện nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư. Theo kết quả của Sở Lao động, Thương binh
và Xã hội thì đến 90% những người nhiễm HIV/AIDS là những người nghiện ma túy.”
3. Đặc điểm nhân thân người phạm tội.
Tác giả thống kê : “ Trong số 3.949 bị cáo sơ thẩm về các tội phạm ma túy từ năm
2001-2005, tỷ lệ nam giới phạm tội chiếm đa số với 3.513 (chiếm 88,96%) và 436 bị cáo là

7


nữ giới (chiếm 11,04%). Các vụ án mang tính chất nhỏ lẻ đa phần do nam giới thực hiện
nhưng nữ giới tham gia nhiều trong các vụ án có số lượng ma túy lớn.”
Nghiên cứu về độ tuổi người phạm tội, tác giả nhận thấy phần lớn các bị cáo phạm
tội từ 18 đến 30 tuổi chiếm tỷ lệ 76,04% ( 3.003/3.949 bị cáo), còn số bị cáo có độ tuổi trên
30 tuổi chiếm 883/3.949 bị cáo ( chiếm tỷ lệ 22,37%), người chưa thành niên phạm tội có
63 bi cáo, chiếm tỷ lệ 1,59%. Số người nước ngoài phạm tội ma túy đang có chiều hướng
gia tăng, trong 5 năm TAND tỉnh Quảng Ninh đã xét xử 8 bị cáo là người nước ngoài,
chiếm tỷ lệ 0,2% trong tổng số các bị cáo được đưa ra xét xử về tội phạm ma túy.
Trình độ học vấn của cá nhân có ảnh hưởng sâu sắc và góp phần hình thành nhân
cách cũng như hình thành những quy tắc ứng xử phù hợp đòi hỏi xã hội. Nếu học vấn của
cá nhân thấp, nhận thức thấp, từ đó sẽ tạo ra những ứng xử không phù hợp với xã hội. Qua
kết quả thống kê ngẫu nhiên hơn 200 bản án xét xử sơ thẩm các tội phạm ma túy trên địa
bàn Quảng Ninh với 227 bị cáo, tác giả nhận thấy : “Người phạm tội có trình độ phổ thông
trung học chiếm tỷ lệ 28,6%, người có trình độ trung học cơ sở chiếm tỷ lệ cao nhất
51,2%, người có trình độ tiểu học là 18,5% và người mù chữ chiếm tỷ lệ 1,7%. Người

phạm tội về ma túy có trình độ học vấn thấp hơn so với trình độ học vấn chung của người
dân, chủ yếu dừng lại ở trình độ tiểu học và trung học cơ sở. Do trình độ văn hóa thấp đã
ảnh hưởng tới nhân cách và nhận thức của người phạm tội, vì vậy nâng cao trình độ văn
hóa cho người dân là một nội dung rất quan trọng trong phòng ngừa loại tội phạm này.”
Bên cạnh đó, hoàn cảnh gia đình và sự thay đổi của nó tác động nhất định đến
nhân cách con người, ảnh hưởng đến khuynh hướng phạm tội. Những người phạm tội nhìn
chung thường xuất phát từ những gia đình không bình thường như : không hòa thuận,
không có trách nhiệm với nhau, có trình độ văn hóa thấp, có quan điểm và xử sự trái đạo
đức, pháp luật hoặc những gia đình có cha hoặc mẹ chết, cha mẹ ly hôn hay gia đình có
hoàn cảnh khó khăn.
4.Kết luận của tác giả.
Qua nghiên cứu, đánh giá toàn bộ thực trạng, diễn biến, cơ cấu và tính chất của tình
hình tội phạm cũng như đặc điểm nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh từ năm 2001-2005 cho thấy : Tình hình tội phạm về ma túy có diễn biến phức
8


tạp,có chiều hướng gia tăng về quy mô, tính chất của từng vụ việc. Đặc biệt đã hình thành
các đường dây liên tỉnh, xuyên quốc gia có sự tham gia, cấu kết với người nước ngoài tham
gia vận chuyển, mua bán ma túy với số lượng rất lớn, sử dụng nhiều phương pháp, thủ
đoạn khác nhau đối phó với cơ quan chức năng.
III. Nhận xét cá nhân về kết quả nghiên cứu của luận văn.
1. Đánh giá về đề tài nghiên cứu
Tội phạm ma túy trong nhiều năm gần đây luôn là vấn đề có tính thời sự trên cả
nước. Báo đài thường xuyên đưa tin về tình hình ma túy diễn biến phức tạp, mức độ nguy
hiểm ngày càng cao. Riêng với Quảng Ninh là tỉnh có đường biên giới dài trên đất liền và
trên biển, nên nơi đây từ lâu đã trở thành thành địa hình rất thuận lợi cho hoạt động của tội
phạm ma túy. Tình hình tội phạm ma túy ở Quảng Ninh vẫn luôn diễn biến rất phức tạp và
đây cũng là một trong những địa bàn có số lượng tội phạm ma túy hoạt động nhiều nhất
trong cả nước. Vì vậy, đề tài của tác giả Phạm Tiến Quang thông qua nghiên cứu tình hình

tội phạm ma túy để tăng cường đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh là rất cần thiết, có tính thời sự và ý nghĩa thực tiễn cao.
2. Đánh giá về hình thức
- Tên đề tài: “Đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh” phù hợp với nội dung nghiên cứu và chuyên ngành tội phạm học.
- Bố cục: nhận xét riêng về phần tình hình tội phạm của tác giả, thì bố cục có ba phần
như đã nêu trên, các mục và tiểu mục được trình bày rõ ràng. Tác giả sử dụng cấu trúc
đánh số hỗn hợp cho một bài luận văn không phải quá dài là tương đối phù hợp, cách trình
bày này giúp người đọc tiếp cận một cách dễ dàng và hình dung được kết cấu, những nội
dung chính mà tác giả đề cập về tình hình của tội phạm trong luận văn.
Các phần thực trạng và diễn biến; cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm ma túy
được tác giả nhóm chung với nhau là hợp lý. Vì các phần này có mối liên hệ mật thiết,
tương hỗ lẫn nhau. Trình bày như vậy là logic giúp người đọc dễ hiểu.
Tuy nhiên, phần đặc điểm nhân thân của người phạm tội được tác giả tách riêng ra,
theo em là chưa hợp lý. Phần đặc điểm nhân thân của người phạm tội có thể xếp vào một
trong các tiêu chí của cơ cấu của tình hình phạm tội. Từ đó ta có thể suy ra tích chất của
9


người phạm tội (nam phạm tội nhiều hơn nữ, người phạm tội từ 18 đến 30 tuổi chiếm tỷ lệ
cao,…); nguyên nhân của tội phạm (do trình độ học vấn của cá nhân thấp, nhận thức thấp)
để tìm ra biện pháp phòng chống.
3. Đánh giá về nội dung:
Thứ nhất, về thực trạng và diễn biến của tình hình tội phạm.
Ở phần này, khi miêu tả thực trạng của tình hình tội phạm, tác giả đã sử dụng phương
pháp thống kê thông qua các bảng bảng thống kê, đồ thị để mô tả thực trạng, diễn biến của
tình hình tội phạm khá cụ thể và chi tiết về số người phạm tội, số người được đưa ra xét
xử, số vụ phạm tội ma túy so với số vụ phạm các tội khác,…. Đây là một phương pháp rất
hay và thường được sử dụng để mô tả thực trạng, diễn biến của tình hình tội phạm, vì
những ưu điểm của nó là thể hiện sinh động, rõ nét làm cho người đọc có thể nhận biết

được ngay xu hướng tăng giảm của tình hình tội phạm.
Bên cạnh đó, tác giả còn có sự so sánh diễn biến tình hình phạm tội ma túy với tình
hình tội phạm nói chung trên địa bàn Quảng Ninh và rút ra được nhận xét diễn biến tội
phạm về ma túy trong phạm vi toàn quốc và tội phạm ma túy trên địa bàn Quảng Ninh về
cơ bản có sự biến động tương đồng với nhau. Đây là nội dung rất hay của tác giả, điều này
cho chúng ta thấy các loại tội phạm, các tệ nạn xã hội có mối liên hệ với nhau, cùng nhau
phát triển. Vì vậy, tăng cường đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy nhưng không thể
xem nhẹ các loại tội phạm khác.
Số liệu mà tác giả sử dụng liệu lấy từ Phòng Tổng hợp TAND tỉnh Quảng Ninh, Văn
phòng TAND tối cao, vì vậy các số liệu này đảm bảo độ chính xác cao. Tuy nhiên, nếu
đánh giá tình hình tội phạm mà chỉ dựa vào số liệu xét xử của tòa án thì chưa phản ánh
chính xác số tội phạm xảy ra trên thực tế vì thực chất nó chỉ phản ánh được phần nổi của
“tảng băng chìm”. Đó là chưa kể đến số liệu xét xử của tòa án về số vụ, bị cáo sẽ không
thể khớp về thời gian so với số vụ, bị cáo xảy ra trên thực tế bởi vì nhiều vụ phạm tội xảy
ra một thời gian khá lâu , sau đó người phạm tội mới bị đưa ra xét xử; hoặc tuy có phát
hiện ra thủ phạm nhưng do khách quan, án bị tồn đọng và xét xử chậm. Tuy nhiên, đây
cũng là số liệu cần và đủ để phân tích, đánh giá được thực trạng của tình hình tội phạm về
ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Đồng thời tác giả cũng đã thừa nhận những thiếu sót
10


này. Đây là điểm trung thực đáng khen của tác giả trong quá trình nghiên cứu khoa học.
Một điểm đáng ghi nhận nữa của tác giả là đã đưa ra được đánh giá sơ bộ về số tội phạm
ẩn. Tuy đây chỉ là những đánh giá tương đối và đơn giản nhưng có ý nghĩa vô cùng quan
trọng. Nó không chỉ cho thấy việc phòng chống tội phạm ma túy ở Việt Nam còn nhiều
yếu kém do số tội phạm ẩn ma túy chiếm tỷ lệ cao (tới 90-95%), mà còn cho thấy công tác
thống kê tình hình tội phạm ở Việt Nam còn kém, những đánh giá về số tội phạm ẩn mà tác
giả nêu ra là của chuyên gia nước ngoài. Vì vậy cũng phải thông cảm cho tác giả, nghiên
cứu về tội phạm ẩn là vấn đề rất khó, tốn kém nhiều thời gian, tiền bạc và công sức.
Theo kiến nghị của em, tác giả nên sử dụng thêm số liệu từ các cơ quan pháp luật

khác như Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Công an tỉnh Quảng Ninh. Thống kê
của cơ quan cảnh sát sẽ phản ánh đầy đủ, bao quát hơn số liệu xét xử của tòa án như vậy
thì việc đánh giá sẽ chính xác hơn (tuy chỉ là tương đối). Đồng thời, qua số liệu của cơ
quan cảnh sát và của tòa án, tác giả có thể chỉ rõ sự chênh lệch về số vụ án xảy ra trên thực
tế và số vụ án bị đưa ra xét xử hình sự. Nó có ý nghĩa quan trọng giúp cho cơ quan chức
năng đánh giá về hiệu quả hoạt động của mình để có những cải cách cần thiết thúc đẩy
công tác phát hiện tội phạm cũng như hoạt động điều tra, truy tố, xét xử có hiệu quả.
Thứ hai, về cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm.
Có thể nói đây là phần mà tác giả đầu tư nhiều tâm huyết nhất trong khi nghiên cứu
về tình hình tội phạm. Tác giả đưa ra nhiều tiêu chí khi nghiên cứu cơ cấu của tình hình tội
phạm như: tiều chí về tội danh cụ thể, loại hình phạt áp dụng cho người phạm tội, địa bàn
phạm tội,.. Việc nghiên cứu nhiều tiêu chí như vậy giúp cho tính chất của tình hình tội
phạm càng định hình rõ nét, bức tranh về tôi phạm càng được sáng tỏ. Đồng thời, tác giả
dùng các bảng thống kê, biểu đồ để diễn tả tỷ lệ phần trăm (%) cụ thể của cơ cấu tình hình
tội phạm. Tác giả còn so sánh số liệu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh với số liệu trên toàn
quốc để bạn đọc có cái nhìn khái quát, toàn diện hơn.
Qua việc nghiên cứu cơ cấu của tình hình tội phạm, tác giả đã đánh giá được nhiều
tính chất của tội phạm ma túy như: về phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm ma
túy tinh vi, xảo quyệt và thường xuyên thay đổi quy luật hoạt động; về địa bàn hoạt động,
tội phạm ma túy tập trung chủ yếu tại khu vực thành thị, thương mại như thành phố Hạ
11


Long, thị xã Cẩm Phả, Uông Bí, Móng Cái và các tuyến giao thông quan trọng; về động cơ
và mục đích của người phạm tội chủ yếu xuất phát từ lợi nhuận, chính vì lợi nhuận siêu
ngạch mà người phạm tội bất chấp pháp luật lao vào con đường phạm tội,... Trên cơ sở
những tính chất của tội phạm ma túy mà tác giả nêu ra, việc phòng chống tội phạm ma túy
sẽ tìm ra những định hướng phù hợp nhằm giảm thiểu tội phạm ma túy trên địa bàn Quảng
Ninh.
Ở phần này, theo em khi phân tích tính chất của tình hình tội phạm, tác giả cần làm

nổi bật được sự liên kết giữa các tính chất để người đọc thấy rõ nét hơn bức tranh về tình
hình tội phạm ma túy, đồng thời cũng giúp cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm ma
túy dễ dàng hơn. Ví dụ như: tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt chất ma
túy chủ yếu hoạt động ở khu vực biên giới, khu vực giáp ranh với các tỉnh khác; trong khi
đó tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy
sẽ tập trung nhiều ở khu vực thành thị, thương mại phát triển.
Thứ ba, về nhân thân người phạm tội.
Phần này theo em nên xếp vào một trong các cơ cấu của tình hình tội phạm. Còn về
nội dung thì tác giả đã nghiên cứu khá kĩ về mặt nhân thân người phạm tội, ta thấy được
hầu hết các yếu tố có liên quan như giới tình, độ tuổi, trình độc học vấn, hoàn cảnh gia
đình của tội phạm đã được nêu ra khá đầy đủ và chi tiết. Đây đều là những yếu tố then chốt
để làm xuất hiện tội phạm về ma túy.
Ngoài ra, tác giả không đề cập đến một vấn đề khá quan trọng và xảy ra phổ biến, đó
là những người phạm tội ma túy nhiều khi cũng là những người đã từng cai nghiện thành
công nhưng sau đó tái nghiện, điều này cho thấy công tác quản lý người sau cai nghiện còn
chưa tốt, thiếu sự quan tâm, để mắt chặt chẽ từ gia đình và chính quyền địa phương. Có thể
sự kì thị, xa lánh của những người xung quanh đối với đối tượng vừa cai nghiện về chính là
nguyên nhân khiến cho họ tái nghiện và lại thực hiện tội phạm ma túy mới.
4. Một số nhận xét khác:
Theo ý kiến của em, tác giả nên bổ sung thêm những nội dung sau:
- Tác giả cần nghiên cứu bổ sung về số lượng các chiến sĩ công an, quần chúng nhân
dân tham gia phòng chống tội phạm ma túy bị thương, bị thiệt mạng; số lượng nạn nhân
12


của tội phạm… Vì thực tế hiện nay cho thấy tội phạm ma túy không chỉ ngày càng tinh vi
mà còn rất nguy hiểm. Số lượng tội phạm ma túy sử dụng vũ khí nóng có sự gia tăng đột
biến. Bởi lẽ, bọn tội phạm ma túy ngày càng chuyên nghiệp, chúng ý thức rất rõ bản án
phải nhận khi cơ quan chức năng bắt giữ nên chúng rất quyết liệt, manh động, sẵn sàng sử
dụng vũ khí nóng để chống lại lực lượng công an hoặc để “phòng thân” trước bạn hàng. Do

đó, nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa quan trọng đối với cơ quan hoạch định chính sách
phòng ngừa, nhằm giúp các cơ quan này đưa ra giải pháp phù hợp thực tế, tăng cường kĩ
năng nghiệp vụ cho công an, cũng như biện pháp cảnh báo người dân để giảm thiểu thiệt
hại.
- Tác giả cũng nên đề cập đến vấn đề người phạm tội tự ra đầu thú để hưởng lượng
khoan hồng của pháp luật, đây là một điểm khá quan trọng để các cơ quan chức năng dễ
dàng tìm ra đường dây buôn bán ma túy lớn, cũng như có các biện pháp khuyến khích
người phạm tội ra đầu thú. Qua vấn đề này, ta cũng thấy được tình hình tội phạm ma túy
nói riêng cũng như tình hình tội phạm nói chung không phải chỉ toàn điểm xấu, thực tế vẫn
còn một chút “lương thiện” tồn tại trong tâm những người phạm tội. Như vậy, bức tranh về
tình hình tội phạm sẽ hài hòa hơn rất nhiều.
KẾT LUẬN
Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Phạm Tiến Quang với đề tài: “ Đấu tranh phòng,
chống tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”, đã giúp em hiểu rõ hơn bức tranh
về tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, tuy vẫn còn những thiếu sót
nhỏ nhưng kết quả nghiên cứu của tác giả có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng chống
tội phạm ma túy không chỉ ở Quảng Ninh mà còn trên cả nước. Em xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Phạm Tiến Quang, Đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học, năm 2006.
2.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tội phạm học, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011.
3.
Dương Tuyết Miên, “Bàn về tình hình tội phạm”, Tạp chí toà án nhân dân, số 24,
13



tháng 12/2007.

14



×