Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.53 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH VIỆT THANH

TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình
sự Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. CAO THỊ OANH

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là đúng công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các kết quả đã nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học đồng thời thanh
toán tất cả các nghĩa vụ về tài chính theo qui định của Học viện khoa học xã hội
thuộc Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa luật xem xét để tôi được bảo
vệ Luận Văn.
Tôi xin trân thành cảm ơn./.


NGƯỜI CAM ĐOAN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔNG HỢP HÌNH PHẠT..........6
1.1. Những đặc điểm chính và mục đích của hình phạt.......................................... 6
1.2. Khái niện, nguyên tắc tổng hợp hình phạt........................................................15
1.3. Chế định tổng hợp hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến
năm 1999................................................................................................................. 22
Chương 2. QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VỀ TỔNG HỢP HÌNH
PHẠT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH NINH BÌNH.........................30
2.1 Qui định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tổng hợp hình phạt........................30
2.2 Thực tiễn thi hành quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tổng hợp hình phạt
tại tỉnh Ninh Bình.................................................................................................... 38

Chương 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔNG HỢP
HÌNH PHẠT..........................................................................................................57
3.1. Các yêu cầu bảo đảm tổng hợp hình phạt đúng................................................57
3.2. Các giải pháp bảo đảm tổng hợp hình phạt...................................................... 62
KẾT LUẬN............................................................................................................ 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................76


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước tình hình quốc tế và khu vực đang diễn ra hết sức phức tạp, dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của Đảng cộng sản, nước ta vẫn đang tiếp tục thực hiện công
cuộc đổi mới toàn diện về kinh tế - xã hội, nhiều thời cơ thuận lợi mới nhưng

xuất hiện cũng không ít những khó khăn, thách thức và cả những nguy cơ đan
xen. Để góp phầngiữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội toàn diện, Nhà nước ta đã đề ra nhiều chương
trình hành động sát với thực tiễn. Ngày 28 tháng 11 năm 2013 Hiến pháp được
Quốc Hội thông qua qui định nhiều điểm mới trong lĩnh vực tư pháp.
Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 qui định“Tòa án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp”. Bộ luật hình sự năm 1999quy định hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người phạm tội, hình phạt được qui định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án
quyết định. Nhà nước giao cho Tòa án nhân dân, nhân danh Nhà nước tuyên bố
một người có tội, quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Quyết định hình
phạt đúng sẽ đạt được mục đích của hình phạt là trừng trị và giáo dục người
phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Ngược lại, mục đích của hình phạt không
đạt được, nếu người phạm tội không có ý thức tuân theo pháp luật, không tự giác
chấp hành hình phạt và không đáp ứng được nhu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Về nguyên tắc “Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý
nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật”. Trong thực tiễn có nhiều trường
hợp một người thực hiện nhiều tội phạm, nhưng không bị phát hiện và đưa ra xét
xử cùng một lúc. Để đánh giá toàn diện và đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của
tất cả các tội mà người phạm tội đã thực hiện, Tòa án phải tổng hợp hình phạt
của các tội thành hình phạt chung buộc họ phải chấp hành. Tổng hợp hình phạt
là trường hợp Tòa án không chỉ quyết định hình phạt cho một tội mà phải quyết

4


định hình phạt chung cho nhiều tội cho nhiều bản án, đây là chế định đặc biệt
quan trọng được qui định trong luật hình sự Việt Nam. Bộ luật hình sự hiện
hành đã quy định rõ về chế định này, nhưng xét về nội dung và kỹ thuật lập pháp

các quy định đó còn chưa thật hoàn thiện và trong thực tiễn áp dụng trên địa bàn
của mỗi một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vẫn có những vướng mắc,
những vi phạm sai lầm khác nhau, Tòa án nhân dân hai cấp tại tỉnh Ninh Bình
cũng không phải là ngoại lệ.
Với các lý do trên, việc nghiên cứu và làm rõ hơn về mặt lý luận của chế
định này là hết sức cần thiết. Để thấy được sự phù hợp hay không phù hợp của
chế định này, học viên nghiên cứu từ thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình và qua đó phân tích những sai sót cũng như tìm ra nguyên nhân của những
sai sót đó. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm
tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổng hợp hình phạt trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình. Đây là lý do mà học viên chọn đề tài: “Tổng hợp hình phạt theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình” làm luận văn thạc sĩ
luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, vấn đề tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam
đã có các công trình nghiên cứu có liên quan ở bậc Thạc sĩ như: Quyết định hình
phạt trong những trường hợp đặc biệt của Thạc sĩ Lê Duy Ninh; Quyết định hình
phạt đối với người chưa thành niên của Thạc sĩ Đào Thị Nga. Đồng thời cũng có
nhiều bài viết liên quan đến việc tổng hợp hình phạt ở các loại khác nhau như
của Thạc sĩ Đinh Văn Quế “Một số vấn đề về tổng hợp hình phạt tù với án treo”
hay “Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án” của tác giả Phạm Văn Thiệu; “Quy
định về hình phạt và tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
trong Bộ luật hình sự Việt Nam và một số kiến nghị” của tác giả Dương Tuyết
Miên; Những công trình nghiên cứu khoa học và các bài viết trên, dưới các góc
độ khác nhau đều có giá trị về lý luận và thực tiễn.
Cho đến nay còn một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học
có đề cậpđến hình phạt như: Đinh Văn Quế, "Tổng hợp hình phạt của nhiều bản


án", Tạpchí Tòa án nhân dân, số 11, 2004; Đinh Văn Quế, "Quyết định hình

phạt đối vớingười chưa thành niên phạm tội", Tạp chí kiểm sát, số 6, 2007; Đinh
Thị Chiến,"Điều 50, 51 có mâu thuẫn với Điều 33 Bộ luật hình sự hay không";
Phạm Hồng Hải, "Một số điểm mới cơ bản trongphần chung Bộ luật hình sự
năm 1999", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6,2000; Phạm Văn Thiệu, "Tổng
hợp hình phạt của nhiều bản án", Tạp chí Tòa án,số 3, 2008; Phạm Mạnh Hùng,
"Vấn đề người chưa thành niên phạm tội trong luậthình sự", Tạp chí Nhà nước
vàpháp luật, số 1, 2003; PGS.TS Võ Khánh Vinh và Lê Văn Đệ, "Tổng hợp thực
tếvề phạm nhiều tội - Một hình thức biểu hiện của chế định phạm nhiều tội",
Tạp chíNhà nước và pháp luật, số 12, 1999; ThS. Phạm Mạnh Hùng, "Hoàn
thiện các quyđịnh của Bộ luật hình sự về hệ thống hình phạt và quyết định hình
phạt", Tạp chíKiểm sát, số 4, 2001 v.v...
Trong phạm vi luận văn này, học viên đi sâu phân tích và nghiên cứu các
trường hợp tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Ninh Bình. Không thể chỉ khái quát từ một tỉnh Ninh Bình để có thể kết luận
tình hình vấn đề và kiến nghị cho cả nước, nhưng đây là vấn đề mang tính cấp
thiết chung xuất phát từ sự chênh nhau từ quy định đến việc vận dụng còn bất
cập, mà tỉnh Ninh Bình chỉ là một trong những nơi điển hình như thế để học
viên lựa chọn làm đề tài nghiên cứu cho mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm làm rõ một số vấn đề về lý luận
của những trường hợp tổng hợp hình phạt theo quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam. Trong đó tỉnh Ninh Bình là một trong những minh chứng về thực
trạng của vấn đề này, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những hạn
chế, góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự, cũng như đảm bảo
việc tổng hợp hình phạt trên địa bàn tỉnh Ninh Bình được đúng pháp luật, bảo
đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, trong luận văn tập trung làm rõ khái niệm, ý
nghĩa, các nguyên tắc và lịch sử hình thành và phát triển của tổng hợp hình phạt,
quy định của pháp luật về tổng hợp hình phạt trong các trường hợp cụ thể. Làm
rõ thực tiễn quyết định tổng hợp hình phạt tại hai cấp Tòa án trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình có những ví dụ minh họa. Phân tích làm rõ những vi phạm, trong
thực tiễn thi hành chế định tổng hợp hình phạt trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và
nguyên nhân của nó. Từ đó đưa ra các giải pháp bảo đảm tổng hợp hình phạt
đúng trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định hình
phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, tổng hợp hình phạt trong trường hợp có
nhiều bản án và tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều
tội. Nghiên cứu các bản án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm về quyết định, tổng hợp
hình phạt tại tỉnh Ninh Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn bởi pháp luật hình sự Việt Nam và thực
tiễn thi hành tại địa bàn tỉnh Ninh Bình trong 05 năm từ năm 2012 đến năm
2016 tại Tòa án nhân dân các huyện, thành phố và Tòa án nhân dân tỉnh Ninh
Bình được thể hiện tại các bản án hình sự sơ thẩm, hình sự phúc thẩm có tổng
hợp hình phạt theo qui định tại Điều 50 và Điều 51 Bộ luật hình sự.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Trong quá trình nghiên cứu hoàn thành nội dung đề tài, tác giả đã vận
dụng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống
pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, xem đó là cơ sở phương pháp luận
giải quyết những vấn đề nội dung của luận văn.



5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu các vấn đề và hoàn thiện luận văn, học viên đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống khác nhau như phương pháp hệ
thống, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích quy nạp, phương
pháp so sánh, phương pháp thống kê tổng hợp. Ngoài ra các phương pháp lôgic,
khảo sát thực tiễn cũng đã được học viên sử dụng để hoàn thành luận văn thạc sĩ
luật học của mình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu trong luận văn vừa có ý nghĩa về mặt lý luận và ý
nghĩa về mặt thực tiễn. Luận văn đã góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận
về các khái niệm liên quan, về lịch sử phát triển của pháp luật thực định, chế
định tổng hợp hình phạt. Thông qua việc đánh giá thực tiễn của hoạt động xét xử
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, học viên đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng việc tổng hợp hình phạt, góp phần hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam
theo tinh thần cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Kết quả nghiên cứu
của luận văn học viên cũng mong muốn có thể làm tài liệu tham khảo trong công
tác tập huấn nghiệp vụ cho các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án
nhân dân hai cấp tại tỉnh Ninh Bình.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tổng hợp hình phạt.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tổng hợp hình phạt
và thực tiễn thi hành tại tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm tổng hợp hình phạt.


Chương 1


NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔNG HỢP HÌNH PHẠT
1.1. Những đặc điểm chính và mục đích của hình phạt
1.1.1.Những đặc điểm chính của hình phạt
Điều 26 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Hình phạt là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền,
lợi ích của người phạm tội.Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do
Tòa án quyết định”.
Từ khái niệm này về hình phạt, chúng ta có thể rút ra các đặc điểm chính
của hình phạt, như sau:
Thứ nhất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước. Vậy tại sao không có một chế tài nào nghiêm khắc hơn hình phạt? Dù là
hình phạt cảnh cáo hay hình phạt tiền, dù là hình phạt chính hay hình phạt bổ
sung, cũng được coi là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc hơn các chế tài khác
như chế tài hành chính, dân sự hoặc kinh tế dù có mức phạt cao hơn. Nếu các
chế tài khác không bị coi là có án tích, còn khi đã bị kết án và phải chịu hình
phạt thì người bị kết án ngoài việc bị tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích, còn bị
coi là có án tích và hậu quả pháp lý của án tích nặng nề hơn các chế tài khác.
Một hành vi bị coi là có tội và bị Tòa án áp dụng một hình phạt kéo theo nhiều
hậu quả nặng nề khác cho người phạm tội. Chỉ có chế tài hình sự thì một người
mới bị bắt giam, bị tước quyền tự do, bị cải tạo trong trại giam, thậm chí bị tước
bỏ cả quyền sống nếu họ bị kết án tử hình.
Thứ hai, hình phạt là biện pháp cưỡng chế được quy định trong Bộ luật
hình sự. Hình phạt do Nhà nước ban hành thông qua cơ quan lập pháp, quy định
trong Bộ luật hình sự. Ngoài Bộ luật hình sự ra, không có một đạo luật nào được
quy định tội phạm và hình phạt và chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật
hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Mặc dù cho đến nay cũng
còn có các ý kiến khác nhau về nguồn của Luật hình sự. Có ý kiến cho rằng để


phù hợp với thực tiễn Việt Nam, để không phải sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự

khi cuộc sống có những đòi hỏi, khi cần sự điều chỉnh một quan hệ xã hội nào
đó bằng pháp luật hình sự thì có thể quy định tội phạm và hình phạt trong các
luật chuyên ngành khác. Tuy nhiên, cho đến nay “chỉ người nào phạm một tội và
được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” (Điều 2 Bộ
luật hình sự). Chúng tôi cho rằng quy định này mới bảo đảm quyền con người,
vừa nghiêm khắc, vừa nhân đạo, vừa mang tính nhân văn.
Thứ ba, hình phạt là biện pháp cưỡng chế chỉ do Tòa án nhân danh Nhà
nước áp dụng. Điều này có nghĩa là việc quyết định một loại và mức hình phạt
cụ thể là thẩm quyền đặc biệt của Tòa án, chứ không phải do cơ quan, tổ chức
nào khác hay của người có thẩm quyền nào đó. Tòa án tuyên bố có tội và quyết
định hình phạt bằng việc xét xử của Tòa án do một Hội đồng thực hiện, có đại
diện của nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng. Thẩm quyền
đặc biệt đó còn thể hiện ở chỗ, ngoài ân xá và đặc xá, không một cơ quan, tổ
chức hay người có chức vụ, quyền hạn nào có thể miễn hoặc giảm hình phạt do
Tòa án đã tuyên, mà việc miễn, giảm đó hoàn toàn thuộc thẩm quyền đặc biệt
của Tòa án và khi tiến hành phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. Điều đó
thể hiện tính chất công quyền của hình phạt, bởi vì hình phạt chỉ có thể do Tòa
án nhân danh Nhà nước tuyên mà thôi, không một cơ quan nhà nước nào khác
có quyền áp dụng hình phạt.
Thứ tư, hình phạt làm cho người bị kết án có án tích. Án tích là hậu quả tất
yếu của hình phạt, đó là đặc điểm rất đặc trưng của hình phạt. Án tích có thể làm
cho người bị kết án chịu một số hạn chế nhất định. Như hạn chế trong việc chọn
chỗ ở, tìm công ăn việc làm trong các cơ quan nhà nước, phải trình báo, trình diện,
chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan có chức năng, là cơ sở để coi là tái
phạm, tái phạm nguy hiểm. Hình phạt làm cho người bị kết án có án tích, còn các
biện pháp cưỡng chế khác không làm cho người bị kết án có án tích, còn các biện
pháp cưỡng chế khác không làm cho người chịu các biện pháp đó có án tích, phải
chăng, họ phải chịu tiền sử (nếu họ bị xử lý vi phạm hành chính).



1.1.2.Mục đích của hình phạt
Theo quy định tại Điều 27 Bộ luật hình sự thì “Hình phạt không chỉ nhằm
trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội,
có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,
ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”.
Thứ nhất, hình phạt với mục đích chính là nhằm trừng trị người phạm tội.
Nếu hình phạt không có mục đích trừng trị, thì cũng không còn là hình phạt nữa.
Nội dung trừng trị của hình phạt thể hiện ở chỗ, hình phạt tước đoạt hoặc hạn
chế của người bị kết án một số quyền và lợi ích nhất định như tước đoạt tự do
của người bị kết án, cấm đảm nhiệm chức vụ, làm những nghề hoặc những công
việc nhất định. Trong đó biện pháp nghiêm khắc nhất là tước bỏ quyền được
sống (tử hình) đối với người phạm tội, bên cạnh đó, hình phạt còn có mục đích
giáo dục, cải tảo người bị kết án. Đó là hình phạt đã tuyên làm cho người bị kết
án nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi họ thực hiện, thấy
được sự lên án, phản ứng của Nhà nước đối với tội phạm do họ thực hiện, thấy
được tính tất yếu của trách nhiệm đối với tội phạm, làm cho người phạm tội thấy
rằng cần phải tự giác tuân theo pháp luật. Nội dung giáo dục, cải tạo của hình
phạt còn được thể hiện ở chỗ, chính việc tuyên hình phạt và cả quá trình buộc
người bị kết án chấp hành hình phạt là những biểu hiện của sự thuyết phục đối
với người phạm tội. Thuyết phục trong hình phạt nhằm làm cho người phạm tội
nhận thức được nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với hành vi do họ thực hiện,
làm cho họ biết được những gì không nên làm và những gì bị lên án. Nếu hình
phạt không có nội dung giáo dục, cải tạo mà chỉ có nội dung trừng trị, thì lúc đó
hình phạt chẳng qua chỉ là sự trả thù đơn thuần không hơn không kém. Do vậy,
giáo dục và cải tạo là một trong những nội dung rất quan trọng của hình phạt
trong luật hình sự xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, mục đích của hình phạt mang tính chất phòng ngừa đối với người
bị kết án, ngăn ngừa, ngăn chặn họ phạm tội mới. Như vậy, nếu như mục đích
cải tạo là mục đích giáo dục riêng, thì mục đích ngăn ngừa là mục đích phòng



ngừa riêng, tức là giáo dục và phòng ngừa bản thân người phạm tội, người bị kết
án đó. Phòng ngừa người đó phạm tội mới có ý nghĩa ngăn ngừa người phạm tội
có thể trở thành người tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất nguy
hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Đồng thời, mục đích này cũng có ý
nghĩa đối với những trường hợp phạm tội vô ý mà nguyên nhân là sự coi thường
kỷ luật, kém hiểu biết pháp luật.
Thứ ba, mục đích của hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Nội dung của mục đích này
không nhằm vào người phạm tội mà nhằm vào cộng đồng xã hội, có tính chất
răn đe phòng ngừa. Mọi người nhìn vào việc tuyên bố phạm tội và quyết định
hình phạt của Tòa án để có những xử sự đúng đắn, tôn trọng pháp luật. Nhà
nước đặt ra hình phạt để áp dụng đối với người phạm tội, đồng thời nhắc nhở
mọi người trong cộng đồng xã hội chớ có phạm tội, nếu có ý định phạm tội thì
phải dừng lại, nếu không ắt phải chịu hậu quả. Mục đích này vừa có tính chất
răn đe, vừa có tính chất giáo dục và phòng ngừa chung.
1.1.3. Hệ thống các hình phạt
Hệ thống các hình phạt là danh mục các loại hình phạt do Nhà nước quy
định trong pháp luật hình sự và được sắp xếp theo một trình tự nhất định, tùy
thuộc vào mức độ nghiêm khắc của mỗi loại hình phạt. Hệ thống hình phạt nước
ta bao gồm các hình phạt chính và các hình phạt bổ sung.
1.1.3.1. Các hình phạt chính

Hình phạt chính là hình phạt được áp dụng chính cho một tội phạm và
được tuyên độc lập, đối với mỗi tội phạm, Tòa án chỉ có thể tuyên một hình phạt
chính. Theo Bộ luật hình sự hiện hành thì các hình phạt chính bao gồm: Cảnh
cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung
thân; Tử hình.
- Cảnh cáo: Điều 29 Bộ luật hình sự là sự khiển trách công khai của Tòa án đối với

người bị kết án. Trong số các hình phạt chính, cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất.
Hình phạt này có nội dung giáo dục và phòng ngừa sâu sắc, thể hiện tính nhân
đạo của pháp luật hình sự nước ta. Phạm vi và điều kiện áp dụng hình phạt


cảnh cáo chỉ được áp dụng đối với những người phạm tội ít nghiêm trọng và có
nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. Hình phạt cảnh
cáo chỉ được áp dụng trong những trường hợp được luật quy định. Như vậy, các
điều kiện cần và đủ để áp dụng hình phạt này đối với bị cáo là: Tội phạm do bị
cáo thực hiện là tội ít nghiêm trọng; có nhiều tình tiết giảm nhẹ; chưa đến mức
miễn hình phạt; khi áp dụng với tội phạm mà bị cáo thực hiện có quy định hình
phạt cảnh cáo. Hình phạt cảnh cáo khác với cảnh cáo với tính cách là biện pháp
xử lý vi phạm hành chính là: Cảnh cáo là hình phạt chỉ do Tòa án áp dụng đối
với bị cáo và việc áp dụng hình phạt đó gây ra hậu quả pháp lý nghiêm khắc là
người chịu hình phạt đó mang án tích.
- Phạt tiền: Điều 30 Bộ luật hình sự, thực chất là hình phạt hình sự, hình
phạt tiền tước ở người bị kết án một khoản tiền nhất định trong những trường
hợp do pháp luật quy định và sung vào công quỹ Nhà nước. Theo pháp luật hình
sự nước ta quy định hình phạt tiền với tính cách là hình phạt chính hoặc với tính
cách là hình phạt bổ sung. Là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm
trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm trật tự công cộng, xâm phạm
trật tự quản lý hành chính và các tội phạm khác. Phạt tiền được áp dụng là hình
phạt bổ sung đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm
khác. Bộ luật hình sự không quy định mức tối đa chung cho tất cả các tội có quy
định phạt tiền mà chỉ quy định mức tối thiểu là một triệu đồng và quy định mức
phạt tiền bằng hai phương pháp. Thứ nhất, quy định mức phạt tiền cụ thể với việc
chỉ ra giới hạn tối thiểu và giới hạn tối đa (ví dụ: Điều 143, 154 Bộ luật hình sự).
Thứ hai, quy định mức phạt tiền bằng một số lần tiền phạm tội hoặc tiền thu lợi bất
chính (ví dụ: Điều 161, Điều 163 Bộ luật hình sự). Đồng thời khi quyết định mức
phạt tiền, Tòa án phải căn cứ vào: Tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm

đã thực hiện, tình hình tài sản của người phạm tội và sự biến động giá cả. Đó là
những căn cứ cần và đủ mà Tòa án phải dựa vào khi quyết định mức hình phạt tiền
đối với bị cáo. Do vậy cần phải cân nhắc một cách tổng thể khi phạt tiền. Nhưng
trong mọi trường hợp, mức phạt tiền không vượt quá mức tối đa và thấp hơn mức
tổi thiểu được quy định đối với tội đã phạm.


- Cải tạo không giam giữ: Điều 31 Bộ luật hình sự được áp dụng đối với người
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng với thời hạn từ 6 tháng
đến 3 năm. Người chịu hình phạt cải tạo không giam giữ không phải cách ly
khỏi xã hội mà được cải tạo ngay tại nơi thường trú hoặc tại cơ quan nhà nước
hoặc tổ chức nơi người đó làm việc. Do đó, hình phạt này chỉ áp dụng nếu người
phạm tội đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng. Nhưng
phạm tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng là một điều kiện cần chứ chưa đủ để
quyết định hình phạt này, vì ngoài điều kiện trên, Tòa án chỉ có thể quyết định
áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ với người phạm tội khi có những tình
tiết cho phép nhận định người phạm tội có thể giáo dục, cải tạo trở thành người
tốt mà không cần cách ly khỏi đời sống xã hội. Hình phạt này là một biểu hiện
của chủ nghĩa nhân đạo của pháp luật nước ta, là một điều kiện để lôi cuốn các
cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và toàn thể quần chúng nhân dân tham gia
vào việc giám sát và giáo dục người phạm tội.
- Trục xuất: Điều 32 Bộ luật hình sự cũng là một hình phạt hình sự, trục xuất là
buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Trục xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc
hình phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể. Người nước ngoài được hiểu là
người không có quốc tịch Việt Nam. Khi người nước ngoài phạm tội, căn cứ vào
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, các tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự và nhân thân củ người phạm tội để quyết định trục xuất là hình
phạt chính hoặc hình phạt bổ sung.
- Tù có thời hạn: Điều 33 Bộ luật hình sự, về thực chất là giam người bị kết án ở

các trại giam, trại tạm giam, tức là cách ly người đó ra khỏi môi trường xã hội
bình thường trong một thời gian nhất định để giáo dục và cải tạo họ. Hạn chế tự
do đối với người bị kết án, tù có thời hạn là nội dung pháp lý chủ yếu của loại
hình phạt này. Tại Điều 33 Bộ luật hình sự quy định thời hạn tù tối thiểu là 3
tháng, thời hạn tù tối đa là 20 năm. Tuy nhiên, đây phải hiểu là thời hạn chung,
các chế tài cụ thể của Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự quy định những
thời hạn tù cụ thể đối với từng cấu thành tội phạm cụ thể. Ngoài ra đối với người


chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì thời hạn tối đa của hình phạt
tù bằng ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định và đối với người chưa
thành niên từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi thì thời hạn tối đa của hình phạt tù là một
phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
- Tù chung thân: Điều 34 Bộ luật hình sự , là hình phạt tước tự do không thời hạn,
tức là suốt đời được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng
nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Đó là trường hợp tội phạm xâm hại đến
những khách thể rất quan trọng được pháp luật hình sự bảo vệ, tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và của nhân thân người phạm tội rất lớn,
tập trung nhiều tình tiết tăng nặng nên trong Điều 48 Bộ luật hình sự, hậu quả gây
ra rất nghiêm trọng… Quy định này nói lên tính chất đặc biệt nghiêm khắc của
hình phạt tù chung thân và sự thận trọng khi áp dụng hình phạt này. Trên thực tế,
trong trường hợp xét ân giảm án tử hình, tù chung thân được gọi là “hình phạt
đệm” để thay thế hình phạt tử hình, hạn chế việc áp dụng hình phạt đặc biệt này.
Tù chung thân không được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Quy
định này biểu hiện nguyên tắc nhân đạo và là bước phát triển mới của pháp luật
hình sự nước ta. Người đang chấp hành hình phạt tù chung thân có thể được giảm
thời hạn chấp hành hình phạt khi có những điều kiện nhất định.
- Tử hình: Điều 35 Bộ luật hình sự, là hình phạt nghiêm khắc nhất tước bỏ quyền
sống của người phạm tội nên nó chỉ được áp dụng đối với người phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng và cũng chỉ áp dụng trong trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên

không phải bất cứ người nào phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đều bị phạt tử hình
mà chỉ áp dụng hình phạt tử hình đối với những người gây tội ác rất lớn, gây
phương hại đến an ninh quốc gia, những kẻ thoái hóa, biến chất. Đồng thời xuất
phát từ nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, mà Nhà nước ta quy định không áp
dụng và thi hành hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, phụ
nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này thì hình phạt
tử hình được chuyển thành tù chung thân. Do là hình phạt đặc biệt này khi Tòa
án áp dụng cũng như việc thi hành hình phạt cũng theo những thủ tục đặc biệt.


1.1.3.1.Các hình phạt bổ sung
Khoản 2 Điều 28 Bộ luật hình sự, quy định hình phạt bổ sung bao gồm:
Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư
trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền, khi không
áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định,
Điều 36 Bộ luật hình sự: Nội dung và các điều kiện áp dụng hình phạt này được
quy định tại Điều 36 Bộ luật hình sự. Theo pháp luật hình sự nước ta, hình phạt
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được quy
định với tính cách là hình phạt bổ sung ở hai dạng bắt buộc phải áp dụng và tùy
nghi. Hình phạt này được Tòa án áp dụng đối với những người phạm tội khi xét
thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề làm công việc nhất
định đó có thể gây thiệt hại cho các lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của
công dân. Đây là hình phạt có tính chất phòng ngừa, được áp dụng trong những
trường hợp có điều luật quy định và khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm
nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất đình đó thì có thể phạm tội
mới. Khi áp dụng hình phạt này, Tòa án phải chỉ ra một cách cụ thể trong bản án
người bị kết án bị cấm đảm nhiệm chức vụ gì, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nào đó và có thể quyết định thu hồi các bằng cấp hoặc giấy phép tương ứng
xác định chức vụ, nghề nghiệp hoặc công việc đã bị cấm. Đồng thời khi áp dụng

hình phạt này, Tòa án căn cứ quyết định hình phạt theo Điều 45 Bộ luật hình sự
để cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định trong
thời hạn là từ một năm đến năm năm.
+ Cấm cư trú Điều 37 Bộ luật hình sự: Cấm cư trú là buộc người bị kết án
phạt tù không được tạm trú và thường trú ở một số địa phương nhất định. Hình
phạt này là hình phạt bổ sung có tính chất phòng ngừa đối với một số người
phạm tội nhất định và được áp dụng nhằm mục đích hạn chế các điều kiện thuận
lợi về cư trú mà người phạm tội có thể lợi dụng để phạm tội mới. Hình phạt này
quy định chủ yếu đối với các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, một số tội
phạm sở hữu. Hình phạt này được áp dụng với tính cách là hình phạt bổ sung


kèm theo hình phạt chính là hình phạt tù. Thời hạn cấm cư trú tính từ khi chấp
hành xong hình phạt tù với thời hạn cấm là từ một năm đến năm năm.
Quản chế Điều 38 Bộ luật hình sự: Quản chế thể hiện ở việc buộc người
bị kết án phạt tù trong một thời gian nhất định phải cư trú, làm ăn sinh sống và
cải tạo ở một địa phương nhất định, dưới sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền
và nhân dân địa phương và phải chịu một số hạn chế khác về quyền lợi và thực
hiện một số nghĩa vụ. Quản chế là hình phạt bổ sung kết hợp giáo dục với bắt
buộc lao động để sinh sống. Quản chế có tác dụng củng cố kết quả làm việc
chấp hành án phạt tù, góp phần phòng ngừa tội phạm mới. Hình phạt này được
quy định đối với người phạm tội xâm hại an ninh quốc gia, tái phạm nguy hiểm
hoặc trong những trường hợp khác do Bộ luật hình sự quy định. Trong bản án,
Tòa án phải chỉ rõ thời hạn bị quản chế và thời hạn này được xác định căn cứ
vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện; các đặc
điểm nhân thân của bị cáo và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ có trong hồ sơ
vụ án mà quyết định thời hạn quản chế từ một năm đến năm năm.
Tước một số quyền công dân Điều 38 Bộ luật hình sự: Tước một số quyền
công dân là hình phạt thể hiện ở việc tước của người bị kết án một số quyền
chính trị quan trọng trong một thời hạn nhất định do pháp luật quy định. Hình

phạt này chỉ được áp dụng đối với những người là công dân Việt Nam khi họ
thực hiện các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác do Bộ luật hình
sự quy định. Hình phạt này đương nhiên không áp dụng đối với người nước
ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Khi quyết định hình phạt này Tòa án
phải ghi rõ trong bản án những quyền công dân cụ thể bị tước. Trong mọi trường
hợp Tòa án chỉ có quyền tước những quyền công dân do pháp luật quy định. Đó
là quyền ứng cử, quyền bầu cử đại biểu các cơ quan quyền lực Nhà nước; quyền
làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang
nhân dân.
- Tịch thu tài sản Điều 40 Bộ luật hình sự:Nội dung và điều kiện áp dụng
hình phạt, đây là loại hình phạt bổ sung thuộc loại hình phạt về kinh tế và chỉ
được áp dụng đối với người thực hiện những tội phạm nghiêm trọng, tội rất


nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng trong những trường hợp có điều
luật quy định. Tài sản bị tịch thu có thể là toàn bộ hoặc là một phần. Tuy nhiên,
khi tịch thu toàn bộ tài sản không được tước đoạt tất cả mà phải dành cho người
bị kết án và gia đình họ một khoản tài sản nhất định để đảm bảo điều kiện sinh
sống. Theo quy định tại Điều 60 và Điều 69 Bộ luật hình sự thì không áp dụng
hình phạt tịch thu tài sản đối với những người bị tuyên án phạt tù, nhưng cho
hưởng án treo và đối với người chưa thành niên phạm tội.
1.2. Khái niệm, nguyên tắc tổng hợp hình phạt
1.2.1. Khái niệm tổng hợp hình phạt
Trong thực tế có những trường hợp một người trong cùng một thời gian
hoặc vào các thời gian khác nhau thực hiện nhiều tội phạm, nhưng họ bị khởi tố,
truy tố, xét xử trong cùng một lần. Trong trường hợp này Tòa án xét xử định tội
danh và quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó buộc người phạm tội phải
chấp hành hình phạt chung cho các tội. Có trường hợp một người sau khi có một
hoặc nhiều bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật họ lại tiếp tục phạm tội
hoặc ngược lại sau khi có một hoặc nhiều bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật, mới phát hiện và truy cứu trách nhiệm hình sự, đưa ra xét xử đối với hành
vi phạm tội được thực hiện trước khi có bản án có hiệu lực pháp luật, thì Tòa án
phải xét xử và quyết định hình phạt đối với hành vi phạm tội mới thực hiện hoặc
mới được phát hiện. Trong từng trường hợp này Tòa án phải quyết định buộc
người phạm tội phải chấp hành hình phạt chung của nhiều bản án. Có trường
hợp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội, các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không phát hiện được người đang bị
điều tra, truy tố, xét xử đang phải chấp hành một hoặc nhiều bản án đã có hiệu
lực pháp luật. Như vậy, trong trường hợp này Tòa án cũng cần phải quyết định
buộc người phạm tội phải chấp hành hình phạt chung của nhiều bản án.
Việc buộc người phạm tội phải chấp hành hình phạt chung trong các
trường hợp trên đây không phải được thực hiện một cách cơ học “Tổng cộng”,
tức là “Cộng tất cả lại,tổng cộng các khoản”. Việc buộc người phạm tội phải
chấp hành hình phạt chung trong các trường hợp trên đây phải tuân theo những


nguyên tắc nhất định, vừa bảo đảm có lý, có tình, có tính khả thi. Việc quyết
định này gọi là “Tổng hợp”, tức là từ các yếu tố riêng rẽ nào đó làm thành một
chỉnh thể, (từ các hình phạt riêng rẽ làm thành một hình phạt chung). Như vậy,
“tổng hợp” khác với “tổng cộng”. Nếu như “tổng cộng” là cái chung, thì “tổng
hợp” là cái riêng. “Tổng hợp” có lúc, có nơi, có trường hợp cụ thể là “tổng
cộng”. Ví dụ: Bản án thứ nhất xử phạt 2 năm tù, bản án thứ hai xử phạt 3 năm
tù. “Tổng hợp” trong trường hợp này là “tổng cộng” (2 năm tù + 3 năm tù = 8
năm tù). Trong trường hợp khác “tổng hợp” không thể là “tổng cộng”. Ví dụ:
Bản án thứ nhất xử phạt 18 năm tù; bản án thứ hai xử phạt 20 năm tù. “Tổng
hợp” trong trường hợp này là 30 năm tù, còn “tổng cộng” sẽ là 38 năm tù (18
năm tù + 20 năm tù = 38 năm tù).
Việc tổng hợp hình phạt do Tòa án có thẩm quyền thực hiện, mà cụ thể là
do Hội đồng xét xử, nếu tại phiên tòa hoặc do Chánh án Tòa án, nếu tổng hợp
hình phạt của nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật. Việc tổng hợp hình phạt

phải tuân thủ những quy định của Bộ luật hình sự và tổng hợp hình phạt cùng
loại, tổng hợp hình phạt khác loại và những trường hợp không được tổng hợp
hình phạt.
Từ sự phân tích trên đây, học viên đưa ra quyết định khái niệm tổng hợp
hình phạt như sau:
Tổng hợp hình phạt là việc Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy
định của pháp luật hình sự, trên cơ sở loại và mức hình phạt mà Tòa án đã
quyết định đối với từng tội hoặc trên cơ sở loại và mức hình phạt đã quyết định
trong nhiều bản án để quyết định hình phạt chung đối với người phạm tội.
Cũng từ phân tích trên, chúng ta có thể thấy chế định tổng hợp hình phạt
có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đảm bảo tính khả thi của các bản án; sự nghiêm
minh, công bằng và nhân đạo của pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
thi hành án, đảm bảo được mục đích của hình phạt.
Tính khả thi của các bản án: Theo quy định của luật hình sự, người phạm
nhiều tội có thể bị xét xử cùng một lần và tuyên hình phạt trong cùng một bản
án, có thể bị xét xử ở các lần khác nhau và bị tuyên hình phạt trong nhiều bản


án. Hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với từng tội có thể cùng loại hoặc khác
loại. Người bị kết án không thể cùng một lúc chấp hành đồng thời các hình phạt
của tất cả các bản án mà cần phải tổng hợp thành hình phạt chung theo những
nguyên tắc nhất định thì mới có tính khả thi. Trường hợp một người bị kết án tại
nhiều bản án, nếu các hình phạt không được tổng hợp thì rất có thể xảy ra tình
trạng là có bản án được đưa ra thi hành, có bản án không được thi hành. Do đó,
xảy ra trường hợp có thể thi hành xong bản án này, thì bản án kia đã hết thời
hiệu thi hành.
- Để đảm bảo sự nghiêm minh, công bằng của pháp luật, một trong những nguyên
tắc có ý nghĩa xuyên suốt mà Bộ luật hình sự hướng đến là mọi hành vi phạm tội
phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, nghiêm minh theo quy định
của pháp luật. Trong đó tổng hợp hình phạt có ý nghĩa bảo đảm các hình phạt đã

tuyên có tính khả thi, qua đó sự nghiêm minh, công bằng của pháp luật mới
được thực hiện. Theo đó nguyên tắc tổng hợp hình phạt luôn được ưu tiên áp
dụng trước. Trong trường hợp tổng hợp được các hình phạt đã tuyên thì mới
buộc người phạm tội phải chấp hành. Người phạm tội có thể bị tuyên hình phạt
tối đa đến 20 năm, nhưng người phạm nhiều tội hoặc bị kết án bằng nhiều bản
án có thể bị tuyên hình phạt tổng hợp đến 30 năm tù. Các hình phạt khác loại
không tổng hợp được, thì buộc người phạm tội phải chấp hành tất cả các hình
phạt đó. Như vậy, người phạm nhiều tội hoặc bị án bằng nhiều bản án luôn phải
chịu hình phạt nặng nghiêm khắc hơn. Đó là thể hiện sự công bằng của Pháp luật
hình sự. Bên cạnh nghiêm minh, công bằng tổng hợp hình phạt còn thể hiện sự
nhân đạo. Nếu theo pháp lý đơn thuần, nếu bảo đảm nghiêm minh, công bằng thì
phải dùng “tổng cộng” toàn bộ các hình phạt. Nếu vậy thì có những trường hợp
không phải là 30 năm tù mà lớn hơn nhiều, thậm chí hàng trăm năm tù. Tuy
nhiên, trong những trường hợp khi tổng cộng các hình phạt tù trên 30 năm, thì
Bộ luật hình sự quy định mức tối đa cũng chỉ 30 năm tù.
- Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án. Trong thực tiễn có không ít
trường hợp một người phải chấp hành nhiều hình phạt (có thể cùng loại, có thể
khác loại) của nhiều bản án, nhưng vì nhiều lý do khác nhau chưa được


tổng hợp. Những trường hợp này đã gây khó khăn cho Tòa án trong việc ra
quyết định thi hành án. Nếu Chánh án Tòa án ra quyết định thi hành tất cả các
bản án thì cũng không thể thi hành đồng thời các bản án này. Có trường hợp
trùng lắp đồng thời cùng chấp hành các bản án, có trường hợp không thể thi
hành được, ví dụ: Tử hình và chung thân, khi hình phạt trong cùng một bản án
hoặc trong các bản án khác nhau đã được tổng hợp thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc ra quyết định thi hành án, cũng như thực hiện việc thi hành án.
- Tổng hợp hình phạt còn có ý nghĩa cho việc xác định thời hiệu thi hành bản án,
xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Cụ thể trong trường hợp này được quy
định tại tiểu mục 1.3 mục 1 Nghị quyết 01/2007/NQ – HĐTP ngày 02/10/2007

của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn: “Trường hợp
trong bản án có tổng hợp hình phạt của nhiều tội thì căn cứ mức hình phạt để
tính thời hiệu thi hành bản án hình sự là hình phạt chung của hình phạt chính
nặng nhất”.
1.2.2. Nguyên tắc tổng hợp hình phạt
Nguyên tắc tổng hợp hình phạt là một vấn đề hết sức quan trọng trong
việc tổng hợp hình phạt qui định trong Luật hình sự.Trường hợp phạm nhiều tội,
trước khi tổng hợp và quyết định hình phạt chung cho các tội thì Tòa án phải
quyết định hình phạt riêng cho từng tội. Hình phạt chung không được vượt quá
giới hạn luật quy định đối với từng loại hình phạt. Hình phạt chung là sự đánh
giá toàn diện và đầy đủ nhất đối với tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
bị cáo đó thực hiện, do đó mức phạt phải tương xứng với toàn bộ các tội mà bị
cáo đã phạm. Nếu hình phạt chung được tổng hợp không đúng sẽ làm mất ý
nghĩa của việc quyết định hình phạt đối với từng tội, do vậy sẽ không đạt được
mục đích của hình phạt. Việc tổng hợp hình phạt phải tuân thủ theo những
nguyên tắc nhất định. Đó là nguyên tắc thu hút hình phạt và nguyên tắc cộng
hình phạt.
Nguyên tắc cộng hình phạt: Nguyên tắc cộng hình phạt gồm hai loại đó
là nguyên tắc cộng toàn bộ hình phạt và nguyên tắc cộng một phần hình phạt.


- Nguyên tắc cộng toàn bộ hình phạt là nguyên tắc cho phép cộng toàn bộ các
hình phạt thành hình phạt chung. Nguyên tắc này được áp dụng khi phải cộng
toàn bộ các hình phạt với nhau (hình phạt chung sau khi đã cộng không vượt
giới hạn mà luật cho phép đối với loại hình phạt đó).
- Nguyên tắc cộng một phần hình phạt là nguyên tắc cho phép cộng hình phạt cao
nhất với một phần hình phạt còn lại thành hình phạt chung. Nguyên tắc này được
áp dụng khi, không thể cộng toàn bộ được mới cộng một phần với hình phạt
nặng nhất đã đạt mức tối đa cho phép của loại hình phạt này. Ví dụ: Nguyễn Văn
Anh bị Toà án tuyên phạt 18 năm tù về tội giết người theo điểm I khoản 1 Điều

93 Bộ luật hình sự và phạt 15 năm tù về tội cướp tài sản theo khoản 3 Điều 133
BLHS. Trong trường hợp này, hình phạt chung mà bị cáo Nguyễn Văn Anh phải
chấp hành là 30 năm tù. Tổng cộng hình phạt đúng ra Nguyễn Văn Anh phải
chịu mức tù là 33 năm nhưng vì hình phạt chung không được quá 30 năm nên
Toà án chỉ có thể cộng 18 năm tù của tội giết người và 12 năm tù tội cướp tài sản
thì đã đạt mức tối đa cho phép là 30 năm.
Nguyên tắc cộng hình phạt được áp dụng khi có thể cộng được các hình
phạt của các tội miễn là hình phạt chung nằm trong giới hạn luật cho phép. Mặt
khác, nguyên tắc này chỉ được áp dụng khi các hình phạt đó cùng loại hoặc có
thể quy về cùng loại.
Luật hình sự Việt Nam coi nguyên tắc cộng toàn bộ là nguyên tắc ưu tiên
bắt buộc. Chỉ khi không áp dụng được nguyên tắc này mới áp dụng các nguyên
tắc khác, điều này thể hiện rõ trong các quy định cụ thể của Bộ luật hình sự.
Nguyên tắc thu hút hình phạt: Theo nguyên tắc thu hút, hình phạt chung
là hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên. Nguyên tắc này được áp
dụng trong trường hợp không thể cộng hết các hình phạt lại với nhau do có một
trong các hình phạt đã tuyên là hình phạt nặng nhất trong hệ thống hình phạt hay
do các hình phạt không thể cùng chấp hành. Ví dụ: Bị cáo Phạm Văn Cương
phạm tội giết người và tội hiếp dâm. Toà án tuyên tử hình đối với tội giết người
và 10 năm tù với tội hiếp dâm. Hình phạt chung trong trường hợp này là tử hình.


Như vậy Nguyên tắc thu hút hình phạt được áp dụng khi hình phạt nặng
nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình hoặc tù chung thân. Như vậy, nếu
hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt
chung là tử hình. Nếu hình phạt nặng nhất trong các hình phạt đã tuyên là chung
thân thì hình phạt chung là chung thân.
Nguyên tắc cùng tồn tại: Nguyên tắc cùng tồn tại được áp dụng khi
không áp dụng được hai nguyên tắc trên. Tổng hợp hình phạt theo nguyên tắc
này sẽ không có hình phạt chung cho tất cả các tội mà chỉ có việc phải chấp

hành đồng thời các hình phạt. Vớ dụ: Bị cáo Vũ Văn Biên phạm tội đánh bạc và
tội chống người thi hành công vụ. Toà án tuyên phạt 15 triệu đồng về tội “đánh
bạc” và phạt 2 năm tù về “tội chống người thi hành công vụ”. Trường hợp này bị
cáo phải chấp hành đồng thời cả hai hình phạt.
Theo nguyên tắc của Luật hình sự thì một người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xó hội và được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì phải chịu hình
phạt. Người bị nhiều tội sẽ bị tuyên nhiều hình phạt. Về mặt lý luận cũng như
thực tiễn cho thấy, không phải người phạm nhiều tội nào cũng bị phát hiện và
đem đưa ra xét xử cùng một lúc. Có trường hợp một người thực hiện nhiều hành
vi phạm tội bị phát hiện và đưa ra xét xử cùng một lần và bị Tòa án tuyên nhiều
hình phạt (trường hợp phạm nhiều tội). Tuy nhiên, cũng có trường hợp bị cáo
đang chấp hành một bản án lại bị đem ra xét xử về một tội mà người đó đã phạm
trước hoặc sau khi có bản án đang chấp hành (trường hợp có nhiều bản án).
Trong trường hợp trên, người bị kết án sẽ chịu nhiều hình phạt tương xứng với
các hành vi phạm tội của họ. Hình phạt người bị kết án phải chấp hành có thể
cùng loại nhưng có trường hợp bị cáo phải chấp hành đồng thời các hình phạt.
Để đánh giá toàn diện nhân thân người phạm tội cũng như thể hiện đầy đủ nhất
thái độ của Nhà nước đối với họ, khi xét xử Tòa án phải tổng hợp tất cả các hình
phạt đã tuyên thành hình phạt chung. Mặc khác, việc tổng hợp hình phạt sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho cơ quan thi hành án khi thực hiện chức năng nhiệm vụ
của mình.


Khi một người phạm nhiều tội, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với
từng tội, khi một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới
hoặc bị xét xử về tội đã phạm trước đó, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với
tội mới hoặc tội đã phạm trước đó và khi một người phải chấp hành nhiều bản
án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng
hợp, thì Tòa án phải thực hiện tổng hợp hình phạt. Việc tổng hợp hình phạt
trong các trường hợp trên phải theo những nguyên tắc nhất định.

Thứ nhất, là các hình phạt đã tuyên đối với từng tội, các hình phạt đã
tuyên trong các bản án đã có hiệu lực pháp luật đang hoặc chưa được thi hành,
chưa được tổng hợp phải được tổng hợp đầy đủ, không được bỏ sót.
Điều 106 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2014 quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp
luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, cá nhân hữu quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Điều 22 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy
định: “Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi
hành và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ
quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành
nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án và phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về việc chấp hành đó. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ
quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn, tổ chức và công dân phải phối
hợp với cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án
trong việc thi hành án. Các cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn
có trách nhiệm tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức có nhiệm
vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong việc thi hành án”. Để đảm bảo
thi hành đúng các quy định trên đây thì Tòa án phải tổng hợp đầy đủ các hình
phạt, không được bỏ sót.
Thứ hai, là việc tổng hợp các hình phạt đối vơi nhiều tội hoặc trong nhiều
bản án phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tức là phải tuân thủ
đúng các quy định của Bộ luật hình sự và các hướng dẫn thi hành của cơ quan
có thẩm quyền. Cụ thể là trong trường hợp tổng hợp hình phạt do phạm nhiều tội


thì phải tuân thủ quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự. Trường hợp tổng hợp
hình phạt của nhiều bản án thì phải tuân thủ quy định tại Điều 51 Bộ luật hình
sự. Trường hợp người phạm tội là người chưa thành niên thì phải tuân thủ quy
định tại Điều 75 và các quy định khác trong Chương X của Bộ luật hình sự.
Ngoài việc tuân thủ các quy định của Bộ luật hình sự thì còn phải tuân thủ

hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 20/12/1991 của Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy
định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự (các mục 5, mục
6 và 7).
Thứ ba, là việc tổng hợp hình phạt phải rõ ràng, chính xác về con số, về
thời điểm tính thời hạn, bảo đảm tính khả thi. Đây là nguyên tắc rất quan trọng,
chỉ cần sai lệch về con số, về thời điểm tính thời hạn có thể đưa đến hậu quả là
người phải chấp hành “đủ” hoặc họ phải chấp hành thừa.
1.3. Chế định tổng hợp hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm
1945 đến năm 1999
1.3.1. Chế định tổng hợp hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945
đến năm 1985
Trong giai đoạn này nhìn chung chế định tổng hợp hình phạt chưa được
quy định trong các văn bản pháp luật mà mới chỉ được đề cập đến trong các bản
báo cáo tổng kết công tác của ngành tòa án và các công văn của Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn các Tòa án địa phương việc xét xử, cụ thể trong các trường
hợp tổng hợp hình phạt như sau:
+ Trường hợp thứ nhất: Trong trường hợp phạm nhiều tội, trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985, pháp luật hình sự nước ta chưa có quy định cụ
thể về tổng hợp hình phạt đối với trường hợp phạm nhiều tội, nên vào những
thời điểm khác nhau, việc tổng hợp hình phạt được các Tòa án thực hiện với
nhiều cách thức khác nhau không thống nhất. Từ trước năm 1964, việc quyết
định hình phạt đối với trường hợp phạm nhiều tội, có Tòa án đã phân tích, nhận
định trong bản án phạm nhiều tội nhưng lại không tuyên hình phạt riêng cho
từng tội, rồi tổng hợp lại thành hình phạt chung mà chỉ quyết định hình phạt


×