Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN NGHỆ DÂN GIAN CỦA DÂN TỘC MẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.24 KB, 25 trang )

MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc sinh sống trên cùng một lãnh thổ.
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam sống đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau
như anh em ruột thịt trong đó có dân tộc Mảng. Mỗi dân tộc có một nét đăc
trưng riêng, bản sắc riêng của mình góp phần làm cho nền văn hóa của các dận
tộc thiểu số của Việt Nam ngày cang phong phú và đặc sắc hơn.
Và bài tiểu luận này tôi muốn nói tới một trong 54 dân tộc anh em ở Việt
Nam, sinh sống chủ yếu ở phía bắc Việt Nam và phái nam Trung Quốc (tỉnh
Vân Nam), đó là dân tộc Mảng.
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về người Mảng, tôi mang muốn
được hiêuỏ hơn về con người cũng như về văn hóa dân gian của họ. Từ đó có cái
nhìn mới hơn vầ góp một phần nhỏ của mình vào việc giữ gìn và bảo tồn nét văn
hóa truyền thống của họ.
2. Mục đích nghiên cứu.
Hiểu rõ thêm về nét văn hóa nghệ thuật dân gian của người Mảng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Dân tộc Mảng ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Những nét đặc sắc về văn hóa nghệ thuật dân gian,
đời sống, sinh hoạt, văn hóa của người Mảng từ trước cho tới nay.
4. Nguồn tài liệu.
Thực tế: thu thập từ một số ngươi am hiểu về dân tộc Mảng.
Nguồn tài liệu công bố: Trên sách, báo, mạng …

2


PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT
1. Nguồn gốc lịch sử và tên gọi
Tên gọi khác: Người Mảng còn có tên gọi khác là Mảng Ư, Xá Mảng,
Niểng O, Xá Bá O.
Nhóm địa phương: Mảng Gứng, Mảng Hệ. Người Mảng là một dân tộc
thiểu số thuộc nhánh Bắc Môn-Khmer của ngữ tộc Môn-Khmer.
Lịch sử: Xưa nay vùng Nặm Ban (Dum Bai) thuộc xã Nặm Ban, huyện
Sìn Hồ tỉnh Lai Châu vẫn được gọi là "quê hương" của người Mảng. Nhiều
truyền thuyết, truyện kể còn lưu truyền cho đến ngày nay giúp chúng ta có thể
nhận ra người Mảng là một trong những dân cư bản địa ở vùng Tây Bắc.(1)
2. Phân bố dân cư và dân số
Người Mảng cư trú chủ yếu ở Sìn Hồ, Mường Tè, Phong Thổ, Mường
Lay, tỉnh Lai Châu.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Mảng ở Việt Nam
có dân số 3.700 người, cư trú tại 14 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Mảng
cư trú tập trung tại tỉnh Lai Châu (3.631 người, chiếm 98,1% tổng số người
Mảng tại Việt Nam), ngoài ra còn có ở Đồng Nai (17 người), Đắk Lắk (15
người), các tỉnh khác không quá 10 người.(1)

3


CHƯƠNG II: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VĂN NGHỆ DÂN GIAN CỦA DÂN
TỘC MẢNG
1. Văn hóa vật chất
1.1. Đặc điểm về sản xuất kinh tế
Hoạt động sản xuất: Người Mảng là cư dân "ăn nương" chuyên sống bằng
nông nghiệp nương rẫy theo lối sống du canh du cư. Việc chọn nương, đánh dấu
sở hữu được tiến hành từ sau tết.
Tháng 3-4 phát cỏ, để khô, nỏ; tháng5-6 đốt rồi gieo hạt. Công cụ làm

nương có rìu, dao, gậy chọc lỗ.
Năng suất lúa thường thấp do đất đai cằn cỗi, rừng non, đời sống bấp
bênh, thiếu ăn quanh năm. Mấy năm gần đây họ đã biết làm nương cuốc; một số
nơi làm ruộng bậc thang, năng suất lúa ổn định hơn.
Chăn nuôi, thủ công... chưa phát triển. Hái lượm, săn bắt trong suốt 4 mùa
vẫn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế.Người Mảng nuôi trâu, bò,
dê, gà, lợn. Nghề thủ công truyền thống của người Mảng không phong phú như
các dân tộc khác, chủ yếu và phát triển nhất là nghề đan lát, nhiều sản phẩm đan
lát của người Mảng như bem, cót, gùi rất được các dân tộc khác ưa chuộng.

Hình 1: Cái gùi của dân tộc mảng
4


1.2. Đặc điểm về trang phục và nhà ở
Mặc:Y phục truyền thống vẫn được giữ gìn mặc dù nhiều người mặc
giống người Thái hoặc Việt. Nét độc đáo trong trang phục phụ nữ Mảng là tấm
choàng quấn quanh thân được cắt may bằng vải thô màu trắng, ở giữa thêu hàng
chỉ đỏ. Khi mặc để hở yếm trắng và dây chuyền. Váy màu chàm đen có đường
viền đỏ ở gấu. Ðầu để trần, tóc buộc thành chỏm trên đầu bằng dây có tua khá
đẹp, chân quấn xà cạp bằng tấm vải màu..
Trang phục Nam mặc quần, áo xẻ ngực.

Hình 2: Trang phục của dân tộc mảng

Nhà ở: Sống quãy quần thành từng bản nhỏ. Nhà sàn, gỗ tạp, kỹ thuật thô sơ.

Hình 3: Nhà ở của dân tộc mảng
5



1.3. Đặc điểm về ẩm thực
Ăn: Người Mảng ăn 2 bữa (trưa-tối), ngô là lương thực chính, ngô trộn
sắn hoặc trộn với ít gạo đồ lên. Lá sắn non đồ muối là thức ăn gần như quanh
năm của người Mảng.
Người Mảng có truyền thống ăn xôi nếp. Xôi nếp được đồ trên ninh, chín
dỡ ra rồi cho vào cái cơ đựng cơm đan bằng tre mây. Cơi đựng cơm được đan
tròn có nắp đậy và chân đế cao để cách ly giữa đáy và bề mặt đặt giỏ.

Hình 4: Bữa cơm của người Mảng
Người ta sử dụng cơi đựng xôi trong các bữa ăn ở nhà hay trên nương.
Khi ăn, cơi để cạnh mâm, dùng tay bốc xôi trong cơi, nắm lại thành nắm nhỏ
chấm vào thức ăn. Họ ưa hút thuốc lào, uống rượu trắng.

6


Hình 5 : Cái cơ đựng cơm đan bằng tre mây

7


1.4. Phương tiện vận chuyển:
Phổ biến dùng gùi Mang gùi (dong buê) có dây quai vắt qua trán và sỏ
qua tấm ván ách tì lên gáy là đặc trưng của cách vận chuyển sản phẩm của người
Mảng. Cách đeo gùi này thấy ở nhiều dân tộc trong nước và trên thế giới., có
dây đeo trên trán sau gáy có ách.
2. Văn hóa tinh thần
2.1. Đặc điểm về tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội
Lễ tết: Ngoài tết Nguyên đán ra, người Mảng ăn tết Cơm mới sau vụ gặt

tháng10 âm lịch. Hàng năm, dân bản còn cúng ma bản và ma nhà để yêu cầu
yên. Ðặc biệt ở họ tồn tại hàng loạt nghi lễ liên quan đến nông nghiệp: lễ gieo
nương; cúng hồn lúa, mẹ lúa; cúng sau vụ thu hoạch...

Hình 6: Người Mảng đang làm lễ
Thờ cúng: Ma nhà được cúng vào dịp tết hoặc khi trong nhà có người đau
ốm.
Trời là đấng sáng tạo tối cao. ở đây có cả truyền thuyết về sự xuất hiện
loài người theo mô típ truyện quả bầu. Người ta quan niệm vũ trụ có bốn tầng:
Trên trời là thế giới thần linh sáng tạo, mặt đất là thế giới người và các loại ma,
dưới đất là người lùn xấu xí và dưới nước là thế giới thuồng luồng. Người Mảng
tin có nhiều ma, trong đó ma nhà có vị trí đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó họ
cũng thờ ma Ðẳm- tổ tiên, dòng họ,Lễ cúng hồn lúa của người Mảng …..
Người Mảng hiện vẫn giữ được những lễ hội, nghi thức của cư dân làm
8


nông nghiệp.
Điển hình nhất trong số đó là lễ cúng hồn lúa.

Hình 7: Lễ cúng hồn lúa của người Mảng
Lễ cúng hồn lúa của người Mảng thường diễn ra vào dịp lúa trên nương
chín. Trước khi gặt, các gia đình chọn ngày tốt của bà chủ nhà để làm lễ cúng
hồn lúa (lúa mới).
Vào buổi sáng ngày đã chọn, hai vợ chồng chủ nhà lên đám nương của gia
đình để làm lễ cúng. Lễ vật mang theo là: một nắm xôi nếp, đuôi cá suối nướng
(hoặc một miếng thịt gà, hay một quả trứng gà luộc) được để trong một cái cà tá.
Hai vợ chồng chủ nhà chọn một khóm lúa có ba cây lúa, bông chắc hạt.
Bà chủ nhà vặn các thân lúa quấn vào nhau rồi cuộn tròn từ gốc lên ngọn khóm
lúa, tiếp đó lấy hép cắt 3 bông lúa bỏ vào cà tá. Sau đó bà lấy một hòn đá đè lên

cạnh khóm lúa đã cuộn và dặn dò: Hồn lúa hãy ở lại chỗ này, không được đi đâu
nhé…
Ba chủ nhà lấy gói xôi, thịt (hoặc trứng) gà luộc đặt bên khóm lúa mời
hồn lúa ăn và khấn xin: Hồn lúa ở đây không được đi đâu, chim bay không được
bay theo, con cào cào bay không được bay theo, con cua bò đi không được bò đi
9


nhé. Và xin hồn lúa cho phép gia đình gặt lúa. Làm lễ dặn dò hồn lúa xong thì
mọi người cùng hưởng lộc.
Trong lúc chờ hồn lúa hưởng lễ, vợ chồng chủ nhà cùng con cháu đi kiểm
tra nương lúa rồi trở về thừa lộc của hồn lúa. Việc thừa lộc bà ăn trước, sau đó
mới đến chồng và con cháu. Thừa lộc xong thì mọi người tiến hành gặt lúa. Lúa
được gặt từ xung quanh vị trí cúng hồn lúa ra bên ngoài nương.
Trong lúc gặt có người qua lại đám nương chào hỏi, hay gọi thì tuyệt đối
không ai được trả lời. Nếu bà có việc hay về nhà, dừng gặt đi ra khỏi nương thì
phải nhấc hòn đá đè lên khóm lúa. Khi trở lại gặt, bà phải làm động tác lấy hòn
đá đè lên khóm lúa đã cuốn. Gặt lúa phải để lại mấy khóm lúa cạnh nương bên
lối đi về nhà. Người Mảng quan niệm nếu gặt hết thì hồn lúa sẽ theo về nhà và
sẽ thất lạc, năm sau mùa màng sẽ thất bát…
Buổi chiều, trở về, bà chủ nhà tự tay giã những hạt thóc vừa tuốt trên
nương để nấu cơm. Vẫn không trò chuyện với ai trong gia đình. Mọi người cũng
“phớt lờ” hành động của bà, không thắc mắc, không hỏi han. Chờ mọi người
trong nhà đã đi ngủ, tắt hết đèn điện, bà mới bỏ nồi cơm ra và lặng lẽ ăn trong
bóng tối, không để rơi vãi một hạt. Tuy nhiên, cũng không ăn hết chỗ cơm trong
nồi, mà phải để thừa một ít. Theo quan niệm của người Mảng, kiêng rơi vãi, một
phần là tránh việc thất thoát thóc lúa, một phần nữa là tránh những vong hồn vất
vưởng có thể vào nhà mình nhặt đồ ăn mà làm cho người nhà mình ốm đau. Ăn
phải để lại một chút, với ý nghĩa là thóc lúa nhiều, vụ này ăn không hết, còn
thừa đến vụ sau.

Lễ gọi hồn lúa và lễ ăn cơm kiêng của người Mảng diễn ra trong 3 ngày.
Trong 3 ngày ấy, người phụ nữ đi mời hồn lúa về phải kiêng ăn muối, kiêng rau
xanh, phải đun nước lá thơm để tắm rửa. 3 ngày sau, gia đình, khách khứa mới
được ăn cơm gạo mới. Nếu nhà nào không kiêng, hồn lúa sẽ giận, không về nhà
đó nữa. Hồn lúa mà không về thì vụ sau sẽ mất mùa, đói kém…
2.2.điểm về ngôn ngữ và chữ viết
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam
- Á). Nhiều người Mảng biết tiếng Thái.
2.3.Đặc điểm về văn hóa xã hội
2.3.1.Quan hệ xã hội:
10


Người đứng đầu tổ chức xã hội truyền thống là Pơgia. Ông ta cùng Hội
đồng các trưởng họ điều khiển mọi hoạt động văn hoá tôn giáo, xã hội trong bản.
Về sau tổ chức xã hội này bị phá vỡ, chịu sự chi phối của tổ chức xã hội Thái.
Tuy nhiên tổ chức Bản (Muy) vẫn duy trì theo tập quán truyền thống. Bản có
trưởng bản trông coi về thu thuế tạp dịch. Trong bản thường có một dòng họ lớn,
các trưởng họ cùng với hội đồng già làng điều hành mọi hoạt động xã hội, tôn
giáo theo tập quán. Người Mảng có năm họ chính, mỗi họ lấy một con vật làm
vật tổ.
2.3.2.Ma chay:
Tang lễ của người Mảng gồm nhiều nghi thức phức tạp, từ khâm liệm cho
đến khi chôn cất. Xưa, quan tài chủ yếu dùng vỏ cây hoặc tre ghép. Sau này,
người ta dùng thân cây khoét rỗng hay dùng hòm ván gỗ.Trong gia đình có
người chết, khi đưa đi chôn thì phải đưa ra cửa phụ, nếu nhà một cửa thì phải dỡ
bỏ một lối đi đối diện với cửa chính để mang người chết ra. Người Mảng quan
niệm, đầu của người ngủ luôn hướng dọc ra cửa chính, chân thì hướng ra cửa
phụ, nên khi chết cũng đưa ra theo chiều của chân.
2.3.3.Nhà mới:

Mặc dù nhà người Mảng rất tạm bợ, nhưng từ khâu chọn đất, san nền,
dựng cột cho đến lợp đều phải nhờ thầy bói xem ngày, giờ rồi mới tiến hành
dựng nhà. Lễ mừng nhà mới là ngày vui của cả bản. Lễ này gồm nhiều đặc trưng
nghi lễ phức tạp thể hiện đặc trưng tộc người.
2.3.4.Văn nghệ:
Làn điệu dân ca "xoỏng" được nhiều người biết và ưa thích. Các truyện dã
sử, truyện kể về lịch sử dân tộc thường được người già kể say sưa.Các trò chơi
dân gian chuyền thống: Vào các dịp lễ, tết, trẻ em chơi cầu lông, đánh quay.
Thanh niên có nơi chơi ném còn.
2.3.5.Một số nghi lễ trong đám cưới của người Mảng.
Người Mảng thường tổ chức cưới khi mùa màng đã thu hoạch xong. Ngày
cưới, nhà trai mang lễ vật sang và tổ chức cưới tại nhà gái. Đám cưới diễn ra
trong 4 ngày, 2 ngày tại nhà gái và sau đó lại tổ chức 2 ngày ở nhà trai.
11


Để lấy vợ, chàng trai người Mảng cần phải có người làm mối. Sau khi tổ
chức hôn lễ nhà trai phải mang sang nhà gái một số lễ vật như: Bạc trắng, lợn,
gà, gạo nếp, rượu cần, cá suối sấy khô và đặc biệt không thể thiếu hai bó thịt sóc
hoặc chuột sấy khô.

Hình 8: Ông mối và đại diện nhà trai quỳ lạy nhà gái trước khi thưa chuyện.
Những lễ vật mà nhà trai mang sang để tổ chức cưới, nhà gái đem chia lại
cho anh em và người trong bản mỗi người một phần. Bố mẹ chú rể không được
đến dự ở nhà gái, người Mảng quan niệm Lễ vật họ mang đến là đổi lấy con dâu,
nếu họ đến và ăn những thức ăn đó sẽ ảnh hưởng đến đôi vợ chồng sau này. Vì
vậy, khi ở nhà cô dâu 2 ngày chú rể không ăn thức ăn ở đó mà tự nấu ăn riêng.

Hình 9: Cô dâu chú rể phải tự nấu đồ ăn cho mình và ăn riêng.
12



Một số nét độc đáo trong đám cưới của người Mảng là tục châm thuốc
mời gia đình hai họ và khách khứa; hất nước, rượu, bôi nhọ nồi… vào mặt
những người trong đoàn đưa, đón dâu cho may mắn… Ở nhà trai, mọi thủ tục cơ
bản giống như khi cưới bên nhà gái, song cặp vợ chồng trẻ không phải ăn riêng
ở riêng như bên nhà gái.
Nhà gái sẽ tìm mọi cách mời rượu, bôi nhọ nồi vào mặt ông mối và những
người trong đoàn đón dâu để mong điều may mắn.
Ngày nay, quan niệm hôn nhân của người Mảng còn rất lạc hậu. Người
Mảng quan niệm rằng: “Khi con gái đi lấy chồng sinh con, những đứa con ấy
mang họ khác thì không còn là con ma của nhà mình, nên con của anh em trai và
con của chị em gái được quyền tự do tìm hiểu xây dựng gia đình”. Chính hôn
nhân cận huyết, cùng với sự thiếu hiểu biết của người Mảng nên nạn tảo hôn rất
nhiều, dẫn đến suy thoái giống nòi.
2.3.6.Tục xăm cằm của người Mảng:
Tục xăm cằm là một trong những nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Mảng.
Cùng với thời gian và cuộc sống, tục này dần bị mai một. Tại Tỉnh Lai Châu,
năm 2013, đã tiến hành phục dựng tục này tại xã Bum Nưa, huyện Mường Tè.
để bảo tồn và phát huy nét văn hóa này.
Tục xăm cằmcủa người Mảng xưa đã trở thành nét văn hóa tâm linh độc
đáo và là nghi lễ không thể thiếu đối với mỗi thanh niên, nam nữ người dân tộc
Mảng khi đến tuổi trưởng thành.
Tục xăm cằm của người Mảng bắt nguồn từ truyền thuyết sau: Ngày xưa
ở bản Mảng nọ có đôi vợ chồng trẻ chịu thương, chịu khó, biết thương yêu nhau,
sống rất hạnh phúc. Họ sinh ra một bé trai kháu khỉnh. Nhưng cũng từ khi sinh
con chị vợ lại sinh thêm căn bệnh lười, tham lam và ngoa ngoắt. Mọi công việc
nặng nhẹ chị đều dồn hết lên vai người chồng, nhà có gì ngon chị ta ăn bằng no,
bằng chán mà không để ý đến chồng. Đã thế mỗi khi không hài lòng chị ta lại lu
loa, đay nghiến, ăn vạ ầm ĩ…

13


Từ khi vợ thay đổi tính tình, anh chồng rất buồn và tủi thân. Anh kể nỗi
khổ của mình với trời đất, và cầu xin cho người vợ thay đổi tính nết để gia đình
được sống hạnh phúc như trước đây… động lòng trước lời cầu xin của anh, thần
Chông Gô Chươi Lụa đã dạy cho anh một cách nhằm thay đổi tính tình người
vợ.
Theo lời dặn, về nhà anh chồng lấy 2 chiếc lá xanh cắm ở 2 đầu cầu thang
và dùng sợi dây mà thần Chô Gô Chươi Lụa đưa cho để chuẩn bị khâu miệng
vợ. Về phía chị vợ, từ khi biết chuyện thì khiếp sợ không dám hé răng cãi câu
nào. Chị thấy ân hận vì đã đối xử với chồng không tốt. Vốn sẵn lòng thương yêu
vợ, anh chồng không đành lòng khâu miệng vợ như lời thần dặn mà chỉ dùng
kim châm thành từng lỗ xung quanh miệng vợ. Sau đó anh lấy lá cây chàm dùng
để nhuộm vải giã nát bôi lên những vết kim châm giả làm những vết chỉ đen.
Từ sau hôm đó, chị vợ đã thay đổi hẳn tính nết, biết kính yêu cha mẹ, chịu
thương, chịu khó, nhường nhịn chồng, con, sống chan hòa với mọi người. Cũng
từ đấy, đôi vợ chồng trẻ trở lại những ngày sống hạnh phúc như khi mới cưới.
Thấy cuộc sống của đôi vợ chồng kia ngày càng hạnh phúc, người dân
trong bản ai nấy đều vui mừng và mong muốn con cái mình khi lớn lên cũng có
cuộc sống viên mãn như đôi vợ chồng kia. Nhớ lời của thần Chô Gô Chươi Lụa,
mong được thần che chở, giúp đỡ nên dân làng cũng học theo cách làm của
người chồng. Lâu dần việc làm đó trở thành tục xăm cằm.
Trải qua sự kết tinh của thời gian cùng với những quan niệm về tâm linh
vốn có trong cuộc sống thường ngày, tục xăm cằm của người Mảng đã trở thành
nét văn hóa tâm linh độc đáo và là nghi lễ không thể thiếu đối với mỗi thanh
niên, nam nữ người dân tộc Mảng khi đến tuổi trưởng thành.
Theo quan niệm của người Mảng, xăm cằm biểu tượng cho sức mạnh của
đấng tối cao, là sự che chở, giúp đỡ cho con người chống lại những rủi ro, tai
kiếp của thiên nhiên và cầu mong về một đức tính hiền dịu, đảm đang của mỗi

14


người.
Nó thể hiện sự trưởng thành trong suy nghĩ, trách nhiệm hơn trong hành
động của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Đồng thời, nó cũng thể hiện tinh thần,
trách nhiệm, niềm tự hào của bậc làm cha, làm mẹ đối với các thành viên. Họ
cũng quan niệm, bất cứ người nào, khi trưởng thành nếu không xăm cằm, ngoài
việc không khẳng định được sự trưởng thành của mình, khi chết sẽ không qua
được cổng trời.
Với những quan niệm tâm linh đó, thanh niên dân tộc Mảng khi đến tuổi
trưởng thành (từ 12 – 18 tuổi) đều được các cao niên có uy tín hay bố mẹ nhắc
nhở và tổ chức xăm cằm theo một nghi lễ chứa đựng những bí ẩn không thể lý
giải.
Tuy tập tục xăm mặt của người Mảng đã thất truyền từ mấy chục năm
trước nhưng dù sao nó cũng là một tục lệ độc đáo được lưu truyền trong dân
gian còn ẩn chứa nhiều điều bí ẩn
Xăm cầm một tục lệ độc đáo của người Mảng được lưu truyền trong dân
gian.

15


Hình 10:Tục xăm cằm của người Mảng
2.4.Một số quan niệm của người Mảng
Bên cạnh đó người Mảng có những điều kiêng kị và tục lệ rất phong phú
như:
Trong cuộc sống thường nhật, người Mảng có nhiều thứ kiêng kị mang
màu sắc tâm linh, chẳng hạn, trong gia đình có người chết, khi đưa đi chôn thì
phải đưa ra cửa phụ vì bà con quan niệm, đầu của người ngủ luôn hướng dọc ra

cửa chính, chân thì hướng ra cửa phụ, nên khi chết cũng đưa ra theo chiều của
chân. Con dâu không được vào nơi ngủ của bố mẹ chồng. Ngược lại, bố chồng
cũng không được vào nơi ngủ của con dâu, nếu vào thì tổ tiên sẽ bắt phạt người
trong gia đình ốm đau. Điều này cũng phản ánh rõ tục lệ của người Mảng là em
trai có thể lấy được chị dâu nếu anh trai chết. Còn anh trai tuyệt đối không được
lấy em dâu khi em trai chết…
Người Mảng từ xưa đến nay đều kiêng kị đưa lá xanh và thịt tươi vào nhà.
Nếu đưa vào thì phải đưa cửa phụ, nhà một cửa thì phải che giấu kín mới đem
vào được. Vì theo lý của dân tộc Mảng, nếu đưa lá xanh vào nhà mà để tổ tiên
16


biết thì sẽ trách phạt mọi thành viên trong gia đình như bị ốm đau, bệnh tật, đi
đường bị tai nạn…
Đồng thời, không được để con gái đã lấy chồng rồi, hay chửa hoang ở
trong nhà đẻ. Phải làm lán tạm ra ngoài để đẻ, sau 3 ngày thì mới được mang
vào nhà. Vì đứa trẻ ấy không thuộc dòng họ và con cháu nhà mình.

CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP, PHƯƠNG HƯỚNG
BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN NGHỆ DÂN GIAN CỦA DÂN
TỘC MẢNG.
I. Đánh giá
Văn hoá Việt Nam là sự kết hợp hài hoà những tinh hoa trong truyền
thống của các dân tộc, là sự kết hơp giữa cái chung và cái riêng, tạo nên tính
thống nhất và đa dạng. Văn hoá các dân tộc thiểu số đã góp cái riêng theo đặc
điểm văn hoá của dân tộc mình vào cái chung của nền văn hoá Việt Nam đang
lớn mạnh không ngừng.
Mảng văn hoá dân gian bao gồm tất cả những gì thuộc truyền thống, có
gốc gác từ lâu đời được luân chuyển, lưu giữ từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đó
17



là phong tục tập quán, lễ nghi tín ngưỡng, kĩ thuật - mĩ thuật trang trí nhà cửa,
dệt, trang phục, nhạc cụ, truyện kể dân gian, ca dao dân ca tục ngữ, hò vè... Qua
đấy, có thể hình dung khá đầy đủ sự phát triển của thế giới quan, nhân sinh quan,
cũng như những biểu hiện văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số nói chung
và dân tộc Mảng nói riêng từ những biểu hiện vật chất phương tiện đến những
biểu hiện về tinh thần, tâm linh.
Từ rất lâu đời, cùng với các dân tộc khác, dân tộc Mảng đã có nét văn
hóa, phong tục đặc sắc riêng. Đến nay, dân tộc Mảng vẫn còn lưu truyền: tục
xăm cằm, lễ ăn hỏi, các làn điệu dân ca… Để phát huy và bảo tồn bản sắc văn
hóa dân tộc Mảng, thời gian qua, huyện Nậm Nhùn đã tổ chức các hoạt động cụ
thể như: lễ hội văn hóa dân tộc Mảng, sưu tầm các câu truyện dân gian dân tộc
Mảng, các trò chơi, làn điệu dân ca...
Dân tộc Mảng sống chủ yếu ở tỉnh Lai Châu. Riêng tại huyện Nậm Nhùn,
dân tộc Mảng có 619 hộ với 2.942 nhân khẩu (chiếm 12,8% dân số toàn huyện)
sinh sống chủ yếu ở 6 xã: Trung Chải, Nậm Ban, Hua Bum, Nậm Pì, Mường Mô
và Nậm Hàng. Đời sống kinh tế của bà con dân tộc Mảng chủ yếu làm ruộng,
chăn nuôi nhỏ lẻ nhưng dân tộc Mảng cũng đã có ý thức lưu giữ những nét văn
hóa đặc sắc của dân tộc mình.
Ông Hà Văn Sơn – Phó Chủ tịch UBND huyện Nậm Nhùn cho biết: “Dân
tộc Mảng là dân tộc ít người nhất, cần được bảo tồn bản sắc văn hóa. Để lưu giữ
những nét truyền thống, trong năm nay, chúng tôi đã tổ chức Ngày hội văn hóa
dân tộc Mảng tại xã Trung Chải. Bên cạnh đó, giao cho Phòng Văn hóa và
Thông tin huyện lưu giữ những làn điệu dân ca, dân vũ, các trò chơi dân gian,
trang phục truyền thống để bảo tồn”.
Phòng Văn hóa và Thông tin huyện cử các cán bộ đến từng bản của các
xã: Nậm Pì, Trung Chải, Nậm Ban vận động bà con lưu giữ văn hóa truyền
thống, phụ nữ mặc trang phục truyền thống của dân tộc. Đối với những phong
tục tập quán có từ lâu đời cần phải lưu giữ không để mai một theo thời gian, khó

có thể khôi phục lại được. Bên cạnh đó, huyện hỗ trợ kinh phí cho người dân tự
18


may trang phục truyền thống, tự làm các dụng cụ dân tộc, thành lập 13 Đội văn
nghệ dân tộc Mảng chuyên tập các làn điệu dân ca truyền thống.
Để khơi dậy nền văn hóa đang dần mai một, huyện Nậm Nhùn đã tổ chức
Ngày hội văn hóa dân tộc Mảng lần thứ Nhất ở xã Trung Chải với nhiều tiết mục
văn hóa, văn nghệ lâu đời đã được bà con người Mảng trình diễn. Chứng kiến
các phong tục như: tục xăm cằm, lễ hội mừng nhà mới, lễ ăn hỏi, lễ thành đinh,
chúng tôi hiểu thêm văn hóa của dân tộc Mảng. Điển hình như tục xăm cằm cho
thanh niên trưởng thành là phong tục lâu đời nhất của dân tộc Mảng, thể hiện sự
trưởng thành trong suy nghĩ, trách nhiệm của mỗi cá nhân trong cộng đồng.
Theo một số người dân tộc Mảng ở bản Pá Bon (xã Nậm Pì) cho biết,
Nhiều phong tục tập quán của dân tộc Mảng ở Pá Bon đã không được duy trì
như xưa. Để thế hệ trẻ hiểu biết về văn hóa dân tộc, ngoài truyền đạt qua các câu
truyện dân gian, mỗi khi đến lễ hội, gia đình họ thường dẫn các cháu đi xem để
tăng thêm sự hiểu biết. và một số Gia đình khác họ thường cho con cháu tham
gia các đội văn nghệ của xã để tập, múa những bài hát, những làn điệu dân gian.
Ngoài ra, các gia đình của người Mảng thường giáo dục con cái nên giữ gìn bản
sắc văn hóa của dân tộc của mình.
Để lưu truyền bản sắc dân tộc Mảng được tốt hơn, theo ông Hà Văn
Sơn Phó Chủ tịch UBND huyện Nậm Nhùn, Tỉnh Lại Châu cho biết thêm.
Phòng Văn hóa và Thông tin huyện sẽ tổ chức Ngày hội văn hóa người Mảng
mỗi năm 1 lần. Bên cạnh đó, huyện tăng cường cán bộ văn hóa thường xuyên
xuống các bản tuyên truyền, vận động bà con nâng cao ý thức khôi phục, gìn giữ
văn hóa dân tộc mình.
II. Đề xuất giải pháp, phương hướng bảo tồn, phát huy giá trị văn
nghệ dân gian của dân tộc Mảng.
Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác bảo tồn, phát huy giá trị

văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Mảng nối riêng
19


đang còn rất nhiều những khó khăn, tồn tại.
Cùng với sự phát triển kinh tế và quá trình hội nhập đã phần nào kéo theo
sự phá vỡ tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp của đồng bào, tạo nên môi trường văn
hóa mới pha trộn gồm văn hóa truyền thống của đồng bào kết hợp với văn hóa
của các dân tộc ở miền xuôi và văn hóa các tôn giáo khác truyền vào trong thời
gian gần đây. Một số lễ hội truyền thống mang tính cộng đồng ít được bà con
quan tâm như các lễ nghi liên quan đến nông nghiệp; sự linh thiêng của những
khu rừng cấm, dòng sông, con suối để hạn chế sự phá hại của con người đối với
môi trường sinh thái đã phai nhạt như việc tôn thờ thần núi, thần rừng thần sông,
thần suối... một số thanh thiếu niên do ảnh hưởng của môi trường sống đã không
tích cực tham gia học tập lao động sản xuất mà rượu chè và một số tệ nạn mê tín
vẫn còn tồn tại trong đồng bào, nhất là việc tin vào ma quỷ để chữa bệnh, bói
toán, yểm bùa, ma chay, nạn tảo hôn; việc quan tâm đến sức khỏe thể hiện trong
việc ăn uống, phòng và điều trị bệnh chưa được người dân quan tâm đúng mức;
tập quán du canh, du cư và phá rừng làm nương rẫy tuy có nhiều tiến bộ nhưng
vẫn còn tồn tại trong tâm lý của nhiều người; một số cán bộ công tác ở vùng dân
tộc chưa thực sự quan tâm nhiều về phong tục, tập quán, tín ngưỡng của đồng
bào nên có những hạn chế trong quá trình công tác.
Nguyên nhân của những tồn tại nêu trên đó là: Các huyện miền núi dân
tộc thiểu số hầu hết đều có địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, xuất
phát điểm nền kinh tế thấp, phát triển còn chậm và thiếu bền vững; các chương
trình, dự án đầu tư của nhà nước tuy được tăng cường nhưng hiệu quả chưa cao,
chưa đáp ứng được thực tế ở cơ sở; còn tồn tại tư tưởng trông chờ ỷ lại sự đầu tư
của nhà nước; trình độ học vấn, nhận thức của đồng bào nhìn chung thấp; một số
cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương chưa nhận thức đầy đủ vai trò của công
tác bảo tồn văn hóa dân tộc, chưa chú trọng và có biện pháp chỉ đạo tích cực,

hữu hiệu cho việc bảo tồn, phát huy nền văn hóa truyền thống; trình độ đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số ở cơ sở còn yếu; công tác quy hoạch, đào tạo, sử dụng
cán bộ người dân tộc thiểu số chưa được quan tâm đúng mức; việc tuyên truyền,
20


giáo dục và vận động quần chúng tham gia giữ gìn văn hóa dân tộc chưa được
tiến hành thường xuyên và sâu rộng đến các tầng lớp dân cư trên toàn tỉnh…
Trước tình hình và thực trạng đó, để khắc phục những tồn tại nêu trên
đồng thời tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho đồng bào các dân
tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số nhiệm
vụ, giải pháp sau:
Một là, thực hiện tốt công tác kiểm kê, lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa
phi vật thể tại địa phương một cách khoa học và có hệ thống thông qua việc tư
liệu hóa, vật thể hóa hệ thống di sản văn hóa nhằm nhận diện và xác định mức
độ tồn tại, giá trị và sức sống của từng loại di sản văn hóa trong cộng đồng trên
cơ sở đó đề xuất phương án bảo tồn, phát huy một cách hiệu quả. Đối với văn
hóa vật thể, chọn những di sản tiêu biểu, có giá trị về văn hóa, nghệ thuật, lịch
sử để lập hồ sơ công nhận cấp tỉnh, cấp quốc gia. Lập dự án bảo vệ, chống
xuống cấp, tôn tạo, bảo quản lâu dài. Sưu tầm hiện vật quý để lưu giữ, trưng bày
các bảo tàng, nhà truyền thống.
Hai là, nâng cao vai trò quản lý, định hướng của nhà nước, đẩy mạnh
công tác tuyên truyền vận động nhân dân tham gia bảo vệ di sản văn hóa, gắn
hoạt động văn hóa dân tộc trong công tác, xây dựng đời sống văn hóa. Trong đó
cần chú trọng đến nguyên tắc “bảo tồn sống” tức là bảo tồn các loại hình văn
hóa phi vật thể ngay chính trong đời sống cộng đồng. Có chính sách, chế độ
thích đáng cho các nghệ nhân tài giỏi, những cá nhân và gia đình có công sức
giữ gìn tài sản văn hóa dân tộc. Tiếp tục xây dựng nếp sống văn hóa lành mạnh,
tiến bộ ở vùng dân tộc thiểu số trên cơ sở đẩy mạnh cuộc vận động” Toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống vă hóa” ở khu dân cơ mà trọng tâm là xây dựng làng
văn hóa, gia đình văn hóa.
Ba là, tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, phục hội nâng cao các làn điệu dân
ca, dân vũ của đồng bào các dân tộc thiểu số đặc biệt là dân tộc Mảng, để đáp
21


ứng nhu cầu thực tế; xây dựng các tổ, đội văn nghệ truyền thống, nhân rộng các
mô hình điểm và tiến tới hướng dẫn con em người dân tộc biết sử dụng các nhạc
cụ cổ truyền dân tộc. Phát động việc sáng tác các bài hát, điệu múa cho đồng
bào sử dụng trong các buổi lễ, ngày hội, mừng được mùa nhằm từng bước thay
thế những phong tục tập quán lạc hậu.
Bốn là, tiếp tục tổ chức các hoạt động lớn như ngày hội văn hóa thể thao
các dân tộc, liên hoan ca múa nhạc dân gian, triển lãm văn hóa dân tộc, hội thi
giọng hát của người dân tộc thiểu số. Cần có biện pháp giúp đồng bào bảo tồn
các di sản văn hóa, bảo tồn phát huy nghề và làng nghề truyền thống, các loại
hình ngữ văn dân gian và văn học nghệ thuật truyền thống giữ gìn sắc phục của
dân tộc, khuyến khích mặc trang phục dân tộc mình vào các ngày lễ, tết...
Năm là, có định hướng trong công tác chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức các lễ
hội truyền thống, lễ hội dân gian, hạn chế, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị
đoan. Nghiên cứu phát huy các giá trị tiến bộ của luật tục trong công tác xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Phục hồi và nâng cao một số lễ hội tiêu
biểu để có thể tổ chức định kỳ hàng năm.
Sáu là, tăng cường, đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ ở địa phương, có kế hoạch sử dụng các học sinh, sinh viên dân tộc được đào
tạo cơ bản ở các trường chuyên nghiệp đã tốt nghiệp ra trường để họ được về
phục địa phương và dân tộc mình.
Bẩy là, tăng cường, đẩy mạnh việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật, giao lưu, hợp tác với các địa phương trong và ngoài nước trong hoạt động
bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.

Để làm tốt những giải pháp trên, vấn đề then chốt là chúng ta phải đổi mới
và nâng cao nhận thức, xem cơ sở là địa bàn chiến lược của sự nghiệp cách mạng
văn hóa, là nơi biến những quan điểm của Đảng và Nhà nước thành hiện thực, là
môi trường sống, nơi sinh ra và đồng thời là nơi lưu giữ, trao truyền và phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Bởi vậy, nếu chúng ta có chính sách
đúng đắn, hợp lòng dân, được toàn dân và các cấp, các ngành tham gia, hưởng
ứng và chắc chắn rằng khi hội tụ đủ sức mạnh tổng hợp ấy thì nhất định công tác
22


bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa sẽ đạt được nhiều thành tựu mới, góp phần nâng
cao đời sống văn hóa đồng bào các dân tộc, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa.
Tóm lại, hiện nay xu hướng hội nhập toàn cầu hoá đang diễn ra với tốc độ
nhanh chóng về mọi mặt, đã lôi kéo tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới vào
vòng xoáy của nó. Đất nước ta trên quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần
chủ động để từng bước hội nhập với khu vực và thế giới.

23


PHẦN KẾT LUẬN
Trên đây là nội dung của bài tiểu luận.Qua bài tiểu luận này chung tôi
cũng muốn cho bạn đọc hiểu thêm về nghệ thuật dân gian của dân tộc Mảng
trên vùng núi phía Bắc. Từ đó mọi người có thể hiểu hơn về văn nghệ dân gian
mà người dân tộc Mảng muốn gửi gắm đến mọi người, để có thể hiểu sâu hơn về
những giá trị của văn nghệ dân gian của dân tộc Mảng trong văn học dân gian và
văn hóa dân gian của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

24



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. (1)
2. (1)

25


×