Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tìm hiểu phong tục cưới xin của dân tộc ê đê ở đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.5 KB, 38 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn khoa Văn hóa thông tin và xã hội trường
Đại Học Nội Vụ Hà Nội cùng tất cả các thầy giáo, cô giáo đã tận tình giảng
dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô Trần Thị Phương Thúy
người đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ
tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin cảm ơn ban quản lý đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành bài
tiểu luận.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn tiểu luận của tôi còn có
rất nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo, cô giáo
và các bạn.
Xin chân thành cám ơn!

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đấy là tiểu luận của riêng tôi, tất cả các kết quả
nghiên cứu được nêu trong tiểu luận là hoàn toàn trung thực
Ký tên


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN


MỞ ĐẦU
Hôn nhân là một trong những thiết chế xã hội phản ánh rõ nét đặc trưng
văn hóa tộc người. Trong hôn nhân luôn tuân thủ các nghi lễ và tập quán


truyền thống của của dân tộc và đôi khi trở thành những chuẩn mực trong
quan hệ xã hội. Tuy nhiên, hôn nhân không phải lúc nào cũng bất biến mà nó
luôn luôn biến đổi và thích nghi với điều kiện mới. Trong quá trình hội nhập
và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, văn hóa tộc người, trong đó
có lĩnh vực hôn nhân đã và đang có sự biến đổi không ngừng để thích ứng xu
với thế của thời đại.
Đối với nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong hệ thống lễ nghi vòng
đời người, lễ cưới là lễ hội quan trọng nhất. Lễ cưới tuy diễn ra trong khuôn
khổ hai gia đình nhưng có sự đóng góp to lớn của cả cộng đồng. Lễ cưới các
dân tộc thiểu số chứa đựng nhiều giá trị văn hoá truyền thống nổi bật, nhất là
nghi lễ, tập tục hay, lạ, các hình thức sinh hoạt văn nghệ, vui chơi và đặc biệt
là trang phục, trang sức của cô dâu trong lễ cưới. Mỗi dân tộc có những phong
tục cưới hỏi riêng song đều góp phần vào bản sắc văn hóa chung của các dân
tộc Việt Nam. Trong đó có thể kể đến dân tộc Ê Đê, với nghi lễ cưới hỏi độc
đáo, đặc trưng cho chế độ mẫu hệ.
Là một sinh viên theo học quản lý văn hóa, việc nghiên cứu là công
việc có ích, tích lũy chuyên môn phục vụ cho công việc sau này nên tôi chọn
đề tài “Tìm hiểu phong tục cưới xin của dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk”.
Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo đề tài được
chia làm 03 chương
Chương 1
Cơ sở lý luận về phong tục cưới xin và nguồn gốc lịch sử dân tộc Ê Đê
ở Đắk Lắk
Chương 2
Phong tục cưới xin trong văn hóa của dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk
Chương 3
Bảo tồn phong tục cưới xin trong văn hóa của dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk
4



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHOG TỤC CƯỚI XIN VÀ
NGUỒN GỐC LỊCH SỬ DÂN TỘC Ê ĐÊ
1.1 Khái niệm phong tục, phong tục cưới xin
1.1.1 Khái niệm phong tục
“Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người được hình
thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa
nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố
định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện như hoạt
động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững
và tương đối thống nhất.”
“Phong tục có thể ở một dân tộc, địa phương, tầng lớp xã hội hay thậm
chỉ một dòng họ, gia tộc. Phong tục là một bộ phận của văn hóa và có thể chia
thành nhiều loại. Hệ thống phong tục liên quan đến vòng đời của con người,
như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão... Hệ
thống phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ thời tiết
trong năm, hệ thống phong tục liên quan đến chu kỳ lao động của con
người...”
1.1.2 Khái niệm phong tục cưới xin
“Lễ cưới hay đám cưới là một phong tục văn hóa trong hôn nhân nhằm
thông báo rộng rãi về sự chấp nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc
hôn nhân”.
Các dân tộc Việt Nam sinh hoạt kinh tế và văn hóa khác nhau, nhất là
về phong tục tập quán có sắc thái riêng. Do đó, phong tục tổ chức đám cưới
và lễ rước dâu cũng hơi khác nhau. Với ý nghĩa này, lễ này còn gọi là lễ thành
hôn. Trước đây, người Việt gọi lễ này là lễ rước dâu. Ngày nay, trong ngôn từ
của đời sống thường ngày, người ta gọi lễ này là lễ cưới (dịch theo tiếng Hán
5



là hôn lễ). Đây là hình thức liên hoan, mừng hạnh phúc cô dâu, chú rể và hai
gia đình.

6


1.2 Nguồn gốc lịch sử dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk
1.2.1 Nguồn gốc lịch sử dân tộc Ê Đê
Truyền thuyết của người Ê Đê kể lại rằng: Một người thủ lĩnh (Krung)
từ Ấn Độ tên là Kudaya (Đê) đến xứ sở của công chúa mẹ Xứ Sở tên là Nagar
(Gar). Kudaya đã chinh phuc được xứ sở của Nagar sau đó kết hôn với công
Chúa mẹ Xứ sở Nagar đựoc phong làm Krung. Con cháu hâu duệ của họ đựơc
gọi là Anak Kudaya Nagar sau này rút gọn âm lại thành Anak Đê-Gar có
nghia là con cháu của thủ lĩnh Ấn Độ Kudaya (Đê) với Công Chúa xứ sở
Nagar (Gar). Đây là truyền thuyết khá phổ biến ở cư dân bản địa Đông Nam
Á để giải thích nguồn gốc cội nguồn.
Vào đầu công nguyên, xuất hiện hai vương quốc của người Malayo Polynesia lớn trên bán đảo Ðông Dương: Phù Nam và Chiêm Thành. Lãnh
thổ Phù Nam rộng từ Vịnh Thái Lan đến Biển Hồ nhưng ảnh hưởng tỏa lên
Thượng Lào và Bắc Miến Ðiện. Chiêm Thành gồm nhiều vương quốc nhỏ
sinh hoạt độc lập với nhau dọc các đồng bằng eo hẹp miền Trung đến chân
dãy Trường Sơn về phía Tây: Lâm Ấp hay Indrapura (Bình Trị Thiên),
Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Bình Định),Aryaru (Phú Yên), Kauthara
(Khánh Hòa) và Panduranga (Phan Rang). Sinh hoạt chính của người Malayo
- Polynesia là trồng lúa nước và buôn bán. Ðể tìm thêm nguồn hàng quí hiếm
trao đổi với các thuyền buôn, người Malayo - Polynesia mở rộng tầm kiểm
soát lên các vùng rừng núi đồng thời khuất phục luôn các nhóm dân cư bản
địa đã có mặt từ trước, điển hình điển hình nhóm Bih ven krong A-na mà
ngày nay được gọi là Ê Đê Bih với kỹ năng dệt, trang sức, làm gốm, trồng lúa
nước. Nhóm Bih là nhóm Malayo - Polynesia định cư và chạy nạn sớm vào
sâu nhất trong lục địa, họ đem theo kỹ thuật trồng lúa nước ven sông,dệt vải

thô, trang sức hạt, và kỹ nghệ làm gốm thô. Theo chiều lịch sử, danh tự Ê Đê
có nguồn gốc từ cách đọc âm của người Champa, bia ký Champa cổ nhất tại

7


tháp Po Nagar vào khoảng thế kỷ VIII đã ghi chép về tộc danh Rang Đê vùng
sông Nha Trang, sông Jing, sông Hing. Những bia ký sớm nhất của Champa
thế kỷ VIII - đã có nhắc đến nhóm Rangde ven sông Ea trang (Nha Trang).
Trong Bia Po Nagar được dựng năm 965 tại tháp Po Nagar (Nha Trang,
Khánh Hòa): Nội dung bia như sau: Vào khoảng năm 703 - 706 lịch saka
(781 - 784 Công lịch), vua Satyavarman cho dựng một linga (linh vật) thờ
thần Siva và lập cháu mình lên làm vua Vikrantavarman(vì theo chế độ mẫu
hệ nên cậu truyền ngôi cho cháu theo dòng mẹ)... và đức Vua có thu phục
được người Randaya (Rang Đê).Rất có thể từ Rang Đê sau này bị biến âm
thành Ra đê, Rađêy hay Ê đê. Ngoài ra, người Ê đê còn tự nhận là nhóm tộc
Đêgar, Êđê Êga Anak Đêgar - người trên Cao Nguyên. Đêgar là từ tiếng Ấn
Độ srakrit Deccan, và bản thân nó lại có nguồn gốc từ tiếng Phạn Đêkṣarṇa,
nghĩa là "cao nguyên phía nam".
Ðến cuối thế kỷ 7, quân Java của Indonesia từ Biển Ðông lại tràn vào
đánh phá Ea ryu (Phú Yên) và Kauthara- Ea a Trang (Khánh Hòa), một phần
lớn dân chúng Chiêm Thành đã chạy lên cao nguyên M'Đrak tị nạn mang theo
những văn hóa tập tục mẫu hệ, kiến trúc, trồng trọt và ngôn ngữ Chiêm Thành
giai đoạn sơ khai có yếu tố Ấn Độ hóa hơn mà tạo thành các nhóm Rhangdé.
Người Rang Đê được cho là tổ tiên của người Eđê và Jarai,đã được ghi chép
khá nhiều trong các bia ký Champa. Vào năm 1283, quân Mông Cổ tràn
xuống xâm lăng Champa. Trước đoàn quân hùng mạnh của Mông Cổ, vua
Champa quyết định rút quân lên vùng Tây nguyên để ẩn náu. Theo ông Marco
Polo, một nhà du hành Âu Châu, vua Champa chịu bỏ trống toàn bộ lãnh thổ
đồng bằng cho quân Mông Cổ chiếm đóng. Trong suốt hai năm chờ đợi không

giao chiến, vì thiếu lương thực, quân Mông Cổ tự rút lui ra khỏiChampa. Rất
có thể là trước sự xâm lược của đế quốc Mông Cổ, sau này là cuộc Nam Tiến
của người Việt xuống đất Champa tạo ra các làn sóng người Champa vùng
ven biển Trung, Nam Trung Bộ liên tục chuyển cư lên vùng bình nguyên
Cheo Reo hỗn dung với cộng đồng Ê đê có trước, từ đó tạo ra nhóm tộc người
8


mới Anak Jarai lấy từ tên Pô Kurung Garai với hàm ý là những người Rang
Đê theo Vua Chế Mân chống xâm lược Mông Cổ. Trích diễn biến lịch sử như
sau:
Tại Đại Việt, sau khi ổn định triều chính, năm 1252 Trần Thái Tông dẫn
đại quân đi đánh Chiêm Thành. Cuộc tiến công kéo dài gần một năm, thành
Vijaya thắt thủ, vương phi Bố Gia La cùng nhiều cung phi, tù binh và quan
chức triều đình Champa bị bắt mang về Đại Việt. Jaya Paramesvaravarman II
bị tử trận năm 1254, em là hoàng tử Sakan Vijaya lên thay, hiệu Jaya
Indravarman VI. Jaya Indravarman VI duy trì giao hảo với Đại Việt, triều
cống đều đặn.
Năm 1257, nhà Trần rút quân về nước, lúc đó đang bị quân Nguyên
(Mông Cổ) đe dọa. Năm 1257, Jaya Indravarman VI bị ám sát, hoàng tử
Pulyan Sri Yuvaraja, con người chị (công chúa Suryadevi) lên thay, hiệu Jaya
Sinhavarman

VI.

Năm

1266,

hoàng


tử

ChayNuk,

con

Jaya

Paramesvaravarman II, lên kế vị, hiệu Indravarman V. Indravarman V tiếp tục
giao hảo tốt với Đại Việt.
Năm 1278, Indravarman V sai hai sứ giả (Bồ Tinh và Bồ Đột) sang Đại
Việt xin bảo hộ và thành lập một liên minh chống lại quân Mông Cổ. Hay tin
này, năm 1281, vua Nguyên (Hốt Tất Liệt) cử hữu thống chế Toa Đô (Sogatu)
và tả thống chế Lưu Thâm cùng tham chính A Lý và Ô Mã Nhi mang 10 vạn
thủy binh từ Quảng Châu sang Chiêm Thành buộc Indravarman V phải đích
thân về Trung Quốc triều cống. Không chống nổi quân Mông Cổ,
Indravarman V chịu đặt Chiêm Thành dưới sự bảo hộ của nhà Nguyên (Trung
Quốc) năm 1282. Toa Đô được nhà Nguyên phong làm thống đốc toàn quyền
cai trị xứ Chiêm Thành, tiểu vương Champa nào chịu theo quân Nguyên đều
được phong làm phó vương. Hoàng tử Harijit Pô Đêwađa Svor (hay Pô
Đêpitathôr) hay còn gọi là Pô Đê con Indravarman V, cùng mẹ là hoàng hậu
Gaurendraksmi, không chấp nhận sự đô hộ của Mông Cổ rút vào rừng núi về
Ea Hleo theo đoàn quân hộ tống Rang Đê, tổ chức kháng chiến. Harijit mộ
9


được khoảng 20.000 người Rang Đê sinh sống trên cao nguyên Ya Heou (Eâ
Hleo), tấn công quân Nguyên trên khắp lãnh thổ Bắc ChiêmThành.
Năm 1283, Toa Đô dẫn đầu một đoàn quân gồm 5.000 người, 100 tàu

và 250 thuyền đi dọc theo bờ biển Ea ryu (Tuy Hòa-Phú Yên ngày nay) và
vào cửa sông Krông Ea Drăng (Sông Đà Rằng,Sông Ba,Iapa, Ea Pa, Krong
Pa) đổ bộ lên cao nguyên Madrak, Ea H'Leo (Tây Nguyên) nhưng bị đánh bại.
Quân Mông Cổ, một phần bị bệnh tật, không chịu đựng nổi khí hậu nóng nực
của miền nhiệt đới, một phần vì đói kém, thiếu tiếp liệu từ lục địa - phải rút về
trấn giữ đồng bằng.
Năm 1288 Indravarman V mất, hoàng tử Harijit lên ngôi, hiệu Jaya
Sinhavarman III (Chế Mân), đặt kinh đô tại Vijaya. Mặc dù không triều cống
nhà Trần, bang giao giữa Đại Việt và Chiêm Thành rất là thắm thiết. Chỉ một
thời gian ngắn sau Chiêm Thành hùng mạnh trở lại, các vương quốc lân bang,
trong có Đại Việt cử người sang thông hiếu đều đặn. Nhiều đền đài được xây
cất cả tại đồng bằng lẫn trên cao nguyên. Chế Mân cho xây một tháp trên đồi
Chư Hala, gọi là đồi Trầu, để dân chúng đến tế lễ, sau này là tháp Pô Kurung
Garai (Tháp Chàm Phan Rang). Chế Mân cho xây một đền thờ tại Yang Prong
gần sông Êâ H'leo (Eâ sup- Tây Bắc Đăk Lăk ngày này) để đón nhận phẩm
vật dâng cúng vua của người Rang Đê trên Tây Nguyên.
Vào năm 1471 Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép về sự kiện người
Chămpa đầu hàng quân Đại Việt của Vua Lê Thánh Tông như sau: Một lúc
sau, đứng xa trông thấy toán quân đi trước đã trèo lên được chỗ tường thấp
trên mặt thành, bèn bắn luôn ba tiếng pháo để tiếp ứng, lại hạ lệnh cho vệ
quân thần võ phá cửa đông thành tiến vào. Thành Chà Bàn bị phá vỡ. Quân
Đại Việt bắt được hơn ba vạn tù binh và chém được hơn bốn vạn thủ cấp. Ngô
Nhạn dẫn tướng đầu hàng là bác ruột Trà Toàn tên là Bô Sản Ha Ma. Lê
Thánh Tông sai trưng bày những thứ người Chiêm dùng làm lễ vật đem đến
xin hàng mà ở Đại Việt không có, sai viên quan đô úy Đỗ Hoàn chỉ tên từng
thứ một. Có cái hộp bạc, hình như thanh kiếm, vua hỏi vật gì. Hoàn trả lời
10


rằng đó là đồ của nước Chiêm từ xưa, người làm quốc vương phải có vật đó

để truyền cho con cháu. Quân Thuận Hóa bắt sống Trà Toàn dẫn đến trước
vua Lê Thánh Tông, nhà vua cho Trà Toàn được sống. Hôm ấy là ngày mồng
1 tháng 3 âm Lịch (1471).
Cuộc Nam Tiến của người Việt xuống đất Champa tạo ra các làn sóng
người Champa vùng ven biển Trung, Nam Trung Bộ liên tục chuyển cư lên
vùng bình nguyên Cheo Reo hỗn dung với cộng đồng Rang đê có trước, từ đó
hình thành ra nhóm tộc người mới Anak Jarai.Nhóm Rang Đê vùng thung
lũng sông Ba tự gọi mình là Ană Garai. Ană Pô Garai chính là cụm danh xưng
Ană Pô Kurung Garai (Pô Krung Grai là cách gọi tôn xưng thái tử Champa là
Harijit (Rochom Mal) lãnh đạo người Rang Đê đánh đuổi Mông Cổ .
Kurung hay Krung trong ngôn ngữ Rang Đê và Malay cổ có nghĩa là
thủ lĩnh. Dần dần, Pô Krung Garai hay Pô KLong Garai phiên âm thành Jarai.
Jarai tách khỏi khối bộ tộc Rang Đê để tự nhận mình là Anăk Jarai với ý nghĩa
là những đứa con của Vua Chế Mân (Pô Krung Grai, Pô Klong Grai hay anak
Jarai) Tiểu quốc Jarai là một tiểu quốc cổ của các bộ tộc Nam Đảo ở Tây
Nguyên, Việt Nam với bộ tộc nòng cốt là người Gia Rai và người Ê Đê hình
thành từ khoảng cuối thế kỷ 15 và chấm dứt sự tồn tại sau khi phân rã ra
thành các bộ tộc độc lập vào khoảng cuối thế kỷ 19.Tiểu quốc này được cai trị
bởi các vị tiểu vương mà người Việt gọi là Thủy Xá - Hỏa Xá tức là Pơtao
Apui - Pơtao Êa. Theo tương truyền các vị Vua là hiện thân của Thần Gươm
Y Thih (nhân vật trong các truyền thuyết của người người Ê đê và Jarai). Một
tài liệu khác ghi là 20 "đời vua" tiểu quốc Jrai, là người kế tục giữ gươm thần
do chàng Y Thih để lại. Có kiến khác cho rằng gươm thần của các Pơ tao thực
ra là các bảo vật truyền ngôi của hoàng gia Chăm Pă sau khi Lê Thánh Tông
tiêu diệt thành Vijaya (Đồ bàn, Bình Định). Xét về hình thái tộc người Rhade
(Ê Đê) lui về phía nam và cùng các nhóm Jarai thực ra la một dân tộc Rang
Đê, hai nhóm tộc người này bị phân li do nguyên nhân lịch sử mà trong tiếng
Jarai gọi là thời kỳ tiah Phara. Nghĩa là cuộc phân ly anh em.
11



Hiện nay, các nhóm cư dân Ê đê nhận tự thân là Anak Aê diê, đọc
chệch thành Anak Ê Đê - những người con do trời sinh ra, vì cho rằng vị thần
tối cao của họ là A.Ê - D.I.Ê nghĩa là Thượng đế theo truyền thuyết của người
Ê Đê được lưu truyền đến ngày nay.
1.2.2 Dân tộc Ê ĐÊ ở Đắk Lắk
Đắk Lắk là địa bàn cư trú chủ yếu của người Ê Đê, đây là một vùng
rộng lớn diện tích 19.800 km2, độ cao trung bình 500 m, bề mặt bằng phẳng
hoặc lượn sóng chứ không có đường dốc rõ rệt như các vùng miền núi khác.
Phía bắc giáp tỉnh Gia Lai (địa bàn cư trú chủ yếu của người Ba Na), phía
đông giáp tỉnh Phú Yên, Khánh Hoà (địa bàn cư trú chủ yếu của người Kinh),
phía nam giáp tỉnh Lâm Đồng, Bình Dương (địa bàn cư trú chủ yếu của người
Kinh, K’ho), phía tây giáp nước Cămpuchia với 240 km đường biên giới. Đây
là một điạ bàn có vị trí chiến lược quan trọng đối với các nước Đông Dương.
Địa hình Đắk Lắk có nhiều suối, sông, hồ tự nhiên. Thời tiết và lượng
mưa phụ thuộc theo mùa. Mùa khô (từ tháng 11 đền thàng 4 năm sau) thì khô
hạn, nhiều gió và lạnh, lượng nước xuống thấp, nhiều con suối nhỏ không còn
nước. Mùa mưa (từ tháng 5 đền thàng 10) thì lượng mưa rất lớn, nhiều lúc bị
ngập lụt, đi lại khó khăn. Khí hậu tương đối ôn hoà, ánh sáng dồi dào và ổn
định, nhiệt độ trung bình hàng năm 23 oc, tháng nóng nhất và tháng lạnh nhất
chênh lệch không qúa 10oc. Đắk Lắk có diện tích đất sản xuất rất lớn, phần
nhiều là đất đỏ Ba zan, một ít đất phù sa và nhiều cánh đồng rộng lớn. Vì vậy,
người Êđê có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nương rẫy, cây
công nghiệp và chăn nuôi. Rừng tự nhiên có đến hơn triệu ha, trước kia chim
thú rất phong phú, có loài sống thành từng bầy, từng đàn lớn như: trâu, bò,
voi, lợn …, đó là điều kiện để phát triển nghề săn bắt, hái lượm. Nhìn chung,
điều kiện tự nhiên ở Đắk Lắk và Tây Nguyên rất thuận lợi để phát triển kinh
tế, tuy nhiên từ xưa đến nay người Êđê chưa phát huy hết sức mạnh tiềm năng
vốn có mà cuộc sống của họ vẫn luôn gặp khó khăn.
12



Ở Đắk Lắk, do đặc điểm cư trú từ ngàn xưa để lại, cho nên các nhóm,
các dân tộc ít người dường như hình thành lãnh thổ của những nhóm, những
tộc người nhất định. Người Ê Đê phân bố chủ yếu ở thành phố Buôn Ma
Thuột (nhất là các xã phường ngoại thị) và một số huyện thuộc nửa phía Bắc
và Đông Bắc của tỉnh Đắk Lắk.
Người Ê Đê trước đây thường sống tập trung theo những nhóm địa
phương nhất định. Sự phân chia giữa các nhóm khác nhau chẳng qua chỉ là sự
khác nhau về phương ngữ. Chẳng hạn: Phương ngữ Kpă, Krung, Adham,
Ktul, Drao nghĩa là ngôi sao; phương ngữ Blô; phương ngữ Êpan; phương
ngữ Mdhur.
Người Êđê Kpă , nhóm cư dân đông người nhất (trong số các nhóm
người Êđê) thường sống tập trung tại ven thành phố Buôn Ma Thuột kéo đến
các huyện tiếp giáp thị xã như Cư Mgar, Krông Buk,… Nhóm người Adham,
nhóm cư dân đông thứ hai sau nhóm Kpă lại cư trú ở Krông Buk, và một phần
tại Krông Năng, Êa Hleo. Nhóm người Mdhur lại sống ở huyện Ea Kar là một
phần tại M’Đrăk. Nhóm người Bih ở khá tập trung tại huyện Krông Ana. Đại
bộ phận các nhóm cư dân nhỏ hơn kiểu như Drao (K’drao), Blô, Êpan, Êning,
Hwing… thì lại cư trú tại huyện M’Đrăk và Ea Kar. Về cơ bản là các nhóm
địa phương Êđê nhỏ (có số người ít) thường không được phân bố xen lẫn
trong khu vực cư trú của nhóm lớn, đông người.
Từ sau năm 1975, do sự phân công lại lao động trên toàn quốc, sự thâm
nhập của người Kinh ở các tỉnh khác đến những vùng kinh tế mới của Đắk
Lắk đã làm cho sự phân bố các nhóm người Ê Đê có phần bị xáo trộn. Nhiều
nhóm người Ê Đê sống xen kẽ với người Kinh. Đồng thời, lãnh thổ cư trú
riêng biệt trước đây của từng nhóm cũng bị chia cắt, dẫn đến những quan hệ
tiếp xúc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nhóm địa phương Ê Đê cũng như với
các dân tộc khác trong địa vực cư trú.
Về phương diện dân tộc học, do xu thế hòa hợp giữa các cộng đồng tộc

người, nhóm người Êđê Mdhur cư trú ở tỉnh Gia Lai do tiếp xúc, cộng cư và
13


ảnh hưởng của người Jarai, nên nhóm người này lại tự nhận mình thuộc dân
tộc Jarai, và các nhà dân tộc học gọi là nhóm Jrai Mdhur. Mặc dù vậy, về
phương diện ngôn ngữ học, tiếng nói của nhóm người Mdhur này vẫn là tiếng
Ê Đê. Tiếng Ê Đê – tiếng nói của người Ê Đê.
Người Ê Đê cư trú thành từng buôn, mỗi buôn xưa kia có từ 30 đến 40
mươi nóc nhà nay thì ngày càng nhiều hơn. Gắn liền với mỗi đơn vị buôn
thường có bến nước, nghĩa địa, rừng hoặc ao hồ, đầm lầy. Bến nước để có
nước sinh hoạt; nghĩa địa để có nơi chôn cất người chết; rừng để có đất canh
tác, có thú để săn bắt; ao hồ đầm lầy để làm lúa nước hoặc đánh bắt cá.
Cấu trúc mỗi buôn xưa kia thường có một nhà cộng đồng ở vị trí trung
tâm của buôn, xung quanh là những nhà dài của các đại gia đình mẫu hệ. Nhà
cộng cộng đồng có chức năng là nơi sinh hoạt chung của cộng động buôn làng
trong những ngày lễ hội. Mặt khác, do điều kiện xa cách giữa các buôn cho
nên cuộc sống thường khép kín đối với mỗi buôn, với lối sống tự cung tự cấp
là chủ yếu và tự quản theo từng buôn.
Ngày nay buôn của người Ê Đê thường được mở rộng quy mô về diện
tích và số hộ. Buôn ít cũng từ 100 đến 150 hộ, buôn nhiều cũng từ 200 hộ 250
hộ. Ở mỗi buôn thường có sự sống đan xen với các tộc người khác, chủ yếu là
người Kinh. Người Kinh thường ở đầu buôn còn người Ê Đê thường ở giữa
và cuối buôn.
Nếu như trước kia từ buôn này đến buôn kia cách xa hàng chục cây số
thì ngày nay có khi hai buôn gần kề nhau, có chung một bến nước, hoặc
chung một nhà văn hóa cộng đồng. Đây là điều kiện để phát huy mạnh mẽ
hơn nữa tính bền vững cộng đồng.
Ngoài ra, trong những năm gần đây đã hình thành một số buôn ở ven
những trục lộ chính, các buôn này thường được Nhà nước quy hoạch hạ tầng

cơ sở như: đường xá, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa cộng đồng… làm cho
bộ mặt của các buôn này phát triển có thêm nhiều nét mới.Trong những năm
qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác quy hoạch thôn buôn
14


vùng đồng bào dân tộc thiếu số ở Tây Nguyên, nhất là chính sách định canh
định cư đã hình thành nhiều buôn làng mới, khắc phục được tình trạng sống
thiếu tập trung hoặc hình thức sống nửa năm ở buôn và nửa năm ở nhà rẫy.
CHƯƠNG 2 : PHONG TỤC CƯỚI XIN TRONG VĂN HÓA CỦA DÂN
TỘC Ê ĐÊ Ở ĐẮK LẮK
2.1 Khái quát về dân tộc Ê Đê
2.1.1 Đặc điểm dân số
Người Ê Đê hay Đêgar, còn có các tên gọi khác là Rađê.
Dân tộc Ê Đê bao gồm khoảng gần một nửa triệu người đang sinh sống
ở các nước trên thế giới như Campuchia, Việt Nam, Thái Lan, Hoa Kỳ,
Canada, Pháp, Phần Lan, Thụy Điển... Trong đó miền trung cao nguyên của
Việt Nam là quê hương bản địa lâu đời của người Ê Đê. Đây là nhóm dân tộc
có nguồn gốc từ nhóm tộc người nói tiếng Mã Lai từ các hải đảo Thái Bình
Dương đã có mặt lâu đời ở Đông Dương; truyền thống dân tộc vẫn mang đậm
nét mẫu hệ thể hiện dấu vết hải đảo của nhóm tộc người nói tiếng MalayPolynesia. Các nhóm địa phương bao gồm các nhóm:
- Ê đê Kpă (tự nhận là chính dòng Đê). Cư trú quanh thành phố Buôn
Ma Thuột, Krong Ana, Krong Păc,Cư mgar. Ngôn Ngữ Ê-đê Kpă có thanh
giọng ngôn ngữ người Chăm Campuchia và Bắc Malaysia. Là ngôn ngữ
chuẩn có chữ viết của người Ê-đê.
- Ê đê Adham xuất phát từ chữ Ân-Độ là Adaham có nghĩa là vùng
trũng đệm, pha tạp.Êđê Adham cư trú tại huyện Krong Buk, Cu Mgar, Thị xã
Buôn Hồ, Krong Năng và một phần Êa Hleo của tỉnh Đak Lak
- Ê đê Mdhur xuất phát từ chữ Ân-Đô là Madahura có nghĩa là vùng
cằn cỗi, vùng đất thấp. Ê đê Mdhur cư trú tại huyện Mdrak của phía đông tỉnh

Đak Lak, Sông Hinh của tỉnh Phú Yên.
- Ê đê Bih là nhóm Rang Đê cổ nhất bảo lưu nhiều dấu vết cổ qua ngôn

15


ngữ, Ê Đê Bih có truyền thống làm gốm, dệt chiếu, trồng lúa nước. Họ Cư trú
ven sông Krong Ana, sông Krong Kno của tỉnh Đak Nông.
- Ê đê Krung xuất phát từ chữ Kurung trong ngôn ngữ Rang Đê cổ, Khi
vua Chế Mân, Chế Bồng Nga mộ lính đi đánh giặc họ tự gọi các thủ lĩnh đó là
Kurung hay Krung. Cư trú chủ yếu tại huyện Êa Hleo, Krong Buk của tỉnh
Đăk Lak.
Ngoài ra còn có các nhóm địa phương nhỏ khác: Blo, Dongmak,
Hwing... Nhưng hầu như người Ê Đê không có sự khác biết lớn giữa các
nhóm địa phương. Người Ê Đê là nhóm dân tộc có xu hướng thống nhất ý
thức tộc người, biểu hiện rõ nét nhất là ranh giới khác biệt giữa các nhóm địa
phương tồn tại trước kia thì ngày nay đã hoàn toàn bị xóa bỏ bằng việc thống
nhất tôn giáo, ngôn ngữ và chữ viết và người Ê Đê tự gọi họ là Anak Đê đọc
tránh từ Anak Aê-Diê, nghĩa là những đứa con của Yàng (Thần Linh). Theo
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Ê Đê ở Việt Nam có dân số
331.194 người, cư trú tại 59 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Ê Đê cư
trú tập trung tại tỉnh:
Đăk Lăk (298.534 người, chiếm 17,2% dân số toàn tỉnh và 90,1% tổng
số người Ê Đê tại Việt Nam),
Phú Yên (20.905 người),
Đăk Nông (5.271 người),
Khánh Hòa (3.396 người).Tại một số quốc gia khác, như Campuchia,
Hoa Kỳ, Canada và các nước Bắc Âu cũng có một ít người Ê Đê sinh sống,
song chưa có số liệu chính thức.
2.1.2 Đặc điểm kinh tế xã hội

Người Ê Đê làm rẫy là chính, riêng nhóm Bíh làm ruộng nước theo lối
cổ sơ, dùng trâu dẫm đất thay việc cày, cuốc đất. Ngoài trồng trọt còn chăn
nuôi, săn bắn, hái lượm, đánh cá, đan lát, dệt vải. Trên nương rẫy, ngoài cây
chính là lúa còn có ngô, khoai, bầu, thuốc lá, bí, hành, ớt, bông.
16


Đặc điểm làm rẫy của người Ê Đê là chế độ luân khoảnh, tức là bên
cạnh những khu đất đang canh tác còn có những khu đất để hoang để phục hồi
sự mầu mỡ. Ngày nay người Ê Đê gắn mình với sản xuất nông sản cây công
nghiệp: cà phê, cao su, hồ tiêu, ca cao...
Gia súc được nuôi nhiều hơn cả là lợn và trâu, gia cầm được nuôi nhiều
là gà, nhưng chăn nuôi chủ yếu chỉ để phục vụ cho tín ngưỡng. Nghề thủ công
gia đình phổ biến có nghề đan lát mây tre làm đồ gia dụng, nghề trồng bông
dệt vải bằng khung dệt kiểu Inđônêdiêng cổ xưa. Nghề gốm và rèn không
phát triển lắm. Trước đây việc mua bán, trao đổi bằng phương thức hàng đổi
hàng.
2.1.3 Đặc điểm văn hóa
2.1.3.1 Trang phục [ ảnh 1,trang 28 ]
Trang phục nam:
Nam để tóc ngắn quấn khăn màu đen nhiều vòng trên đầu. Y phục
truyền thống gồm áo và khố (Kpin),.
Áo có hai loại cơ bản:
Loại áo dài trùm mông: Đây là loại áo khá tiêu biểu cho người Ê Đê
qua trang phục nam, có tay áo dài, thân áo cũng dài trùm mông, có xẻ tả và
khoét cổ chui đầu. Trên nền chàm của thân và ống tay áo ở ngực, hai bên bả
vai, cửa tay, các đường viền cổ, nơi xẻ tà gấu áo được trang trí và viền vải đỏ,
trắng. Đặc biệt là khu giữa ngực áo có mảng sọc ngang trong bố cục hình chữ
nhật tạo vẻ đẹp, khỏe.lực lãm
Loại áo dài quá gối: Đây là loại áo dài quá ngối, có khoét cổ, ống tay

bình thường không trang trí như loại áo dài trùm mông nói trên,...

17


Khố: Khố có nhiều loại và được phân biệt ở sự ngắn dài có trang trí hoa
văn như thế nào. Đẹp nhất là các loại ktêh, drai, đrêch, piêk, còn các loại bong
và băl là loại khố thường. Áo thường ngày ít có hoa văn, bên cạnh các loại áo
trên còn có loại áo cộc tay đến khủy, hoặc không tay. Áo có giá trị nhất là loại
áo Ktêh của những người quyền quý có dải hoa văn "đại bàng dang cánh", ở
dọc hai bên nách, gấu áo phía sau lưng có đính hạt cườm. Nam giới cũng
mang hoa tai và vòng cổ.
Trang phục nữ:
Phụ nữ Ê Đê để tóc dài buộc ra sau gáy. Họ mang áo váy trong trang
phục thường nhật. Xưa họ để tóc theo kiểu búi tó và đội nón duôn bai. Họ
mang đồ trang sức bằng bạc hoặc đồng.Vòng tay thường đeo thành bộ kép
nghe tiếng va chạm của chúng vào nhau họ có thể nhận ra người quen, thân.
Áo: Áo phụ nữ là loại áo ngắn dài tay, khoét cổ (loại cổ thấp
hình thuyền) mặc kiểu chui đầu. Thân áo dài đến mông khi mặc cho ra ngoài
váy. Trên nền áo màu chàm thẫm các bộ phận được trang trí là: cổ áo lan sang
hai bên bả vai xuống giữa cánh tay, cửa tay áo, gấu áo. Đó là các đường viền
kết hợp với các dải hoa văn nhỏ bằng sợi màu đỏ, trắng, vàng. Cái khác của
trang phục áo nữ Ê Đê khác Gia rai về phong cách trang trí là không có đường
ở giữa thân áo. Đếch là tên gọi mảng hoa văn chính ở gấu áo. Ngoài ra phụ nữ
còn có áo lót cộc tay (áo yếm).
Váy: Đi cùng với áo của phụ nữ Ê đê là chiếc váy mở (tấm vải rộng
làm váy) quấn quanh thân. Cũng trên nền chàm, váy được gia công trang trí
các sọc nằm ngang ở mép trên, mép dưới và giữa thân bằng chỉ các màu
tương tự như áo. Đồ án trang trí tập trung hơn ở mép trên và dưới thân váy.
Có thể đây cũng là phong cách hơi khác với váy của dân tộc Gia Rai. Váy có

nhiều loại phân biệt ở các dải hoa văn gia công nhiều hay ít. Váy loại tốt là
myêng đếch, rồi đến myêng đrai, myêng piêk. Loại bình thường mặc đi làm
18


rẫy là bong. Hiện nay nữ thanh niên thường mặc váy kín.
2.1.3.2 Tôn giáo
Phần lớn người Ê Đê theo đạo Tin Lành thuộc dòng Tin Lành hệ Báptít được các nhà truyền giáo Na Uy, Phần Lan từ Bắc Âu truyền vào những
năm đầu thế kỷ 20. Đắc Lắc nơi tập trung đông người Ê Đê nhất cũng là nơi
có tín đồ Tin Lành nhiều nhất Việt Nam, đây được coi một trong những trung
tâm đạo Tin Lành lớn nhất khu vực Đông Dương. Họ thường đọc kinh cầu
nguyện tại các nhà riêng của mục sư, hiện tại các nhà thờ Tin lành vẫn chưa
nhiều
Công giáo Rôma được truyền bá thông qua các nhà truyền giáo Tây
Ban Nha, sau này là người Pháp. Những người theo Công giáo Rôma thì
thường đến các nhà nhờ tại địa phương vào ngày chủ nhật. Một số ít theo Phật
giáo tại các vùng đô thị chủ yếu là người Ê Đê kết hôn với ngươi Việt, người
Hoa. Số còn lại vẫn theo nét tín ngưỡng cổ truyền, thờ cúng các thần hộ
thân cho mình.
2.1.3.3 Nhà ở [ ảnh 2,trang 28]
Nhà người Ê Đê thuộc loại hình nhà dài sàn thấp, thường dài từ 15 đến
hơn 100 m tùy theo gia đình nhiều người hay ít người. Nhà Ê Đê có những
đặc trưng riêng không giống nhà của các cư dân khác ở Tây Nguyên. Là nhà
của gia đình lớn theo chế độ mẫu hệ. Bộ khung kết cấu đơn giản. Cái được coi
là đặc trưng của nhà Ê Đê là: hình thức của cầu thang, cột sàn và cách bố trí
trên mặt bằng sinh hoạt. Đặc biệt là ở hai phần. Nửa đằng cửa chính gọi là
Gah là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài, bếp chủ, ghế khách,
ghế chủ, ghế dài (Kpan) (tới 20 m), chiếng ché... nửa còn lại gọi là Ôk là bếp
đặt chỗ nấu ăn chung và là chỗ ở của các đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều
dọc, phần về bên trái được coi là "trên" chia thành nhiều gian nhỏ. Phần về

19


bên phải là hàng lang để đi lại, về phía cuối là nơi đặt bếp...
2.1.3.4 Chế độ gia đình
Gia đình người Ê Đê, theo chế độ mẫu hệ, chủ nhà là phụ nữ, con cái
mang họ mẹ. Khi lấy vợ, người chồng về nhà ở. Con trai không được hưởng
thừa kế. Ngày nay tính chất mẫu hệ không còn rõ nét, vai trò của người đàn
ông trong gia đình cũng như trong xã hội ngày càng được khẳng định. Tín
ngưỡng của người Ê Đê là tín ngưỡng đa thần nên thực hiện nhiều kiêng cữ
và tổ chức nhiều lễ cúng như lễ cúng bến nước, lễ chọc tỉa, lễ cúng lúa mới, lễ
thổi tai cho trẻ mới sinh… với niềm mong ước mùa màng bội thu, con người
khoẻ mạnh, tránh được rủi ro, hoạn nạn.
2.1.3.5 Chữ viết [ ảnh 3,trang 29 ]
So với các dân tộc ít người khác tại Việt Nam, người Ê Đê là sắc dân có
chữ viết theo bảng chữ cái La tinh khá sớm, người Ê Đê có chữ viết từ thập
niên 1920. Các nhà truyền giáo Tin Lành đã phối hợp với các chuyên viên
ngôn gữ học tại Viện ngôn ngữ Summer đặt chữ viết cho người Ê Đê để dịch
Kinh Thánh cho dân tộc này. Năm 1979, sách dạy ngữ vựng Ê Đê được xuất
bản tại Mỹ . Kinh Thánh Tân Ước song ngữ Ê Đê-Việt phát hành năm 2001.
Năm 2006, Nhà xuất bản Tôn giáo của chính phủ Việt Nam, với sự hỗ trợ của
United Bible Societies, đã phát hành 20 ngàn cuốn Kinh Thánh Tân Ước song
ngữ Ê Đê-Việt tại Việt Nam. Đây là cuốn sách có số lượng phát hành nhiều
nhất trong tiếng Ê Đê từ trước đến nay.
2.1.3.6 Ngôn ngữ
Tiếng nói của người Ê Đê thuộc hệ ngôn ngữ Mã Lai - Polynesia. Tiếng
Êđê là một ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với Tiếng Gia rai, Chăm, Malaysia,
Indonêsia, Philipin. Tiếng Êđê ngày nay phát triển một âm tiết đơn lập, Đây là
kết quả của sự ảnh hưởng của tiếng Mon-Khmer, Khmer,Lao, Viet,Phap. Hầu
như nói và viết đều có sự khác biệt, khi nói chữ "Kngan" nghĩa là "Tay" người

20


Êđê chỉ phát âm là " Ngan" o mot so vung. Đăc biệt vùng Buôn Đôn mot số
người Êđê nói tiếng Lào . Măc dù vậy trong khi lễ tôn giáo và các ngày Lễ hội
họ vẫn sữ dụng Tiếng và chữ viết Êđê Kpă (Êđê gốc), cùng với sự phat trien
và vai trò to lớn của đạo Tin lành Đêgar vốn ra đời từ phong trào Fulro "Klei
mrâo mrang jăk Đêgar", sự thống nhất càng thể hiện rõ, Tin lành Đêgar là
niềm kiêu hãnh văn hóa của người Êđê người ê đê thường sử dụng chử ối ,ái
dà, ồ lé .,lớ
2.2 PHONG TỤC CƯỚI XIN TRONG VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC
Ê ĐÊ Ở ĐẮK LẮK
2.2.1 Quan niệm của dân tộc Ê Đê về đám cưới
Nghi lễ cưới xin của người Ê Đê còn gọi là Yâo Ung Mỗ
Theo truyền thống từ xa xưa, người có quyền lực cao nhất trong gia
đình người Êđê là phụ nữ. Cộng đồng người Ê Đê mang đậm chế độ mẫu hệ,
nên người con gái chủ động đi hỏi và cưới chồng, việc thách cưới là do nhà
trai yêu cầu. Qua thời gian, đôi trai gái tìm hiểu nhau, nếu thấy "ưng cái
bụng" thì người con gái về báo cho cha mẹ biết, để nhờ người mai mối và tiến
hành lễ hỏi chồng. Đây là nét văn hóa thể hiện rõ nét vai trò của người phụ nữ
trong hôn nhân, truyền thống độc đáo của các dân tộc Tây Nguyên nói chung
và dân tộc Ê Đê nói riêng.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Duy Thiệu, Phó Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học,
xã hội mẫu hệ của người Êđê là xã hội do người phụ nữ làm chủ. Con cái sinh
ra mang họ mẹ chứ không mang họ bố. Tiến sĩ Nguyễn Duy Thiệu cho
biết:” Người phụ nữ làm chủ trong hôn nhân. Họ thích ai, yêu ai thì sẽ báo
cáo với mẹ, gia đình để cưới người họ yêu. Người được cưới ấy cư trú bên
nhà vợ. Khi sinh con đẻ cái thì mang họ vợ. Chẳng may, cô vợ anh ta bị mất
thì nhà vợ hoặc dòng họ nhà vợ thì tìm 1 người phụ nữ khác để kết hôn với
21



anh ta. Người Kinh gọi là tục nối dây. Người Êđê gọi là tục chuê nuê”.
2.2.2 Các bước tiến hành lễ cưới
Lễ cưới truyền thống của người Ê Đê thường được tiến hành tuần tự
theo bốn bước. Đó là lễ hỏi chồng (Nao huh); lễ thoả thuận (Knăm); lễ gọi
chồng (Yâo Ung) và lễ lại mặt (Siê Knăm). Trong hôn lễ, trao vòng cầu hôn là
nghi lễ quan trọng, đây là nghi lễ bắt buộc của các cô gái khi làm đám cưới
thể hiện sự công nhận của thần linh, gia đình, cộng đồng cho đôi trai gái được
tổ chức đám cưới để nên vợ nên chồng.
2.2.2.1 Lễ hỏi chồng ( Nao huh )
Lễ hỏi chồng (Nao huh) là bước đầu tiên trong hôn lễ.[ ảnh 4,trang 29 ]
Theo phong tục mẫu hệ Ê Đê, khi người con gái tìm được người con
trai ưng ý thì bảo cho bố mẹ biết. Bố mẹ cô gái nhờ người mối đưa chiếc vòng
bằng chất liệu nào là tùy gia cảnh để mở đầu cho việc giao thiệp với nhà trai.
Vài ba lần khi chàng trai đó đồng ý thì nhà gái sang nhà trai tổ chức lễ trao
vòng. Trường hợp chàng trai không đồng ý thì lễ hỏi phải dừng lại, chờ đến
khi sợi tơ hồng cuốn chặt.
Lễ hỏi chồng thường được tổ chức sau mùa rẫy, bởi khi đó mọi người
rảnh rang, lúa gạo đầy nhà, ủ được nhiều rượu cần, mua được nhiều vật dụng
quý, có nhiều trâu, bò, gà, heo…
Trao vòng cầu hôn được thực hiện trong nghi lễ hỏi chồng. Cô gái cùng
ông mối và người anh, em trai của mẹ cô gái, còn gọi là Đăm đêi mang theo
một lễ hỏi gồm một ché rượu, một vòng đồng để cúng thần tới nhà trai. Nếu
người con trai không cùng trong buôn, người con gái còn phải mang thêm một
gói cơm nếp.
Cô gái và chàng trai cùng chạm tay vào chiếc vòng đồng, ông cậu cầu
cúng giàng. Và họ coi đó như lời giao ước hôn thú, có sự chứng giám của
22



thần linh, có sự công nhận của cộng đồng, và sự thống nhất của cặp uyên
ương. Từ sau lễ trao vòng, hai gia đình đã chính thức kết mối thông gia. Mỗi
bên gia đình cử ra một người đỡ đầu của gia đình mình, còn gọi là Miết Ava.
Từ đây Miết Ava không chỉ thay mặt gia đình, giúp đôi trẻ trong mọi nghi lễ
để thành vợ thành chồng mà trong suốt cuộc đời còn lại sau này, ông luôn
đóng vai trò như cha mẹ, khuyên răn chú rể, cô dâu và dàn hoà mọi bất hoà
giữa hai gia đình.
Nhà trai sau lễ trao vòng, cũng trao cho bên nhà gái chiếc vòng để làm
tin cho việc đính ước. Sau đó, nhà trai tổ chức bữa cơm rượu mời bên nhà gái.
Nếu trong trường hợp người con trai không đồng ý thì nhà trai làm một
nghi lễ nhỏ mời nhà gái đến dự để tỏ lòng tôn trọng và duy trì sự hòa thuận
với nhau. Theo quan niệm của người Ê Đê việc từ chối hôn lễ là từ chối hôn
nhân của một dòng họ, ảnh hưởng và gây tổn thương rất lớn đến lòng tự trọng
của không những một gia đình mà còn cả một dòng họ. Do đó cần thiết phải
có sự thể hiện gắn bó đoàn kết của một cộng đồng dân tộc. Đây là một trong
những nét đẹp văn hóa truyền thống của người Ê Đê.
2.2.2.2 Lễ thỏa thuận ( Knăm) [ ảnh 5,trang 30 ]
Trước khi lễ cưới chính thức diễn ra, hai họ thực hiện thủ tục “gửi dâu”
(K’năm). Đại diện nhà gái (Pô eemuh) dẫn cháu gái đến ở nhà chồng chưa
cưới theo thỏa thuận giữa hai bên. Đây là thời gian thử thách lòng chung thủy,
nết na của người phụ nữ.
Lễ vật gửi dâu của nhà gái bao gồm 1 con gà, 1 nắm xôi gói trong lá
chuối và một ché rượu để làm lễ. Nhà trai đưa ra vật thách cưới gồm 1 con
heo, 7 ché rượu, của hồi môn là 2 con trâu, 3 đến 5 con bò, voi...
[ Ảnh 6,trang 30 ]
Nếu cô gái không trả nổi lễ vật thách cưới thì phải ở lại làm việc tại nhà
chồng cho đến khi hết nợ mới có quyền rước chồng về nhà mình. Trường hợp
trả không hết nợ (thường là gái mồ côi) thì cô gái phải ở luôn bên nhà chồng.
Đôi khi vì thách cưới cao nên có trường hợp có con rồi mới làm lễ cưới.

Hết thời gian gửi dâu nhà gái đưa sang nhà trai một con gà, 1 nắm xôi

23


gói trong lá chuối và 1 ché rượu làm lễ thỏa thuận, đây là lễ vật thể hiện sự
kính trọng của nhà gái với nhà trai. Trong buổi lễ, mọi người cùng uống rượu,
ăn xôi, gà và thỏa thuận về lễ cưới.
Lễ thỏa thuận được tiến hành tại nhà của chàng trai trước sự chứng kiến
của hai bên gia đình và dòng họ, được tổ chức sau lễ dạm hỏi một hoặc hai
tháng. Hai dăm dei đại diện cho hai bên gia đình sẽ trực tiếp điều hành lễ này,
những công đoạn liên quan đến việc cưới xin và đeo vòng cho đến việc lập
khế ước hôn nhân sẽ được tiến hành như sau:
Thỏa thuận về ngăn nŭ: (khoản thách cưới) của nhà trai là một con bò
cái lớn và một con bò con hoặc một con trâu cái lớn và một con trâu con. Có
khi còn cả: heo, gà để tạ ơn các thành viên trong gia đình đã có công sinh và
nuôi người con trai lớn lên, cho dù nhà cô gái nghèo đến mấy cũng phải có
heo để cúng cho bố mẹ của chàng trai. Ngoài ra còn có 8 cái vòng, một cái
chăn mới do chính tay cô gái dệt và một cái bát đồng.
Thỏa thuận về juê ngai traih raih mbha hay ami ra ama ring, (tiền tặng
anh chị em, dòng họ của nhà trai). Số tiền này được chia đều cho các thành
viên trong gia đình, họ hàng nhà trai.
Thỏa thuận về jơng juă eh kbao, (lễ vật trả thù lao cho người mai mối
và dăm dei bên nhà trai vì đã đứng ra lo toan mọi việc cưới xin). Qui định mỗi
dăm dei được tặng một cái chăn hoặc một cái khố. [ Ảnh 7,trang 31 ]
Thỏa thuận về ngăn kdam, (lễ vật trả thù lao cho người mai mối và dăm
dei bên nhà gái sau khi hôn lễ kết thúc), là một cái chăn hoặc một cái khố.
Thỏa thuận về Knil (sự bồi thường danh dự hay thiệt hại cho nhà trai).
Trong trường hợp nếu cô gái đã ngỏ lời trước hoặc đã nhận lời mà sau đó
không thực hiện hôn ước. Nhà trai sẽ đòi hỏi thêm ở nhà gái một lễ hiến sinh,

là một con trâu hoặc một con lợn.
Mlih kông krah: Cuộc trao đổi vòng tay giữa hai vợ chồng. Sau khi hai
bên gia đình đã nhất trí những yêu cầu, những cam kết của hôn ước. Nghi
thức trao đổi vòng gồm hai chiếc vòng đồng được chuẩn bị từ trước, dăm dei
24


sẽ đưa cho cô gái và chàng trai mỗi người một chiếc. Họ sẽ trao đổi vòng cho
nhau, chứng tỏ họ đã chấp nhận lấy nhau trước sự chứng kiến của hai bên gia
đình và dòng họ với lời hứa sẽ chung thủy với nhau, giúp đỡ nhau trong
những lúc hai bên gia đình gặp khó khăn, rủi ro, như bệnh tật, gặp nạn, nghèo
đói. Nếu một bên bội bạc, tự ý hủy bỏ cuộc hôn nhân, sẽ bị phạt đền và bồi
thường cho bên thiệt hại. Thường là sẽ phải bồi thường gấp đôi thậm chí gấp
ba số giá trị được ấn định trong hôn ước. Hai dăm dei của hai bên gia đình
cũng trao cho nhau vòng tay để chứng kiến cho cuộc hôn nhân này. Nghi thức
trao vòng được coi như “một văn bản đã ký kết” trong quá trình chung sống
của hai vợ chồng sau này. Tiếp đó, gia đình nhà gái trao cho gia đình nhà trai
8 chiếc vòng (tượng trưng cho sự ràng buộc), 1 cái bát đồng (tượng trưng cho
cho nồi cơm và bầu sữa mẹ luôn tràn đầy), 1 cái chăn (tượng trưng cho sự ấm
cúng của gia đình). Sau khi làm các thủ tục xong, hai gia đình thỏa thuận chọn
ngày để rước rể.Sau khi đã thỏa thuận xong, hai bên gia đình cùng uống ché
rượu cần với các ông mối và dăm dei của hai bên, lúc này họ sẽ được trả thù
lao cho việc se duyên, tỷ lệ với khoản thách cưới.
Việc thách cưới của người Ê Đê gần như là một cuộc mua bán trong
hôn nhân. Khác với chế độ phụ hệ, người bị đưa ra là phụ nữ, còn ở chế độ
mẫu hệ người bị đưa ra là đàn ông. Đàn ông là lao động chính làm ra của cải,
chính vì thế giá của một người đàn ông trong hôn nhân sẽ rất lớn. Tuy nhiên,
nếu như điều kiện kinh tế của nhà gái yếu kém, không đủ khoản thách cưới để
nộp cho nhà trai, nhà gái có thể thương lượng lại với nhà trai để cuộc hôn
nhân được tiến hành.


25


×