Tải bản đầy đủ (.pptx) (26 trang)

Thuyết trình môn tài chính công ty đa quốc gia korres natural products và cuộc khủng hoảng hy lạp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.42 KB, 26 trang )

Korres Natural Products và
Cuộc khủng hoảng Hy Lạp
GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN HOA
NHÓM
BÙI THỊ NHƯ Ý
LÊ NGUYỄN NHẬT ÁNH
HỒ THỊ KIM YẾN
Phạm THỊ HÀ


Nội dung
1. Giới thiệu về ngành công nghiệp mỹ phẩm

2. Korres Natural Products trong bối cảnh nghành

3. Khủng hoảng nợ ở Hy Lạp

4. Tăng chi phí

5. Working Capital: Vốn lưu động

6. The Crisis and Korres: Khủng hoảng và công ty Korres

7. Financing Options: Các lựa chọn tài chính

8. Decision: giải quyết


Giới thiệu về ngành công nghiệp mỹ phẩm

Mỹ phẩm là một ngành công nghiệp toàn cầu trị giá 170 tỷ đô la bao gồm năm loại sản phẩm chính: Nước hoa,


mỹ phẩm, chăm sóc da, chăm sóc tóc và đồ vệ sinh cá nhân. Chăm sóc da là phân khúc lớn nhất, tiếp theo là
chăm sóc tóc và mỹ phẩm. Sản phẩm được phân phối thông qua các cửa hang đại lý, các cửa hàng bán lẻ chuyên
biệt và có thương hiệu, cũng như các hiệu thuốc, tiệm và spa.

Những năm gần đây khá khó khăn cho ngành công nghiệp. Mặc dù doanh thu giảm trong năm 2008 và 2009,
nhưng thị trường đã khả quan trở lại trong năm 2010 và 2011.


Giới thiệu về ngành công nghiệp mỹ phẩm
Người tiêu dùng đã thể hiện sự sẵn lòng thử sản phẩm mới trong tất cả các phân nhóm nhỏ với đặc tính và thành phần là những yếu tố
quan trọng quyết định hành vi mua hàng . Và các sản phẩm dựa trên các thành phần hoàn toàn tự nhiên là một loại có sự tăng trưởng
thực sự.

Với sự đẩy mạnh vào việc tạo ra các sản phẩm tự nhiên từ các nguồn hữu cơ, Korres có lợi thế để cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Ý thức người tiêu dùng trong các sản phẩm có nguồn gốc và sự phản ứng dữ dội chống lại các thử nghiệm trên động vật đã góp phần
thúc đẩy nhu cầu này.

Người tiêu dùng hiện nay yêu cầu thêm thông tin về nguồn nguyên liệu sử dụng trong các sản phẩm họ mua. Kết hợp với sự nhấn mạnh
mới về cuộc sống lành mạnh, các nhà sản xuất sản phẩm tự nhiên như Korres, đã có lợi thế trong tương lai.


Korres Natural Products trong bối cảnh nghành

Georgios Korres sáng lập Korres Natural Products vào năm 1996.
Sử dụng kinh nghiệm dược phẩm trong hơn 3.000 loại thảo mộc để tạo ra các sản phẩm tự nhiên để sử dụng trong chăm sóc da, chăm sóc tóc, và các mỹ phẩm khác
Sử dụng các hiệu thuốc như là phương tiện phân phối chính của họ (5.600 đối với riêng ở Hy Lạp),
Korres đã mở rộng nhanh chóng từ năm 2003 đến năm 2008 và giờ đây đã có mặt tại 30 quốc gia. Công ty đã niêm yết trong năm 2007 (Athens: Korres).
Năm 2012 Korres có 28 cửa hàng chuyên dụng, 5 cửa hàng ở Hy Lạp và 23 cửa hàng ở khắp Châu Âu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ và Châu Á. Công ty hiện đã thuê hơn 300
người làm ở Hy Lạp, và đã có hơn 400 sản phẩm hữu cơ tự nhiên được chứng nhận.



Korres Natural Products trong bối cảnh nghành

Doanh số đã đạt đỉnh điểm trong năm 2008 với 53,7 triệu Euro. Hai năm tiếp theo giảm cùng với nền kinh tế Hy Lạp xuống còn 50,4 triệu Euro năm 2009 và 44,1 triệu Euro vào năm
2010.
Thu nhập ròng giảm từ 4,0 triệu Euro (2008) xuống 3,4 triệu Euro (2009) và 1,6 triệu Euro (2010).


Korres Natural Products trong bối cảnh nghành

Khả năng sinh lợi của công ty vẫn tốt đáng kể khi tình hình kinh tế ở Hy Lạp đang xấu đi, nhưng giá cổ phiếu của công ty vẫn tiếp tục
trượt dốc. Hiện tại, giá giao dịch trong khoảng 3 euro/cổ phiếu, thấp hơn 1/3 với đỉnh điểm (2008) là 9,66 euro.

Nhưng bất chấp khủng hoảng kinh tế và tài chính Hy Lạp, Korres đã tìm ra cách để phát triển. Doanh số quốc tế tiếp tục tăng theo tỷ lệ tổng doanh thu. Đến năm 2010,
doanh số bán hàng quốc tế chiếm hơn 35% tổng doanh thu. Đồng thời, Korres đã ký hợp đồng phân phối chính với Johnson & Johnson (Hoa Kỳ), theo đó J & J sẽ là nhà
phân phối độc quyền các sản phẩm của Korres trên khắp Bắc Mỹ và Nam Mỹ.


Khủng hoảng nợ ở Hy Lạp
Chính phủ Hy Lạp, giống như nhiều chính phủ, đã phải chịu những khoản thâm hụt ngân sách lớn trong nhiều năm. Khi nền kinh tế thế giới tiếp tục chậm lại, tỷ lệ nợ
của Hy Lạp đối với GDP vẫn tiếp tục tăng
Vào cuối năm 2009, nền kinh tế của Hy Lạp đang chậm lại và nợ nần làm gia tăng mối lo ngại trong toàn bộ khu vực Eurozone
Các nhà hoạch định chính sách của EU đề xuất một sự kết hợp của các hạn chế chi tiêu của chính phủ Hy Lạp (các biện pháp kiềm chế), cũng như một số hình thức
giảm nợ hoặc cứu trợ. Năm 2010, Hy Lạp đã nhận được một loạt các khoản vay và quỹ hỗ trợ để đáp ứng nghĩa vụ trả nợ. Phụ lục 2 liệt kê các sự kiện cứu trợ chính
khác của Hy Lạp.


Khủng hoảng nợ ở Hy Lạp
Tuy nhiên, sự giúp đỡ của IMF và EU. Bên cạnh mức lãi suất cao hơn, Hy Lạp đã buộc phải thực hiện một loạt các biện pháp khắc khổ.

Các biện pháp thắt chặt bao gồm tư nhân hoá một số khu vực của nền kinh tế, cắt giảm chi tiêu của chính phủ đối với chăm sóc sức khoẻ, lương hưu và các chương
trình xã hội khác, và tăng thuế.
Tạo nên những mâu thuẫn cho người Hy Lạp, như nhiều người đã xuống đường biểu tình, bao gồm các cuộc đình công thường xuyên.
Chính phủ Hy Lạp đã tiến hành đàm phán mạnh mẽ với cả các ngân hàng tư nhân và các thành viên EU đang nắm giữ nợ chính phủ Hy Lạp. Hy Lạp muốn cắt giảm
70% nợ hiện tại, tái cấu trúc nợ dài hơn 20 năm, lãi suất thấp hơn, và thêm ngân sách cứu trợ tổng cộng hơn 100 tỷ euro.


Tăng chi phí


Tăng chi phí
Phát hành lần đầu ra công chúng năm 2007 đã góp phần đáng kể vào vốn cổ phần. Một sự bổ sung gần đây hơn vào vốn chủ sở hữu đã được thực hiện bởi một nhà đầu
tư Hy Lạp tư nhân, Alexia David, đã nắm lấy 14,1% lợi ích trong công ty như là một đối tác chiến lược trong tháng 6 năm 2011 với 9,5 triệu €.
Giống như tất cả các công ty tài trợ tăng trưởng nhanh, công ty đã tăng số nợ ngân hàng rất nhanh chóng bắt đầu vào năm 2008.
Korres năm tiếp theo đã thay thế nhiều trong nợ ngắn hạn, nợ dài hạn với các thoả thuận nợ ngân hàng dài hạn mới, đảm bảo kiểm soát và tiếp cận nhiều hơn về vay nợ
trong tương lai.
Chi phí cho vay ngân hàng cũng tăng lên. Trước cuộc khủng hoảng, Korres vay dài hạn khoảng 5%, và các khoản nợ ngắn hạn dao động từ 3% đến 4%. Sau cuộc khủng
hoảng nợ công, công ty đã giữ được tỷ lệ tương tự cho các khoản vay dài hạn, nhưng lãi suất ngắn hạn đã tăng gần 8%.


Working Capital: Vốn lưu động
Nhu cầu về vốn của Korres được kết hợp với chu kỳ vốn lưu động ròng của công ty.

nắm giữ khoản phải thu 200 ngày
Một chu kỳ vốn lưu động ròng thực hơn 350
ngày trong năm 2010 là rất lớn, và trong
môi trường vốn ngắn hạn là tốn kém
không cho công ty lưu chuyển tiền mặt thanh toán khoản hàng
tồn kho và thanh toán cho nhà cung cấp


giữ với hơn 300 ngày thanh lý hàng tồn và thanh toán
cho các nhà cung cấp trong 160 ngày


Working Capital: Vốn lưu động


The Crisis and Korres
Khủng hoảng và công ty Korres

Chiến lược của công ty là liên tục phát triển cả trong nước và trên toàn cầu.

Tăng trưởng doanh thu. Mục tiêu doanh thu trong ba đến bốn năm tới là 30% ở trong nước và 70% ở thị trường quốc tế, một sự thay đổi lớn so với hiện tại là 65%
trong nước và 35% quốc tế.

Vốn cần hỗ trợ tăng trưởng ước tính xấp xỉ 20 triệu Euro.
Công ty cũng có mục tiêu giảm tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu tầm mức 40-60.
Việc tăng cường thêm vốn cổ phần mới kết hợp với việc duy trì các khoản vay ngân hàng hiện tại cần cung cấp đủ vốn. Tuy nhiên, vào năm 2014, công ty cần
có thêm vốn - khoảng 15 triệu đến 20 triệu euro để đạt được tăng trưởng quốc tế.


Financing Options
Các lựa chọn tài chính
1. Cross Listing: Korrres xem xét niêm yết cổ phiếu của mình trên một giao dịch khác ngoài Athens (niêm yết chéo)



Thuận lợi: Korres sẽ xem xét giảm chi phí vốn, cải thiện tính thanh khoản của cổ phiếu hiện tại và tăng khả năng hiển thị thông
tin, minh bạch cho các nhà đầu tư bên ngoài Hy Lạp. Giúp công ty nhận được sự chấp nhận chính trị cho các bên liên quan
chính như là khách hàng, nhà cung cấp, chủ nợ, và các nhà đầu tư.




Bất lợi. Bởi vì công ty sẽ bán cổ phần ở nước ngoài, nó sẽ phải thích ứng với các quy định ở nước ngoài. Các quy định này có
thể bao gồm các yêu cầu công bố thông tin và các chương trình quan hệ với nhà đầu tư.


Financing Options
Các lựa chọn tài chính


Financing Options
Các lựa chọn tài chính


Financing Options
Các lựa chọn tài chính
4. Phát hành riêng lẻ


Decision: Giải quyết


Case Questions


1. Cấu trúc tài chính của Korres đã thay đổi như thế nào trong những năm gần đây? Bạn đánh giá sức khoẻ tài chính
như thế nào?



1. Cấu trúc tài chính của Korres đã thay đổi như thế nào trong những năm gần đây? Bạn đánh giá sức khoẻ tài chính
như thế nào?

Công ty đã tăng số nợ ngân hàng rất nhanh chóng bắt đầu vào năm 2008. Tổng nợ vay tăng từ 13,4 triệu € trong năm 2007 lên 46,2 triệu € trong năm 2008.
Giảm tỷ trọng nợ ngắn hạn từ 2009 và bù đắp bằng vay nợ dài hạn đảm bảo kiểm soát và tiếp cận nhiều hơn về vay nợ trong tương lai.
Trước cuộc khủng hoảng, Korres vay dài hạn khoảng 5%, và các khoản nợ ngắn hạn dao động từ 3% đến 4%. Sau cuộc khủng hoảng nợ công, công ty đã giữ được tỷ
lệ tương tự cho các khoản vay dài hạn (thành tựu đạt được), nhưng lãi suất ngắn hạn đã tăng gần 8%.

Korres đã tang nợ lên quá mức so với vốn chủ sở hữu trung bình 70% dẫn đến mức rủi ro tài chính lớn, tình chính của công ty không lành mạnh.


2. Cuộc khủng hoảng nợ ở châu Âu, và quan trọng nhất ở Hy Lạp, ảnh hưởng đến kinh doanh và kết quả tài chính của
Korres?

Bất chấp khủng hoảng kinh tế và tài chính Hy Lạp, Korres đã tìm ra cách phát triển. Doanh số bán hàng quốc tế tiếp tục tăng theo tỷ lệ tổng doanh thu. Đến năm 2010,
doanh số bán hàng quốc tế chiếm hơn 35% tổng doanh thu.
Korres phải nắm giữ khoản phải thu 200 ngày (Trái ngược với các điều khoản 30 ngày điển hình và 45 ngày đối với khoản phải thu ở Bắc Mỹ). Do đó không cho công
ty lưu chuyển tiền mặt thanh toán khoản hàng tồn kho và thanh toán cho nhà cung cấp.
Korres có vòng quay hàng tồn kho hơn 300 ngày và vòng quay khoản phải trả 160 ngày. Vòng quay vốn lưu động ròng hơn 350 ngày trong năm 2010 là rất lớn, và trong
môi trường vốn ngắn hạn là rất tốn kém


3. Bạn nghĩ Georgios Korres nên làm gì để bảo đảm vốn cần thiết để phát triển Sản phẩm tự nhiên Korres?

Georgios Korres nên tìm các phương án tài trợ phù hợp để đảm bảo nguồn vốn cho Korres: Phát hành trái phiếu hoặc phát hành cổ phiếu.

Phát hành trái phiếu dù không đòi hỏi phải từ bỏ kiểm soát quyền sở hữu, nhưng trong bối cảnh nền kinh tế Hy Lạp tồi tệ, việc kỳ thị và chịu một mức lãi suất thả nổi
cao là không tránh khỏi. Korres có thể bỏ qua bất lợi này bằng cách chuyển trụ sở ra khỏi Hy Lạp hoặc M&A với một công ty bên ngoài Hy Lap.

Phát hành cổ phiếu thì có thể là niêm yết chéo, phát hành cho quỹ đầu tư cá nhân, phát hành riêng lẻ. Mỗi một phương án phát hành cổ phiếu sẽ có những thuận lợi và

bất lợi riêng nên khi xem xét nên đặt vào tình hình kinh tế chung ở Hy Lạp và thế giới.


3. Bạn nghĩ Georgios Korres nên làm gì để bảo đảm vốn cần thiết để phát triển Sản phẩm tự nhiên Korres?

Niêm yết chéo

Thuận lợi

Bất lợi

Giảm chi phí vốn, cải thiện tính thanh khoản của cổ phiếu hiện tại và tăng khả năng hiển thị thông tin, minh bạch

Công ty sẽ bán cổ phần ở nước ngoài, nó sẽ phải thích ứng với các quy định ở nước ngoài. Các

cho các nhà đầu tư bên ngoài Hy Lạp.

quy định này có thể bao gồm các yêu cầu công bố thông tin và các chương trình quan hệ với

Giúp công ty nhận được sự chấp nhận chính trị cho các bên liên quan chính như là khách hàng, nhà cung cấp, chủ

nhà đầu tư.

nợ, và các nhà đầu tư.

Cổ phần tư nhân

Dễ tìm được quỹ đầu tư cổ phần cá nhân.

Lợi nhuận kỳ vọng cao cũng như kỳ vọng về ảnh hưởng đối với quản lý (khả năng mất kiểm

soát).

Phát hành riêng lẻ

Không phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán và SEC, xếp hạng tín dụng của công ty không phải là một nhân tố

Việc tìm kiếm một nhà đầu tư phù hợp với nguồn tài chính dồi dào, rất khó.

quyết định cho thỏa thuận.

Công ty bị đánh giá thấp. Trong môi trường đó, việc giảm giá theo yêu cầu của các nhà đầu tư

Tập trung nhiều hơn vào hoạt động của công ty hơn là xếp hạng tín dụng.

tư nhân có thể bị phóng đại quá mức. Điều đó có nghĩa là vốn ít hơn với chi phí cao hơn.

Được miễn các yêu cầu báo cáo thông thường, nên thường nhanh hơn và tiết kiệm chi phí hơn.


×