Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

TIỂU LUẬN vai trò của chủ nghĩa yêu nước đối với việc hình thành tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.23 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
TRANG
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CỦA DÂN TỘC TA
QUA CÁC THỜI KỲ
1.Khái niệm yêu nước và đặc trưng chủ nghĩa yêu nước
truyền thống Việt Nam
2.Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh
II.VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
III. HỒ CHÍ MINH ĐÃ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN GIÁ
TRỊ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC TRONG TÌNH HÌNH MỚI
1.Điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam và thế giới
2. Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy các giá trị của chủ nghĩa
Yêu nước lên một tần cao mới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Cùng
với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Người là một bộ phận hợp thành nền tảng
tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Nghiên cứu và nhận
thức sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh là tiền đề vững
chắc để nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của Người. Theo đó,
cần đi sâu nghiên cứu, làm rõ những mối quan hệ có tính quy luật, nguyên tắc về sự ra
đời, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, nghiên cứu mối quan hệ biện chứng
chủ nghĩa yêu nước truyền thống dân tộc với tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở quan
trọng để thấy sự tác động của chủ nghĩa yêu nước dân tộc ta đối với sự hình thành, phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò, công lao to lớn của Hồ Chí Minh trong kế thừa,


phát triển các chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam lên một tầm cao mới.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những diễn biến phức tạp của tình
hình thế giới, khu vực, trong nước đã và đang đặt ra một tất yếu khách quan, mang
tính cấp thiết, đòi hỏi phải đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh
với chue nghĩa yêu nước dân tộc Việt Nam và vận dụng trong công tác tuyên truyền,
giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức hiện nay, để khắc phục những hạn chế và góp
phần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phát hiện và phản bác lại những tư
tưởng, luận điệu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch bảo vệ vững chắc nền
tảng tư tưởng của Đảng ta.


NỘI DUNG
I.

CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC QUA CÁC THỜI KỲ

1.Khái niệm về yêu nước và đặc trưng của chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam .
Yêu nướclà một tình cảm tự nhiên của con người đối với quê hương xứ sở,
với ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử và các truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Cùng
với sự hình thành dân tộc và nhà nước dân tộc thì yêu nước từ một tình cảm,
một yếu tố tâm lý xã hội đã tiến dần lên thành một ý thức xã hội. Ý thức đó
khi đã phát triển thành một hệ thống thì tình cảm yêu nước có khả năng trở
thành chủ nghĩa yêu nước- có giá trị như một hệ tư tưởng. (Nói có khả
năng, vì không phải ở quốc gia, dân tộc nào, tình cảm yêu nước cũng phát
triển thành chủ nghĩa yêu nước).
Vậy chủ nghĩa yêu nước là gì? Hiểu một cách đơn giản: chủ nghĩa yêu
nước là một hệ thống quan điểm chỉ đạo tình cảm, thái độ, hành động, cách
ứng xử,…của mỗi người dân đối với Tổ quốc (trong xây dựng và bảo vệ đất
nước).

Đối với người Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước là một giá trị tinh thần cao quý,
kết tinh những tư tưởng, tình cảm thiêng liêng nhất, là hệ chuẩn mực cao
nhất trong bảng giá trị tinh thần truyền thống dân tộc, đã trở thành một
nguyên tắc chính trị- đạo đức- thẩm mỹ của con người Việt Nam.
Có thể nói chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt lịch sử tư
tưởng nước ta, từ khi lập quốc cho tới nay. Ở Việt Nam, yêu nước vừa là tình
cảm, vừa là tư tưởng mà cũng đồng thời là triết lý, “là kim chỉ nam cho hành
động, là một tiêu chuẩn để nhận định đúng-sai, tốt-xấu, nên-chăng”[1] của
người Việt Nam , như ý GS Trần Văn Giàu đã phát biểu.
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam
đã hình thành nên một hệ thống chuẩn mực, được biểu hiện qua mấy đặc
trưng chủ yếu sau đây:
1.Tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất vì độc lập, tự do của Tổ quốc, nhằm
bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ. (Điều này được thể hiện
qua những áng văn thơ, như bài “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt;
như lời khẳng định của Lê Thánh Tông: một thước núi, một tấc sông,…của
tổ tiên, kẻ nào đem cho giặc sẽ phải tội chu di!,… ).
2. Niềm tự hào về lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và những
truyền thống tốt đẹp khác của dân tộc (được thể hiện qua những tác phẩm
như “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, Hịch ra trận của vua Quang
Trung: “Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng, đánh cho chúng chích
luân bất phản, đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn, đánh cho sử tri Nam quốc
anh hùng chi hữu chủ” ).


3. Yêu nước gắn liền với yêu dân, với tinh thần đoàn kết, nhân ái, khoan dung
trong cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân bang,…
Tóm lại, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không đơn thuần chỉ là một tình cảm
mà là một hệ thống tư tưởng phong phú, nhiều điểm còn chờ sự phát hiện,
bổ sung của các nhà triết học và sử học.

Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã phát huy sức mạnh vô địch
của nó trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Từ thế kỷ thứ X đến thế
kỷ XX, trong điều kiện quá chênh lệch về tương quan lực lượng, dân tộc Việt
Nam, với sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, đã làm nên 10 đại chiến
công chống ngoại xâm, liên tiếp trong 10 thế kỷ. Đó là: Ngô Quyền đánh
thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Lê Hoàn phá Tống lần thứ nhất,
Lý Thường Kiệt phá Tống lần thứ hai, Trần Quốc Tuấn ba lần đại thắng
quân Nguyên, Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, Quang Trung đại phá quân
Thanh và Hồ Chí Minh cùng với quân dân cả nước lần lượt đánh bại hai đế
quốc to. Đó là những chiến công hùng vĩ, được tạo nên bởi sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước, mãi mãi rạng ngời trên trang sử nước nhà.
2. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại là sự kế thừa toàn bộ những tinh hoa
của chủ nghĩa yêu nước truyền thống, đồng thời là một bước phát triển mới
so với chủ nghĩa yêu nước truyền thống.
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống chịu sự chi phối nhất định của hệ tư tưởng
phong kiến và phần nào của hệ tư tưởng tư sản, nên bên cạnh những giá trị
tốt đẹp, vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định, như đầu óc dân tộc
hẹp hòi, vị kỷ, chủng tộc chủ nghĩa,…(Đến như văn thơ thời Đông Kinh
nghĩa thục vẫn còn lưu truyền những định kiến lệch lạc, như: Giống vàng,
giống trắng tinh anh, Giống đen, giống đỏ, giống xanh ngu hèn!).
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại được bổ sung và phát triển trong thế
kỷ XX, nhờ kết hợp được tinh hoa dân tộc và giá trị thời đại, nên đã đạt tới
một chất lượng mới. Chính CT Hồ Chí Minh là người có công đầu trong việc
vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa
khơi dậy được những truyền thống tốt đẹp ngàn năm của dân tộc, vừa bổ
sung thêm những nhân tố mới, nâng chủ nghĩa yêu nước truyền thống lên
ngang tầm phát triển của thời đại. Vì vậy, cũng có thể gọi chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam hiện đại là chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, như Luật gia Vũ Đình
Hòe đã từng đề xuất[2].

Trong bước đầu nghiên cứu, có thể sơ bộ nêu lên mấy nội dung cơ bản của
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam ở thời đại Hồ Chí Minh như sau:
1.Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh đã thực hiện được sự kết hợp thống nhất
giữa lập trường dân tộc với lập trường giai cấp công nhân.
Chủ nghĩa yêu nước ở thời nào cũng chịu sự chi phối bởi hệ tư tưởng của
giai cấp cầm quyền. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh được xây dựng trên


lập trường của giai cấp công nhân, do đó, lần đầu tiên nó đạt tới sự hài hòa
giữa lợi ích của dân tộc với lợi ích của nhân dân lao động. Nó khắc phục
được tính hẹp hòi của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ cùng những hạn chế khác của
chủ nghĩa yêu nước phong kiến và tư sản (như chủ nghĩa đại dân tộc, chủ
nghĩa sô-vanh,…).
2. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh gắn liền lý tưởng độc lập dân tộc
với khát vọng dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Người thường nói: Nước lấy dân làm gốc, dân là chủ, “Nếu nước độc lập mà
dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa
gì”[3]. Vì vậy, yêu nước là phải phấn đấu làm sao cho nước độc lập, thống
nhất, dân chủ, giầu mạnh, ai cũng có cơm ăn, áo mặc ai cũng được học
hành,…Người nói một cách thống thiết: “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống
nhất, đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không
yên”[4].
3. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa yêu
nước nồng nàn với tinh thần quốc tế chân chính.
Đây là một đặc trưng mới của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, được Người
kiên trì giáo dục, thực hiện nhất quán và đấu tranh không khoan nhượng
với mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc sô-vanh, chủ nghĩa quốc gia vị kỷ,
chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc,…Ngay từ khi mới bước chân ra nước
ngoài, hòa mình vào phong trào công nhân và phong trào đấu tranh giải
phóng các dân tộc thuộc địa, Người đã nêu cao tinh thần quốc tế chân chính:

“Rằng đây bốn biển một nhà,
Vàng, đen, trắng, đỏ đều là anh em” (Nhật ký chìm tàu).
Dù thế giới ngày nay đã có nhiều thay đổi, chủ nghĩa xã hội không còn tồn
tại như một hệ thống thế giới, song đặc trưng này vẫn không thay đổi, bởi
nếu đã từ bỏ chủ nghĩa quốc tế cao cả và trong sáng, thì chẳng những không
còn là người cách mạng chân chính mà cũng không xứng đáng được coi là
một dân tộc văn minh trong thế giới hội nhập, cùng phát triển hiện nay.
Chúng ta đang sống trong một thế giới phức tạp, đầy biến động với sự trỗi
dậy mạnh mẽ của các xu hướng dân tộc vị kỷ, cực đoan, dẫn đến các cuộc
chiến tranh dân tộc, sắc tộc đẫm máu, có nguy cơ lôi cuốn loài người vào một
cơn lốc bạo lực mới, chưa biết khi nào có thể chấm dứt được. Vì vậy, giáo
dục, bồi dưỡng chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên và nhân dân ta hiện nay,
cần phải quán triệt cả ba nội dung nói trên, không được coi nhẹ một mặt
nào.
Trước khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã là một người yêu
nước nồng nhiệt. Con đường dẫn ông đến với chủ nghĩa Lênin cũng xuất
phát từ lòng yêu nước. Vì nóng lòng vbccứu nước, nên khi nhận thấy Quốc
tế 3 tuyên bố ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa bằng
những hành động cụ thể, thiết thực, còn Quốc tế 2 chỉ dừng lại trên lời nói,
nên ông đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế 3.


Tuy đã gia nhập hàng ngũ cộng sản, nhưng toàn bộ tâm niệm, ý chí và hoạt
động của ông Nguyển vẫn chỉ tập trung vào một mục tiêu duy nhất là cứu
nước, giải phóng dân tộc. Viên bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp e ngại trước
hoạt động hăng say của ông, đã triệu tập ông Nguyễn lên gặp, vừa đe dọa
vừa dụ dỗ, nhưng ông đã khảng khái đáp lại: “Tự do cho đồng bào tôi, độc
lập cho Tổ quốc tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, tất cả những gì tôi hiểu”[5].
Thời kỳ hoạt động ở Trung Quốc, vào giữa những năm 20 của thế kỷ trước,
có người hỏi: : “Ông là người cộng sản hay là người theo chủ nghĩa Tôn Dật

Tiên?”. –Ông trả lời: “Tôi vẫn là tôi ngày trước, một người yêu nước”[6]. Ông
Nguyễn luôn luôn công khai quan điểm và mục tiêu chính trị của mình. Ngay
từ năm 1924, tại Maxkva-trung tâm đầu não của Quốc tế CS, Nguyễn Ái
Quốc đã dõng dạc khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của
đất nước…Người ta sẽ không thể làm gì cho người An Nam nếu không dựa
trên cái động lực vĩ đại và duy nhất của họ”[7].
Cần hiểu đúng khái niệm chủ nghĩa dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc dùng ở đâynhư Mác đã nói- “không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản đã hiểu”.
Chủ nghĩa dân tộc bản xứ mà Nguyễn Ái Quốc đề cập chính là chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã được hun
đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Do sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương và
Việt Nam chưa diễn ra triệt để như ở phương Tây, các dân tộc thuộc địa còn
phải đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc, thì ở đó, đấu
tranh dân tộc vẫn là một động lực lớn của lịch sử.
Từ lập luận đó, Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về Cương lĩnh hành động của
Quốc tế cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc nhân danh Quốc tế cộng
sản…Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi,…nhất định chủ nghĩa dân tộc
ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế [8]. Điều này, hoàn toàn trùng hợp với ý
như Angghen đã nói: “Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào
công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính” [9].
Có thể thấy, xuất phát từ vị trí cùa người dân thuộc địa mất nước, từ truyền
thống dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá rất cao sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc, coi đó là một động lực lớn mà những người
cách mạng phải nắm vững và giương cao, không để ngọn cờ dân tộc bị lợi
dụng trong tay bất cứ lực lượng chính trị cơ hội nào khác.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, trả lời các nhà báo nước ngoài, CT
Hồ Chí Minh tuyên bố: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm
sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[10]. Đọc “Báo cáo chính



trị” tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951), Chủ tịch Hồ
Chí Minh một lần nữa lại khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc
bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất
cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[11]. Từ đó, Người yêu cầu Đảng phải ra sức
“phát triển tinh thần yêu nước của dân ta”, phải làm cho tinh thần đó “được
đem thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, bảo vệ độc lập dân
tộc, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ ta: “Hễ là người Việt Nam thì ai
cũng có lòng yêu nước, ghét giặc”. “Đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có
ít hay nhiều lòng ái quốc”[12], vì vậy phải ra sức phát triển nó lên. Nói chuyện
tại Hội nghị học tập của cán bộ ngành Tư pháp (1950), Người đã phát
biểu: “Trước hết phải đề cao lòng yêu nước, thương đồng bào, phải căm ghét
bọn thực dân xâm lược và bè lũ tay sai của chúng,…Nghĩ cho cùng, vấn đề tư
pháp, cũng như mọi vấn đề khác trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở
đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ,
bị áp bức. Phải làm sao đóng góp vào việc làm cho nước được độc lập, dân
được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ…”[13].
CT Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong việc phát huy tinh thần yêu nước
của nhân dân vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Người nói: “Sau 80 năm
bị đô hộ, cái gì ta cũng thiếu thốn, chỉ có lòng yêu nước của dân ta là dồi
dào”[14]. Để xây dựng nền tài chính quốc gia và ngân sách quốc phòng, ngày
4-9-1945, Người ký sắc lệnh đặt ra “Quỹ Độc lập” và gửi thư kêu gọi các tầng
lớp nhân dân hưởng ứng “Tuần lễ vàng” ủng hộ Chính phủ. Chỉ trong một
thời gian ngắn, từ 17 đến 24-9-1945, nhân dân cả nước, đặc biệt ở các thành
phố, đã tự nguyện đóng góp được 370 kg vàng, 20 triệu đồng (Tiền Đông
Dương) vào Quỹ Độc lập và 40 triệu đồng vào Quỹ đảm bảo quốc phòng. Đó
là biểu hiện của lòng yêu nước dồi dào và sốt sắng của nhân dân.
Để đẩy mạnh kháng chiến mau đến thắng lợi, năm 1948, CT Hồ Chí Minh

phát động “phong trào thi đua yêu nước”. Hưởng ứng lời kêu gọi và cổ vũ
của Người, một phong trào thi đua yêu nước sôi nổi đã rầm rộ phát triển
trong các ngành, các giới, các địa phương. Từ trong phong trào đó đã xuất
hiện những điển hình xuất sắc, được tuyên dương anh hùng lao động và
chiến sĩ thi đua toàn quốc, tiêu biểu như các anh hùng La Văn Cầu, Nguyễn
Thị Chiên, Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa,…
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã được
Người nâng cao lên một bước mới. Khẩu hiệu: “Không có gì quý hơn Độc


lập, Tự do” được CT Hồ Chí Minh đưa ra vào lúc đế quốc Mỹ đem máy bay
ra miền Bắc, ném bom, bắn phá, giết hại đồng bào ta, tàn phá đất nước ta.
Lời kêu gọi của lãnh tụ kính yêu đã có sức lay động mạnh mẽ, biến sức mạnh
của lòng yêu nước và chí căm thù của quân dân ta thành chủ nghĩa anh hùng
cách mạng vô song, đưa đến thắng lợi vĩ đại mùa xuân 1975, hoàn thành sự
nghiệp vẻ vang: giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Trước khi vĩnh biệt chúng ta, Người còn căn dặn lại trong Di chúc: “Mỗi địa
phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự
anh dũng hy sinh của các liệt sĩ để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho
nhân dân ta”.
CT Hồ Chí Minh đã để lại một danh ngôn bất hủ: “Các vua Hùng đã có công
dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Câu nói đó đã kết nối
chủ nghĩa yêu nước truyền thống với chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh thành
một thể thống nhất, trong sự phát triển liền mạch của chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam.
Tham gia vào hàng ngũ mácxít, đương nhiên Nguyễn Ái Quốc chấp nhận học
thuyết đấu tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nhưng
từ tiếp nhận đến vận dụng sáng tạo vào hoạch định đường lối chiến lược,
sách lược cho cách mạng Việt Nam lại phải biết xuất phát từ thực tiễn của
đất nước: trình độ phát triển kinh tế-xã hội, sự phân hóa giai cấp, mục tiêu

và tính chất của mỗi giai đoạn cách mạng,…không thể giáo điều, rập khuôn
theo một công thức sẵn có nào mà có thể giành được thắng lợi.
Các đảng cộng sản ở các nước tư bản phát triển chủ trương làm cách mạng
vô sản nên thường nhấn rất mạnh đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản.
Sau khi Lênin qua đời, dưới sự chỉ đạo của Stalin, nhất là từ sau Đại hội VI
Quốc tế Cộng sản năm 1928, phong trào cộng sản ngày càng rơi vào khuynh
hướng tả khuynh, hẹp hòi, biệt phái, đề cao bạo lực, không cho phép các
đảng CS được liên minh, hợp tác với các tổ chức dân chủ-xã hội và các lực
lượng trung gian khác,…nên đã không tranh thủ được sự ủng hộ của đông
đảo quần chúng, không đẩy được phong trào cách mạng vô sản ở châu Âu
tiến lên.
Ở Việt Nam-một nước thuộc địa nửa phong kiến- trước mắt phải làm cách
mạng giải phóng dân tộc, thắng lợi rồi mới có địa bàn để tiến lên làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa, mà dân tộc cách mạng thì chưa phân biệt giai cấp,
“sĩ, nông, công , thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Vì vậy, Người
rất coi trọng phát huy vai trò của mặt trận dân tộc thống nhất, trên nền tảng
liên minh công nông, ra sức tập hợp rộng rãi mọi thành phần yêu nước, tạo


nên sức mạnh vô địch, nhằm đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập,
thống nhất cho dân tộc.
Là người cộng sản, nhưng Nguyễn Ái Quốc lại không nhấn mạnh giai cấp
một chiều, đôi lần còn phê phán nhưng biểu hiện giáo điều, tả khuynh của
một số người mới học từ nước ngoài về: “Nghe người ta nói giai cấp đấu
tranh, mình cũng đề ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh
nước mình như thế nào để làm cho đúng”[15]. “Trong lúc cần toàn dân đoàn
kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc”[16].
Trong khi đó, Người lại hay nói nhiều đến Tổ quốc, đồng bào, con Hồng, cháu
Lạc ,…những câu chữ có sức lay động, thức tỉnh lòng yêu nước, thương nòi
của dân ta. Người viết “Lịch sử nước ta”[17], nêu cao những tấm gương yêu

nước lẫm liệt của cha ông từ buổi đầu dựng nước, chống lại sự xâm lược liên
tục, tàn bạo của bọn phong kiến phương Bắc, như Phù Đổng, An Dương
Vương, Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,…cho đến tên tuổi, công trạng của các vị
anh hùng chống thực dân xâm lược Pháp ở buổi đầu, như Hoàng Diệu,
Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa
Thám,…đồng thời không quên nhắc đến các cuộc khởi nghĩa khác như Thái
Nguyên (với Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến), Yên Bái (với Nguyễn Thái Học),
Bắc Sơn, Đô Lương (với Đội Cung), Nam Kỳ,...rồi kết luận:
Xét trong lịch sử Việt Nam,
Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng.
Nhiều phen đánh Bắc, dẹp Đông,
Oanh oanh liệt liệt, con Rồng, cháu Tiên.
Sau ngày Cách mạng thành công, trong “Tuyên ngôn Độc lập” hay trong
diễn văn đọc mỗi dịp kỷ niệm, bên cạnh tấm gương bất khuất của những
người cộng sản, Người vẫn không quên nhắc đến tên tuổi và công lao của các
bậc tiền bối khác, như Thủ khoa Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám,
Phan Bội Châu và nhiều người khác. Người coi bản “Tuyên ngôn Độc lập”
1945 “là hoa, là quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mạng đã hy sinh
của những người con anh dũng Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung,
trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường,…là kết quả của
bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân
Việt Nam”[18].


Có thể thấy, với Hồ Chí Minh, yêu nước không phải là độc quyền của riêng
ai, mà là phẩm chất quý báu của mọi tầng lớp nhân dân, vì vậy chúng ta phải
làm mọi cách để cho tinh thần yêu nước ấy phát triển lên, được đem ra thực
hành vào công cuộc xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Đề cao lòng yêu nước, CT Hồ Chí Minh cũng đồng thời chỉ rõ: “Tinh thần

yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần “vị quốc”…Nó là một bộ phận
của tinh thần quốc tế”[19]. Là một người yêu nước, Người không chỉ quan
tâm đến số phận của dân tộc mình mà còn quan tâm đến số phận của tất cả
những “người cùng khổ” trên trái đất này: ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc
lập của nhân dân Airơlen, bênh vực quyền sống của những người Mỹ da đen,
lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân gây ra ở Đahômây, Angiêri,
Mađagaxca,…
Khi trở thành đảng viên cộng sản Pháp, Người đã kiến nghị với Đảng lập
ra Ban Nghiên cứu Thuộc địa, xuất bản báo Le Paria, tham gia sáng lập Hội
liên hiệp thuộc địa, kiến nghị với báo L’Humanité mở chuyên mục thường
xuyên về vấn đề thuộc địa. Tên tuổi Nguyễn Ái Quốc trên các bài báo tại
Pháp đã dần dần trở nên quen thuộc với các dân tộc bị áp bức đang đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân, đòi độc lập dân tộc.
Thời kỳ hoạt động ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã cùng với một số nhà
cách mạng châu Á, như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, Triều Tiên,
Inđônêxia, Miến Điện,…thành lập “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á
Đông”, nhằm tăng cường đoàn kết, ủng hộ lẫn nhau trong đấu tranh chống
kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Ngày 16-9-1925, khi nổ ra cuộc bãi công
lớn của hơn 20 vạn công nhân Hương Cảng, bỏ về Quảng Châu, Người đã
nhiệt tình ủng hộ cuộc đấu tranh này, ngày đêm đi diễn thuyết, cổ vũ công
nhân kiên trì bãi công cho đến khi thắng lợi. Báo “Con đường công nhân” ra
số đặc biệt ngày ấy, đã có bài viết ca ngợi “Người An Nam tham gia đội tuyên
truyền”, coi đó là một biểu hiện cao đẹp của tinh thần quốc tế trong sáng[20].
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, noi theo chủ nghĩa quốc tế
cao cả của Hồ Chí Minh, coi “giúp bạn là tự giúp mình”, bao thế hệ thanh
niên ta đã chiến đấu và hy sinh vì sự nghiệp giải phóng của nhân dân hai
nước anh em Lào và Campuchia.
Tuy nhiên, tấm gương kết hợp hài hòa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh không phải
thời nào cũng được hiểu đúng và nêu cao, trái lại có lúc từng bị ngộ nhận là

đã xa rời học thuyết đấu tranh giai cấp, rơi vào chủ nghĩa quốc gia-dân tộc
tư sản,…bản thân Người cũng bị vô hiệu hóa và bỏ rơi trong hàng chục năm!


Nhà sử học Trần Huy Liệu, một chiến sĩ cách mạng, từ hoạt động yêu nước
trở thành người cộng sản, trong “Hồi ký”- chương viết về thời kỳ Mặt trận
Dân chủ 1936-1939- đã sớm phát hiện ra nhược điểm tả khuynh này: “Chúng
ta chủ trương làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, nhưng trên báo chí của
chúng ta hồi ấy…đều chỉ nói đến giai cấp mà không nói đến dân tộc,…không
phối hợp tinh thần yêu nước chân chính với chủ nghĩa vô sản quốc tế. Những
tiếng “Đồng bào”, “Tổ quốc” không từng có trên các báo chí, trong cuộc nói
chuyện hay trong truyền đơn. Gặp những ngày kỷ niệm quốc tế, như ngày
Lao động 1-5, ngày Phụ nữ 8-3, ngày chống chiến tranh đế quốc 1-8, ngày
Cách mạng tháng Mười 7-11, …các báo của ta thường ra những số đặc biệt
với nhiều công phu, nhưng còn những ngày kỷ niệm lớn của dân tộc thì
không hề nói động gì đến. Đọc báo “Tin tức”, rất nhiều người truyền tụng
bài thơ của Dương Lĩnh nói về cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha,…nhưng không
có một bài thơ ca nào nói đến chiến công chống ngoại xâm của dân tộc
ta” [21].
Hiện nay, khuynh hướng đó chưa phải đã hoàn toàn được khắc phục. Trong
xử lý mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, mặt giai cấp hiện vẫn được ta coi
trọng hơn; mặt dân tộc, kể cả chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, vẫn còn ít
được nêu cao và phát huy đúng với tầm quan trọng của nó. Các anh hùng
dân tộc lỗi lạc, các cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm tiêu biểu trong lịch sử
dân tộc còn ít được ta kỷ niệm và vinh danh.
Nói đúng ra, chúng ta vẫn chưa theo được tấm gương và cách làm của Hồ
Chí Minh, chưa thực sự gắn kết hài hòa giai cấp với dân tộc. Tại Đại hội II
1951, khi Đảng Lao động Việt Nam ra công khai, Người đã nói: “Trong giai
đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân
tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân

và nhân dân lao động cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”[22].
Sau này, nhiều lần Người vẫn thường nhắc lại: “Đảng ta là đội tiên phong, là
bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân
tộc”[23]. Chính vì chưa nhận thức đầy đủ sức mạnh của giai cấp nằm trong
sức mạnh của dân tộc, quá thiên về mặt giai cấp, khiến cho khuynh hướng
cơ hội giáo điều, “tả” khuynh vẫn chưa được tẩy sạch, còn ảnh hưởng nhất
định đến sự củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thúc đẩy tiến trình hòa giải,
hòa hợp dân tộc.
CT Hồ Chí Minh từng nhắc nhở: “Phải hiểu rằng tình hình khách quan thay
đổi hàng giờ, hàng phút; một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã
không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng, hành vi của
ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình
thế…”[24].


Sau chuyến thăm nước Mỹ về, khi tiếp xúc với cử tri Hà Nội, trong một phút
cởi mở, TBT Nguyễn Phú Trọng cho biết: Tổng thống Mỹ đã có thư mời ông
sang thăm Hoa Kỳ từ tháng 7-2012, nhưng phải ba năm sau, chuyến đi mới
được thực hiện! Điều đó cho thấy, một mặt ta còn phải cân nhắc rất thận
trọng mỗi bước đi trong chính sách đối ngoại ở bối cảnh quốc tế phức tạp
hiện nay, đồng thời cũng cho thấy còn phải có thời gian để thuyết phục lẫn
nhau trong nội bộ. Việc ta gia nhập WTO chậm đi mất 10 năm, cũng chủ yếu
là do những lực cản từ bên trong.
Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn nữa về chủ nghĩa yêu
nước Hồ Chí Minh, đó là sự thống nhất, hài hòa chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội-một chủ nghĩa xã hội “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, hướng theo những giá trị
chung mà nhân loại đang theo đuổi. Trên lập trường bất biến đó, Người có
thể linh hoạtứng biến trước mọi thay đổi của tình hình khách quan. Đó cũng
là học thuyết “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh.

II.

VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC HÌNH
THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Ảnh hưởng của chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất
trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đối với sự hình
thành,phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta, ra đời từ rất sớm
cùng với sự ra đời của nhà nước Văn Lang từ thời thượng cổ và trở thành dòng chủ
lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm của
bản thân lịch sử Việt Nam, do chính con người Việt Nam qua các thế hệ tạo dựng và
trở thành sức mạnh nội sinh giúp dân tộc ta vượt qua muôn ngàn thử thách trong
chống giặc ngoại xâm và thiên tai, bảo vệ sự trường tồn của dân tộc trong mấy nghìn
năm dựng nước và giữ nước.
Do là một nước nhỏ, lại nằm ở vị trí địa lý có giá trị chiến lược về kinh tế, quân
sự, ngoại giao và giàu có về tài nguyên, khoán sản, “rừng vàng, biển bạc”, nên từ thời
cổ đại cho đến hiện đại nước ta luôn bị các thế lực ngoại bang gây chiến tranh xâm
lược và chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta. Trải qua rất nhiều cuộc “đụng đầu
lịch sử” với các thế lực lớn, mạnh hơn ta gấp nhiều lần trong gần 12 thế kỷ đã hung
đút và bồi đắp nên chủ nghĩa yêu nước cho dân tộc Việt Nam. Đồng thời, đất nước ta tuy
phì nhiêu, trù phú nhưng cũng lắm thiên tai, hạn hán, bão lụt. Từ rất sớm, nhân dân ta đã
biết đắp đê để chống lũ lụt, đào kênh mương, làm thủy lợi để chống hạn hán...Tất cả
những thành tựu đó trong quá trình xây dựng quê hương đều thắm đượm mồ hôi, nước
mắt và xương máu của bao thế hệ, vì thế mà người Việt Nam rất nặng tình, nặng nghĩa
với quê hương, xứ sở của mình. Cho thấy, chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất
khuất của dân tộc Việt Nam không những được hình thành trong đấu tranh chống giặc
ngoại xâm mà còn là sản phẩm của hàng nghìn năm chống chọi với thiên tai để xây dựng
và phát triển đất nước.
Hình thành từ rất sớm và được bồi đắp liên tục trong thử thách của mấy nghìn

năm lịch sử, chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam


có sức sống mãnh liệt, trường tồn với thời gian. Bởi nó đã ăn sâu, bám rễ trong tiềm
thức của con người Việt Nam. Yêu nước là tình cảm lớn nhất, bao trùm nhất, trở thành lẽ
sống, thành tư duy chính trị và hành động ứng xử tự nhiên của mỗi người Việt Nam. Với
người Việt Nam, không có gì quan trọng hơn là Tổ quốc được độc lập, thống nhất, không
một ai và lý thuyết nào có thể kéo người Việt Nam ra khỏi trách nhiệm đối với đất nước.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không tách rời “nước” với “dân”, “nước” là nước của
“dân” nên yêu nước luôn gắn liền với thương dân.
Chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh dựng nước
và giữ nước của dân tộc Việt Nam được biểu hiện rõ nét nhất qua lịch sử hào hùng của
dân tộc. Bên cạnh đó, chủ nghĩa yêu nước còn được biểu hiện qua bản sắc văn hóa của
dân tộc luôn được bảo tồn, phát triển từ văn hóa dân gian cho đến văn hóa bác học, từ
những nhân vật truyền thuyết như Thánh Gióng đến các tên tuổi sáng ngời trong lịch
3
sử như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang
Trung,…đều phản ánh hùng hồn chân lý đó. Chủ nghĩa yêu nước còn được biểu hiện ở
mỗi con người Việt Nam yêu nước, luôn mang trong lòng niềm tự hào dân tộc, sự kế
thừa và phát huy nó trong điều kiện đất nước có chiến tranh và trong cả thời bình.
Theo dòng chảy lịch sử, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được lưu truyền và phát
triển qua các thế hệ, là “dòng sữa” nuôi dưỡng tâm hồn, bản lĩnh và trí tuệ của con
người Việt Nam, là động lực tinh thần chủ yếu tạo nên sức mạnh to lớn của dân tộc để
xây dựng và bảo vệ đất nước trong mọi thời đại. Chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên
cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam vì thế đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình
thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tình yêu quê hương, đất nước đã nảy nở trong tâm hồn Hồ Chí Minh từ thuở
nhỏ qua ảnh hưởng của gia đình, quê hương và đất nước. Sinh ra trong một gia đình
nhà nho yêu nước, Nguyễn Sinh Cung sớm thấu hiểu sự cao đẹp của tình yêu quê
hương, đất nước qua lời dạy của người cha, lời ru của mẹ và từ tấm gương sáng ngời

về lòng yêu nước, thương dân của thân phụ, thân mẫu. Đặc biệt, Người sinh ra, sống
tuổi thơ tại quê hương Nam Đàn, xứ Nghệ, một vùng quê có “một bề dày lịch sử” yêu
nước, chống giặc ngoại xâm và là cái nôi sản sinh ra các anh hùng, hào kiệt cho đất
nước. Cũng tại nơi đây, Bác trực tiếp nếm trải tình cảnh người dân của một nước nô lệ;
đau xót trước cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp, bị bóc lột cùng cực của đồng bào mình
ngay trên mảnh đất quê hương và tận mắt chứng kiến thái độ ươn hèn, bạc nhược của
bọn quan lại triều đình, những thất bại của các phong trào cách mạng.
Với lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến, Nguyễn Tất Thành đã trăn trở về sự
bế tắc đường lối cứu nước của dân tộc ta và quyết chí ra đi tìm một con đường cứu nước
mới cho dân tộc. Lúc ấy, Người khẳng định rõ mục đích của chuyến đi: “Tôi muốn ra
nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác, sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi
sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”[49, tr.3]. Cho thấy, tình cảm yêu nước trong Hồ Chí
Minh đã được hiện thực hóa bằng ý chí và hành động tìm đường cứu nước. Chủ nghĩa
yêu nước không những là động lực chủ yếu thúc đẩy Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước mà còn giúp Người xác định hướng đi và cách đi đúng, đó là đi về phương
Tây và đi bằng con đường lao động. Người hiểu rõ, chỉ có đi sang phương Tây, mà
trước hết là sang Pháp mới hiểu rõ kẻ thù của dân tộc mình và chỉ có đi bằng con đường
lao động thì mới đi được xa và được lâu. Thực tế, nếu không có tấm lòng yêu nước
nồng nàn và một ý chí kiên cường, bất khuất thì làm sao Nguyễn Tất Thành dám dấn
thân “vào hang cọp mới bắt được cọp” như thế được.
Chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Tất Thành đến được với chủ nghĩa Mác Lênin, tìm
thấy lời giải đáp đầy thuyết phục về con đường cứu nước và giải phóng dân


tộc. Chính tình yêu nước vô bờ bến đó đã không kìm nén được cảm xúc của Người khi
bắt gặp Luận cương của Lênin. Sau này, Người kể lại: “Luận cương của Lênin làm tôi
rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên.
Ngồi một mình trong buồng kín mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông
đảo: Hởi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
4

đường giải phóng chúng ta”[39, tr. 127]. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Lúc đầu, chính chủ
nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa công sản đã đưa tôi theo Lênin, vừa làm công
tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ”[39, tr.128]. Qua đó cho thấy, chủ nghĩa yêu nước kết tinh trong Hồ Chí Minh là
cầu nối giữa Người với chủ nghĩa Mác - Lênin - Nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định
đến bản chất cách mạng và khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh.
Các giá trị truyền thống dân tộc còn là động lực chủ yếu chi phối mọi suy nghĩ,
hành động của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Bác
lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, chính là tự đặt cho mình nhằm nhắc nhở Người và đồng
bào luôn luôn yêu nước, suốt đời phấn đấu vì nước, vì dân. Thật vậy, suốt cuộc đời
Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặt, ai cũng
được học hành. Đến khi sắp về cỏi vĩnh hằng, trong bản Di chúc lịch sử, Người viết:
“Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc
không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”[26, 512].
Như vậy, chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là một truyền thống quý báu, là động lực tinh thần
to lớn góp phần vào sự trường tồn của dân tộc và sự phồn vinh của đất nước. Đồng thời,
các giá trị ấy, đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với cách nhìn biện chứng cho thấy, nếu như không có chủ nghĩa yêu nước là động lực
để Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước thì sẽ không đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin
và từ đó không thể có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa yêu nước như con thuyền lớn
đã đưa Bác đến được với chủ nghĩa Mác – Lênin và tìm thấy con đường cứu nước đúng
đắn cho dân tộc.

HỒ CHÍ MINH KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY CHỦ NGHĨA YÊU
NƯỚC TRONG TÌNH HÌNH MỚI
3.1 Điều kiện lịch sử- xã hội Việt Nam và thế giới


III.

3.1.1 Hồ Chí Minh luôn đề cao giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước các giá trị truyền thống dân
tộc Việt Nam theo thời gian đã trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, làm
cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn
và phát triển của dân tộc. Đồng thời, các giá trị truyền thống đó luôn là niềm tự hào
lớn lao của người Việt Nam nói chung và đối với Hồ Chí Minh nói riêng.
Theo Hồ Chí Minh, các giá trị truyền thống dân tộc là sức mạnh tinh thần to lớn
của Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước qua các thời kỳ lịch sử. Trong
các giá trị truyền thống ấy, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, coi đó là một chân lý bất diệt: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần
ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước...Chúng ta có


quyền tự hào về những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo,
Lê Lợi, Quang Trung…Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì
các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”[35, tr.171].
Hồ Chí Minh nhận định chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và nó cũng giữ nguyên giá trị trong thời kỳ xây
dựng đất nước. Chủ nghĩa yêu nước thời bình được thể hiện bằng sự phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội, dân giàu, nước mạnh. Nó thể hiện trong phong trào thi đua của những
người lao động tiên tiến, trong cuộc đấu tranh cho sự công bằng và tiến bộ xã hội, cho
sự tổ chức công việc một cách khoa học… Nó còn biểu hiện qua sự đấu tranh không
khoan
nhượng
đối

với
những
khuyết
điểm,
thiếu
sót.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng rất đề cao truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết
của dân tộc ta. Người khẳng định đoàn kết là quy luật sống còn đối với dân tộc: “Sử ta
dạy ta rằng: lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tư do,
trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”[42, tr. 217]. Theo Hồ
Chí Minh, đoàn kết là sức mạnh vô địch, là cơ sở nền tảng, là điều kiện tất yếu đưa sự
nghiệp kháng chiến đi đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công. Người cho rằng, đoàn
kết mới có lực lượng tiến hành cách mạng, theo đó đoàn kết càng chặt chẽ thì sức
mạnh càng cao, đoàn kết càng rộng rãi thì thắng lợi càng vĩ đại. Từ nhận thức giá trị
truyền thống đoàn kết nên Bác luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết, coi đó là
chiến lược lâu dài của cách mạng Việt Nam và là cội nguồn sức mạnh chiến thắng mọi
kẻ thù xâm lược. Bác khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công”[40, tr. 350]. Trong kháng chiến chống Pháp, Người chỉ
rõ: Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh tổ quốc,
15
dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng
phải thất bại. Đến thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, Người tiếp tục khẳng định:
“Đoàn kết là sức mạnh vô địch của chúng ta…Dù giặc Mỹ hung ác đến đâu, sức mạnh
đoàn kết vĩ đại của chúng ta sẽ đánh thắng chúng”[42, tr. 287].
Theo Người, sức mạnh đoàn kết không chỉ tất thắng trong kháng chiến mà còn
tất thắng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vì thế, Hồ Chí Minh luôn
chăm lo xây dựng khối đoàn kết toàn dân để phát triển kinh tế, văn hóa, giáo
dục…Người kêu gọi: “Các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể, các tôn giáo, các dân
tộc, các nhân sỹ tiến bộ, đã đoàn kết phải đoàn kết hơn nữa, cùng nhau đẩy mạnh
phong trào thi đua yêu nước, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, làm cho công

cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chúng ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững
chắc”[40,
tr.
348].
Ngoài ra, Hồ Chí Minh luôn xem trọng truyền thống lạc quan, yêu đời; truyền
thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo và hiếu học của dân tộc Việt Nam.
Người không những là tấm gương sáng về tinh thần lạc quan, yêu đời, cần cù, dũng
cảm, thông minh sáng tạo và hiếu học, đồng thời, Người cũng luôn quan tâm giáo dục
cho mọi người tiếp thu, lĩnh hội và hiện thực hóa các giá trị truyền thống ấy trong thực
tiễn cuộc sống và hoạt động cách mạng. “Đồng chí Hồ Chí Minh là một chiến sĩ cộng
sản kiên cường, một người theo chủ nghĩa quốc tế, đồng thời là một người tượng trưng
cho dân tộc mình - Một dân tộc anh hùng, yêu hòa bình, có lòng tự hào chính đáng và
có tinh thần độc lập tự chủ, một dân tộc khiêm tốn thực sự và hết sức coi trọng những
giá trị tinh thần - Một vị lãnh tụ mất mà để lại bản “Di chúc” căn dặn đồng bào phải
giữ gìn những giá trị đó. Lời hiệu triệu cuối cùng của Người là một văn kiện có sức
mạnh
tinh
thần

gây
xúc
động
lớn
lao”[14,
tr.
289].
Nhận thấy rõ sức mạnh to lớn của các giá trị truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh
khẳng định: “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc
nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối…cũng chủ

nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp
và người Trung Quốc; nó đã thúc dục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách
mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khỡi nghĩa năm 1917”[28,
tr.466]. Chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh nói đến đó chính là chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Thực vậy, “Giá


trị truyền thống dân tộc là một sức mạnh vĩ đại không thể xem thường. Huy động các
gái trị của truyền thống để làm cách mạng và kháng chiến hiện đại, là huy động sức
mạnh của hàng mấy mươi thế kỷ, là mấy mươi thế kỷ tổ tiên ông cha ta cổ vũ và trợ
chiến
cho
con
cháu
hoàn
thành
sự
nghiệp
dân
tộc”[14,
tr.52].
Tự hào về các giá trị truyền thống dân tộc là cơ sở quan trọng để xây dựng niềm
tin vào khả năng của con người Việt Nam. Bởi vì, hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ các
giá trị truyền thống dân tộc vốn đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi con người Việt
Nam. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã rèn luyện và hun đúc nên những
thế hệ con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, sẵn sàng xả thân để cứu nước, đoàn kết,
16
thủy chung, thông minh, sáng tạo, có tinh thần chịu đựng gian khổ, khó khăn... Những
đức tính đó đã trở thành truyền thống mà hàng ngàn đời nay, những thế hệ con người
Việt Nam đã nâng niu, gìn giữ và nó đã nuôi dưỡng, làm lớn lên những giá trị tinh thần

cao quý trong mỗi con người Việt Nam. Đây chính là nguồn lực vô tận để đưa đất nước
vượt qua mọi thử thách, vững bước tiến lên. Chính vì thế trong hoàn cảnh đen tối nhất,
Hồ Chí Minh vẫn lạc quan tin tưởng sâu sắc vào sức mạnh của dân tộc: “Sự đầu độc có
hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê
liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương…Đằng sau sự phục tùng tiêu cực,
người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách
ghê gớm, khi thời cơ đến”[25, tr. 28].
2.2.2. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị truyền thống
dân
tộc
Việt
Nam
Các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam sở dĩ vẫn tồn tại và phát triển bền
vững qua hàng nghìn năm lịch sử với nhiều biến cố chính là do các thế hệ người Việt
Nam không ngừng ra sức bảo vệ, giữ gìn. Khi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ tiến hành
chiến tranh xâm lược các nước thuộc địa nói chung và nước ta nói riêng, chúng đã thi
hành chính sách cai trị dã man và thâm độc trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội Việt Nam.
Chúng không những muốn hủy điệt tất cả sự sống của đất nước mà còn hòng thủ tiêu các
giá trị truyền thống của dân tộc để dễ bề cai trị. Bên cạnh thực hiện chính sách “chia để
trị”, “ngu dân dễ trị”, đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc phiện, thủ tiêu tinh thần đấu
tranh của nhân dân… chúng còn ngăn chặn mọi ảnh hưởng của nền văn hóa dân chủ tiến
bộ trên thế giới vào Việt Nam, đem văn hóa phản động, trụy lạc nhồi sọ nhân dân ta.
Trong khi đó bọn chúng vẫn hô hào khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái”, “khai phá văn
minh”
để
che
đậy
bản
chất
xấu

xa
đó
của
mình.
Phát huy tinh thần của dân tộc, nhận diện rõ âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, hơn
ai hết Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc
trong điều kiện mới. Theo Người, đó chính là cơ sở để phát huy sức mạnh của dân tộc
trong kháng chiến và kiến quốc. Thông qua đó sẽ khơi dậy và làm sống lại các giá trị
truyền thống trong mỗi con người Việt Nam; đấu tranh loại bỏ các văn hóa xấu độc
của kẻ thù, văn hóa lỗi thời, lạc hậu của chế độ củ; xây dựng một nền văn hóa mới có
tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Nói chung là phải biết kết hợp giữa xây và
chống,
trong
đó
“xây”

nhiệm
vụ
chủ
yếu

lâu
dài.
Để bảo vệ và giữ gìn có hiệu quả các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Hồ
Chí Minh yêu cầu mỗi người mà nhất là cán bộ, đảng viên trước hết phải hiểu biết về
lịch sử: “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Bởi vì, người ta
chỉ bảo vệ những cái gì người ta biết. Các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam được
hình thành và phát triển qua từng giai đoạn lịch sử nhất định cho nên chỉ trên cơ sở hiểu
biết về lịch sử mới có thể cảm nhận đầy đủ và sâu sắc giá trị của truyền thống dân tộc
Việt Nam. Hồ Chí Minh từng cảnh báo: “Coi chừng, có nhiều người Việt Nam lại

không hiểu rõ lịch sử, đất nước, con người và những cái vốn rất quý báu của mình bằng
người nước ngoài”[43, tr. 557]. Trên thực tế, Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài báo, tài liệu
17
tuyên truyền, nói chuyện ở nhiều nơi, mở nhiều lớp bồi dưỡng, huấn luyện để giáo dục
truyền thống. Trong đó Người chú trọng khơi dậy truyền thống yêu nước của dân tộc


thông qua các tấm gương cụ thể như: “Người già như ông Lý Thường Kiệt quá 70 tuổi
mà vẫn đánh Đông, dẹp Bắc, bao nhiêu lần đuổi giặc cứu dân. Thiếu niên như Đổng
Thiên Vương chưa đến 10 tuổi mà đã ra tay cứu nước, cứu nòi. Trần Quốc Toản mới
15, 16 tuổi đã giúp ông Trần Hưng Đạo đánh phá giặc Nguyên. Phụ nữ có Bà Trưng, Bà
Triệu
ra
tay
khôi
phục
giang
san”[42,
tr.
216].
Bảo vệ, giữ gìn giá trị truyền thống dân tộc không có nghĩa là cất giữ khư khư
mà theo Người, phải biết khơi dậy biến nó thành hành động trên thực tế: Tinh thần yêu
nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong cửa kính, trong bình pha
lê, rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín trong giương, trong hòm, bổn
phận của chúng ta là làm cho những của quý (kín đáo ấy) đều được đưa ra trưng bày.
Đồng thời, theo Hồ Chí Minh bảo vệ và giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc
không có nghĩa là đóng cửa, khép kín mà phải đi đôi với tiếp thu các giá trị văn hóa
nhân loại xưa và nay. Bởi vì, nếu không mở mang đầu óc với thế giới bên ngoài thì
sớm hay muộn sẽ suy thoái. Theo Người, cái gì bổ ích và cần thiết, cái gì tốt và hay thì
ta phải học lấy, tiếp nhận để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa hợp với

khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân. Nói như vậy để thấy không phải
mọi thứ mới lạ đều bổ ích. Cái gì mới mà hay thì tiếp thu, còn cái mới mà lai căng,
xấu xa thì cương quyết loại bỏ. Thực tiễn về sự thất bại của các phong trào yêu nước
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cho thấy chủ nghĩa yêu nước truyền thống không phát huy
sức mạnh để chiến thắng kẻ thù. Nhưng chủ nghĩa yêu nước đó, trong thời đại Hồ Chí
Minh đã được nâng lên một tầm cao mới và trở thành sức mạnh to lớn của dân tộc làm nên
chiến thắng vĩ đại. Vì “ở Người, tinh hoa của dân tộc được kết hợp với chủ nghĩa Mác Lênin
- đỉnh cao của tư tưởng loài Người trong thời đại mới”[14, tr. 287].
2.2.3. Hồ Chí Minh coi trọng việc kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống
dân
tộc
Việt
Nam
lên
tầm
cao
mới
Là một anh hùng giải phóng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, Hồ Chí
Minh không những có công lao to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người mà còn có vai trò quan trọng trong kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống dân tộc lên một tầm cao mới. Hồ Chí Minh đã “khơi dậy
những tiềm năng bị chôn vùi, phát huy những sức mạnh sẳn có, làm nảy nở những cái
mới, cái hay, cái đẹp của cả dân tộc và trong mỗi con người”[10, tr. 27]. Chính điều đó
đã “làm cho tất cả những gì tốt đẹp của dân tộc trong bốn nghìn năm lịch sử đều sống
dậy tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ hết trong thời đại Hồ Chí Minh”[14, tr. 288].
Các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam dù đã khẳng định sức mạnh to lớn
trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy nhiên, khi thực dân Pháp tiến
hành xâm lược và đặt ách thống trị lên đất nước ta thì các giá trị truyền thống ấy đã bộc
lộ những hạn chế trước yêu cầu của lịch sử trong thời cận hiện đại. Sự thất bại của
phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến hay hệ tư tưởng tư sản chứng tỏ chỉ

có lòng yêu nước thôi thì chưa thể giải phóng được dân tộc, đòi hỏi chủ nghĩa yêu nước,
18
truyền thống đoàn kết và các giá trị truyền thống khác của dân tộc phải có sự phát triển
phù hợp với thời đại mới. Vậy đứng trước yêu cầu cấp bách đó, Hồ Chí Minh đã kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc lên tầm cao mới như thế nào?
Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất
khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc lên một tầm cao mới.
Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống lên một
trình độ cao, khác về chất, đó là yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân. Chỉ có
yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân thì chủ nghĩa yêu nước mới phát huy
tối đa sức mạnh. Vì chủ nghĩa yêu nước luôn phản ánh tính chất giai cấp sâu sắc. Trong
khi đó, giai cấp công nhân là sản phẩm của thời đại mới, là giai cấp tiên tiến nhất, triệt
để cách mạng nhất và là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo quần chúng nhân
dân lao động lật đổ chủ nghĩa tư bản xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới. Giai cấp công nhân Việt Nam, tuy còn nhỏ bé trong điều kiện nước thuộc
địa, nhưng ngoài đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân
Việt Nam còn được kế thừa chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, lại sớm tiếp thu ánh sáng
chủ nghĩa Mác - Lênin và rất gần gũi với nông dân, nên Hồ Chí Minh khẳng định, chỉ


có giai cấp công nhân Việt Nam mới có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng đi đến thắng
lợi. Do vậy chủ nghĩa yêu nước chỉ trên lập trường của giai cấp công nhân mới phát huy
sức mạnh chiến thắng kẻ thù vốn là một lực lượng có tính quốc tế. Người chỉ rõ: vấn đề
dân tộc phải được giải quyết trên lập trường giai cấp công nhân; độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Theo Người, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ”[39, tr. 128]. Từ đó, Bác yêu cầu: “Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với
yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình ngày một no ấm
thêm,
tổ

quốc
ngày
một
giàu
mạnh
thêm”[38,
tr.173].
Trên cơ sở kế thừa và có sự phát triển chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã
triệt để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. Tinh thần đó
được thể hiện khi xác định mục tiêu của cách mạng ngay trong cương lĩnh đầu tiên
do Người soạn thảo: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” hay tinh thần “dù
đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải đấu tranh giành cho kỳ được độc lập dân tộc”.
Theo Người “ Hể còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục
chiến đấu, quét sạch nó đi”. Khi nền độc lập bị huy hiếp thì “Thà hy sinh tất cả chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Người chỉ ra, vấn
đề trước mắt cho các nước thuộc địa ở phương Đông không phải là làm ngay một
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà trước hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc,
sau đó mới có điều kiện tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì theo Hồ Chí
Minh, dân tộc chưa được giải phóng thì giai cấp cũng chưa được giải phóng; Giải
phóng dân tộc là điều kiện, tiền đề để giải phóng giai cấp; độc lập dân tộc là tiền đề
đi
lên
xây
dựng
chủ
nghĩa

hội.
Đồng thời, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước thống nhất với chủ nghĩa quốc
tế của giai cấp công nhân. Trước việc kẻ thù tuyên truyền chủ nghĩa chủng tộc, chủ

19
nghĩa dân tộc cực đoan, thói kỳ thị màu da, tiếng nói, phong tục, tập quán... để chia rẽ
giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ ra cách mạng vô sản phải thực hiện triệt để tư
tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
Từ đó, muốn giải phóng mình thì nhân dân “bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn
kết
lại

chống
bọn
áp
bức”[24,
tr.452].
Qua đó cho thấy, chủ nghĩa yêu nước trong thời đại Hồ Chí Minh đã được nâng
lên một tầm cao mới, khác về chất so với chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Chủ nghĩa
yêu nước truyền thống dựa trên lập trường của giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản chỉ
hướng tới giải phóng dân tộc chứ chưa hướng tới giải phóng giai cấp, giải phóng con
người; độc lập cho dân tộc chưa gắn liền với ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân
dân…rõ ràng như thế không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới và không
cho phép phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế để chống lại kẻ thù
chung là chủ nghĩa đế quốc. Kế thừa có chọn lọc và phát triển chủ nghĩa yêu nước
trong thời đại mới, Hồ Chí Minh khơi dậy truyền thống yêu nước của dân tộc, biến nó
thành sức mạnh vật chất to lớn, “làm cho tinh thần yêu nước của mọi người đều được
thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[35, tr. 172].
Bên cạnh đó, ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất của dân tộc cũng được Hồ
Chí Minh phát huy tối ta trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong kháng
chiến chống Pháp, Người nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn
nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi,
nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”[41, tr.108]. Trong

kháng chiến chống Mỹ, Người cũng khẳng định ý chí và quyết tâm chiến thắng kẻ thù:
“Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh
nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi
hoàn
toàn”[44,
tr.
510].
Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết của dân
tộc
lên
tầm
cao
mới.
Hồ Chí Minh cũng luôn coi trọng việc kế thừa và phát triển truyền thống đoàn
kết dân tộc, Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của


Đảng và nhân dân ta”[44, tr. 510]. Kế thừa truyền thống đoàn kết của dân tộc nhưng tư
tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh đã có sự phát triển phù hợp với thực tiễn của đất
nước và yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Nếu như trước đây, dân tộc ta chỉ quan tâm xây
dựng khối đoàn kết toàn dân thì trong thời đại Hồ Chí Minh đoàn kết được phát triển ở
phạm vi rộng hơn bao gồm: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc
tế. Điều đó cho phép Đảng và Bác Hồ không những huy động sức mạnh dân tộc mà
còn huy động sức mạnh của thời đại để thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách mạng.

3.2 Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước lên tầm cao
mới
chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ
nước. Đây là một trong những tài sản có giá trị nhất trong hành trang
của Hồ Chí Minh lúc ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Nó là cơ sở

xuất phát, là động lực, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của Người. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã có quá trình lịch sử
hàng ngàn năm với nội dung phong phú và sâu sắc như: yêu nước gắn
liền với yêu quê hương, yêu con người Việt Nam, yêu truyền thống văn
hóa quý giá. Thời kỳ phong kiến, yêu nước có nội dung trung quân ái
quốc, lợi ích giai cấp thống trị phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động
trong sự nghiệp chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh đã làm phong phú nội dung của chủ nghĩa yêu nước. Yêu
nước đối với Người là gắn liền với yêu nhân dân. Người nói, lòng thương
yêu nhân dân và nhân loại của Người không bao giờ thay đổi…Người có
một ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được độc lập, dân ta có cơm
ăn, áo mặc và được học hành. Người đã nêu ra chuẩn mực “trung với
nước, hiếu với dân” và phát triển những nội dung mới của chủ nghĩa yêu
nước. Đó là yêu nước dựa trên quan điểm giai cấp công nhân, yêu nước
mở rộng ra thành tình yêu vô cùng rộng lớn đối với nhân dân lao động,
những người cùng khổ, đối với giai cấp công nhân các nước trên thế giới.
Trên cơ sở tư tưởng của giai cấp công nhân, Người đã nêu ra nội dung
mới: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì chỉ
có chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mới ngày một ấm no thêm, Tổ
quốc
ngày
một
giàu
mạnh
thêm.
Trong các giá trị truyền thống Việt Nam, tinh thần nhân nghĩa, truyền
thống đoàn kết, tương thân, tương ái là những nét hết sức đặc sắc.
Truyền thống này hình thành một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn
cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm.
Người Việt Nam gắn bó với nhau trong tình làng, nghĩa xóm. Hồ Chí

Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng
sức, đồng lòng, đồng minh). Người thường nhấn mạnh, nhân dân ta đã
từ lâu sống với nhau có tình có nghĩa. Tình nghĩa ấy được Người nâng


lên cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm
châu bốn biển một nhà. Ngay cả khi tiếp thu lý luận Mác-Lênin-đỉnh cao
của trí tuệ nhân loại-cũng phải trên nền tảng của giá trị truyền thống.
Người nhấn mạnh: Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có
tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu kinh sách mà sống không có tình
nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được…Tư tưởng đại nhân,
đại nghĩa ở Hồ Chí Minh là phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì
tự do, hạnh phúc của con người, là cứu nước, độc lập, tự do và chủ nghĩa
xã hội, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển. Trong văn hóa đạo
đức Việt Nam, chữ “Nghĩa” có ý nghĩa là lẽ phải, ngay thẳng. Nguyễn
Trãi đã từng nói: Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên
“công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”, Hồ Chí Minh lấy chữ nghĩa để
phân rõ bạn thù. Ai làm điều gì có lợi cho nhân dân, cho Tổ quốc đều là
bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc đều là kẻ thù.
Trong những giá trị truyền thống cao đẹp của dân tộc, Hồ Chí Minh đã
kế thừa tinh thần cộng đồng, một lối sống thành thực, thân ái, những
thuần phong mỹ tục, trở thành những yếu tố đậm nét trong tư tưởng Hồ
Chí
Minh.
Ngay từ năm 1947, trong khi cuộc chiến chống thực dân Pháp đang diễn
ra quyết liệt, người đã nói đến đời sống mới của một người, một nhà, một
làng và khắp cả nước. Xoay quanh hạt nhân của đời sống mới là cần,
kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh đã nói đến thuần phong mỹ tục, không
có cờ bạc, hút xách, bợm bài, trộm cắp. Người nhắc đến tục ngữ “lá lành
đùm lá rách”, “đói cho sạch rách cho thơm”. Và, nếu một mình no ấm

mà nỡ để đồng bào xung quanh đói rét…, thì dù giàu cũng không hưởng
được. Người nói: Cách cư xử đối với đồng bào thì nên thành thực, thân
ái, sẵn lòng giúp đỡ…Nhiều lần, Người nhấn mạnh đến việc xây dựng và
phát triển thuần phong mỹ tục, tức là phát triển một trong những giá trị
truyền thống. Mặt khác, khi trân trọng giữ gìn thuần phong mỹ tục, Hồ
Chí Minh luôn gắn với việc phê phán, bài trừ đồi phong, bại tục. Người
đã nói đến việc “khôi phục vốn cũ” với một tinh thần trân trọng các giá
trị của người xưa để lại như: tương thân tương ái, tận trung với nước,
tận hiếu với dân…Song, Người yêu cầu xóa bỏ cái xấu (tính lười biếng,
tham lam…), sửa đổi các phiền phức (cúng bái, cưới hỏi quá xa xỉ…).


KẾT LUẬN
Ngày nay, tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều đổi thay. Vấn đề đặt ra là chủ
nghĩa yêu nước có vị trí thế nào trong tình hình mới? Và làm thế nào để phát huy chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam mà đỉnh cao là chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh để hội
nhập và phát triển đất nước thành công trong xu thế toàn cầu hoá?
Xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế đang là hiện thực khách quan ảnh hưởng đến
tất cả các quốc gia, dân tộc từ các nước phát triển đến các nước kém phát triển.
Ngoài những cơ hội, mặt trái của toàn cầu hóa là nguy cơ tụt hậu về kinh tế, sự phân
hóa giàu nghèo ngày càng tăng, sự bất bình đẳng ngày càng cao. Tệ nạn xã hội phát
triển mạnh, bạo lực, khủng bố, ô nhiễm môi trường; nguy cơ chiến tranh tôn giáo,
sắc tộc, chiến tranh cục bộ, khu vực đe dọa nền hoà bình thế giới. Toàn cầu hóa tạo
cơ hội cho các quốc gia trong công cuộc phát triển kinh tế, song "các mâu thuẫn lớn
của thời đại vẫn rất gay gắt"(5). Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay: "Phải tranh
thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ,
phát triển nhanh và bền vững hơn"(6). Để thực hiện được mục tiêu này, nhiều vấn đề
cấp bách đặt ra cần phải giải quyết:
Một là,cần đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục lòng yêu nước
cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên. "Thế hệ trẻ ngày nay tiếp

nối sự nghiệp của lớp người đi trước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nước nhà để rửa nỗi nhục nghèo khổ, mở ra một trang sử mới rạng rỡ
cho non sông Việt Nam quang vinh sánh vai cùng các dân tộc khác trên thế giới"(7).
Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với thanh
niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ tiếp tục khẳng định
vai trò chủ nhân tương lai đất nước của thanh niên Việt Nam mà còn chỉ ra những
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế về nhận thức của thanh niên hiện nay trước
ảnh hưởng từ mặt trái của cơ chế thị trường, của tình hình phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế và âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch.
Đại hội XI của Đảng tiếp tục chỉ rõ: Để phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của
toàn dân tộc, chúng ta cần phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu
nước, ý thức dân tộc cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; cần kết hợp
đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa yêu nước với phong trào thi đua yêu
nước. Những năm qua, đã có nhiều phong trào thi đua thiết thực, xuất hiện nhiều
tấm gương tiêu biểu của các tầng lớp nhân dân, trong đó có thanh niên. Sự xuất hiện
ngày càng nhiều các thủ khoa, các doanh nhân giỏi, các chiến sĩ thi đua trong thời kỳ
đổi mới là biểu hiện sinh động của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, là kết quả của
phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.


Để phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh trong thanh niên,
cần đổi mới công tác vận động thanh niên, tạo việc làm, tạo môi trường học tập, sinh
hoạt văn hoá, thể thao lành mạnh. Cần đổi mới cách thức tuyên truyền, giáo dục
truyền thống dựng nước và giữ nước, lòng yêu quê hương, đất nước, tránh hô hào
chung chung.
Hai là,nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về nội
dung chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện nay, khẳng định sự gắn kết độc lập dân tộc
với CNXH. Mục tiêu chung của công cuộc đổi mới là xây dựng nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó cũng là nội dung xuyên suốt, bao
trùm của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Chủ

nghĩa yêu nước Việt Nam mà đỉnh cao là chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh - nhân tố
quan trọng mang lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam, không phải là cái gì xa vời
mà rất cụ thể, sinh động. Nó phải được biểu hiện bằng hành động, việc làm hàng
ngày ở gia đình, trong trường học, cơ quan, đơn vị, trên đường phố... Đó là ý thức
chấp hành luật pháp, là cần, kiệm, liêm, chính; là yêu thương con người, không vô
cảm trước khó khăn của đồng chí, đồng bào, là tình yêu quê hương, kiên quyết chống
tham nhũng, lãng phí, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc.
Cần làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho mỗi người Việt Nam, trước
hết là từng cán bộ, đảng viên nhận thức rõ tình trạng tham nhũng, lãng phí đang là
quốc nạn, làm xói mòn lòng tin của nhân dân và đảng viên đối với Đảng và Nhà
nước, trực tiếp đe dọa sự lãnh đạo của Đảng, sự tồn vong của chế độ. Triển khai
nghiêm túc Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tự
phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI là biện pháp
cực kỳ quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới, là sự phát
huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc
tế.
Ba là, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đang tác động mạnh mẽ đến toàn thế
giới, tạo ra những thách thức và cơ hội phát triển cho tất cả các quốc gia, dân tộc.
Việt Nam là một trong số ít nước vượt qua được suy thoái chính trị của hệ thống
XHCN (ở Liên Xô và Đông Âu) cuối thế kỷ XX và đang đổi mới đất nước có hiệu
quả. Chính trong bối cảnh lịch sử đầy thử thách ấy, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã
được bồi đắp, phát triển lên tầm cao mới. Mặc dù vậy, các thế lực thù địch không từ
bỏ âm mưu chống phá nước Việt Nam đổi mới theo định hướng XHCN. Với chiến
lược "diễn biến hoà bình", dưới chiêu bài "nhân quyền", "dân chủ" ,"tự do tư
tưởng, tôn giáo"..., kẻ địch kích động, gây rối, âm mưu bạo loạn ở một số vùng như
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Trong bối cảnh đấu tranh và hợp tác đan xen như hiện
nay, chúng ta càng phải tăng cường bồi dưỡng tinh thần yêu nước, nâng cao sự giác
ngộ của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Chúng ta chỉ có thể giành thắng



lợi bằng sự vượt trội kẻ thù về sức mạnh chính trị tinh thần, mà cốt lõi là chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam.
Bốn là, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Trong thời kỳ
cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành
công khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò to lớn của chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam, lãnh đạo toàn dân đánh thắng đế quốc Pháp, Mỹ, giành độc lập dân tộc, thống
nhất Tổ quốc.
Ngày nay, khối đại đoàn kết toàn dân tộc cần được xây dựng trên sự đồng thuận toàn
xã hội với mục tiêu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Đó là bước phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trên tầm cao mới.
Phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là cơ sở vững chắc, là bệ đỡ để Việt Nam hội
nhập và phát triển bền vững trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.6, tr. 171.
2) Đỗ Mười: Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.1997, tr.193.
3) ĐCSVN: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2006, tr. 74,75.



×