Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Nêu và phân tích chu trình chính sách công. Những hạn chế, bất cập chủ yếu trong chu trình chính sách công. Đề xuất hướng khắc phục các hạn chế, bất cập đó.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.3 KB, 11 trang )

Câu 1. Nêu và phân tích chu trình chính sách công. Những hạn chế, bất cập chủ yếu
trong chu trình chính sách công. Đề xuất hướng khắc phục các hạn chế, bất cập đó.
Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì CSC là công cụ tiền đề, không thể thay thế và chi
phối các công cụ quản lý khác như pháp luật, kế hoạch, phân cấp - phân quyền… Điều đó giải
thích vì sao trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc
nâng cao vai trò của CSC như là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước nói riêng và đẩy mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi mới nói chung. Vậy chính sách công
là gì? Có nhiều cách tiếp cận chính sách công, chẳng hạn như:
Theo Thomas Dye: chính sách công là bất kỳ cái mà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm.
Theo B.Guy Peter: Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân
Chính sách công là tập hợp các quyết định có liên quan đến nhau của chính quyền về việc lựa chọn các
nhiệm vụ và giải pháp để đạt được các mục tiêu đó trên cơ sở có những tính toán và chủ đích rõ rang nhằm giải
quyết một vấn đề, đáp ứng một yêu cầu thiết yếu hay định hướng sự phát triển của thực tiễn xã hội.
CSC cần được nhìn nhận như một quá trình gồm nhiều bước liên tục: hoạch định và ban hành chính
sách; tổ chức thực thi chính sách; đánh giá CS.
Giai đoạn một: Hoạch định và ban hành CSC
Hoạch định và ban hành CSC là toàn bộ quá trình nghiên cứu, xây dựng và ban hành để có một chính
sách hoàn thiện, đầy đủ nhất có thể thực thi trong thực tế cuộc sống.
Sản phẩm của giai đoạn hoạch định CSC là một chính sách được trình bày dưới dạng văn bản đã được
cấp có thẩm quyền thông qua để áp dụng vào trong thực tiễn.
Hoạch định và ban hành CSC có vai trò là mở đường cho chu trình chính sách; khởi xướng được
cách giải quyết những vấn đề mà xã hội đang cần; truyền đạt được thông điệp chính trị của chủ thể lãnh đạo,
quản lý xã hội trong từng thời kỳ; định hướng hoạt động cho toàn bộ hệ thống chính trị vào những hoạt động cụ
thể; củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và toàn HTCT.
Chủ thể hoạch định CSC là cơ quan nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp (đóng vai trò chủ đạo,
nòng cốt); các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp và người dân tham gia trực tiếp và gián tiếp thông qua:
các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các tổ chức nghiên cứu, đánh giá, phản biện (tham gia); hệ thống
truyền thông đại chúng (tham gia).
Chủ thể ban hành CSC: là cơ quan nhà nước có thẩm quyền phù hợp với các quy định của pháp luật


Quy trình hoạch định, ban hành CSC gồm các bước sau:
Bước 1: Nhận dạng vấn đề chính sách: xác định từ các vấn đề xã hội đã, đang và sẽ nảy sinh (chọn vấn
đề nào và vì sao? Tức luận giải tính hợp lý của vấn đề để làm chính sách)
Bước 2: Thực hiện các nghiên cứu sơ bộ, tham vấn, đánh giá sơ bộ về vấn đề chính sách được chọn (có
sự tham gia rộng rãi của các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các tổ chức nghiên cứu, đánh giá, phản
biện, các chuyên gia,…)
Bước 3: Lập đề án chính sách (để đưa vấn đề vào nghị trình làm chính sách) và thông qua đề án chính
sách.
Bước 4: Soạn thảo CS: đề xuất các nội dung chính sách với hệ thống giải pháp được lựa chọn,… hình
thành dự thảo chính sách ở mức độ hoàn chỉnh nhất có thể.
Bước 5: Thông qua và ban hành chính sách bởi cơ quan có thẩm quyền (theo quy định của pháp luật).
Các nguyên tắc cơ bản trong hoạch định CSC
NT1. Đảm bảo mục tiêu vì lợi ích chung (lợi ích công).
NT2. Đảm bảo tính khả thi: sử dụng các biện pháp để chính sách có thể thi hành hiệu quả.
NT3. Đảm bảo tính hệ thống: để hạn chế mâu thuẫn chính sách cần sử dụng cách tiếp cận hệ thống, tư
duy hệ thống trong hoạch định CSC.
NT4. Đảm bảo tính kế thừa của chính sách.
1


NT5. Đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ “thiểu số phục tùng đa số” được thực thi.
NT6. Đảm bảo tính minh bạch và tính trách nhiệm, tính giải trình trong quá trình thực hiện CSC.
NT7. Đảm bảo sự tham gia rộng rãi và thực chất của các tầng lớp nhân dân vào quá trình hoạch định
CSC.
Thông qua, ban hành CSC
Cách thức, quá trình thông qua CSC rất đa dạng khác nhau ở các nước có HTCT khác nhau.
Ở các nước đa đảng phái, thực chất đây là quá trình đấu tranh giữa các đảng phái, giữa các nhóm lợi ích
với nhiều phương pháp, thủ pháp và thủ đoạn khác nhau.
Tuy nhiên, việc thông qua CSC luôn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của hoạt động hoạch định CS
diễn ra trước đó.

Giai đoạn hai: Thực thi chính sách công
Thực thi CSC là giai đoạn quan trọng trong chu trình chính sách, là khâu chuyển ý tưởng, dự định, mục
tiêu trong chính sách trên giấy thành hành động cụ thể trong đời sống và cho kết quả thực thi trên thực tế.
Chủ thể thực thi CSC gồm nhóm chủ thể chủ động là các cơ quan chuyên trách của chính phủ, quốc
hội, tòa án; các bên liên quan có lợi ích và nhóm chủ thể bị động là nhân dân, các đối tượng áp dụng chính
sách.
Các bước trong thực thi CSC: gồm 6 bước sau:
B1. Thiết lập bộ máy triển khai: cơ quan chủ trì và phối hợp, phân công trách nhiệm, cơ chế phối hợp
và chế tài,…
B2. Lập kế hoạch hành động: kết quả mong đợi và các hoạt động cần triển khai; cơ chế tổ chức, điều
hành; kế hoạch sử dụng các nguồn lực; thời gian thực hiện, ban hành các hướng dẫn thực hiện cụ thể,…
B3. Phổ biến và tuyên truyền chính sách:
B4. Huy động, phân bổ các nguồn lực:
(lấy ở đâu? bằng cách nào? phân bổ như thế nào?)
B5. Cơ chế phối hợp các cơ quan, tổ chức, các ngành, các địa phương, các cấp trong triển khai các
hoạt động thực thi CS: nêu rõ trong các kế hoạch, các nhiệm vụ, các giải pháp thực thi
B6. Kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách: Làm thường xuyên nhưng phải có kế hoạch, lộ trình,
định hướng bài bản; phối hợp (ngành, địa phương) trong triển khai các hoạt động kiểm tra cụ thể (theo các kế
hoạch, các nhiệm vụ, các giải pháp,…)
Các nguyên tắc cơ bản trong thực thi CSC:
NT1. Đảm bảo tính nhất quán với các mục tiêu chính sách.
NT2. Đảm bảo tính hệ thống (hài hòa giữa các nội dung trong 01 CS và giữa các CS trong hệ thống
CSC).
NT3. Đảm bảo tính hợp lý, hợp pháp, khoa học.
NT4. Đảm bảo sự hài hòa lợi ích của các đối tượng chính sách.
Ý nghĩa của thực thi chính sách: Biến ý đồ CSC thành hiện thực; nhằm từng bước thực hiện các mục
tiêu chính sách và mục tiêu chung; nhằm khẳng định tính đúng đắn của chính sách; giúp cho chính sách ngày
càng hoàn chỉnh.
Giai đoạn ba: Đánh giá CSC
Đánh giá CSC là xem xét, nhận định nội dung, quá trình thực thi, các kết quả đạt được khi thực thi một

CSC, từ đó có biện pháp điều chỉnh CS phù hợp với đòi hỏi thực tế để đạt các mục tiêu mong đợi.
Đánh giá CSC là một trong ba giai đoạn trong chu trình CSC, kết thúc một chu trình CS để mở ra một
chu trình CS mới
Tiêu chí đánh giá:
Công bằng trong CSC: mức độ công bằng trong điều tiết các lợi ích của các chủ thể tham gia
Bình đẳng trong CSC: mức độ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong thực hiện CSC
(mức độ bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư, giữa các thành phần kinh tế, giữa các loại tổ chức chính trị - xã
hội,…)
Hiệu quả của CSC: Hiệu quả chung cuộc (hiệu quả tổng hợp cuối cùng); hiệu quả kinh tế; hiệu quả xã
hội; hiệu quả chính trị; hiệu quả ANQP; hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài,...
2


Tối ưu trong thực hiện: giảm chi phí; giảm rủi ro; giảm thời gian; có sự ủng hộ của đông đảo các
tầng lớp trong xã hội; có đủ nguồn lực để thực hiện,...
Đạt được lợi ích riêng và chung, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
Yêu cầu của việc đánh giá:
Làm thường xuyên với kế hoạch, lộ trình rõ ràng.
Khách quan, trung thực, kịp thời.
Tăng cường vai trò của nhà nước đồng thời mở rộng sự tham gia (thực chất) của xã hội.
Triển khai các hoạt động tổng kết đánh giá hiệu quả CS và có các phương án điều chỉnh CS hợp lý, kịp
thời.
Kết hợp chặt chẽ với hoạt động phân tích CSC.
Những hạn chế, bất cập chủ yếu trong chu trình chính sách công
Trong suốt một thời gian dài trước đổi mới, khi toàn bộ nền kinh tế đất nước đắm chìm trong vỏ
bọc của chế độ tập trung bao cấp kéo dài, CSC với hàm ý sâu xa của nó là sự lựa chọn phương án hành
động nhằm giải quyết vấn đề thực tiễn trên cơ sơ phân tích đánh giá khách quan khoa học các yếu tố
thực tiễn hiện thời cũng như các yếu tố điều kiện đảm bảo, chưa được quan tâm, chú trọng và đặt đúng
vào vị trí như công cụ điều hành của nhà nước.
Đi cùng với đổi mới, Việt Nam đã từng bước chủ động tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế

và nay là hội nhập quốc tế và sẵn sang cho vai trò thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Trước yêu cầu đó, thể chế và phương thức hoạch định, thực thi CSC càng cần được đổi mới để thật sự
trở thành công cụ quản lý, điều hành quan trọng của Nhà nước.
Trong những năm gần đây, Nhà nước ban hành chính sách công với một số lượng văn bản quy
phạm pháp luật tăng rất lớn, phản ánh nỗ lực của Nhà nước trong việc ban hành chính sách công để
giải quyết các vấn đề đặt ra. Các chính sách của Nhà nước đã có những tác động tích cực đến đời sống
kinh tế - xã hội. Việc tổ chức, thực thi CSC cũng đạt được những yêu cầu cơ bản: kịp thời, đồng bộ,
hiệu quả trong phạm vi cả nước, địa phương, ngành; một số địa phương đã có sự chủ động, linh hoạt và
sáng tạo trong triển khai và thực thi chính sách cho phù hợp với đặc điểm của mình. Công tác tổng kết
thực tiễn thi hành chính sách cũng đã được bắt đầu chú ý, một số chính sách được tổng kết khá công
phu và có giá trị tham khảo lớn. Nhìn tổng thể việc thực thi chính sách đã đi vào nề nếp, nghiêm minh
với không ít kinh nghiệm bổ ích được đúc rút từ thực tiễn.
Tuy nhiên, trong việc hoạch định và thực thi CSC vẫn còn tồn tại một số bất cập. Cụ thể:
Đối với giai đoạn hoạch định và ban hành chính sách:
Một là, việc làm chính sách vẫn được coi là đặc quyền của các cơ quan Nhà nước. Sáng kiến lập
pháp và lập quy xuất phát chủ yếu từ các cơ quan chính phủ, rất ít CSC được soạn thảo, ban hành xuất
phát từ sáng kiến chính sách của các chủ thể khác. Có quá nhiều văn bản về một chính sách của các
ngành, các bộ nhưng chúng được xây dựng phân tán thiếu sự phối hợp nghiêm trọng giữa các bộ và các
cơ quan chủ trì nên chất lượng chưa cao. Vai trò của các cơ quan thẩm định, phê duyệt chính sách chưa
được phát huy nên đã tạo những kẻ hở đáng kể cho việc ra đời một số chính sách có chất lượng chưa
cao, thậm chí xã hội không đồng tình. Hiện tượng “vận động chính sách” tuy chưa được chính thức
thừa nhận nhưng đã xuất hiện dưới nhiều hình thức, với nhiều biểu hiện tiêu cực ảnh hưởng đến tính
công bằng của chính sách. Đôi khi chính sách được ban hành chẳng những không giải quyết được vấn
đề đặt ra, mà còn gây ra những hiệu ứng phụ làm phức tạp thêm vấn đề. Chẳng hạn, chính sách hạn chế
ùn tắc giao thông trong các thành phố lớn đã được triển khai với nhiều giải pháp khác nhau, song thực
tế vẫn chưa giải quyết được vấn đề ùn tắc, trong khi đó một số giải pháp đưa ra như chặn các ngã tư,
cho phép xe đi theo ngày chẵn, lẻ lại gây ra các phản ứng tiêu cực…
Hai là, các văn bản quy phạm pháp luật thường xuyên được thay đổi; trong một số lĩnh vực có
nhiều quy định thay đổi liên tục. Ví dụ, trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, từ 2005 đến nay đã có 4
luật về đầu tư, 48 nghị định của Chính phủ về đầu tư, 132 thông tư của các bộ, ngành và 362 quyết

định của Thủ tướng Chính phủ và bộ trưởng các bộ liên quan đến vấn đề này. Vấn đề chính sách vận
động không ngừng và thay đổi theo thời gian, môi trường, vì thế các chính sách đưa ra cũng cần có sự
điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Nhưng việc thay đổi liên tục các chính sách này có thể gây khó
3


khăn cho đối tượng thực thi và các đối tượng mà chính sách hướng tới. Trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt
là lĩnh vực đầu tư, các văn bản pháp luật và chính sách thay đổi liên tục sẽ tạo ra tâm lý lo ngại cho các
doanh nghiệp, làm hạn chế nguồn đầu tư vào Việt Nam.
Ba là, một số chính sách được ban hành nhưng vì những lý do khác nhau đã không có hiệu lực
trên thực tế. Ví dụ như quy định cấm hút thuốc lá ở nơi công cộng. Những chính sách như vậy được
ban hành đã phản ánh nỗ lực của Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề gây bức xúc trong xã hội;
tuy nhiên, khi đưa ra những chính sách này, các nhà hoạch định chưa xem xét đến khả năng thực hiện
của chúng và cơ chế để đảm bảo các chế tài được thực hiện một cách nghiêm túc. Vì vậy, mặc dù có
mục tiêu rất tốt nhưng các chính sách này không có khả năng để đảm bảo được thực hiện.
Bốn là, nhiều chính sách còn thiếu tính hợp lý. Ví dụ, Nhà nước quy định cộng điểm thi tốt
nghiệp trung học phổ thông cho những người là con của người hoạt động cách mạng trước năm 1945
hay cộng điểm cho Bà mẹ Việt Nam anh hùng khi thi đại học… Những quy định này ngay sau khi
được ban hành đã bị dư luận xã hội phản ứng nên buộc phải sửa đổi hoặc loại bỏ.
Bên cạnh đó, nhiều chính sách tuy được thực thi trên thực tế nhưng kém hiệu quả. Ví dụ, trong
giai đoạn 2 của chính sách xóa đói giảm nghèo, Nhà nước đã chi ra một khoản kinh phí rất lớn, song
chỉ có 6% số xã thoát nghèo, nhiều xã tỉ lệ nghèo còn cao và có khả năng tái nghèo. Một số chính sách
được ban hành còn chưa bảo đảm sự công bằng, đặc biệt là ngân sách phân bổ cho lĩnh vực y tế và an
sinh xã hội. Tỉ lệ chi ngân sách nhà nước cho các lĩnh vực này chủ yếu tập trung ở Trung ương và cấp
tỉnh, trong khi người nghèo tập trung ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thì lại chưa được đầu tư
thỏa đáng…
Đối với giai đoạn thực thi chính sách
Một thực trạng ở Việt Nam là có quá nhiều và chồng chéo giữa các chiến lược, chính sách phát
triển ngay ở trong một lĩnh vực. Như chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam có 501 văn bản mang
tính chính sách liên quan đến xóa đói giảm nghèo, trong đó có 188 văn bản tác động trực tiếp và 313

văn bản tác động gián tiếp. Trong khi có rất nhiều văn bản chính sách thì một số khâu quan trọng trong
thực thi chính sách lại không có văn bản hướng dẫn điều chỉnh như phân bổ, sử dụng ngân sách giảm
nghèo, về giám sát và đánh giá kết quả sử dụng nguồn lực, về qui trình và phương pháp thực hiện các
can thiệp giảm nghèo.
Mặt khác, tình trạng luật chờ nghị định, nghị định chờ thông tư vẫn mang tính phổ biến khiến
cho chính sách chậm đi vào thực thi.
Đồng thời, việc đảm bảo các yếu tố điều kiện và nguồn lực cho triển khai và thực thi chính sách
chưa được coi trọng. Nhiều chính sách được ban hành dựa vào ngân sách nhà nước như nguồn lực chủ
yếu dẫn đến tình trạng đầu tư công bị dàn trải, chi tiêu chính phủ bị bội chi, trong khi đó không xã hội
hóa, thu hút được nguồn lực từ trong dân và từ nguồn khác.
Tại địa phương, nhiều nội dung chính sách chồng chéo, trùng lặp tạo thêm gánh nặng cho phân
bổ ngân sách địa phương. Bên cạnh đó, vì mỗi nội dung chính sách nằm trong sự quản lý của một bộ
ngành chuyên môn nên sự hướng dẫn thực thi có thể không tương thích thậm chí mẫu thuẫn nhau.
Việc tuyên truyền, phổ biến chính sách chưa thực sự được chú trọng ở nhiều nơi, nhiều cấp. Dẫn
đến việc người dân chưa nắm rõ chính sách, cản trở, gây khó khăn, không hợp tác trong quá trình triển
khai thực hiện.
Đối với giai đoạn đánh giá chính sách: đánh giá chính sách còn đơn giản, phiến diện.
Hoạt động phân tích, đánh giá CSC còn ở trong tình trạng lẻ tẻ, rời rạc, hình thức; không có nhiều
những sản phẩm nghiên cứu có tầm cỡ về nội dung, chất lượng và quy mô để có thể tạo ra được những
đột phá về chính sách trong từng lĩnh vực. Vì những lý do rất khác nhau mà những kết quả nghiên cứu,
phân tích, đánh giá CSC được ứng dụng vào thực tế một cách hữu ích chưa nhiều, gây lãng phí, thiệt
thòi cho toàn bộ quy trình CSC hoặc từng công đoạn trong đó. Việc tiếp thu các kết quả phân tích, đánh
giá CSC từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn rất dè dặt, cứng nhắc; thậm chí có những
trường hợp tỏ thái độ phân biệt, phê phán, "chụp mũ"… Số lượng các cơ quan hoặc cá nhân nghiên
cứu về CSC chưa đủ để đáp ứng nhu cầu thực tế của lĩnh vực này, trong đó bản thân họ cũng gặp
những khó khăn nhất định về khung pháp lý và phản ứng của một số cơ quan nhà nước.
4


Chưa thể chế hóa được quy trình, tiêu chí đánh giá chính sách, thiếu các tiêu chí để đánh giá chính

sách một cách khoa học. Trên thực tế đa số các mục tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định tính,
nhiều khi mục tiêu không rõ ràng, trong trường hợp đó việc đánh giá chính sách theo mục tiêu đề ra có
thể không phản ánh hết các giá trị của chính sách. Chẳng hạn, đánh giá về chính sách xóa đói, giảm
nghèo ở Việt Nam, có thể thấy kết quả rất khả quan với việc giảm tỷ lệ nghèo từ 22% năm 2005 xuống
còn 10,7% năm 2010 theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006 – 2010. Song, nếu đi vào đánh giá tác động của
các chính sách cụ thể tới người nghèo thì thấy còn rất nhiều hạn chế. Chẳng hạn, Chương trình 135
trong giai đoạn 2006 – 2010 tuy đã chi hơn 14.000 tỉ đồng, chưa tính đến giá trị công sức đóng góp của
dân, nhưng đến năm 2010, mới chỉ có 113 xã, chiếm 6% số xã được hưởng thụ Chương trình, được
“xóa tên” khỏi diện nghèo. Ở một số tỉnh có số xã còn tỷ lệ nghèo cao, như Lạng Sơn: 49%, Điện Biên:
50%, Quảng Bình: 49,34%, Quảng Nam: 48,78%, Quảng Ngãi: 49,94%. Hoặc việc triển khai thực hiện
Luật NKT ở Phú Yên vẫn còn nhiều điểm hạn chế. Đơn cử như trong công tác xác nhận NKT, một số
Hội đồng cấp xã còn lúng túng trong xác nhận dạng tật, mức độ khuyết tật, chưa vận dụng được những
chứng bệnh thực tế của đối tượng vào các dạng khuyết tật để xác định mức độ khuyết tật.
Đánh giá chính sách đôi khi mang tính một chiều, chỉ phản ánh nhận xét của các cơ quan nhà nước
mà không quan tâm đủ mức đến sự phản hồi từ xã hội, từ những đối tượng mà chính sách hướng vào.
Sự can dự thấp và vai trò mờ nhạt của các chủ thể hưởng lợi trong việc đánh giá chính sách công.
Chưa có cơ chế hữu hiệu nhằm giám sát, ghi nhận và xử lý các phản hồi của người dân đối với thực thi
chính sách.
Về vấn đề tham vấn cộng đồng, lâu nay ở Việt Nam chủ yếu làm cho có. Chính quyền cấp xã và
cộng đồng địa phương nếu không được tham vấn một cách đàng hoàng thì sẽ không thể phản hồi có ý
nghĩa tích cực.
Chưa chú ý đúng mức tới tác động của chính sách đến môi trường. Việc đánh giá tác động đối
với môi trường của các chính sách để đề ra các biện pháp hạn chế các tác động tiêu cực là rất quan
trọng. Ở nước ta hiện nay, ĐTM vẫn chỉ được xem là thủ tục làm cho có để hợp thức hóa dự án đầu tư
hay thậm chí còn bị xem là lực cản hoạt động đầu tư phát triển; sự mâu thuẫn lợi ích khi luật pháp cho
phép chủ đầu tư tự làm ĐTM; thiếu năng lực chuyên môn trong thẩm định; quan trọng hơn cả là
“không được trái ý cấp trên” gây ảnh hưởng đến thu hút đầu tư. Những vi phạm và sự cố trong quá
trình thi công vận hành thử nghiệm tổ hợp nhà máy của Formosa Hà Tĩnh là nguyên nhân gây ra ô
nhiễm môi trường biển nghiêm trọng, làm hải sản tại 4 tỉnh miền Trung chết bất thường.
Vấn đề tác động của lợi ích nhóm đối với chính sách có chiều hướng gia tăng.

Vấn đề sự phối kết hợp giữa các chính sách, các cơ quan ban hành chính sách chưa tốt.
III. Đề xuất hướng khắc phục các hạn chế, bất cập:
- Tiếp tục nâng cao nhận thức để trên cơ sở đó mở rộng sự tham dự một cách có hiệu quả của
mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhất là của cá nhân người lãnh đạo, quản lý vào quá trình
hoạch định và thực thi CSC. Nói cách khác, làm cho CSC từ chỗ chỉ là chức năng đặc quyền của các
cơ quan nhà nước thành mối quan tâm chung và trách nhiệm của toàn xã hội.
- Đổi mới quy trình hoạch định CSC theo hướng dân chủ, huy động sự tham gia đắc lực của
toàn xã hội, nhất là của đội ngũ chuyên gia vào xây dựng chính sách. Từng bước tạo lập một quy trình
làm chính sách gọn, tiện lợi nhưng khoa học, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Sửa đổi, bổ sung nhằm
hoàn thiện cơ chế thẩm định và phê duyệt chính sách, nhất là với những chính sách lớn, quan trọng, có
tác động trực tiếp và lâu dài tới lợi ích chung của toàn xã hội.
- Tạo điều kiện thuận lợi để các bên tư vấn chính sách hoạt động độc lập với các cơ quan nhà nước
nhằm đảm bảo tính khách quan trong việc nghiên cứu đưa ra các đề xuất chính sách, phản biện đối với chính
sách do nhà nước ban hành.
- Xây dựng và công bố công khai các hệ thống chỉ báo giám sát thực thi chính sách công ở một số lĩnh
vực ưu tiên.
- Chấn chỉnh để nâng cao tính kịp thời, đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả của quá trình tổ chức
thực thi CSC. Đặc biệt, coi trọng tính tiên phong của các khâu tuyên truyền, vận động, định hướng dư
luận xã hội trong quy trình thực hiện chính sách. Tăng cường công tác đôn đốc, kiểm tra, giám sát về
5


tiến độ, hiệu quả thực hiện CSC. Phát hiện và xử lý kịp thời, công bằng, minh bạch các khiếu kiện, vi
phạm pháp luật nảy sinh.
- Coi trọng hoạt động tổng kết thực tiễn về hoạch định, thực thi CSC theo hướng thường xuyên,
thiết thực; tránh phô trương, hình thức, lãng phí để rút kinh nghiệm cần thiết, bổ ích cho các hoạt động
đó.
- Đề cao vai trò của hoạt động phân tích, đánh giá CSC như là một điều kiện tối quan trọng để
từng bước cải thiện chất lượng của quy trình hoạch định và thực thi chính sách. Có cơ chế ràng buộc
các cơ quan nhà nước trong việc phản hồi ý kiến, tiếp nhận các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá

CSC.
- Tăng cường công tác thu thập, lấy ý kiến của người dân về các vấn đề đang phát sinh trong
cuộc sống và nguyện vọng về cách xử lý của Nhà nước như các hình thức lấy ý kiến qua mạng, báo
đài, hay tại địa phương thông qua đội ngũ cán bộ cơ sở rồi tổng hợp, đánh giá để ban hành những chính
sách kịp thời nhất.
- Có sự phối hợp giữa các bộ ngành trong hoạch định CS, tránh trường hợp trùng lặp hoặc bỏ
sót CS, phân định rõ trách nhiệm, tránh mâu thuẫn và đùn đẩy nhau.
- Có cơ chế đảm bảo sự tham gia của đối tượng bị tác động bởi chính sách để có cái nhìn toàn
diện hơn trước khi ban hành chính sách mới, tránh phản ứng gay gắt và gây bất mãn với đối tượng ảnh
hưởng. (chẳng hạn chính sách quản lý phương tiện cá nhân thông qua biện pháp buộc đăng kí xe chính
chủ đã gây tác động tiêu cực cho tâm lý chung của đa số người tham gia giao thông nên dù mới ban
hành 1 thời gian ngắn đã phải tạm hoãn thi hành, điều này không chỉ gây lãng phí NSNN mà còn làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước).
- Đào tạo 1 cách chuyên nghiệp và bài bản đội ngũ làm công tác hoạch định chính sách. Đây
chính là hạt nhân của chính sách tốt, có hiệu quả, có tầm nhìn bao quát và có tính chất dự đoán bước
ứng phó tốt cho tương lai.
- Đổi mới nhận thức về vai trò, nội dung, nhiệm vụ, yêu cầu, nguyên tắc thực hiện chính sách
công. Đặc biệt, cần phải nâng cao năng lực, kiến thức, kỹ năng và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ
CBCC thực thi chính sách.
Tóm lại: Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập quốc tế, mỗi chính sách khi ban hành đều có
tác động, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước và của người dân. Do đó, hoàn
thiện quá trình hoạch định và thực thi chính sách nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách là
một yêu cầu quan trọng đòi hỏi mỗi cấp, mỗi ngành phải nỗ lực để tạo ra những chính sách tốt cho xã
hội./.
* Liên hệ thực tiễn địa phương hoặc đơn vị nơi đ/c công tác?
Thời gian qua việc ban hành quyết định hành chính của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ở
Quảng Nam đã được thực hiện kịp thời, góp phần không nhỏ cho việc quản lý, chỉ đạo, điều hành để
phát triển kinh tế, ổn định và giữ vững tình hình an ninh - chính trị của xã hội. Trong những năm qua,
Tỉnh uỷ, HĐND, UBND luôn chú trọng đến việc nắm bắt thông tin và ra những quyết định quản lý kịp
thời, đúng đắn, phù hợp góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Kết qủa như sau: chỉ số năng lực cạnh

tranh cấp tỉnh PCI của Quảng Nam thuộc nhóm từ khá trở lên; tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình
trên một con số (bình quân 11%/năm); chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp,
dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP; công tác quốc phòng - an ninh được tăng
cường, chính trị và trật tự an toàn giữ vững ổn định. Ngoài ra, Quảng Nam đã ban hành nhiều chính
sách ưu đãi nhằm thu hút đầu tư, cụ thể: Chính sách ưu đãi về cho thuê đất tại các khu, cụm công
nghiệp; chính sách chuẩn bị đầu tư; hỗ trợ về xử lý môi trường, hạ tầng kỹ thuật, chính sách về ưu đãi
thuế; xúc tiến thương mại, đào tạo lao động… cụ thể như: Xuất phát từ thực tiễn Quảng Nam là một
tỉnh thuần nông với 83% dân số, 93,8% số xã, phường (trong đó, có 115 xã thuộc diện xã miền núi) ở
khu vực nông thôn, lao động khu vực nông nghiệp chiếm 68%, diện tích tự nhiên khá lớn nhưng đất
cho nông nghiệp chỉ chiếm gần 11%. Đây cũng là khu vực chịu nhiều hy sinh và đóng góp to lớn trong
công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là nơi chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, bão lụt; sản
6


xuất nông nghiệp còn lạc hậu, manh mún. Trong những năm qua, tỉnh đã tập trung ban hành nhiều chủ
trương, chính sách nhằm xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại gắn với
phát triển công nghiệp và dịch vụ phù hợp với đặc điểm của từng vùng; đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế nông thôn gắn với phát triển các đô thị; giải quyết việc làm cho nông dân, thực hiện đồng
bộ chiến lược xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân ở khu vực nông
thôn, nhất là những vùng khó khăn; đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu, chuyển giao và ứng
dụng khoa học công nghệ, tạo đột phá để công nghiệp hoá nông nghiệp, hiện đại hoá nông thôn.
Ngay sau khi Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa X) ban hành Nghị quyết số 26NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Tỉnh ủy Quảng Nam đã xây dựng Chương trình hành động số
21 để thực hiện. Và, năm 2009, xã Tam Phước, huyện Phú Ninh là 1 trong 11 xã của cả nước được Trung ương
chọn làm xã thí điểm để triển khai xây dựng nông thôn mới. Tỉnh Quảng Nam chỉ có thể thành tỉnh công
nghiệp khi giải quyết bền vững vấn đề phát triển khu vực nông thôn miền núi và người dân Quảng Nam thật sự
thoát nghèo. Trong thời gian qua, tỉnh ta đã đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn bằng
nhiều chủ trương, giải pháp như Nhà nước đầu tư trực tiếp, Nhà nước và nhân dân cùng làm, nhân dân làm Nhà
nước hỗ trợ đã tạo ra nhiều phong trào thi đua sôi nổi trong nhân dân hưởng ứng xây dựng các công trình, hệ
thống thủy lợi nhỏ, vừa và lớn, có thể kể đến như: Phú Ninh, Cao Ngạn, Phước Hà, Hố Giang, Khe Tân, Việt
An, Đông Tiển ... đưa nước về phục vụ cho sản xuất và đời sống của hàng vạn hộ nông dân; xây dựng nhiều

tuyến đường liên xã, liên thôn bằng bê tông hóa, có cầu, cống kiên cố; cải tạo chỉnh trang đồng ruộng theo chủ
trương “Dồn điền, đổi thửa” tạo ra những cánh đồng rộng thoáng, theo đó nhiều nông hộ đã mạnh dạn đầu tư
mua sắm các loại máy nông cụ phục vụ sản xuất, góp phần đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp. Đến nay toàn
tỉnh đã có trên 1.200 trang trại, gia trại nông, lâm, thủy sản làm ăn có hiệu quả, có trang trại thu nhập sau khi trừ
chi phí đạt hàng trăm triệu đồng/năm, nhiều cánh đồng đạt giá trị kinh tế từ 70 đến 100 triệu đồng/ha, đến nay
toàn tỉnh đã có hơn 45 ngàn hộ nông dân đạt danh hiệu nông dân sản xuất kinh doanh giỏi các cấp, là lực lượng
nòng cốt, tiên phong trong việc tiếp thu, ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, góp phần tạo ra
hàng hóa nông sản đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những mặt yếu kém cần khắc phục là tư duy nhận thức về
xây dựng nông thôn mới, trong công tác quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, trong việc quy hoạch vùng sản
xuất làm ra sản phẩm nông sản hàng hóa có chất lượng cạnh tranh chưa nhiều, còn lúng túng trong cơ cấu
giống cây trồng, con vật nuôi có giá trị kinh tế cao, bền vững thân thiện với môi trường; vẫn còn tư tưởng trông
chờ ỷ lại của một bộ phận nhân dân làm kiềm hãm sự phát triển của tỉnh.
Có thể nói việc xây dựng nông thôn mới là chủ trương đúng đắn của đảng và nhà nước, chính là
nhu cầu, mục tiêu của mỗi địa phương nhằm xây dựng một cuộc sống ấm no, tươi đẹp… Điều này
cũng có nghĩa là “người dân là chủ nhân của quá trình xây dựng nông thôn mới và thụ hưởng kết quả
mang lại từ nông thôn mới”; Nhà nước chỉ hỗ trợ để bổ sung, khơi dậy nguồn lực để cộng đồng địa
phương tổ chức thực hiện. Xây dựng nông thôn mới không phải là một dự án đầu tư để tranh thủ vốn
ngân sách. Sẽ không thể thành hiện thực nếu chính quyền địa phương trông chờ, ỷ lại và người dân thờ
ơ với tiến trình xây dựng nông thôn mới của chính mình. Vì thế, nhân dân phải quyết tâm thực sự làm
chủ quá trình “đổi đời” trên quê hương và cuộc sống bằng chính nội lực của mình; chính quyền địa
phương phải chủ động, nỗ lực và triệt để phát huy dân chủ để tổ chức thực hiện. Cần quán triệt sâu sắc
nguyên tắc “người dân là chủ thể xây dựng nông thôn mới” là yếu tố quyết định tiến trình xây dựng
nông thôn mới. Đồng thời với phát triển kinh tế, phải tiếp tục quan tâm hơn nữa phát triển văn hóa - xã
hội, cải thiện đời sống nhân dân. Tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ
nghèo; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các dân tộc trên địa bàn.

7



Một số vấn đề về chính sách công ở Việt Nam hiện nay
Mặc dù đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về chính sách công (CSC) nhưng có thể hiểu
đơn giản: đó là định hướng hành động được nhà nước lựa chọn, phù hợp với đường lối chính trị
để giải quyết những vấn đề chung của xã hội trong một thời kỳ nhất định. Với quan niệm đó,
CSC có vai trò to lớn trong hoạt động quản lý xã hội của nhà nước.
Trong nền hành chính nhà nước, CSC là bộ phận nền tảng trọng yếu của thể chế hành chính, là
cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác của nền hành chính như: bộ máy hành chính; đội
ngũ cán bộ - công chức; tài chính công.
Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì CSC là công cụ tiền đề, không thể thay thế và chi phối các
công cụ quản lý khác như pháp luật, kế hoạch, phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì
sao trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao
vai trò của CSC như là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói
riêng và đẩy mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi mới nói chung. Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày
càng cao và phức tạp của quản lý nhà nước thì hoạt động hoạch định và thực thi CSC ở nước ta
đang ở trong bối cảnh nào và đặt ra những vấn đề gì cần giải quyết?
Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định CSC đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ cả về
số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu, cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ
máy nhà nước, an sinh xã hội, quân sự, ngoại giao…). Một số CSC quan trọng đã được luận
chứng khoa học hơn, bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã
tạo lập và hoàn thiện được một hệ thống CSC khá phù hợp, đáp ứng được yêu cầu ngày càng
cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được ban hành đã đáp ứng được về cơ bản
yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt, có tính ứng phó
khá tốt với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu như: chính sách kích cầu, chính
sách điều chỉnh tiền lương cơ bản, chính sách hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi suất
tối đa cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam, chính sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam của cá nhân
khi xuất nhập cảnh, chính sách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân, chính sách miễn giảm thuế sử
dụng đất nông nghiệp… Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong kiềm chế
lạm phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng của nền kinh tế trong điều

kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như những phản ứng kịp thời của nhà nước
trước những biến động lớn của kinh tế toàn cầu và khu vực.
Bên cạnh đó, việc tổ chức thực thi CSC cũng đạt được những yêu cầu cơ bản như: kịp thời,
đồng bộ, hiệu quả trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, ngành. Một số địa phương
đã chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong triển khai thực thi chính sách cho phù hợp với đặc
điểm của mình, có tính đến đặc điểm của đối tượng thụ hưởng chính sách. Công tác tổng kết
thực tiễn thi hành chính sách cũng đã bắt đầu được chú ý hơn; một số chính sách được sơ kết,
tổng kết khá công phu, có quy trình khoa học và có giá trị tham khảo lớn. Nhìn tổng thể, việc
thực thi chính sách đã đi vào nề nếp, nghiêm minh với không ít kinh nghiệm bổ ích đã được đúc
rút từ thực tiễn.
Hoạt động phân tích, đánh giá CSC đã bắt đầu được quan tâm với tư cách là một trong những
công đoạn quan trọng của quy trình CSC. Tuy chưa nhiều và chưa thật sự phát huy hết hiệu quả
nhưng một số cơ quan nhà nước, viện nghiên cứu và cá nhân có những sản phẩm phân tích,
đánh giá CSC rất tốt, giúp cho việc ban hành, sửa đổi nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách
hiện hành theo hướng khả thi, hiệu quả, mang lại lợi ích cho xã hội. Đặc biệt, vai trò của một số
8


tổ chức phi nhà nước trong việc phân tích, đánh giá CSC được dư luận xã hội thừa nhận về chất
lượng, về chính kiến và ảnh hưởng của chúng như: Viện nghiên cứu, tư vấn chính sách, pháp
luật và phát triển (PLD) thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA)…
Nhờ đó, từ chỗ là công việc khá lạ lẫm trong quy trình chính sách, thì đến nay hoạt động phân
tích, đánh giá CSC đã bắt đầu được quan tâm nhiều hơn không chỉ từ phía các cơ quan nhà
nước mà còn là của xã hội.
Mặc dù vậy, khi đánh giá về hạn chế, khuyết điểm trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X,
Đảng ta nhận định: "Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật
còn yếu… Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn
yếu…"(1). Có thể thấy những hạn chế, bất cập đó trên các khía cạnh chủ yếu sau đây:
- Lý luận về mô hình phát triển chung còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ đã và đang tác
động không nhỏ tới lý luận và thực tiễn của nhiều lĩnh vực vĩ mô như: về mối quan hệ giữa cải

cách hệ thống chính trị với đổi mới kinh tế, về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, về
tăng trưởng đi đôi với thực hiện công bằng xã hội trong từng bước và trong cả quá trình phát
triển, về bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững… Trong đó, còn nhiều vấn đề đặt ra rất
bức xúc nhưng chưa được kiến giải thấu đáo ở phương diện lý luận hay nói cách khác, lý luận
còn bất lực trước nhiều vấn đề thực tế mà cội rễ của nó là tư duy chưa thật sự bắt kịp được yêu
cầu ngày càng cao, phức hợp của công cuộc đổi mới.
Thực tiễn của Việt Nam, của từng địa phương, từng ngành vẫn chưa thật sự được quan tâm như
là một tiền đề, điều kiện tối quan trọng để xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện chính sách. Vì
thế, vẫn còn không ít những chính sách xa với thực tế, gây khó khăn khi tổ chức thực hiện và
không được dư luận thật sự đồng tình. Đặc biệt, những căn bệnh chủ quan, duy ý chí, chạy theo
thành tích, thích "đánh bóng hình ảnh", lợi ích cục bộ của từng bộ, ngành hoặc lợi ích của một
số nhóm trong xã hội vẫn tồn tại dai dẳng đã gây những hậu quả không nhỏ cho xã hội, cho
từng ngành và địa phương từ hoạt động hoạch định cho tới tổ chức thực thi CSC.
Quy trình hoạch định CSC tuy đã được nghiên cứu cải tiến theo hướng hiện đại, tiện lợi, dân chủ
nhưng nhìn tổng thể vẫn theo cách "có một không hai" (theo dẫn chứng của Giáo sư Kenichi Ohno,
Viện Nghiên cứu kinh tế Nhật Bản)(2). Theo đó, có thể chỉ ra những bất cập chủ yếu như:
- Làm chính sách vẫn đang được coi là đặc quyền của các cơ quan nhà nước, của nhà nước nói
chung mà chưa phải là công việc chung của xã hội, của các doanh nghiệp, của các nhóm lợi ích
trong xã hội.
- Có quá nhiều chính sách của các bộ, ngành trong khi chúng được xây dựng phân tán; thiếu sự
phối hợp giữa các bộ, ngành một cách hợp lý và có cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm đích thực
nên chất lượng không cao. Trong khi đó, hầu hết các chiến lược hay chính sách đều thể hiện sự
liệt kê mục tiêu, quan điểm định hướng, yêu cầu mà thiếu hẳn những kế hoạch hành động cụ thể
hay các biện pháp cần có.
- Chưa hình thành được những kênh thông tin chính thống cần thiết giữa nhà nước với xã hội
trong việc xây dựng, ban hành, thực thi CSC để phúc đáp những lợi ích cơ bản của đôi bên.
- Vai trò của các cơ quan thẩm định, phê duyệt chính sách chưa được phát huy nên đã tạo những
kẽ hở đáng kể cho việc ra đời một số chính sách có chất lượng chưa cao, thậm chí xã hội không
đồng tình.
- Hiện tượng "vận động chính sách" (lobby) tuy chưa được chính thức thừa nhận ở phương diện

luật pháp nhưng đã xuất hiện dưới nhiều hình thức với những biểu hiện tiêu cực khác nhau làm
ảnh hưởng đến tính công bằng của chính sách, gây những nguy hại nhất định cho xã hội lại
chưa được quan tâm nghiên cứu để có phương hướng và biện pháp xử lý có hiệu lực, hiệu quả.
Trong lĩnh vực tổ chức thực thi CSC bộc lộ những hạn chế, bất cập chủ yếu về tính kịp thời,
9


đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện, nhất là ở một số chính sách về kinh tế - xã hội và
môi trường trong thời gian gần đây. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, thuyết phục, vận động
nhằm định hướng dư luận trong quá trình thực hiện chính sách chậm được đổi mới về hình
thức, phương pháp, nội dung; còn nhiều biểu hiện hình thức, "làm cho có"… nên kém hiệu quả.
Công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra chưa kịp thời, thường xuyên và thiếu thực chất. Việc xử
lý khiếu nại, tố cáo các vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện còn chậm, nhiều trường hợp
thiếu công bằng, nghiêm minh đã ảnh hưởng xấu đến thực hiện CSC. Công tác tổng kết thực
tiễn, rút kinh nghiệm cho hoạch định và thực thi chính sách chưa được coi trọng, chưa làm
thường xuyên, kịp thời. Trong một thời gian dài, hoạt động này chưa thật sự được các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quan tâm, coi trọng do sự bất cập trong tư duy làm chính sách. Điều
này không chỉ đúng với quy trình chính sách của chính quyền địa phương mà còn của Chính
phủ, các bộ, ngành. Trong những năm gần đây, thực tiễn cho thấy xã hội đã bắt đầu ý thức rõ
hơn về vai trò quan trọng của hoạt động này trong tổng thể quy trình chính sách. Tuy vậy, xét
về tổng thể, hoạt động phân tích, đánh giá CSC còn ở trong tình trạng lẻ tẻ, rời rạc, hình thức;
không có nhiều những sản phẩm nghiên cứu có tầm cỡ về nội dung, chất lượng và quy mô để
có thể tạo ra được những đột phá về chính sách trong từng lĩnh vực. Vì những lý do rất khác
nhau mà những kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá CSC được ứng dụng vào thực tế một
cách hữu ích chưa nhiều, gây lãng phí, thiệt thòi cho toàn bộ quy trình CSC hoặc từng công
đoạn trong đó. Việc tiếp thu các kết quả phân tích, đánh giá CSC từ phía các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền còn rất dè dặt, cứng nhắc; thậm chí có những trường hợp tỏ thái độ phân biệt,
phê phán, "chụp mũ"… Số lượng các cơ quan hoặc cá nhân nghiên cứu về CSC chưa đủ để đáp
ứng nhu cầu thực tế của lĩnh vực này, trong đó bản thân họ cũng gặp những khó khăn nhất định
về khung pháp lý và phản ứng của một số cơ quan nhà nước.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động hoạch định và thực thi CSC ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo, cần đặt trọng tâm vào các vấn đề sau:

- Tiếp tục nâng cao nhận thức để trên cơ sở đó mở rộng sự tham dự một cách có hiệu quả của
mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhất là của cá nhân người lãnh đạo, quản lý vào quá
trình hoạch định và thực thi CSC. Nói cách khác, làm cho CSC từ chỗ chỉ là chức năng đặc
quyền của các cơ quan nhà nước thành mối quan tâm chung và trách nhiệm của toàn xã hội.
- Đổi mới quy trình hoạch định CSC theo hướng dân chủ, huy động sự tham gia đắc lực của
toàn xã hội, nhất là của đội ngũ chuyên gia vào xây dựng chính sách. Từng bước tạo lập một
quy trình làm chính sách gọn, tiện lợi nhưng khoa học, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Sửa
đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện cơ chế thẩm định và phê duyệt chính sách, nhất là với những
chính sách lớn, quan trọng, có tác động trực tiếp và lâu dài tới lợi ích chung của toàn xã hội.
- Chấn chỉnh để nâng cao tính kịp thời, đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả của quá trình tổ chức
thực thi CSC. Đặc biệt, coi trọng tính tiên phong của các khâu tuyên truyền, vận động, định
hướng dư luận xã hội trong quy trình thực hiện chính sách. Tăng cường công tác đôn đốc, kiểm
tra, giám sát về tiến độ, hiệu quả thực hiện CSC. Phát hiện và xử lý kịp thời, công bằng, minh
bạch các khiếu kiện, vi phạm pháp luật nảy sinh.
- Coi trọng hoạt động tổng kết thực tiễn về hoạch định, thực thi CSC theo hướng thường xuyên,
thiết thực; tránh phô trương, hình thức, lãng phí để rút kinh nghiệm cần thiết, bổ ích cho các
hoạt động đó.
- Đề cao vai trò của hoạt động phân tích, đánh giá CSC như là một điều kiện tối quan trọng để
từng bước cải thiện chất lượng của quy trình hoạch định và thực thi chính sách. Có cơ chế ràng
buộc các cơ quan nhà nước trong việc phản hồi ý kiến, tiếp nhận các kết quả nghiê n cứu, phân
tích, đánh giá CSC.
10


11




×