Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Sáng kiến một số kinh nghiêm giúp học sinh lớp 3 trường TH Tích Lương II giải các bài toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.54 KB, 29 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TP THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG TIỂU HỌC TÍCH LƯƠNG II

SÁNG KIẾN
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 3
TRƯỜNG TIỂU HỌC TÍCH LƯƠNG II GIẢI CÁC
BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN

Họ và tên

: DƯƠNG THỊ HUYỀN

Chức vụ

: GIÁO VIÊN

Sáng kiến thuộc lĩnh vực: CHUYÊN MÔN

TP. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2016

MỤC LỤC
i


Tất cả...............................................................................................................................................15

ii


PHẦN I: MỞ ĐẦU


I. LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN

Song song với việc dạy và học môn Tiếng Việt, việc dạy và học Toán ở
trường Tiểu học có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát
triển khả năng toán học cho học sinh. Bởi từ đây, những bài học đơn giản đầu
tiên sẽ là nền móng đưa các em đi vào thế giới toán học bao la sau này. Để phát
triển tốt khả năng toán học cho học sinh, hơn đâu hết, việc học toán ở trường
Tiểu học phải đặc biệt được chú trọng. Chúng ta đã và đang thực hiện tốt nội
dung này.
Trong môn toán ở bậc Tiểu học, các bài giải toán có lời văn có một vị trí
hết sức quan trọng, chiếm phần lớn lượng thời gian trong học toán của học sinh.
Việc giải thành thạo các bài toán là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá khả
năng học toán của mỗi học sinh. Việc giải toán được chú trọng như thế có lẽ vì
những tác dụng thiết thực mà nó đạt được trên cả 2 mặt lí thuyết và thực tế với
học sinh tiểu học:
- Trước hết giải toán tốt là một bước củng cố tốt trong việc khắc sâu kiến
thức số học, đo lường, các yếu tố đại số, hình học ở học sinh.
- Bên cạnh đó thông qua nội dung thực tế nhiều hình, nhiều vẻ của các đề
toán, học sinh sẽ tiếp nhận được những kiến thức phong phú về cuộc sống và có
điều kiện để rèn luyện khả năng áp dụng các kiến thức toán học vào đời sống.
Thực hiện tốt lời dạy “Học đi đôi với hành” của Bác Hồ.
- Ngoài ra việc giái toán sẽ giúp phát triển trí thông minh, óc sáng tạo, thói
quen làm việc một cách khoa học cho các em, bởi giải toán là quá trình đòi hỏi
nhiều nhất sự tư duy, suy luận khả năng phân tích chọn lựa của học sinh.
- Cuối cùng, giải toán là cách tốt nhất để rèn luyện tính kiên trì, tự lực vượt
khó, cẩn thận chu đáo, yêu thích sự chặt chẽ, chính xác cho học sinh, bởi khi
giải toán bắt buộc các em phải tự mình xem xét vấn đề, tự mình giải quyết vấn
đề, tự mình kiểm tra lại kết quả.
Vì những tác dụng thiết thực như thế, việc giải toán không chỉ giúp các em
học giỏi môn toán mà còn học giỏi tất cả các môn học khác. Muốn giải toán giỏi

1


các em cần phải xác định hướng đi chung trong hoạt động giải toán và việc dẫn
dắt các em vào đúng lối đi đó là vai trò không thể thiếu của người giáo viên.
Qua thực tế giảng dạy khối 3, tôi nhận thấy trong các kiến thức toán ở
chương trình thì mạch kiến thức “Giải toán có lời văn” là mạch kiến thức
khó khăn nhất đối với học sinh bởi vì đối với một số học sinh vốn từ, vốn
hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn
chế. Các em chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. Học sinh
khi giải toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Nhiều khi
với một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính của bài
nhưng không trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy?
Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng túng khi giải bài toán có lời văn.
Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra lối
giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt chưa rõ ràng, thiếu lô gic.
Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải vất vả hơn so với dạy các
em thực hiện các phép tính để tìm ra đáp số của bài toán. Việc đặt lời giải là một
khó khăn với các em học sinh vì các em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu
được đề, chưa trả lời các câu hỏi của giáo viên nêu: Bài toán cho biết gì?... Đến
khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giải...
Vậy làm thế nào để học sinh hiểu đề bài, biết cách giải và tìm ra đáp số
đúng của bài toán, đó là điều khiến tôi rất trăn trở. Đây là lí do mà tôi chọn sáng
kiến “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 TrườngTiểu học Tích Lương II
giải các bài toán có lời văn”, mong tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng
cao kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp
3 nói riêng. Để các em có thể giải thành thạo hơn với những bài toán có lời văn
khó ở các lớp trên.
II. MỤC ĐÍCH SÁNG KIẾN


“Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 Trường Tiểu học Tích Lương II
giải các bài toán có lời văn” nhằm giúp các em định hướng được cách giải các
bài toán có lời văn một cách thuận lợi và chính xác.
III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

2


1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh khối 3 trường Tiểu học Tích Lương II
b. Phạm vi nghiên cứu:
- Dạy học nội dung môn Toán lớp 3 của trường Tiểu học Tích Lương II, thành
phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm được xây dựng qua thực tế giảng dạy nhằm giáo
dục học sinh sau khi học xong chương trình Toán lớp 3, các em có đủ kiến thức
và kĩ năng cần thiết để học lên các lớp trên một cách dễ dàng, tránh việc học
sinh lên lớp một cách vớt vát hay ngồi nhầm chỗ. Điều đó sẽ gây khó khăn cho
bản thân học sinh, không phải chỉ ở thời điểm hiện tại mà trong suốt cả quá trình
tiếp cận kiến thức ở các lớp tiếp theo, mặt khác còn ảnh hưởng khó khăn rất lớn
cho giáo viên chủ nhiệm.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU

1. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát

- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá

- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động học tập của học sinh
(Đây là phương pháp nghiên cứu chính)
2. Thời gian nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm này tôi thực hiện năm học 2015 - 2016. Trong thời
gian trên tôi đã thong qua Ban giám hiệu nhà trường, các giáo viên trong trường
đặc biệt là phụ huynh học sinh của lớp 3A để thu thập số liệu và thống kê số liệu
điều tra để hoàn thiện sang kiến.
V. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI

Nếu thực hiện tốt các biện pháp sư phạm thì có thể hình thành, phát triển và
bồi dưỡng năng lực, kỹ năng giải các bài toán có lời văn cho học sinh học tốt
3


môn Toán trong giai đoạn đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa hiện
hành. Phát triển được khả năng tư duy để học sinh lớp 3 thực hiện làm các bài
toán có lời văn.
VI. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU

1. Dự giờ thăm lớp, tiếp xúc gần gũi với học sinh và hiểu thực trạng giải quyết
làm các bài tập Toán có lời văn của học sinh lớp 3.
2. Đề ra phương hướng để nâng cao chất lượng làm các bài tập có hiệu quả hơn
PHẦN II: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỂ TÀI

1. Cơ sở lí luận
Để giúp giáo viên tiểu học hiểu rõ hơn về cơ sở của việc lựa chọn và sắp
xếp các nội dung về phép nhân, phép chia các số tự nhiên, đồng thời giúp giáo
viên biết được định hướng của việc lựa chọn và tận dụng các phương pháp dạy
học đối với nội dung phép nhân, phép chia các số tự nhiên. Tôi xin trình bày tóm

tắt các vấn đề sau:
- Nhận thức của các em còn mang tính đại thể. Các em nhận thức một vấn
đề có tổ chức, nhận thức thường gắn với hành động. Các em thường hay hình
dung vấn đề nào đó bằng trực quan, sinh động dễ gây ấn tượng.Vì vậy muốn
truyền thụ kiến thức cho các em chúng ta nên áp dụng trực quan sinh động để
gây sự chú ý thì các em nhanh chóng tiếp thu. Tuy nhiên chúng ta không nên
quá lạm dụng đồ dùng trực quan vì hình ảnh, màu sắc quá sinh động dễ dẫn đến
các em chú ý sai lệch vấn đề, dẫn đến phản tác dụng và làm cho các em quên
nhiệm vụ chính của mình. Hơn nữa sử dụng đồ dùng trực quan quá nhiều sẽ làm
giảm đi trí tưởng tượng của các em.
- Nên tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động vì khi tham gia hoạt động
tích cực. Các em có điểu kiện để tiếp thu bằng các tri giác như: tai - nghe, mắt -nhìn,
miệng - nói, tay thao tác sẽ dẫn đến các em tiếp thu và khắc sâu hơn kiến thức đó.
- Giáo viên phải tạo cho học sinh ghi nhớ một cách chủ động tránh áp đặt
mà cần phải có thủ thuật ghi nhớ, có thể chia ra làm nhiều phần để học sinh dễ
hình dung ra khi cần thiết.
4


- Việc học sinh ghi nhớ tốt là điều kiện cần thiết nhất để các em nhanh
chóng học thuộc bảng nhân, bảng chia một cách khoa học chứ không phải máy
móc, nếu khi cần các em có thể nêu nhanh tất cả các phép tính trong bảng nhân,
bảng chia không theo thứ tự trong bảng.
- Chúng ta không nên áp đặt học sinh tiếp thu kiến thức sâu hơn mà chỉ cần
các em tiếp thu được những nội dumg cơ bản trong từng bài học, nội dung đó
phù hợp với khả năng của tùng em.
* Tóm lại: Từ những đặc điểm trên của học sinh tiểu học về quá trình nhận
thức, khi dạy học tiểu học nói chung và dạy học môn Toán nói riêng chúng ta nên:
- Quan tâm đến việc sử dụng đồ dùng học tập của các em. Nên áp dụng đồ
dùng trực quan để hình thành kiến thức cho học sinh.

- Nên chú ý đến từng đối tượng học sinh mà có biện pháp dạy học phù hợp,
tránh áp đặt mà phải để cho các em làm quen từ từ với kiến thức đó.
- Nên chia học sinh theo từng đối tượng để truyền thụ.
- Trong khi giúp học sinh thực hành giáo viên cần cho học sinh:
+ Tự phát hiện và giải quyết vấn đề liên quan trong bài học.
+ Tự chiếm lĩnh tri thức mới một cách chủ động.
+ Hướng dẫn học sinh cách phát hiện và chiếm lĩnh tri thức mới.
+ Thiết lập được mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức cũ đã học.
+ Thực hành, rèn luyện cách diễn đạt thông tin bằng lời, bằng kí hiệu.
- Trong khi thực hành luyện tập, giáo viên cần cần tổ chức và động viên
học sinh ở mọi mức độ đều phải tham gia tích cực vào hoạt động thực
hành, nhằm giúp mọi học sinh nhận ra được kiến thức mới và quy trình vận
dụng kiến thức đó vào thực tiễn trong các dạng bài tập khác nhau.
- Tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau trong mọi đối tượng học sinh.
- Khuyến khích học sinh tự kiểm tra kết quả học tập thực hành nhằm giúp
các em khắc sâu hơn kiến thức đó.
- Tập cho học sinh có thói quen không thoả mãn với bài làm của mình và tự
tìm ra cách giải quyết mới thuyết phục hơn những cách giải đã có.
2. Cơ sở thực tiễn
Sau khi đã nhận thức rõ được vai trò trách nhiệm của người giáo viên, cùng
5


với sự phân công của Ban giám hiệu nhà trường. Năm học 2015 - 2016 tôi đã
được phân công trực tiếp giảng dạy lớp 3A. Ngay từ đầu năm học, lớp tôi cũng
như các lớp khác trong nhà trường đã được Ban giám hiệu kiểm tra khảo sát chất
lượng đầu năm hai môn Toán và Tiếng Việt. Kết quả cho thấy chất lượng môn
Toán của các em ở lớp tôi chưa cao. Cụ thể:
TSHS
24


Hoàn thành
SL
17

TL
71%

Chưa hoàn thành
SL
TL
7
29%

Nhận thấy tầm quan trọng của môn Toán, trước chất lượng thực của học
sinh lớp mình dạy, tôi đã băn khoăn suy nghĩ: Làm thế nào để các em có thể học
tốt môn Toán hơn, yêu môn Toán hơn, có hứng thú trong việc học toán và cuối
cùng là để đưa chất lượng môn toán của học sinh lớp mình cao hơn. Đó chính là
lí do mà tôi chọn sáng kiến “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 Trường
Tiểu học Tích Lương II giải các bài toán có lời văn”
II. THỰC TRẠNG DẠY HỌC MÔN TOÁN Ở LỚP 3 TRƯỜNG TIỂU HỌC TÍCH
LƯƠNG II

1. Đặc điểm tình hình chung của Trường Tiểu học Tích Lương II
a. Thuận lợi:
Trường Tiểu học Tích Lương II được thành lập tháng 8 năm 1999 .Trường nằm
trên địa bàn phường Tích Lương, thành phố Thái Nguyên. Năm học 2015 - 2016
trường có 115 học sinh/ 5 lớp. Có 14 cán bộ giáo viên, nhân viên, trong đó có 8
đồng chí trực tiếp đứng lớp giảng dạy. Các đồng chí giáo viên đều đạt trình độ
chuẩn và trên chuẩn. Các đồng chí đều nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm cao,

và rất quan tâm đến học sinh.
Tập thể giáo viên trong trường luôn đoàn kết giúp đỡ nhau trong mọi lĩnh
vực. Các đồng chí luôn có ý thức tu dưỡng đạo đức tự học, tự rèn luyện để hoàn
thiện mình. Các em học sinh ngoan, lễ phép và sống rất tình cảm.
Nhà trường luôn nhận được sự chỉ đạo kịp thời của phòng Giáo dục và Đào
tạo thành phố Thái Nguyên, sự quan tâm động viên của Đảng ủy, UBND phường
Tích Lương và các bậc cha mẹ học sinh.
b. Khó khăn:
6


Cơ sở vật chất của nhà trường còn nghèo nàn, thiếu thốn. Phần đa các em
học sinh đều là con nông thôn nên điều kiện kinh tế còn hạn hẹp.Việc học tập
của các em chưa được gia đình quan tâm đúng mức.
2. Đặc điểm chung của lớp 3A
Tổng số học sinh lớp 3A: 24 em. Nữ: 14 em. Dân tộc: 3 em
Năm học 2015 - 2016 tôi được phân công dạy lớp 3A. Phần lớn học sinh
lớp tôi là con nông thôn. Điều kiện kinh tế gia đình còn gặp nhiều khó khăn nên
các em chưa thực sự được bố mẹ quan tâm đúng mức. Một số phụ huynh không
quan tâm đến con cái, tất cả mọi việc học của con đều phó mặc cho nhà trường.
Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của các em. Nhất là với môn Toán một số
học sinh còn nhận thức chậm, chất lượng học tập chưa cao, có những học sinh không
hiểu được đề bài toán nên làm cho có, dẫn đế kết quả của bài toán sai khá nhiều.
Để khắc phục và thực hiện được vấn đề này, tôi đã tìm hiểu và nắm rõ tình
hình học sinh lớp tôi ngay khi được phân công. Trước tiên tôi xem sổ chủ nhiệm năm
học trước đồng thời tôi trao đổi với giáo viên chủ nhiệm năm học trước để nắm rõ
hơn. Sau đó tôi cho học sinh kiểm tra lại để phân loại từng đối tượng học sinh.
3. Thực trạng về giải toán có lời văn hiện nay đối với học sinh lớp 3
- Qua quá trình dạy học nhiều năm ở Tiểu học, được trực tiếp thâm nhập
vào quá trình học toán của học sinh nhất là học sinh lớp 3, tôi nhận thấy đa phần

những hạn chế trong kĩ năng giải toán của học sinh như sau:
+ Giáo viên chưa chú ý nhiều đến việc hướng dẫn kĩ năng đọc đề toán cho
học sinh. Học sinh đọc đề vội vàng, chưa biết tập trung vào những dữ kiện trọng
tâm của đề toán không chịu phân tích đề toán khi đọc đề.
+ Việc tóm tắt, tìm hiểu đề toán, đang còn gặp nhiều khó khăn đối với học
sinh trung bình yếu của lớp 3. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao,
nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp...
+ Đa số học sinh bỏ qua một bước cơ bản trong giải toán là tóm tắt đề toán.
học sinh chưa xác định các kiểu tóm tắt đề toán khác nhau phụ thuộc vào từng
dạng bài cụ thể.

7


+ Học sinh chưa có kĩ năng phân tích và tư duy khi gặp những bài toán
phức tạp. Hầu hết, các em làm theo khuôn mẫu của những dạng bài cụ thể mà
các em thường gặp trong sách giáo khoa, khi gặp bài toán đòi hỏi tư duy, suy
luận một chút các em không biết cách phân tích dẫn đến lười suy nghĩ.
+ Một số em biết tìm ra phép tính đúng nhưng khi đặt lời giải thì còn lúng
túng và có khi đặt lời giải cho bài toán chưa hợp lý.
+ Khi giải xong bài toán, đa số học sinh bỏ qua bước kiểm tra lại bài, dẫn
đến nhiều trường hợp sai sót đáng tiếc do tính nhầm, do chủ quan. Ngoài ra, còn
có những trường hợp học sinh hiểu bài nhưng còn lúng túng trong cách trình bày
nhất là với các bài toán giải có lời văn phức tạp.
+ Thực tế trong một tiết dạy, vừa dạy bài mới, vừa làm bài tập và các bài
toán có lời văn thường ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời
không được nhiều nên học sinh chưa khắc sâu kiến thức, chưa nắm được mẹo để
làm bài.
Từ những thực trạng trên tôi mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp
giảng dạy như sau:

III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 GIẢI CÁC BÀI TOÁN CÓ
LỜI VĂN

1. Các biện pháp giúp học sinh nắm vững phương pháp giải toán
a. Giáo viên và học sinh:
Đối với học sinh lớp 3, đặc biệt là một số em học sinh còn thụ động, rụt rè
trong giao tiếp. Chính vì vậy tôi đã đề ra một số biện pháp sau:
- Để các em mạnh dạn hơn tự tin khi phát biểu, trả lời câu hỏi người giáo
viên cần phải luôn luôn gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp.
- Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập. Đặc điểm chung của học sinh
tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế chê các em trong học tập, rèn
luyện. Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý từng học sinh mà cứ quá
khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những em chậm tiến bộ, thường
rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả lời hoặc lên bảng
làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương ngay, để từ đó
8


các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những em học khá,
giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới khen. Chính sự
khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh sẽ có tác dụng khích lệ
các em trong học tập.
- Để giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi tôi phải đổi mới phương pháp dạy học
tức là kiểu dạy học: “Lấy học sinh làm trung tâm”, hướng tập trung vào học
sinh, học sinh là người hoạt động tích cực tự tìm tòi khám phá để phát hiện ra
kiến thức mới. Thông qua các hoạt động các em sẽ lĩnh hội kiến thức và nhớ rất
lâu (nhớ kiến thức một cách khoa học chứ không học vẹt).
- Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 3 - 4 phút để cho các em nghỉ
giải lao tại chỗ bằng cách tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi học tập vừa giúp
các em thoải mái sau giờ học căng thẳng và qua các trò chơi học tập tạo cơ hội cho

học sinh có cơ hội được trao đổi, được luyện nói nhiều trong các tiết học giúp các
em có vốn từ lưu thông, các em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn mà
không rụt rè, tự ti vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội
dung bài đã học kĩ hơn.
- Để giúp học sinh giải toán có lời văn thành thạo, tôi luôn luôn chú ý rèn
luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho các em bởi vì đọc thông, viết thạo là yếu
tố “đòn bẩy” giúp học sinh hiểu rõ đề và tìm cách giải bài toán một cách hợp lý,
chính xác.
- Trong một tiết dạy để đạt được kết quả cao đòi hỏi người giáo viên phải
chuẩn bị tốt. Sự chuẩn bị càng tốt thì hiệu quả càng cao. Vì vậy, người giáo viên
phải nắm vững yêu cầu của từng loại bài để có phương pháp cụ thể phù hợp với
loại bài đó. Ngoài ra người giáo viên phải có thao tác linh hoạt và khắc sâu kiến
thức từng dạng bài tập cho học sinh.
- Khuyến khích học sinh tham gia giải toán qua mạng. Mua sách, báo nhi
đồng để tập giải các bài toán đố trong sách, phát huy thêm kiến thức cho các em.
b. Đối với phụ huynh học sinh
Để giúp các em học tập tốt hn và giúp cho phụ huynh có biện pháp phù hợp
trong việc giáo dục con cái, tôi đã tổ chức gặp gỡ các bậc cha mẹ học sinh vào
9


đầu năm học để trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của lớp và
những yêu cầu cần thiết giúp các em học tập như: Mua sách vở, đồ dùng học
tập, cách hướng dẫn các em tự học ở nhà. Yêu cầu phụ huynh dành thời gian
quan tâm nhắc nhở các em có cách học tập phù hợp.
2. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung về các bước giải các
bài toán có lời văn
Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào các
phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên
chúng ta hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải bài toán như sau:

Bước 1: Đọc kĩ đề toán
Bước 2: Tóm tắt đề toán
Bước 3: Phân tích bài toán
Bước 4: Viết bài giải
Bước 5: Kiểm tra lời giải và kết quả bài giải
* Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh đọc kĩ đề toán
- Học sinh đọc ít nhất ba lần, mục đích để giúp các em nắm được ba yếu tố
cơ bản. Những “dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “những ẩn
số” là những cái chưa biết và cần tìm và những “điều kiện” là quan hệ giữa các
dữ kiện với ẩn số.
Cần cho học sinh đọc kỹ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ
ngữ quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn từ
1
3

thông thường như: “gấp đôi”, “ ,

1
”, “tất cả”, “cả hai”, “nhiều hơn”, “ít hơn”.
4

Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng
dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó. Phải tập cho học sinh
có thói quen tự tìm hiểu đề toán qua việc phân tích những điều đã cho và xác
định được những điều phải tìm.
Để làm được điều đó, cần hướng sự tập trung suy nghĩ của học sinh vào
những từ quan trọng của đề toán, từ nào chưa hiểu hết ý nghĩa thì phải tìm hiểu
10



hết ý nghĩa của từ đó.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh đọc tóm tắt đề toán
- Sau khi đọc kĩ đề toán, các em biết lược bớt một số câu chữ, làm cho bài
toán gọn lại. Nhờ đó mà mối quan hệ giữa cái đã cho và một số phải tìm hiện rõ
hơn, các em có thể tóm tắt được một đề toán và biết cách nhìn vào tóm tắt đó để
nhắc lại đề toán.
- Khi đã thâm nhập vào đề toán, việc tóm tắt đề toán sẽ giúp học sinh tự
thiết lập đựơc mối liên hệ giữa những cái đã cho và những cái phải tìm. Học
sinh tự tóm tắt được đề toán nghĩa là nắm được yêu cầu cơ bản của bài toán.
- Khi tóm tắt đề cần gạt bỏ tất cả những gì là thứ yếu, lặt vặt trong đề toán
và hướng sự tập trung của học sinh vào những điểm chính yếu của bài toán, tìm
cách biểu thị một cách cô đọng nhất nội dung bài toán.
- Trên thực tế có rất nhiều cách tóm tắt thì các em càng dễ dàng giải toán
đúng và nhanh hơn. Cho nên, khi dạy tôi đã truyền đạt một số cách tóm tắt các
đề toán thông dụng sau:
Cách 1: Tóm tắt bằng chữ
Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng
Cách 3: Tóm tắt bằng lưu đồ
Cách 4: Tóm tắt bằng ngôn ngữ, kí hiệu, ngắn gọn
Cách 5: Tóm tắt bằng kẻ ô
Tuy nhiên, tôi luôn luôn hướng các em chọn cách nào dễ hiểu nhất, rõ nhất,
điều đó còn tùy thuộc vào nội dung từng bài.
a) Cách 1: Tóm tắt bằng chữ (Lời)
Ví dụ 1: Bài tập 2 SGK toán 3 trang 33. Đây là dạng toán gấp một số lên nhiều lần
Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số cam của con. Hỏi mẹ
hái được bao nhiêu quả cam?
Tóm tắt bằng lời:
Con hái: 7 quả cam
Mẹ hái: gấp 5 lần số cam của con

Mẹ hái: … quả cam?
11


Ví dụ 2: Bài 3, 4 SGK Toán 3 trang 68
Bài 3: Có 45kg gạo, chia đều vào 9 túi. Hỏi mỗi túi có bao nhiêu ki-lô-gam gạo?
Tóm tắt:
9 túi: 45kg gạo
1 túi: ... gạo?
Bài 4: Có 45kg gạo chia đều vào các túi, mỗi túi có 9kg gạo. Hỏi có bao nhiêu
túi gạo?
Tóm tắt:
9kg gạo: 1 túi
45kg gạo: … túi?
Ví dụ 3: Bài tập 2 SGK Toán trang 51
Một thùng đựng 24 lít mật ong, lấy ra

1
số lít mật ong đó. Hỏi trong thùng
3

còn lại bao nhiêu lít mật ong?
Tóm tắt:
Có: 24 lít
Lấy ra:

1
số lít mật ong.
3


Còn lại: ... lít mật ong ?.
b) Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng
Muốn rèn luyện tốt cho học sinh kĩ năng tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng cần
làm quen với cách biểu thị một số quan hệ sau:
+ Quan hệ “số a kém hơn hay lớn hơn số b một số đơn vị”
a

a

b

b

+ Quan hệ “số a gấp hay kém số b một số lần”
a
b

(a kém b 3 lần)

+ Biểu thị tổng của hai số a và b là một số nào đó
a
b

s
12


+ Biểu thị hiệu của 2 số a và b là một số nào đó
a
s


b

+ Biểu thị a = một phần mấy của b, a =

3
của b
4

a
b
Ví dụ: Bài tập 3 trang 50 SGk Toán 3
Bao gạo nặng 27kg, bao ngô nặng hơn bao gạo 5kg. Hỏi cả hai bao gạo
và ngô nặng tất cả bao nhiêu kg?
Baogạo

27kg

Bao ngô

5kg

c) Cách 3: Tóm tắt bài toán bằng lưu đồ:

?kg
Đây là cách tóm tắt ít được sử dụng hơn, tuy nhiên nó khá tiện lợi và hiệu

quả với một số bài toán suy ngược từ cuối như: Nếu gấp một số lên 8 lần rồi bớt
đi 5 thì được 43. Tìm số đó?
X


x8

-5

43

Hoặc một ví dụ khác:
Ba bạn Huệ, Cúc, Đào có trồng 3 cây: huệ, cúc và đào. Trong 3 người
không có ai trồng cây trùng tên của mình cả. Hỏi bạn nào đã trồng cây nào?
Bài toán có hai nhóm đối tượng: một nhóm là tên các bạn, kí hiệu là H, C, Đ.
Một nhóm là tên các cây, kí hiệu là: h, c, đ. Ta dùng nét liền để nối hai đối tượng
có sự tương ứng với nhau và nét đứt để nối hai đối tượng không có sự tương
ứng.
H
C
Đ
Người

h
c
đ
cây
13


Dựa vào sơ đồ ta suy được kết quả bài toán là: Bạn Huệ trồng cây đào, bạn
Cúc trồng cây huệ, bạn Đào trồng cây cúc.

GIỜ HỌC TOÁN

LỚP 3A

d) Cách 4: Tóm tắt bài toán bằng ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn:
Thực chất đây là cách viết tắt các ý chính, chủ yếu của đề toán, phối hợp
với việc dùng một số dấu, kí hiệu mũi tên, dấu gạch ngang để biểu thị cái đã cho
và cái phải tìm.VD:
Bài toán: Một tổ thợ xây có 3 người, trong 5 ngày xây được 45 bờ kè. Nếu tổ có
1 người xây trong 5 ngày thì xây dược bao nhiêu bờ kè?
Có thể tóm tắt bài toán như sau:
3 người_______5 ngày_______45 bờ
1 người_______5 ngày_______ ? bờ
đ/ Cách 5: Tóm tắt đề toán bằng bảng kẻ ô:
Nếu bài toán có các nhóm đối tượng chung với nhau những đặc tính nào
đấy, hoặc các đại lượng có giá trị tương ứng với nhau một cách chặt chẽ. Lúc đó
ta có thể dùng bảng kẻ ô để xếp các đối tượng ấy vào cùng một hàng, rồi dựa
vào sự tính toán suy luận tính toán theo từng hàng hoặc từng cột để phối hợp lại
14


mà đi đến kết quả. Như vậy ta dễ dàng nhận thấy được những quan hệ chính
trong bài toán, nhờ đó mà giải toán được dễ dàng hơn.Ví dụ:
Bài toán: Lớp em có 35 học sinh, trong đó có 20 bạn trai. Chủ nhật vừa rồi có 8
bạn gái đi xem phim và có 11 bạn trai không đi xem phim. Hỏi đã có bao nhiêu
bạn không đi xem phim?
trai
Có đi xem phim
Không đi xem phim
11
Tất cả
20

Dựa vào bảng này có thể giải bài toán như sau:

gái
8

tất cả
?
35

Số bạn nam có đi xem phim là: 20 - 11= 9 (bạn)
Số học sinh có đi xem phim : 9 + 8 = 17 (bạn )
Số học sinh không đi xem phim: 35 - 17 = 18 (bạn)
Bước 3: Phân tích bài toán
Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách
giải bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương pháp phân
tích và tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng
các câu hỏi thông thường:
- Bài toán cho biết gì?
- Bài toán hỏi gì?
- Muốn tìm cái đó ta cần biết gì?
- Cái này biết chưa?
- Còn cái này thì sao?
- Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào?
Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em
nắm bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán.
Hiểu được những thiếu sót thường ngày của các em, tôi thường dành nhiều
thời gian để hướng dẫn kĩ và kết hợp trình bày bài mẫu nhiều bài giúp các em
ghi nhớ về hình thành kĩ năng.
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái
phải tìm. Cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp:

15


+ Chọn “phép chia” nếu bài toán yêu cầu “tìm

1 1
, ...”. Giảm đi 2, 3, 4 lần…
3 4

+ Chọn “phép trừ” nếu bài toán cho “bớt đi” hoặc “tìm phần còn lại” hay là
“lấy ra”
+ Chọn “phép nhân” nếu bài toán cho có từ “gấp đôi, gấp 3...”.
+ Chọn “phép cộng” nếu bài toán cho có từ “nhiều hơn, cả hai”...
* Nhưng tôi cũng lưu ý cho học sinh có một số bài toán nhiều hơn nhưng
không thể làm phép cộng mà phải làm phép trừ như bài toán sau:
Ví dụ: Bài toán 3b SGK trang 12:
Lớp 3A có 19 bạn nữ và 16 bạn nam. Hỏi số bạn nữ nhiều hơn số bạn nam
là bao nhiêu?
Ví dụ: Bài toán 4 SGK trang 18:
Thùng thứ nhất có 125l dầu, thùng thứ hai có 160l dầu. Hỏi thùng thứ hai
nhiều hơn thùng thứ nhất bao nhiều lít dầu?
* Tìm cách giải bài toán
- Chọn phép tính giải thích hợp
Ví dụ 1: Bài tập 2 SGK toán 3 trang 33
Đây là dạng toán gấp một số lên nhiều lần
Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số cam của con. Hỏi mẹ hái
được bao nhiêu quả cam?
Tóm tắt:
Con hái: 7 quả cam
Mẹ hái: gấp 5 lần số cam của con

Mẹ hái: ... quả cam?
Khi gặp bài toán này một số học sinh rất lúng túng không biết làm phép tính gì
đây? Nhất là đối với các em nhận thức chậm (có em làm phép tính cộng). Tôi
hướng dẫn học sinh như sau: Trước tiên các em em cho cô biết:
+ Bài toán cho biết gì?
+ Mẹ hái gấp mấy lần con ?
+ Bài toán hỏi gì?
16


- Muốn biết mẹ hái được bao nhiêu quả cam ta làm thế nào? (lấy số cam
của con hái được nhân với 5) 7 x 5 = 35 (quả)
- Ở bài toán này tôi chú ý cho học sinh tìm những từ quan trọng trong bài
toán để tìm ra phép tính, đó là từ (gấp 5). Khắc sâu kiến thức cho học sinh khi
bài toán cho có từ “gấp” thì chắc chắn có phép tính “nhân” khi giải bài toán đó.
Bên cạnh đó sẽ giúp các em nắm chắc dạng bài tập này để khi gặp những bài tập
sau các em sẽ biết cách làm ngay.
Ví dụ 2: Bài tập 3 GK Toán 3 trang 68
Có 45kg gạo, chia đều vào 9 túi. Hỏi mỗi túi có bao nhiêu ki-lô-gam gạo?
Tóm tắt:

Sau khi tóm tắt bài toán xong tôi hướng dẫn học sinh như

9 túi: 45kg gạo

sau: Trước tiên các em em cho cô biết:

1 túi: ... gạo?

Bài toán cho biết gì?

Bài toán hỏi gì?
Muốn biết mỗi túi đựng bao nhiêu ki-lô-gam gạo ta làm thế
nào? (lấy số gạo trong 9 túi chia cho 9 thì sẽ tìm được số

gạo trong mỗi túi) 45 : 9 = 5 (kg)
- Ở bài toán này tôi chú ý cho học sinh tìm những từ quan trọng trong bài
toán để tìm ra phép tính, đó là từ (chia đều). Khắc sâu kiến thức cho học sinh khi
bài toán cho có từ “chia” thì chắc chắn có phép tính chia khi giải bài toán đó.
Ví dụ 3: Bài tập 4 SGK toán 3 trang 68
Có 45kg gạo chia đều vào các túi, mỗi túi có 9kg gạo. Hỏi có bao nhiêu túi gạo?
Tóm tắt:
9kg gạo: 1 túi

Sau khi tóm tắt bài toán xong tôi hướng dẫn học sinh như
sau: Trước tiên các em cho cô biết: Bài toán cho biết gì?

45kg gạo: … túi? Bài toán hỏi gì? Mỗi túi đựng bao nhiêu ki-lô-gam gạo?
Muốn biết 45kg gạo đựng bao nhiêu túi ta làm thế nào ?
(lấy số gạo có tất cả chia cho số gạo trong mỗi túi)
45 : 9 = 5 (túi)
- Ở bài toán này tôi chú ý cho học sinh tìm những từ quan trọng trong bài toán
để tìm ra phép tính, đó là từ (chia đều). Khắc sâu kiến thức cho học sinh khi bài
toán cho có từ “chia” thì chắc chắn có phép tính chia khi giải bài toán đó.
17


- Sau khi hướng dẫn học sinh giải xong hai bài toán này tôi cho học sinh so
sánh và nêu đặc điểm của hai bài toán trên.
Ví dụ 4: Bài tập 2 trang 51 Toán 3


- Sau khi tóm tắt bài toán xong tôi

Một thùng đựng 24 lít mật ong, hướng dẫn học sinh: Trước tiên các em
1
lấy ra
số lít mật ong đó. Hỏi
3

em cho cô biết:
Bài toán cho biết gì?

trong thùng còn lại bao nhiêu lít Bài toán yêu cầu chúng ta tìm gì?
mật ong?

Đối với bài toán này thì hướng dẫn học

Tóm tắt:

sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược

Có: 24lít

lên, từ đó các em nắm bài kĩ hơn, sau đó

Lấy ra:

1
số lít mật ong.
3


tự các em giải được bài toán bằng hai
phép tính.

Còn lại: ... lít mật ong.
* Ở bài toán này tôi chú ý cho học sinh tìm những từ quan trọng trong bài toán
để tìm ra phép tính, đó là từ (Lấy ra:

1
và từ còn lại). Khắc sâu kiến thức cho học
3

sinh khi bài toán cho có t ừ “Lấy ra:

1
” và từ “còn lại” thì chắc chắn có phép tính
3

chia khi “Lấy ra:

1
6bài toán
” và phép tính trừ tìm “còn lại ” khi giải
?lít đó.
3

Ví dụ 5: Bài 2 SGK Toán 3 trang 50
Thùng thứ nhất đựng 18l dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ
nhất 6l dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?
Tóm tắt:
Thùng thứ nhất:


18

Thùng thứ hai :
- Sau khi tóm tắt bài toán xong tôi hướng dẫn học sinh: Trước tiên các em
cho cô biết:
Bài toán cho biết gì?
Bài toán yêu cầu chúng ta tìm gì?

18


Đối với bài toán này thì hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp
ngược lên, từ đó các em nắm bài kĩ hơn, sau đó tự các em giải được bài toán
bằng hai phép tính
* Ở bài toán này tôi chú ý cho học sinh tìm những từ quan trọng trong bài
toán để tìm ra phép tính, đó là từ “nhiều hơn” và từ “cả hai”. Khắc sâu kiến thức
cho học sinh khi bài toán cho có từ “nhiều hơn” và từ “cả hai” thì chắc chắn có
phép tính cộng khi “nhiều hơn” và phép tính cộng nữa khi tìm “ cả hai ” Thì sẽ
giúp các em nắm chắc dạng bài tập này để khi gặp những bài tập sau các em sẽ
biết cách làm ngay khi giải bài toán đó.
Bước 4: Viết và trình bày bài giải
* Đặt câu lời giải thích hợp và phép tính:
Thực tế giảng dạy cho thấy việc đặt câu lời giải phù hợp là bước quan trọng và
khó khăn nhất đối với một số học sinh nhận thức chậm ở lớp 3. Chính vì vậy việc
hướng dẫn học sinh lựa chọn và đặt câu lời giải hay cũng là một khó khăn đối với
người dạy. Tùy từng đối tượng học sinh mà tôi lựa chọn các hướng dẫn sau:
Cách 1: (Được áp dụng nhiều nhất và dễ hiểu nhất). Dựa vào câu hỏi của bài
toán rồi bỏ bớt từ đầu “Hỏi” thay từ “mấy”, “bao nhiêu” bằng từ “số” rồi thêm
từ “là” để có câu lời giải:

Ví dụ: Bài toán hỏi: Hỏi nhà An còn lại bao nhiêu con gà?
Thì câu lời giải là: Nhà An còn lại số con gà là:
(Đây là đối với bài toán có một phép tính)
Cách 2: (Đối với bài toán có hai phép tính). Bài 2 SGK toán 3 trang 50
Thùng thứ nhất đựng 18l dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ
nhất 6l dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?
Hướng dẫn học sinh tìm câu lời giải bằng cách nêu câu hỏi: “muốn biết cả
hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu? trước hết ta phải tìm gì?” để học sinh trả lời
miệng: “Tìm số lít dầu thùng thứ hai”. Rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải
(câu lời giải và phép tính).
Số lít dầu thùng thứ hai đựng là:
18 + 6 = 24 ( l )
19


Tóm lại: Tùy từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà hướng dẫn các em
cách lựa chọn đặt câu lời giải cho phù hợp.
Trong một bài toán, học sinh có thể có nhiều cách đặt lời giải khác nhau.
Nên trong khi giảng dạy, ở mỗi một dạng bài cụ thể tôi để cho các em suy nghĩ,
thảo luận theo bàn, nhóm để tìm ra các câu lời giải đúng và hay nhất phù hợp
với câu hỏi của bài toán đó.
Tuy nhiên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách hay nhất (ngắn gọn, dễ
hiểu, phù hợp với các em) còn các cách kia giáo viên đều công nhận là đúng và
phù hợp nhưng cần lựa chọn để có câu lời giải hay nhất ghi vào bài giải.
* Trình bày bài giải
Như chúng ta đã biết, các dạng toán có lời văn học sinh đã phải tự viết câu
lời giải, phép tính, đáp số, thậm chí cả tóm tắt nữa.
Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa học,
đẹp mắt cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện yêu cầu
này trước tiên người dạy cần tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng dẫn,

quy định.
Đầu tiên là tên bài “Bài 1” ( viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi
tóm tắt, sau phần tóm tắt là trình bày bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở
(có gạch chân), câu lời giải ghi cách lề khoảng 2 ô vuông, chữ ở đầu câu viết
hoa, ở cuối câu có dấu hai chấm(:), phép tính viết lùi so với lời giải khoảng 2 ô
vuông, cuối phép tính là đơn vị tính được viết trong dấu ngoặc đơn. Phần đáp số
ghi sang phần vở bên phải (có gạch chân) và dấu hai chấm rồi mới viết kết quả
và đơn vị tính (không phải viết dấu ngoặc đơn nữa).

* Lưu ý: Trong mọi trường hợp người giáo viên luôn luôn phải dùng thước để
gạch chân và liên tục nhắc học sinh tạo cho các em bỏ thói quen xấu gạch bằng tay.
Song song với việc hướng dẫn các bước thực hiện, tôi thường xuyên trình
bày bài mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình bày
để từ đó học sinh quen nhiều với cách trình bày bài làm. Bên cạnh đó, tôi còn
thường xuyên chấm bài và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp, tuyên
dương trước lớp những học sinh làm đúng, trình bày sạch đẹp cho các em đó lên
20


bảng trình bày lại bài làm của mình để các bạn cùng học tập.

Bước 5: Kiểm tra lại bài làm (lời giải và kiểm tra kết quả)
Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học
sinh thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm dược câu trả lời.
Khi giáo viên hỏi để khẳng định lại kết quả thì các em còn lúng túng. Vì vậy
việc kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành
thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn
các bước sau:
- Đọc lời giải.
- Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn

diễn đạt trong lời giải đúng chưa.
- Thử lại kết quả vừa tính từ bước đầu tiên.
- Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa.
- Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài
giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều
kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh.
- Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày như trên, tôi cũng luôn luôn nhắc
nhở, rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ - viết đúng mẫu - đẹp. Việc kết hợp
giữa chữ viết đẹp, và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo nên
sự thành công trong quá trình học giải toán có lời văn của các em.
Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một
yếu tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học
tập, mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn.
Vì chúng ta đều biết học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 3 nói riêng
có trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. Đó là
tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất rễ bị phân
tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn
đang trong thời kì phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ còn chưa hoàn thiện
vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học
cũng như làm một việc gì đó trong một thời gian dài.
21


HỌC NHÓM
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Sau khi đã áp dụng các phương pháp dạy học như trên, tôi đã thật sự nhận
thấy sự tiến bộ ở học sinh của tôi trong việc giải toán. Với bất kì đối tượng học
sinh nào, khi đã được xác định đúng những bước đi như vậy, các em cũng sẽ
không còn lúng túng, ngỡ ngàng trước một bài toán giải mới.

* Sau 2 tháng áp dụng phương pháp này tôi đã ra đề khảo sát như sau:
Em có 13 quả cam, anh có ít hơn em 4 quả cam. Hỏi anh có mấy quả
cam ?
Kết quả thu được có tiến bộ hơn so với kết quả khảo sát đầu năm:
TSHS
24

Hoàn thành
SL
20

TL
83%

Chưa hoàn thành
SL
TL
4
17%

Trong đó có: 8 em giải và trình bày đúng bài giải, 8 em vẫn nhầm lẫn ở
phần viết lời giải, 5 em viết sai câu trả lời và phép tính, 4 em học yếu hơn vì tiếp
thu bài còn chậm, chưa nắm được yêu cầu của bài giải, chưa đọc kĩ đề toán nên
em cứ giải theo quán tính nghĩ sao viết vậy.

22


* Đến tháng thứ tư tôi lại tiếp tục ra một đề khảo sát như sau: Chị hái được
40 quả cam, em hái được 25 quả cam. Số cam của cả chị và em được xếp đều

vào 5 rổ. Hỏi mỗi rổ có bao nhiêu quả cam ?
Các em đã có sự tiến bộ rõ rệt. Kết quả thu được, cụ thể:
TSHS
24

Hoàn thành
SL
23

Chưa hoàn thành
SL
TL
1
4%

TL
96%

Trong đó có: 12 em giải và trình bày đúng bài giải, 7 em viết nhầm câu lời
giải và 4 em viết phép tính đúng nhưng tính kết quả chưa chính xác, 1 em do
tiếp thu bài chậm, không tìm hiểu kĩ bài, giải theo quán tính.
* Đến cuối năm học tôi ra một bài toán như sau: Một sợi dây dài 120m, lần đầu
cắt đi 35m, lần sau cắt đi gấp đôi lần đầu. Hỏi đoạn dây đã cắt đi bao nhiêu mét?
* Kết quả thu được là:
TSHS
24

Hoàn thành
SL
24


TL
100%

Chưa hoàn thành
SL
TL
0
0%

Từ kết quả trên, tôi thấy kĩ năng giải toán có lời văn của các em đã có nhiều
tiến bộ. Các em đã biết cách trình bày bài giải, viết phép tính và đặc biệt là các
em đã biết viết câu trả lời phù hợp cho từng phép tính.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Dạy Toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng là cả một quá trình kiên
trì, đầy sự sáng tạo, nhất là đối với dạng giải các bài toán có lời văn. Cho nên
khi hướng dẫn học sinh giải toán, chúng ta cần phải:
- Tạo niềm hứng thú, sự say mê giải toán, bởi các em có thích học toán thì các
em mới có sự suy nghĩ, tìm tòi các phương pháp giải bài toán một cách thích hợp.
- Gần gũi, động viên những em học yếu môn toán để các em tiến bộ, giúp
đỡ nhẹ nhàng khi cần thiết.
- Khâu chuẩn bị kĩ của giáo viên và học sinh trong mỗi bài học là rất quan trọng.
- Hướng dẫn học sinh nắm đầy đủ các kĩ năng cần thiết khi giải toán bằng
phương pháp phù hợp, nhẹ nhàng, không gò bó. Kích thích tư duy sáng tạo, khả
năng phân tích, tổng hợp trong khi tìm tòi.
23



×