Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

TÀI LIỆU GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU MÔN SINH HỌC THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.54 KB, 106 trang )

NGÔ VĂN HƯNG (Chủ biên)
NGÔ THÁI LAN – PHAN HỒNG THE

TÀI LIỆU

GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
MÔN SINH HỌC THCS
(Tài liệu tham khảo cho GV và HS)

HÀ NỘI, THÁNG 12 NĂM 2011
1


2


Lời giới thiệu/Mở đầu

3


Mục lục

4


Phần I. KHÁI QUÁT VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
I. Biểu hiện, đặc điểm của biến đổi khí hậu toàn cầu
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây
ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoăc sinh sản của các


hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội
hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người (Công ước chung mà Liên hợp quốc về BĐKH
tại Hội nghị Thượng đỉnh về Môi trường tại Riodefanero (Braxin) năm 1992). Nói một cách
khác BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình hoặc dao động của khí hậu
duy trì trong một thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn.
1. Biểu hiện của BĐKH toàn cầu
- Nhiệt độ không khí của Trái Đất đang có xu hướng nóng dần lên
- Sự dâng cao của mực nước biển gây ngập úng và xâm nhập mặn ở các vùng thấp ven
biển và xóa sổ nhiều đảo trên biển và đại dương.
- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con
người và các sinh vật trên Trái Đất.
- Sự xuất hiện của nhiều thiên tai bất thường, trái quy luật, mức độ lớn như bão, mưa
lớn, hạn hán gây nên những tổn thất to lớn về người và tài sản.
2. Đặc điểm của biến đổi khí hậu toàn cầu
- Diễn ra chậm, từ từ, khó phát hiện, khó đảo ngược
- Diễn ra trên phạm vi toàn cầu, có ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực có liên quan đến
sự sống và hoạt động của con người
- Cường độ ngày một tăng và hậu quả khó lường trước
- Là nguy cơ lớn nhất của con người phải đối mặt với tự nhiên trong lịch sử phát triển
của mình.
3. Các kịch bản về biến đổi khí hậu toàn cầu
3.1. Các kịch bản phát thải khí nhà kính (CO2) toàn cầu
Phát thải khí nhà kính là sản phẩm trực tiếp của phát triển kinh tế, xã hội và bức tranh
phát thải khí nhà kính toàn cầu là chiếu xạ của bức tranh kinh tế, xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Vì lẽ đó, để nhìn nhận các đặc trưng chủ yếu trong các kịch bản phát thải khí nhà kính
trên thế giới, các nhà khoa học của IPCC đã xây dựng một báo cáo đặc biệt (SRES) về các

5



kịch bản phát thải khí nhà kính tương lai. Ở đây, các yếu tố kinh tế liên quan đến phát thải khí
nhà kính được mô tả bao gồm:
- Phát triển dân số.
- Phát triển kỹ thuật trong sản xuất và sử dụng năng lượng.
- Giải pháp môi trường và xã hội.
- SRES đưa ra 6 kịch bản về phát thải khí nhà kính tương lai toàn cầu: A 1FI, A1T, A1B,
A2, B1, B2 và chúng được gộp lại thành 4 họ: A1, A2, B1, B2
Đặc trưng của các họ kịch bản phát thải khí nhà kính tương lai toàn cầu có thể được
tóm tắt như sau:
3.1.1. Họ A1:
- Kinh tế phát triển rất nhanh.
- Dân số đạt đỉnh vào giữa thế kỷ XXI, sau đó giảm dần.
- Kỹ thuật phát triển rất nhanh.
- Cơ sở hạ tầng đồng đều giữa các khu vực trên thế giới.
Họ kịch bản tương lai toàn cầu A 1 được chia thành 3 nhóm khác nhau về định hướng
phát triển kỹ thuật năng lượng:
-

Nhóm A1FI: Phát triển nhiên liệu hóa thạch

-

Nhóm A1T: Phát triển năng lượng phi hóa thạch

-

Nhóm A1B: Phát triển năng lượng cân bằng (giữa hóa thạch và phi hóa thạch)

3.1.2. Họ A2:
- Dân số tăng liên tục trong suốt thế kỷ XXI.

- Phát triển kinh tế manh mún và chậm.
3.1.3.Họ B1:
- Dân số phát triển như A1, đỉnh vào giữa thế kỷ.
- Thay đổi nhanh về cấu trúc kinh tế để tiến tới một nền kinh tế thông tin và dịch vụ, giảm
cường độ vật liệu và công nghệ tiết kiệm năng lượng, tăng cường năng lượng sạch.
- Giải pháp môi trường kinh tế - xã hội bền vững, tính hợp lý được cải thiện nhưng
không có các bổ sung về khí hậu.
3.1.4.Họ B2:
- Nhấn mạnh giải pháp kinh tế - xã hội, môi trường ổn định.

6


- Dân số tăng liên tục với tốc độ chậm hơn A2.
- Phát triển kinh tế vừa phải, chậm hơn A1, B1.
- Chú trọng tính khu vực trên cơ sở hướng tới bảo vệ môi trường và công bằng xã hội.
Để tạo cơ sở khoa học cho việc xây dựng các phương án giảm khí nhà kính, IPCC dự
tính lượng phát thải CO2 theo 6 kịch bản về phát thải khí nhà kính tương lai toàn cầu và cả
kịch bản IS92a vốn được coi là trung hòa trong 6 kịch bản năm 1992 (bảng 1).
Theo IPCC, lượng phát thải CO2 vào năm 2020 của phần lớn kịch bản chỉ trên dưới 12
tỷ tấn C. Đến năm 2040, đã bắt đầu có sự phân hóa đáng kể giữa các kịch bản; lớn nhất lên đến
19,5 tỉ tấn C của A1FI và bé nhất chỉ 8,2 tỉ tấn C của B 1. Từ sau năm 2050, lượng phát thải CO2
của hai kịch bản A1FI và A2 và tiếp tục tăng lên và đạt tới xấp xỉ 30 tỷ tấn C vào năm 2100.
Trong khi đó, lượng phát thải CO2 theo 2 nhóm A1B, B2 tăng giảm không không nhiều và của
hai kịch bản A1T và B1 giảm đi rõ rệt và đến năm 2100 còn thấp hơn cả năm 2020. Rõ ràng là,
hai kịch bản với nội dung chủ yếu là dân số đạt đỉnh vào giữa thế kỷ XXI, kinh tế phát triển
nhanh, sử dụng nhiên liệu phi hóa thạch (A 1T) hoặc có giải pháp kinh tế môi trường bền vững
(B1) có nhiều triển vọng giảm lượng phát thải CO2 có hiệu quả và hạ thấp đáng kể nồng độ khí
nhà kính trong khí quyển.
Bảng 1. Phát thải CO2 theo các kịch bản (GtC - tỉ tấn cacbon)

Kịch bản

2020

2040

2060

2080

2100

A1B

12,2

15,0

15,1

14,9

13,4

A1T

10,0

12,4


11,8

8,0

5,0

A1FI

12,2

19,5

26,0

29,5

29,1

A2

12,1

15,7

19,2

23,5

30,0


B1

8,0

8,2

8,0

7,0

5,2

B2

8,2

10,6

11,9

12,3

13,2

IS92A

11,5

13,0


15,0

16,9

20,2

3.2. Các kịch bản về nồng độ khí CO2 trong khí quyển
Tương ứng với các kịch bản về phát thải khí nhà kính tương lai toàn cầu là các kịch
bản mô tả triển vọng tương lai về nồng độ khí CO 2 trong khí quyển, gọi tắt là kịch bản về
nồng độ khí nhà kính.
Theo IPCC, nồng độ khí CO 2 trong khí quyển vào giữa thế kỷ XXI (2050) và cuối thế
kỷ XXI (2100) đạt tới 470 - 610 và 550 - 970 ppm, cao hơn rất nhiều so với thời kỳ tiền công

7


nghiệp (280 ppm) và so với năm 2005 (379 ppm). Tuy nhiên, nếu phát thải tương lai toàn cầu
phát triển theo đúng kịch bản A 1T hoặc kịch bản B1 thì nồng độ CO2 trong khí quyển chỉ ở
mức 550 - 580 ppm (bảng 2). Như vậy, từ các kịch bản về nồng độ khí nhà kính đã có thể định
hướng cơ bản chiến lược giảm nhẹ biến đổi khí hậu: Phát triển nhiên liệu phi hóa thạch, có
giải pháp kinh tế môi trường bền vững.
Lưu ý là, IPCC cũng ước lượng rằng, nếu toàn bộ lượng C phát sinh do chuyển đổi sử
dụng đất được thu giữ trong sinh quyển đất, nồng độ khí nhà kính nói trên giảm đi 40 - 70 ppm.
Giả sử các bể chứa khí nhà kính được phát triển đến mức lý tưởng thì nồng độ khí nhà kính đến
năm 2050 đều trong khoảng 450 - 550 và vào năm 2100 là 500 - 900 phần triệu.
Bảng 2. Nồng độ khí CO2 trong khí quyển theo các kịch bản (ppm∗)
Kịch bản

2050


2100

A1B

510

730

A1T

500

580

A1FI

610

970

A2

590

850

B1

470


550

B2

480

620

IS92a

510

740

Như vậy, lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu theo kịch bản thấp nhất vào năm 2100
là 5,0 tỷ tấn cacbon, nồng độ khí CO 2 trong khí quyển là 550ppm và theo kịch bản cao nhất là
30 tỷ tấn cacbon, nồng độ khí CO 2 trong khí quyển là 970ppm. Các kịch bản phát thải trung
bình (13,2 - 13,4 tỷ tấn cacbon) xấp xỉ mức phải thải năm 2004 (13,1 tỷ tấn cacbon), tương
đương với nồng độ khí CO2 trong khí quyển là 620 - 730ppm.
3.3. Các kịch bản về biến đổi các yếu tố khí hậu toàn cầu
Ứng dụng các kịch bản phải thải khí nhà kính (SRES) nêu trên vào các mô hình khí
hậu toàn cầu cho thấy, nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất có thể đạt 16,2 oC ở mức thấp nhất đến
17,4 - 17,8oC ở mức cao nhất vào năm 2100 (IPCC, 2001) (hình 1).



ppm: phần triệu

8



0

C

Cao
Trung
b×nh
ThÊp

Hình 1. Biến đổi của nhiệt độ toàn cầu từ năm 1850 và dự kiến các mức tăng nhiệt độ đến
năm 2100 (Nhiệt độ trung bình là 15oC, mức thấp nhất đến năm 2100 là 16,2oC,
có nhiều khả năng là 17,4 - 17,8oC)
cm

Hình 2. Dự kiến các mức tăng của mực nước biển đến năm 2100
Theo IPCC - 2007, ứng với hàm lượng khí CO 2 như trên, nhiệt độ trung bình bề mặt
toàn cầu sẽ tăng 2,0 - 4,5oC vào năm 2100 so với thời kỳ tiền công nghiệp (1750), tương ứng với

9


mức tăng nhiệt độ nói trên, mực nước biển trung bình toàn cầu sẽ tăng 0,18 - 0,59m vào thời kỳ
2090 - 2099 so với trung bình thời kỳ 1980 – 1999 (hình 2).
Mức tăng nhiệt độ và mực nước biển không đồng đều giữa các vùng. Ở vùng phía Bắc
của Bắc Mỹ, Bắc Á và Trung Á, nhiệt độ tăng nhiều hơn, tỏng khi ở vùng Nam Á và Đông Nam
Á, mức tăng ít hơn, nhất là mùa hè và phía Nam của Nam Mỹ, nhất là mùa đông. Trên đại
dương, nhiệt độ tăng ít hơn ở Bắc Đại Tây Dương và vùng biển quanh Nam Cực.
Ngoài ra, những hiện tượng thời tiết cực đoan theo các kịch bản cho thế kỷ 21 chắc chắn
hoặc rất có thể sẽ xảy ra. Đó là: Nóng hơn, số ngày nóng, đêm nóng nhiều hơn, số đợt nóng,

sóng nóng tăng lên, số ngày lạnh, đêm lạnh ít đi trên hầu khắp các vùng lục địa. Số sự kiện mưa
lớn hoặc tỷ lệ mưa lớn trong tổng lượng mưa tăng lên ở hầu hết các vùng; các vùng chịu ảnh
hưởng của hạn hán tăng lên, cường độ hoạt động của bão, áp thấp nhiệt đới tăng lên, các sự kiện
cực trị cao của mực nước biển (không kể sóng thần) tăng lên.
II. Nguyên nhân và hậu quả của biến đổi khí hậu
1. Nguyên nhân
1.1. Nguyên nhân của BĐKH trong thời kỳ địa chất
Những nguyên nhân cơ bản của BĐKH trong thời kỳ địa chất xảy ra cách đây hàng
trăm triệu năm được giả thiết là do sự biến động của các nhân tố liên quan đến quỹ đạo
chuyển động của trái đất, độ nghiêng của trục trái đất trên mặt phẳng quỹ đạo trái đất quay
xung quanh mặt trời (mặt phẳng hoàng đạo), dẫn đến sự thay đổi lượng bức xạ mặt trời đi tới
trái đất. Sự thay đổi cơ bản của hằng số mặt trời và hoạt động của mặt trời trong các thời kỳ
địa chất, sự thay đổi khối lượng vật chất trong quá trình trái đất chuyển động trong vũ trụ giữa
các vì sao do sự hấp thụ khác nhau năng lượng bức xạ mặt trời.
BĐKH trong thời kỳ địa chất còn liên quan đến các yếu tố địa chất và khí quyển trái
đất. Đó là sự thay đổi của bề mặt trái đất như sự phân bố biển và lục địa cùng độ lớn của
chúng, quá trình tạo sơn và sự nâng lên của các mảng lục địa lớn, phân bố các dòng hải lưu và
thay đổi độ mặn nước biển của các đại dương, hoạt động của núi lửa, hàm lượng khí CO2 tự
nhiên trong khí quyển và lượng mây v.v…
Tóm lại, BĐKH trong thời kỳ địa chất có liên quan đến các nhân tố tự nhiên ngoài trái
đất và những nhân tố trong nội bộ trái đất (địa chất).
1.2. Nguyên nhân của BĐKH hiện đại
Biến đổi khí hậu (BĐKH) có thể do hai nguyên nhân: do những quá trình tự nhiên và
do ảnh hưởng của con người.

10


- Các nguyên nhân có nguồn gốc tự nhiên
Nguyên nhân có nguồn gốc tự nhiên đầu tiên phải kể đến đó là do hoạt động của núi

lửa phun các tro bụi lên tới tầng bình lưu của khí quyển, hạn chế lượng bức xạ mặt trời đi tới
mặt đất, làm cho mặt đất lạnh đi (bức xạ cưỡng bức âm) thường kéo dài khoảng vài năm.
Ngoài ra, sự biến động của bức xạ mặt trời trong thời kỳ 1750 đến nay được đánh giá là tạo ra
lượng bức xạ cưỡng bức dương với trị số là 0,30w/m2, chủ yếu xảy ra vào nửa đầu thế kỷ 20.
- Các nguyên nhân do ảnh hưởng của con người
Cho đến nay các nhà khoa học đều khẳng định rằng hoạt động của con người đã và
đang làm BĐKH toàn cầu. Nguyên nhân chủ yếu của sự biến đổi đó là sự tăng nồng độ các
khí nhà kính trong khí quyển dẫn đến tăng hiệu ứng nhà kính. Đặc biệt quan trọng là khí
điôxit cácbon (CO2) được tạo thành do sử dụng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch (như dầu
mỏ, than đá, khí tự nhiên...), phá rừng và chuyển đổi sử dụng đất.
Theo Báo cáo đánh giá lần thứ 4 của Ban liên Chính phủ của BĐKH (IPCC, 2007), hàm
lượng khí CO2 trong khí quyển năm 2005 đã vượt xa mức tự nhiên trong khoảng 650.000 năm
qua (180 - 280ppm) và đạt 379ppm (tăng ~ 35%). Lượng phát thải khí CO2 từ sử dụng nhiên liệu
hóa thạch đã tăng trung bình từ 6,4 tỷ tấn cacbon (23,5 tỷ tấn CO2) mỗi năm trong những năm
1990 đến 7,2 tỷ tấn cacbon (45,9 tỷ tấn CO2) mỗi năm trong thời kỳ 2000 - 2005.
Lượng phát thải khí CO2 từ việc thay đổi sử dụng đất ước tính bằng 1,6 tỷ tấn cacbon
(5,9 tỷ tấn CO2) trong những năm 1990.
Nhu cầu về năng lượng của nhân loại ngày càng nhiều, trong đó năng lượng hóa thạch
chiếm phần lớn. Mặc dù năng lượng hạt nhân hoặc một số dạng năng lượng sạch khác có xu
hướng tăng lên nhưng vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ so với nhu cầu năng lượng nói chung. Sử
dụng nhiều năng lượng hóa thạch là nguyên nhân làm tăng đáng kể nồng độ khí CO 2 trong khí
quyển, trong đó các nước phát triển đóng góp phần lớn.
Trong việc đánh giá hiệu ứng của các khí nhà kính, có hai vấn đề rất đáng lưu ý là:
- Các khí nhà kính tồn tại lâu trong khí quyển, từ vài tháng đến vài trăm năm, được
xáo trộn nhanh chóng và làm thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu nói chung.
- Do sự xáo trộn như vậy, phát thải khí nhà kính từ bất kỳ nguồn nào, ở đâu cũng đều
ảnh hưởng đến mọi nơi trên thế giới.
Như vậy, phát thải khí nhà kính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến BĐKH hiện nay, một
sự thay đổi môi trường lớn lao nhất mà con người phải chịu đựng. Đây cũng là lý do vì sao
BĐKH là một vấn đề mang tính toàn cầu.


11


Tăng nồng độ khí nhà kính dẫn đến tăng hiệu ứng nhà kính của khí quyển và kết quả
là tăng nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất. Trên phạm vi khu vực, sự phát ra những chất khí và
những phần tử gây ô nhiễm khác dẫn đến những tác động lớn, mặc dù một số trong chúng có
thể có tác động ngược lại. Thí dụ, chất muội mồ hóng (sooty aerosols) có khuynh hướng làm
khí hậu khu vực ấm lên, trong khi chất sunfát làm lạnh đi bởi phản xạ ánh sáng mặt trời nhiều
hơn. Trong khi ta có cảm giác chịu tác động trực tiếp ở các vùng công nghiệp, các chất sol khí
này còn có thể tác động gián tiếp lên nhiệt độ trung bình toàn cầu.
Hàm lượng khí mêtan (CH4) trong khí quyển dã tăng từ 715ppb1 trong thời kỳ tiền
công nghiệp lên 1732ppb trong những năm đầu thập kỷ 90 và đạt 1774ppb năm 2005 (tăng
~148%). Hàm lượng khí ôxit nitơ (N 2O) trong khí quyển dã tăng từ 270ppb trong thời kỳ tiền
công nghiệp lên 319ppb vào năm 2005 (tăng khoảng 18%). Các khí mêtan và ôxit nitơ tăng
chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp, đốt nhiên liệu hóa thạch, chôn lấp rác thải v.v…
Việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch phát thải 70 - 90% lượng CO2 vào khí quyển. Năng
lượng hóa thạch được sử dụng trong giao thông vận tải, chế tạo các thiết bị điện: tủ lạnh, hệ
thống điều hòa nóng lạnh và các ứng dụng khác. Lượng CO2 còn do hoạt động trong nông
nghiệp và khai thác rừng (kể cả cháy rừng), khai hoang và công nghiệp.
Tóm lại, tiêu thụ năng lượng do đốt các nhiên liệu hóa thạch đóng góp khoảng một
nửa (46%) vào tiềm năng nóng lên toàn cầu. Phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18% và
hoạt động nông nghiệp tạo ra khoảng 9% tổng số các khí thải gây ra lượng bức xạ cưỡng bức
làm nóng lên toàn cầu. Sản phẩm hoá học (CFC, Halon...): 24% và các nguồn khác như rác
chôn dưới đất, nhà máy xi măng...: 3%.
Lượng bực xạ tăng thêm (bức xạ cưỡng bức) do sự gia tăng của hàm lượng các khí
nhà kính trong khí quyển do hoạt động của con người trong thời kỳ 1750 - 2000 được xác
định là 2,43w/m2, trong đó từ khí CO2 là 1,46w/m2, từ khí CH4 là 0,48w/m2, từ các khí
Halocacbon là 0,34w/m2 và từ khí N2O là 0,15w/m2.
Như vậy, BĐKH hiện nay có cả nguyên nhân tự nhiên và nguyên nhân con người,

song sự nóng lên toàn cầu được khẳng định là do hoạt động của con người làm tăng hàm
lượng các khí nhà kính trong khí quyển gây ra một lượng bức xạ cưỡng bức dương, trong khi
hậu quả tổng hợp từ các nguyên nhân tự nhiên nói trên đã cho một lượng bức xạ cưỡng bức
âm, tức là làm trái đất lạnh đi.
2. Hậu quả

1

Tính bằng phần tỷ

12


2.1. Phạm vi toàn cầu
2.1.1. Nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất đã tăng
Từ khoảng giữa thế kỷ XIX, nhờ đo đạc chính xác bằng các dụng cụ, chúng ta mới có
được số liệu định lượng chi tiết về BĐKH trong hơn một thế kỷ qua. Những số liệu có được
cho thấy xu thế chung là từ cuối thế kỷ XIX đến nay, nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng lên
đáng kể. Kết quả đo đạc và nghiên cứu hiện nay cho thấy nhiệt độ không khí trung bình toàn
cầu trong thế kỷ XX đã tăng lên 0,74oC (± 0,2oC); trên đất liền, nhiệt độ tăng nhiều hơn trên
biển và thập kỷ 1990 là thập kỷ nóng nhất trong thiên niên kỷ vừa qua (IPCC, 2007).
Nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất đã tăng lên rõ rệt trong thời kỳ 1920 - 1940, giảm
dần trong khoảng giữa những năm 1960 và lại tăng lên từ sau năm 1975. Bằng cách đo đạc
các thớ cây, diện tích các vùng băng, người ta nhận thấy đây là thời kỳ nhiệt độ cao nhất trong
vòng 600 năm trở lại đây.
Các nhà khoa học đều nhất trí rằng, tình trạng nóng nhất xảy ra trong 50 năm cuối của
thế kỷ XX là do hậu quả hoạt động của con người.
Sang những năm đầu thế kỷ XXI, nhiệt độ trái đất tiếp tục tăng. Có thể lấy năm 2003
làm minh chứng: Nhiệt độ trung bình toàn cầu năm 2003 tăng 0,46oC so với trung bình thời
kỳ 1971 - 2000, là năm ấm thứ ba kể từ năm 1861. Trong đó, chuẩn sai nhiệt độ bán cầu Bắc

là + 0,59oC và bán cầu Nam: +0,32oC. Năm ấm thứ hai là 2002 với chuẩn sai nhiệt độ là +
0,48oC. Kể từ năm 1850 đến 2006, trong số 12 năm nóng nhất, thì đã có 11 năm nằm trong 12
năm gần đây (1995 - 2006).
Hiện tượng thời tiết ấm lên ở Alaska trong những năm gần đây cũng là một minh
chứng rõ rệt. Tại đây, nhiệt độ đã tăng 1,5oC so với trung bình nhiều năm, lớp băng vĩnh cửu
giảm 40% và hàng năm lớp băng thường dày 1,2m chỉ còn khoảng 0,3m (mỏng hơn 4 lần so
với trung bình nhiều năm).
2.1.2. Hiện tượng mưa có những biến động
Hiện tượng mưa cũng có những biến động đáng kể, tăng 5 - 10% trong thế kỷ XX trên
lục địa bán cầu Bắc và giảm ở một số nơi, tuy xu thế không rõ rệt như nhiệt độ. Hiện tượng
mưa lớn tăng lên ở các vĩ độ trung bình và cao của bán cầu Bắc. Tương ứng với sự tăng của
nhiệt độ toàn cầu, mực nước trung bình của đại dương cũng tăng lên 10 - 25cm (trung bình 1
-2mm/năm trong thế kỷ XX) do băng tan và giãn nở nhiệt đại dương. Xu thế tăng của mực
nước như vậy là lớn, đặc biệt là trong vòng 15 năm cuối cùng. Sự tan băng ở các vùng núi
cao, giảm tuyết ở bán cầu Bắc và tăng nhiệt độ đã làm cho mực nước biển dâng cao. Từ cuối

13


những năm 1960, phạm vi lớp phủ tuyết giảm khoảng 10%. Độ dày của lớp băng biển ở Bắc
Cực trong thời kỳ từ cuối mùa hạ đến đầu mùa thu giảm xuống khoảng 40% trong vài thập kỷ
gần đây. Cùng với xu thế tăng nhiệt độ toàn cầu là sự phân bố các dị thường của nhiệt độ.
Trên các đại lục ở bán cầu Bắc, trong những năm gần đây xuất hiện hàng loạt kỷ lục về nhiệt
độ cao và thấp. Khoảng 20 năm gần đây, người ta đã phát hiện thấy mối quan hệ giữa các dị
thường khí hậu với hiện tượng ENSO.
2.1.3. Thiên tai gia tăng
Thiên tai (bão, lũ, lụt, hạn hán, tố, lốc...) và các hiện tượng thời tiết cực đoan (nắng
nóng, rét đậm, rét hại, mưa lớn v.v...) gia tăng.
Ví dụ: Động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004, được biết đến trong cộng đồng
khoa học như là Cơn địa chấn Sumatra-Andaman, là trận động đất xảy ra dưới đáy biển lúc

00:58:53 UTC ngày 26 tháng 12 năm 2004. Trận động đất kích hoạt một chuỗi các đợt sóng
thần chết người lan tỏa khắp Ấn Độ Dương, những con sóng cao 30 m tàn phá các cộng đồng
dân cư sinh sống ven biển ở Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan và những nơi khác, cướp
sinh mạng 225 000 người thuộc 11 quốc gia. Cho đến nay, thiên tai này là một trong những
thảm họa gây nhiều tử vong nhất trong lịch sử thế giới hiện đại.
Vào ngày 12 tháng 1 năm 2010, chỉ trong vòng có 1 phút, trận động đất 7 độ richter,
mạnh nhất trong 2 thế kỷ qua ở Haiti, đã phá hủy trụ sở của LHQ, phủ tổng thống và vô vàn
tòa nhà khác. Ước tính có tới 3 triệu người bị ảnh hưởng. Thủ tướng nước này cho hay 70.000
thi thể đã được chôn cất
Mưa lớn diễn ra ở Pakistan vào tháng 7 năm 2010 được coi là lớn nhất trong 100 năm.
Đến lúc mưa ngớt, một phần năm diện tích quốc gia này chìm trong nước. Lũ lụt cướp đi sinh
mạng của 2.000 người. Con số này còn tăng cao vì dịch bệnh. Thảm họa - gây thiệt hại lên tới
9,6 tỷ USD - khiến ít nhất 9 triệu người, trong đó phần lớn là trẻ em, lâm vào cảnh đói khát.
Liên Hợp quốc đánh giá thảm họa nhân đạo do lũ lụt ở Pakistan còn lớn hơn cả những hậu
quả sóng thần châu Á năm 2004.
Vào tháng 7 năm 2010, đợt nắng nóng chưa từng có ở Nga kéo theo cháy rừng nhiều
nơi làm cho 7 vùng ở Nga, bao phủ diện tích 300.000 mẫu bị hỏa hoạn. Thủ đô Matxcơva bị
trùm khói xám trong khi nhiều chuyến bay bị hoãn. Hỏa hoạn và cháy rừng khiến 50 người
thiệt mạng và 3.000 người mất nhà cửa. Nguyên nhân của thảm họa cháy rừng này được cho
là do mức nhiệt độ lên cao kỷ lục trong hơn 100 năm qua ở Nga.
Cơn bão Morakot xảy ra vào tháng 8 năm 2010 ở đảo Đài Loan, lớn nhất tại hòn đảo
này trong vòng 50 năm qua. Cơn bão với sức gió lên tới 120 km/h đã gây lụt lội nghiêm trọng.

14


Bão Morakot cũng quét qua miền nam Trung Quốc và Philippines gây ra thiệt hại hàng trăm
triệu đôla.
2.1.4. Tạo ra 5 bước thụt lùi
- Biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến lượng mưa, nhiệt độ và nước dùng cho nông

nghiệp. Đến năm 2080, thế giới sẽ có thêm 600 triệu người bị suy dinh dưỡng.
- Đến năm 2080, sẽ có khoảng 1,8 tỷ người sống trong tình trạng khan hiếm nước, đặc
biệt là Bắc Trung Quốc, Trung Đông, Nam Mỹ và phía Bắc Nam Á.
- Khoảng 330 triệu người sẽ mất chỗ ở tạm thời vĩnh viễn hoặc vĩnh viễn do lũ lụt nếu
nhiệt độ trái đất tăng thêm 30-40C.
- Tốc độ tuyệt chủng của các loại sẽ tăng lên nếu nhiệt độ ấm lên khoảng 20C.
- Các căn bệnh chết người sẽ lan rộng. Có thể có thêm 400 triệu người bị bệnh sốt rét.
2.1.5. Tác động đến sức khỏe con người
Tác động của biến đổi khí hậu đến sức khỏe con người diễn ra khá phức tạp. Nó thể
hiện tác động tổng hợp, đồng thời của nhiều yếu tố khác nhau. Có những tác động trực tiếp
thông qua các quá trình trao đổi trực tiếp giữa môi trường xung quanh với cơ thể. Có những
tác động gián tiếp, thông qua các nhân tố khác như thực phẩm, nhà ở, các côn trùng, vật chủ
mang bệnh.... Trong SAR, IPCC-WGII nêu ra 9 dạng tác động của BĐKH toàn cầu đến sức
khỏe cộng đồng, còn trong TAR, IPCC cũng đã nêu ra 6 vấn đề về tác động của BĐKH đến
sức khỏe do:
- Các áp lực về nhiệt (đợt nắng nóng/ sóng lạnh);
- Các hiện tượng cực trị và thiên tai (bão, lũ lụt, hạn);
- Ô nhiễm không khí;
- Các bệnh nhiễm khuẩn (sốt rét, sốt xuất huyết,....);
- Các vấn đề liên quan đến nước ven biển;
- Những vấn đề liên quan đến lương thực và dinh dưỡng; những đổ vỡ về kế hoạch
dân số và kinh tế.
Qua các kết quả nghiên cứu này cho thấy những tác động của BĐKH đến sức khỏe
cộng đồng rất đa dạng, diễn ra phức tạp.
Có nhiều dạng khác nhau biểu hiện những tác động trực tiếp của biến đổi khí hậu tới
cơ thể người. Khí hậu nóng ẩm, cường độ bức xạ mặt trời lớn, biến động thời tiết mạnh mẽ...
là nguyên nhân gây bệnh trực tiếp cho cơ thể người:

15



- Cảm nóng, say nắng là hiện tượng thường xuất hiện trong mùa hè, đặc biệt trong các
lao động nặng, hoạt động thể thao, luyện tập quân sự ở ngoài trời nắng, lao động ở những nơi
không được thông gió tốt như hầm lò, các xưởng đúc, luyện kim loại... Tỷ lệ bệnh suy nhược
cơ thể tăng cao trong những khu vực có hoạt động căng thẳng, nómg - ẩm, bí gió...
- Mất cân bằng về nước và muối dẫn đến hiện tượng suy kiệt thường xảy ra trong
những khu vực chịu ảnh hưởng mạnh của thời tiết khô nóng, đặc biệt ở các vùng thấp, do cơ
thể bị mất nước nhanh qua bốc hơi mồ hôi.
Những tác động đáng lưu ý:
1)

Biến đổi khí hậu, chủ yếu là sự nóng lên toàn cầu sẽ mở rộng thêm thời gian xuất

hiện các thời tiết nóng, ẩm. Mặt khác, các thời tiết cực đoan cũng sẽ có xu thế tăng, dẫn đến
tăng những nguy cơ, nhất là đối với người già, những người mắc bệnh tim mạch, một số bệnh
thần kinh. Đặc biệt đối với những người chưa có quá trình tập quen khí hậu nóng (khách du
lịch đến từ các vùng vĩ độ cao) dễ bị tác động của các thời tiết nắng nóng cực đoan này. Khí
hậu nóng vốn là điều kiện bất lợi cho quá trình trao đổi nhiệt giữa cơ thể và môi trường xung
quanh vì nó không giải tỏa được đễ dàng nguồn nhiệt sản tích trong cơ thể nên không kích
thích quá trình đồng và dị hóa, làm cho cơ thể dễ mệt mỏi. Đặc biệt khi cơ thể phải tăng quá
trình sản nhiệt như lao động, luyện tập quân sự, thể dục thể thao... thời tiết nắng nóng càng trở
nên bất lợi.
2)

Tăng phát thải các "khí nhà kính", đặc biệt là tăng các chất CFC dẫn đến những thay

đổi của ôzôn trong khí quyển, tăng ở tầng đối lưu, giảm ở lớp ôzôn thuộc tầng bình lưu, thậm
chí xuất hiện những lỗ thủng ôzôn. Theo Tổ chức Y tế thế giới - WHO (1990), thay đổi này
tác động tới sức khỏe con người ở ba dạng: sinh học, hóa học và biến đổi khí hậu. Giảm tầng
ôzôn bình lưu sẽ làm tăng bức xạ tử ngoại ở bước sóng 290-325nm, có quan hệ đến sức khỏe,

làm tăng ung thư da cả 2 thể: không hắc tố - non-melanoma skin cancer (NMSC) và hắc tố ác
tính - malignant melanoma (MM); tăng các bệnh về mắt trước hết là đục thủy tinh thể và có thể
làm thay đổi phản ứng miễn dịch. Cũng theo WHO (1990) với mức tăng 1% lỗ hổng ôzôn sẽ
dẫn tới tăng khoảng 3% loại bệnh NMSC. Như vậy NMSC có thể tăng lên 6% -35% vào sau
năm 2060, chủ yếu ở bán cầu Nam.
3)

Tăng ô nhiễm khí quyển: Sự tăng lên tốc độ phát thải các khí nhà kính cũng tất yếu

dẫn đến tăng mức độ ô nhiễm không khí. Tuy hàm lượng CO 2 ít có quan hệ đến sức khỏe,
nhưng cùng với CO2, quá trình sử dụng các nhiên liệu hóa thạch cũng phát thải đáng kể các
hợp chất chứa lưu huỳnh SO 2, SO3, SO4H2, CO, N2O..., các chất khí độc khác. Sự tăng lên của
hàm lượng các CFC, của ôzôn ở tầng đối lưu cũng góp phần tăng mức độ ô nhiễm khí quyển

16


có ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe.
4)

Tác động gián tiếp của BĐKH tới sức khỏe có thể thông qua nhiều đối tượng khác

nhau. Môi trường sống mà gần gũi nhất là môi trường ở, môi trường lao động sản xuất, chủ
yếu là môi trường được tạo ra từ các công trình, môi trường của các đô thị, các khu công
nghiệp... sẽ chịu tác động không nhỏ của biến đổi khí hậu toàn cầu. Sức khỏe cộng đồng cũng
có quan hệ mật thiết với nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm, với sản xuất công nghiệp mà
nổi bật là năng lượng; với quần áo và trang bị bảo hộ... Biến đổi khí hậu đều có tác động đến
các đối tượng vừa nêu ở những mức độ khác nhau, do đó có tác động nhất định đến sức khỏe
con người. Một trong những đối tượng đó là các nguồn truyền nhiễm, các nhân tố truyền và
nhiễm bệnh... Biến đổi khí hậu sẽ làm tăng thêm tính tiêu cực của chúng hoặc ngược lại.

5)

Tác động qua quá trình sinh trưởng, phát triển của các loại vi khuẩn gây bệnh, côn

trùng và vật chủ truyền bệnh.
Môi trường sống (không khí, nước, đất...) chứa đựng trong nó cả 1 thế giới vi sinh vật,
trong đó có các mầm vi khuẩn gây bệnh. Các yếu tố thời tiết, khí hậu có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến sự phát triển và lan truyền nhiều loại vi khuẩn này, cũng tức là ảnh hưởng đến sự phát
triển nhiều bệnh truyền nhiễm.
Trong các nhân tố truyền nhiễm, đặc biệt phải kể tới các loại côn trùng, tiết túc, ruồi,
muỗi, chuột..., những vật chủ mang vi khuẩn và truyền bệnh rất điển hình. Khí hậu nóng, ẩm
là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các loại vật chủ mang bệnh này. Khí hậu nóng,
ẩm gia tăng tạo thuận lợi hơn cho các yếu tố truyền nhiễm. Muỗi aedes aegupte, anophen là
nhân tố quan trọng truyền bệnh sốt xuất huyết, sốt rét. Sự phát triển của nó có tính mùa rõ rệt,
phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện nhiệt, ẩm. Biến đổi khí hậu mở rộng mùa nóng, nhất là các
vùng khí hậu lạnh, cũng tức là mở rộng mùa sinh trưởng và phát triển của các vật chủ mang
bệnh đã nêu.
Mức độ cảm nhiễm và miễn dịch của cơ thể có quan hệ nhất định với điều kiện khí hậu.
Thời tiết nóng, ẩm làm giảm sức đề kháng cũng đồng thời làm tăng khả năng nhiễm bệnh của
cơ thể. Mùa nóng kết hợp với mùa ẩm thường là những thời kỳ phát triển của nhiều bệnh
dịch, nhất là các bệnh nhiệt đới như đã nêu cũng như các bệnh đường tiêu hóa như tả, lỵ,
thương hàn... có liên quan đến khả năng đề kháng giảm của cơ thể.
Theo WHO (1990), có 11 bệnh truyền nhiễm quan trọng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí
hậu toàn cầu. Đứng đầu là bệnh sốt rét. Tiếp đó là bệnh "giun chỉ bạch huyết" (Lympatic
filariasis)... Nhóm 3 bệnh cuối cùng là sốt xuất huyết (Dengue fever) viêm não Nhật bản

17


(Japanese Encepphalitis), các bệnh vi rút hình cây (Arbãoviral deseases) được coi là thịnh

hành ở vùng nhiệt đới ẩm Đông Nam Á.
Biến đổi khí hậu dẫn đến tăng các chỉ số sinh học (tổ hợp của nhiệt - ẩm, mưa...) có lợi
cho vi khuẩn và côn trùng phát triển ở nhiều khu vực. Điều đó tất yếu dẫn tới tăng tốc độ sinh
trưởng và phát triển của các vi khuẩn gây bệnh, các vật chủ mang bệnh làm cho các loại bệnh
nhiễm khuẩn dễ dàng lây lan, tăng số lượng nhiễm bệnh cũng như tử vong; mở rộng vùng và
mùa bệnh.
Nước biển dâng, vấn đề giao thông vận tải, sản xuất công nghiệp... trên các vùng ven biển sẽ
có nhiều khó khăn, ảnh hưởng tới việc làm, thu nhập và tiêu dùng của người dân, điểm này ảnh
hưởng gián tiếp tới mức sống, sức khỏe của cộng đồng trên một vùng rộng lớn.
3. Biến đổi khí hậu ở khu vực Châu Á và Đông Nam Á
Dân số châu Á chiếm trên 60% dân số thế giới, tài nguyên thiên nhiên đã chịu nhiều
áp lực và khả năng thích ứng đối với biến đổi khí hậu của phần lớn lĩnh vực ở châu Á là thấp.
Nền kinh tế - xã hội ở nhiều nước phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên như nước, rừng, thảo
nguyên, đồng cỏ chăn thả và thủy sản. Mức độ biến đổi của các yếu tố khí hậu sẽ khác nhau
nhiều giữa các vùng và các quốc gia.
Đông Nam Á là khu vực bao gồm các quốc đảo và nhiều quốc gia nằm ở những vùng
bờ biển thấp hoặc những vùng ngay cửa sông, là khu vực đặc biệt dễ bị tổn thương do biến
đổi khí hậu và mực nước biển dâng.
Sự tăng lên của mực nước biển là tiêu điểm chính trong nghiên cứu của các nước khu
vực châu Á - Thái Bình Dương, nói chung và các nước Đông Nam Á, nói riêng. Tác động của
mực nước biển dâng trung bình trên toàn cầu đã được dự tính tại các nước Philippin, Việt
Nam, Sri Lanka, Malayxia, Bănglađét và Ấn Độ..... Chúng ta có thể đề cập đến một số nước
thuộc khu vực Đông Nam Á, như những thí dụ làm minh chứng cho tác động của biến đổi khí
hậu, đặc biệt là mực nước biển dâng vào năm 2070.
Tại Inđônêxia, vào năm 2070 mực nước biển sẽ dâng cao hơn 1 m trên phần lớn lãnh
thổ Jakarta và 3,3 triệu dân ở những vùng đất thấp của Inđônêxia sẽ phải dời chỗ ở do lũ và
ngập lụt.
Tại Philippin, khi nước biển dâng cao 90 cm, những hòn đảo nhỏ, một số điểm thuộc
hệ thống tàu điện ngầm Manila và Cebu, cũng như một số quận, huyện ở Manila và vùng bờ
biển vịnh Manila .... sẽ bị nhấn chìm trong nước biển.


18


Tại Malayxia, các nghiên cứu đã khẳng định, thậm chí mực nước biển chỉ dâng cao ở
mức khiêm tốn cũng đã làm tồi tệ thêm tình trạng xói lở vốn đã trầm trọng, đang đe dọa
những vùng duyên hải và các bãi biển. Nếu mực nước biển dâng cao 100 cm, có thể sẽ nhấn
chìm phần lớn những rừng đước rất giầu có của đất nước này.
Tại Việt Nam, mực nước biển dâng cao sẽ làm ngập phần lớn khu vực đông dân cư
thuộc các vùng cửa sông châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long vào năm 2070, đe dọa
nghiêm trọng sản xuất lúa và an ninh lượng thực. Nếu mực nước biển dâng cao 90 cm vào
năm 2070, theo kịch bản mức cao CSIRO, thì khoảng 500.000 ha ở châu thổ sông Hồng,
1.500.000 - 2.000.000 ha ở đồng bằng sông Cửu Long và khoảng 400.000 ha rừng đước và
đầm lầy ở phía Nam bị ngập. Mặn xâm nhập và tác động tới khoảng 2.200.000 - 2.500.000 ha.
Sẽ làm giảm khả năng thoát nước, làm ngập lụt 400 km chiều dài dọc theo sông Mê Kông và
200 km chiều dài dọc theo sông Hồng. Nhiều thành phố, thị xã, như cảng Hải Phòng, cảng
Vũng Tầu và nhiều nơi thuộc tỉnh Bến Tre bị ngập.
Như vậy, trong những tác động tiềm tàng rất lớn của biến đổi khí hậu ở khu vực châu
Á - Thái Bình Dương, sự dâng cao mực nước biển liên quan đến ngập lụt, xói lở bờ biển, xâm
nhập mặn sâu vào đất liền và tăng cường mối đe dọa của nước dâng do bão được đánh giá là
rất nghiêm trọng.
Nhìn chung, khuynh hướng tăng mực nước biển toàn cầu có thể được nhìn nhận đối
với khu vực châu Á - Thái Bình Dương, với các mức độ khác nhau, có thể lớn hơn hoặc thấp
hơn mức biến đổi trung bình toàn cầu do các biến động tự nhiên hoặc hoạt động của con
người, như khai thác nước ngầm, dầu và khí, sự biến đổi của dòng trầm tích tự nhiên.
4. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu.
BĐKH là sự biến động trạng thái trung bình của khí quyển toàn cầu hay khu vực theo thời
gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm. Những biến đổi này được gây ra do quá trình động lực
của Trái Đất, nước biển dâng cao, bức xạ mặt trời và gần đây có thêm hoạt động của con

người. Những nghiên cứu gần đây việc phát xả khí nhà kính là nguyên nhân hàng đầu của
BĐKH, đặc biệt kể từ năm 1950 khi thế giới đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và tiêu dùng,
tăng cường sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, sản xuất xi măng, phá rừng và
gia tăng chăn nuôi gia súc, khai hoang các nguồn đất ngập nước chứa than bùn…Với những
diễn biến thời tiết khó lường, thiên tai lũ lụt kéo dài. Ước tính hàng năm nước ta phải gánh
chịu không biết bao nhiêu cơn bão lũ gây thiệt hại to lớn đến người và của. Đó là chưa kể việc
kéo theo dịch bệnh hoành hành, cuộc sống người dân bị đe dọa nghiêm trọng. Đây chính là

19


nguy cơ đe dọa đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo, cho việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ
và sự phát triển bền vững của đât nước. Trong những năm gần đây, tác động của BĐKH đến
nước ta ngày càng thể hiện rõ nét. Thực tế cho thấy, khí hậu Việt nam đang nóng lên. Mùa
đông ít đi, mưa phùn giảm rõ rệt ở Bắc Bộ và Trung Bộ, hạn hán ngày càng khắc nghiệt…bão
lũ lớn và bất thường liên tiếp xảy ra, diện tích đất ngập mặn tăng lên nhất là ở vùng Đồng
Bằng Sông Cửu Long, liên tiếp các đợt áp thấp nhiệt đới xảy ra ở khu vực Miền Trung.
BĐKH đang trở thành một vấn đề mang tính toàn cầu cần được tất cả các nước quan tâm kịp
thời và Việt Nam đã và đang tiến hành một số biện pháp ứng phó với BĐKH. Bộ Tài Nguyên
và Môi Trường đã thực hiện nhiều dự án giảm thiểu và thích ứng với BĐKH. Hiện nay Bộ
đang nghiên cứu những kịch bản BĐKH khác nhau trong tương lai và xây dựng chiến lược
ứng phó quốc gia tương ứng. Hệ thống dự báo thời tiết đang được nâng cấp, đemlại kết quả
tích cực trong các trận bão gần đây với dự báo chính xác giúp các địa phương thực hiện các
kế hoạch chống bão cần thiết và giảm thiểu tốt nhất. Trong lĩnh vực quốc tế nhằm ứng phó với
BĐKH, các đại diện của LHQ cho biết Việt Nam có thể giữ vai trò quan trọng trong cuộc
chiến chống BĐKH trên toàn cầu.
Trong những năm qua, Việt Nam đạt được tiến bộ đáng kể trong các lĩnh vực phát
triển con người. Tuy nhiên, BĐKH đang đe dọa ảnh hưởng xấu đến mục tiêu tăng trưởng của
đất nước và điều kiện sống của người dân. Biến đổi khí hậu là không thể tránh khỏi và đòi hỏi
Việt Nam có những hành động cụ thể và ứng phó với những hậu quả không tránh khỏi để đảm

bảo phát triển bền vững.
Nhìn trên toàn cầu, ở những mức độ nhất định và những khu vực nhất định BĐKH
cũng có những tác động tích cực:
- Là một cơ hội để thúc đẩy các nước đổi mới công nghệ phát triển các công nghệ sạch,
công nghệ thân thiện với môi trường và các hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) nói
chung có liên quan;
- Phát triển trồng rừng để hấp thu CO2, giảm phát thải khí nhà kính, ...
- Ở một số nước ôn đới, khi nhiệt độ tăng lên sẽ thuận lợi hơn để phát triển nông nghiệp;
Năng lượng để sưởi ấm cũng được tiết kiệm hơn ...
III. Chiến lược hành động ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu
1. Giảm nhẹ
Để đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, Việt Nam sẽ tiếp tục khai thác, sử
dụng nhiên liệu hóa thạch và hệ quả là sẽ tăng lượng phát thải khí nhà kính (KNK). Tuy

20


nhiên, thấy rõ nguy cơ tiềm tàng của BĐKH và ý thức vai trò của một Bên không thuộc Phụ
lục I tham gia Công ước Khí hậu, Việt Nam với điều kiện và khả năng có thể, sẽ xây dựng và
thực hiện các giải pháp để giảm nhẹ mức phát thải KNK. Giảm nhẹ phát thải KNK bao gồm:
Sử dụng các công nghệ có mức phát thải thấp hơn so với hiện nay trong các hoạt động KT-XH
và có những chính sách và các biện pháp quản lý để thực hiện mục tiêu tăng cường bể hấp thụ
khí nhà kính. Việt Nam sẽ thực hiện có hiệu quả việc giảm nhẹ phát thải KNK nếu có sự hỗ
trợ đầy đủ về vốn và chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển và các nguồn tài trợ quốc
tế khác.
1.1. Trong lĩnh vực Năng lượng
Chiến lược của ngành Năng lượng là bảo đảm cung ứng đủ năng lượng cho phát triển
KT-XH và dân sinh, trước hết là cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trên cơ sở phát triển khai
thác đa nguồn các dạng năng lượng sơ cấp nội địa. Sử dụng có hiệu quả và hợp lý các dạng
năng lượng trên cơ sở một hệ thống chính sách quản lý nhu cầu năng lượng. Giảm các tác

động môi trường của ngành năng lượng đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Việc giảm nhẹ phát thải KNK trong ngành Năng lượng sẽ được thực hiện trong khuôn
khổ các chương trình, kế hoạch và chiến lược phát triển năng lượng đồng thời là một bộ phận
của CTMT, thể hiện qua các nội dung sau đây:
- Sử dụng hiệu quả và hợp lý các nguồn tài nguyên năng lượng;
- Phát triển các dạng năng lượng mới thân thiện với môi trường: địa nhiệt, năng lượng
mặt trời, năng lượng gió, thuỷ điện, năng lượng thuỷ triều, năng lượng sinh học, năng lượng
hạt nhân;
- Xác định các tiêu chuẩn khí thải, đánh giá lợi ích, chi phí môi trường các dự án năng
lượng.
1.2. Trong lĩnh vực Nông nghiệp, Lâm nghiệp và thay đổi sử dụng đất
Phối hợp các chương trình của ngành Nông - Lâm nghiệp, chương trình bảo vệ, bảo tồn tài
nguyên rừng hiện có, chương trình trồng rừng mới... nhằm góp phần thúc đẩy thực hiện các
chương trình để bảo tồn và tăng cường các bể hấp thụ KNK ở nước ta. Đảm bảo bảo vệ, phát
triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu ha đất được quy hoạch cho lâm nghiệp. Tăng tỷ lệ đất
có rừng che phủ từ 37% của năm 2005 lên 42,6% vào năm 2010 và 47% vào năm 2015.
Các hoạt động chính bao gồm:
- Xây dựng chương trình sử dụng có hiệu quả diện tích đất trống, đồi núi trọc tạo việc làm cho
người lao động, xoá đói, giảm nghèo, định canh, định cư;

21


- Đẩy mạnh chương trình xã hội hoá lâm nghiệp, chương trình định canh, định cư;
- Xây dựng và thực hiện các biện pháp quản lý tưới tiêu ruộng trồng lúa; chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, xác định thời vụ hợp lý;
- Phát triển chăn nuôi, gắn chặt với phát triển công nghiệp chế biến thức ăn gia súc, đồng thời
xử lý phân thải súc vật (dạng khí sinh học).
1.3. Trong lĩnh vực xử lý chất thải
Quản lý và xử lý chất thải là một trong những ưu tiên bảo vệ môi trường, góp phần

giảm nhẹ phát thải KNK trong chiến lược giảm nhẹ BĐKH. Các biện pháp được ưu tiên chính
là:
- Xây dựng kế hoạch áp dụng các công nghệ tiên tiến trong xử lý rác hữu cơ làm phân
bón, giảm chôn ủ để hạn chế những tác động xấu đến môi trường và hạn chế phát thải khí
mêtan;
- Thực hiện các biện pháp thu hồi triệt để khí mêtan từ các bãi rác đã có làm nhiên
liệu.
1.4. Tiếp tục xây dựng và thực hiện các dự án Cơ chế phát triển sạch
Cơ chế phát triển sạch (CDM) là một cơ chế trong Nghị định thư Kyoto nhằm giúp các
nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) đạt được mục tiêu phát triển bền vững và đóng
góp vào nỗ lực chung của toàn cầu giảm phát thải khí nhà kính.
Cho đến nay, Việt Nam mới có hai dự án CDM được chấp nhận cho thực hiện. Tuy
nhiên, tiềm năng xây dựng và thực hiện dự án CDM ở Việt Nam còn khá lớn và thuộc nhiều
ngành, lĩnh vực kinh tế, trong đó chủ yếu là năng lượng, bao gồm cả sản xuất và tiêu thụ, giao
thông vận tải, xử lý chất thải, lâm nghiệp.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có
nội dung liên quan đến xây dựng và thực hiện các dự án CDM:
1. Chỉ thị số 35/2005/CT-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2005, về việc tổ chức thực hiện
Nghị định thư Kyoto thuộc Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH;
2. Quyết định số 47/2007/QĐ-TTg ngày 06 tháng 4 năm 2007 về việc phê duyệt Kế
hoạch tổ chức thực hiện Nghị định thư Kyoto thuộc Công ước khung của Liên hợp quốc về
BĐKH giai đoạn 2007 – 2010, trong đó có quy định các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao có trách nhiệm xây
dựng dự án CDM trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường và của các Bộ có liên

22


quan chỉ đạo, tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp xây dựng dự án CDM

thuộc thẩm quyền quản lý của địa phương trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
3. Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg ngày 02 tháng 8 năm 2007 về một số cơ chế,
chính sách tài chính đối với dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Thông tư số 10/2006/TT-BTNMT ngày 12 tháng 12 năm
2006 hướng dẫn xây dựng dự án CDM.
Đây là cơ sở để các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng và thực
hiện dự án CDM (CTMT, 2008; Ban cán sự Đảng Bộ TN&MT, 2008)
2. Thích ứng
Việt Nam đã đề ra định hướng các hoạt động thích ứng với BĐKH trong một số lĩnh
vực và vùng miền, cụ thể:
2.1. Trong phòng chống thiên tai
Xét về tần suất thiên tai, Việt Nam nằm trong số 10 nước hàng đầu thế giới bị thiệt hại
lớn nhất do thiên tai tàn phá". Thống kê trong 10 năm gần đây, bình quân mỗi năm, bão, lũ,
sạt lở đất, lũ quét, hạn hán và các thiên tai khác đã làm chết và mất tích gần 750 người, giá trị
thiệt hại về tài sản ước tính chiếm 1,5% GDP.
Thiên tai gia tăng cả về số lượng, cường độ và phạm vi ảnh hưởng là một hậu quả trực
tiếp, vừa là trước mắt, vừa là lâu dài của BĐKH. Vì vậy, việc tích hợp yếu tố BĐKH vào
Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020, đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 172/2007/QĐ-TTg ngày 16 tháng 11 năm 2007, là một
trong những hoạt động quan trọng sẽ được thực hiện trong thời gian sớm nhất. Đây là chiến
lược quan trọng nhằm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản, hạn chế sự phá
hoại tài nguyên thiên nhiên, môi trường và di sản văn hoá góp phần bảo đảm phát triển bền
vững của đất nước, bảo đảm an ninh, quốc phòng.
Trong điều kiện BĐKH làm gia tăng các thiên tai, các hợp phần của Chiến lược quốc
gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020, trước hết trong quan điểm, nguyên tắc
chỉ đạo cần tính đến điều kiện thiên tai ngày càng khắc nghiệt, phức tạp hơn và khó dự báo
hơn.
2.2. Trong lĩnh vực năng lượng
Trong thời gian tới, lĩnh vực năng lượng sẽ là nguồn phát thải khí nhà kính chủ yếu ở
Việt Nam. Do đó, các hoạt động ứng phó với BĐKH trong lĩnh vực năng lượng đóng vai trò


23


quan trọng và có tác động tới Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2008.
BĐKH có thể tác động tiêu cực đến mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia;
cung cấp đầy đủ với chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, các hoạt động thích
ứng với BĐKH cần được tích hợp vào Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia.
- Đẩy mạnh thực hiện Chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Có hai
cách để giảm tác động môi trường cuả việc sử dụng năng lượng:
- Giảm thiểu nhu cầu sử dụng năng lượng,
- Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng,
Sử dụng năng lượng một cách khôn ngoan không những chỉ giảm thiểu khí thải nhà
kính mà còn tiết kiệm chi phí cho năng lượng.
2.3. Trong lĩnh vực Giao thông
Trung bình giao thông vận tải chiếm khoảng 30% lượng khí thải nhà kính. Sử dụng hệ
thống giao thông công cộng và di chuyển hợp lý, sẽ góp phần tiết kiệm năng lượng và giảm
phát thải KNK.
2.4. Trong lĩnh vực tài nguyên nước
Hoạt động chủ yếu để thích ứng với BĐKH là sử dụng nguồn nước một cách khoa
học, tiết kiệm và có hiệu quả, đảm bảo an toàn cung cấp đủ nước cho mọi nhu cầu, bao gồm:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch thích ứng với BĐKH trong lĩnh vực quản lý, khai
thác, sử dụng tài nguyên nước tại các ngành, các cấp;
- Xác định các giải pháp KHCN phù hợp như: quy hoạch tổng thể lưu vực sông, thay
đổi các tiêu chuẩn kỹ thuật các công trình khai thác và sử dụng nước, các biện pháp tiết kiệm
và sử dụng hiệu quả nguồn nước, duy trì bảo vệ nguồn nước, kiểm soát ô nhiễm nước, thoát
lũ, tiêu úng, chống xâm nhập mặn và giữ ngọt;
- Nâng cao nhận thức của cộng đồng về sử dụng bền vững tài nguyên nước thích ứng
với BĐKH.

2.5. Trong lĩnh vực nông nghiệp
Những hoạt động chủ yếu bao gồm:
- Triển khai thực hiện các hoạt động KHCN nhằm hỗ trợ áp dụng các công nghệ mới,
các giải pháp khoa học kỹ thuật hiện đại để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và biện
pháp kỹ thuật canh tác mới phù hợp với BĐKH;

24


- Hoàn thiện quy trình quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, mặt nước thủy sản với sự
xem xét đến tác động trước mắt và tác động tiềm tàng của BĐKH;
- Quy hoạch khai thác sử dụng hiệu quả nguồn nước trên các hệ thống thủy lợi có xét
đến tác động của BĐKH.
- Xây dựng và triển khai áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác nông nghịêp tăng
sản lượng và giảm nhẹ KNK:
- Cải tiến các biện pháp về chăn nuôi: thức ăn (chế biến thức ăn tinh), giống (chọn
giống có năng xuất cao); sử lý phân gia súc hiệu quả (sản xuất khí sinh học).
- Đa dạng hóa thành phần bữa ăn nhằm chuyển đổi diện tích trông lúa nước sang các
cây khác phù hợp.
2.6. Trong lĩnh vực Lâm nghiệp và thay đổi sử dụng đất
Tăng cường Bể hấp thụ các bon:
- Đẩy mạnh chương trình trồng 5 triệu hecta rừng, đưa độ che phủ rừng lên 43 % vào
năm 2010;
- Tăng cường công tác quản lý rừng hiện có; ngăn chặn, kiểm soát và xử lý nghiêm
khắc việc khai thác, kinh doanh và sử dụng trái phép tài nguyên sinh vật, thực hiện ”Kế hoạch
Hành động Quốc gia về kiểm soát buôn bán động thực vật hoang dã tới năm 2010”.
- Phòng chống cháy rừng, nhất là các rừng trên đất than bùn (Bộ TNMT, 2003, 2008).
2.7. Trong lĩnh vực Y tế và sức khỏe
Thích ứng với BĐKH trong ngành Y tế là chiến lược giám sát và kiểm soát về y tế các
vùng và địa phương để đảm bảo an toàn sức khỏe cho nhân dân trong các điều kiện BĐKH và

thiên tai:
- Thiết lập tiêu chuẩn y tế về vệ sinh môi trường cho các khu vực đông dân, xây dựng
và ban hành các tiêu chuẩn y tế và bảo vệ sức khỏe cho mọi hoạt động dân sinh kinh tế có tính
đến BĐKH;
- Kiểm dịch chặt chẽ tại biên giới, cửa khẩu nhằm ngăn chặn sự lây nhiễm;
- Tăng cường áp dụng các giải pháp về công nghệ, trang thiết bị, cho hệ thống kiểm
soát bệnh tật phát sinh, phát triển, lây lan trong điều kiện BĐKH, nhất là sau thiên tai;
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục cộng đồng nhằm nâng cao hiểu biết, nhận
thức về sức khỏe môi trường do tác động của BĐKH.
2.8. Đối với dải ven biển

25


×