Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Đưa các nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào chương trình Giáo dục và Đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.93 KB, 20 trang )

LỜI GIỚI THIỆU/MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỷ 21, nhân loại đang phải đối mặt với một trong những thách thức
lớn nhất là sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Biến đổi khí hậu đã có những tác động sâu sắc,
mạnh mẽ đến mọi hoạt động sản xuất; đời sống của sinh vật và con người; môi trường tự
nhiên, kinh tế - xã hội của cả mọi châu lục, mọi quốc gia trên Trái Đất. Những biểu hiện,
đặc điểm, nguyên nhân và tác động của biến đổi khí hậu đã được nghiên cứu, tìm hiểu cặn
kẽ. Các giải pháp mang tính chiến lược toàn cầu và của mỗi quốc gia trên thế giới về ứng
phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu cũng đã được đề ra và thực hiện ráo riết.
Nhận thức rõ những ảnh hưởng to lớn và nghiêm trọng do biến đổi khí hậu gây ra,
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với
biến đổi khí hậu (Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg ngày 2/12/2008). Để thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã phê duyệt kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của ngành Giáo
dục giai đoạn 2011 - 2015 và phê duyệt Dự án "Đưa các nội dung ứng phó với biến đổi
khí hậu vào chương trình Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2011 - 2015".
Nhằm định hướng cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ trên một cách có hiệu
quả nhất Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng bộ tài liệu giáo dục ứng phó với biến đổi
khí hậu tích hợp vào các môn học cấp Trung học cơ sở.
Cấu trúc mỗi cuốn tài liệu có hai phần chính:
Phần I. Những vấn đề chung. Bao gồm:
- Một số kiến thức cơ bản về biến đổi khí hậu
- Giáo dục biến đổi khí hậu trong trường trung học cơ sở
Phần II. Tích hợp giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu trong môn Sinh học
Trung học cơ sở. Bao gồm:
- Mục tiêu chung
- Khả năng tích hợp giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu vào môn Sinh học
- Giới thiệu địa chỉ tích hợp giáo dục ứng phó vào môn Sinh học
- Gợi ý về tổ chức dạy học tích hợp nội dung giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Một số bài soạn tích hợp nội dung giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu.

1




- Giới thiệu một số câu hỏi và bài tập tích hợp nội dung giáo dục ứng phó với biến
đổi khí hậu.
Giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu là hoạt động giáo dục mới, lần đầu tiên
được đưa vào nhằm tích hợp nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu trong các môn học ở
trường trung học cơ sở. Đây là tài liệu có tính định hướng và gợi ý cho các thầy giáo, cô
giáo trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục, soạn các giáo án lên lớp cho học sinh. Rất
cần sự vận dụng sáng tạo, sát hợp với tình hình cụ thể của các địa phương để nội dung
giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu đạt được các hiệu quả cao nhất.
VỤ GIÁO DỤC TRUNG HỌC

2


MỤC LỤC
Trang
Phần I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. Kiến thức cơ bản về biến đổi khí hậu 1
1. Biểu hiện, đặc điểm và nguyên nhân chính của sự biến đổi khí hậu toàn cầu
4
2. Tác động của sự biến đổi khí hậu đối với tự nhiên và mọi mặt hoạt động
của con người
5
3. Chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu
6
4. Hành động ứng phó với biến đổi khí hậu
6
5. Giáo dục, tuyên truyền phổ biến rộng rãi các giải pháp làm giảm thiểu
biến đổi khí hậu và thích ứng với biến đổi khí hậu tại các địa phương

10
II. Giáo dục biến đổi khí hậu trong trường THCS
1. Vai trò, nhiệm vụ của giáo dục phổ thông đối với những thách thức
của biến đổi khí hậu
10
2. Mục tiêu của giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu trong trường THCS
11
3. Định hướng, yêu cầu của giáo dục ứng phó với Biến đổi khí hậu trong trường THCS 12
4. Tích hợp giáo dục ứng phó với Biến đổi khí hậu trong trường THCS
20
Phần II. TÍCH HỢP GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI BIỂN ĐỔI KHÍ HẬU
TRONG MÔN HÓA HỌC
1. Mục tiêu về giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu trong môn Hóa học
21
2. Khả năng tích hợp giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu vào môn Hóa học
26
3. Giới thiệu địa chỉ tích hợp giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu vào môn
Hóa học trường THCS
33
4. Gợi ý về tổ chức dạy học tích hợp nội dung giáo dục ứng phó với biến đổi khí
hậu vào môn Hóa học
35
5. Một số bài soạn tích hợp nội dung giáo dục ứng phó với BĐKH trong môn Hóa học 49
Lớp 8. Bài 28 – Không khí & Sự cháy
49
Lớp 8. Bài 31 – Tính chất và Ứng dụng của hiđro
61
Lớp 8. Bài 36 – Nước
65
Lớp 9. Bài 28 – Oxit của cacbon

71
Lớp 9. Bài 36 – Metan
83
Lớp 9. Bài 40 – Dầu mỏ và Khí thiên nhiên
93
Lớp 9. Bài 41 – Nhiên liệu
96
6. Giới thiệu một số câu hỏi và bài tập tích hợp nội dung giáo dục ứng phó với
BĐKH trong môn Hóa học (có đáp án và hướng dẫn trả lời)
105

Phần I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

3


I. KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1. Biểu hiện, đặc điểm và nguyên nhân chính của sự biến
đổi khí hậu toàn cầu
1.1. Khái niệm về biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu được quy trực tiếp hay gián tiếp là do
hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu và đóng góp
thêm vào sự biến động khí hậu tự nhiên trong các thời gian có thể so sánh được (Công
ước chung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu tại Hội nghị Thượng đỉnh về Môi
trường tại Riodefanero (Braxin) năm 1992). Nói một cách khác Biến đổi khí hậu là sự
biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình hoặc dao động của khí hậu duy trì trong
một thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc hàng trăm năm và lâu hơn.
1.2. Những biểu hiệu của sự biến đổi khí hậu
- Nhiệt độ không khí của Trái Đất đang có xu hướng nóng dần lên: từ năm 1850
đến nay nhiệt độ trung bình đã tăng 0,74 0C, trong đó nhiệt độ tại 2 cực của Trái Đất tăng

gấp 2 lần so với số liệu trung bình toàn cầu; và theo dự báo nhiệt độ trung bình của Trái
Đất có thể tăng lên 1,1 - 6,4 0C tới năm 2100, đạt mức chưa từng có trong lịch sử 10.000
năm qua.
Ở Việt Nam trong vòng 50 năm (1957 - 2007) nhiệt độ không khí trung bình tăng khoảng
0,5 - 0,70C, sẽ tăng từ 1 - 20C vào năm 2020 và từ 1,5 - 20C vào năm 2070.
- Có sự dâng cao của mực nước biển gây ngập úng và xâm nhập mặn ở các vùng
thấp ven biển và xóa sổ nhiều đảo trên biển và đại dương.
Trong thế kỷ 20, trung bình mực nước biển ở châu Á dâng cao 2,44mm/năm, chỉ
riêng thập kỷ vừa qua là 3,1mm/năm. Dự báo trong thế kỷ 21, mực nước biển dâng cao từ
2,8 - 4,3mm/năm.
Ở Việt Nam, tốc độ dâng lên của mực nước biển khoảng 3mm/năm (giai đoạn 1993
- 2008) tương đương với tốc độ dâng lên của đại dương thế giới. Dự báo đến giữa thế kỷ
21 mực nước biển có thể dâng thêm 30cm và đến cuối thế kỷ 21 mực nước biển có thể
dâng lên 75cm so với thời kỳ 1980 - 1999.
- Có sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống
của con người và các sinh vật trên Trái Đất.
- Có sự xuất hiện của nhiều thiên tai bất thường, trái quy luật, mức độ lớn như bão,
mưa lớn, hạn hán gây nên những tổn thất to lớn về người và tài sản.
1.3. Đặc điểm của biến đổi khí hậu toàn cầu
- Diễn ra chậm, từ từ, khó phát hiện, khó đảo ngược;

4


- Diễn ra trên phạm vi toàn cầu, có ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực có liên quan
đến sự sống và hoạt động của con người;
- Cường độ ngày một tăng và hậu quả khó lường trước;
- Là nguy cơ lớn nhất của con người phải đối mặt với tự nhiên trong lịch sử phát
triển của mình.
1.4. Nguyên nhân của biến đổi khí hậu

Ngoài những nguyên nhân tự nhiên gây nên sự Biến đổi khí hậu toàn cầu đã diễn
ra trong quá trình hình thành và phát triển của Trái Đất trong các thời gian trước đây như
sự tương tác giữa vận động của Trái Đất và vũ trụ, sự thay đổi của bức xạ Mặt Trời, sự tác
động của khí CO2 do các hoạt động núi lửa, cháy rừng hoặc các trận động đất lớn gây ra;
nguyên nhân chính gây nên Biến đổi khí hậu trong vòng 300 năm gần đây và đặc biệt
trong nửa thế kỷ qua là do hoạt động công nghiệp phát triển sử dụng rất nhiều nhiên liệu
và năng lượng thải vào bầu khí quyển các chất ô nhiễm.
Tình hình đô thị phát triển mạnh mẽ, gia tăng các hoạt động giao thông vận tải,
triệt phá rừng và cháy rừng... cũng làm nghiêm trọng thêm tình hình ô nhiễm không khí,
giữ lại lượng bức xạ sóng dài khiến cho nhiệt độ Trái Đất nóng lên theo hiệu ứng nhà
kính. Từ đó, làm thay đổi các quá trình tự nhiên của hoàn lưu khí quyển, vòng tuần hoàn
nước, vòng tuần hoàn sinh vật...
Có thể nói, hoạt động của con người là nguyên nhân chủ yếu gây ra những biến đổi
khí hậu hiện nay trên Trái Đất.
2. Tác động của sự biến đổi khí hậu đối với tự nhiên và mọi mặt hoạt động của
con người
2.1. Sự nóng lên của Trái Đất
- Nhiệt độ tăng có ảnh hưởng trực tiếp đến các hệ sinh thái tự nhiên, làm suy giảm
đa dạng sinh học, làm ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng sản phẩm vật nuôi, cây trồng.
- Sự thay đổi và chuyển dịch của các đới khí hậu, đới thảm thực vật tự nhiên dẫn
tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật.
- Nhiệt độ tăng dần đến sự thay đổi các yếu tố thời tiết khác phá hoại mùa màng,
có ảnh hưởng trực tiếp tới các ngành năng lượng, xây dựng, giao thông vận tải, công
nghiệp, du lịch...
- Con người có thể tận dụng những hệ quả của sự nóng lên của Trái Đất
2.2. Tác động của nước biển dâng

5



- Làm tăng diện tích ngập lụt có ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp, các
đô thị, các công trình xây dựng giao thông vận tải cũng như nơi cư trú của con người; đặc
biệt ở các vùng đồng bằng ven biển.
- Làm tăng độ nhiễm mặn nguồn nước, làm thay đổi các hệ sinh thái tự nhiên, hệ
sinh thái nông nghiệp.
2.3. Làm tăng cường các thiên tai
- Bão, mưa lớn, lũ lụt, hạn hán xảy ra bất thường và có sức tàn phá lớn.
- Xuất hiện các đợt nóng, lạnh quá mức, bất thường gây tổn hại đến sức khỏe con
người, gia súc và mùa màng.
- Tình trạng hoang mạc hóa có xu hướng gia tăng.
3. Chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu
Ứng phó với Biến đổi khí hậu có hai khía cạnh: giảm nhẹ biến đổi khí hậu và thích
ứng với nó.

3.1. Giảm nhẹ
Theo Ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) giảm nhẹ có nghĩa là: Sự
can thiệp của con người nhằm làm giảm nguồn phát thải khí nhà kính, hoặc cải thiện các
bể chứa khí nhà kính.
3.2. Thích ứng
Thích ứng đề cập đến khả năng tự điều chỉnh của một hệ thống để thích nghi với
những biến đổi của khí hậu nhằm giảm nhẹ những nguy cơ thiệt hại, để đối phó với những
hậu quả (có thể xảy ra) hoặc tận dụng những cơ hội.
4. Hành động ứng phó với biến đổi khí hậu
4.1. Tính cấp thiết của hành động
- Có thể thấy tác hại theo hướng nóng lên toàn cầu thể hiện ở 10 điểm cụ thể sau:
gia tăng mực nước biển, băng hà lùi về hai cực, những đợt nóng, bão tố và lũ lụt, khô hạn,
tai biến, suy thoái kinh tế, xung đột và chiến tranh, mất đi sự đa dạng sinh học và phá huỷ
hệ sinh thái.
- Những minh chứng cho các vấn đề này được biểu hiện qua hàng loạt tác động
cực đoan của khí hậu trong thời gian gần đây như:

+ Đã có khoảng 250 triệu người bị ảnh hưởng bởi những trận lũ lụt ở Nam Á, châu
Phi và Mexico. Các nước Nam Âu đang đối mặt nguy cơ bị hạn hán nghiêm trọng dễ dẫn
tới những trận cháy rừng, sa mạc hóa, còn các nước Tây Âu thì đang bị đe dọa xảy ra
những trận lũ lụt lớn, do mực nước biển dâng cao cũng như những đợt băng giá mùa đông
khốc liệt.

6


+ Diễn biến mới nhất của thiên tai là trận cháy rừng khủng khiếp do thời tiết quá
khô hạn vừa xãy ra ở nước Úc (2/2009) đã giết chết ít nhất 210 người và làm bị thương
hơn 500 người cùng những thiệt hại nặng nề về vật chất.
+ Những trận bão lớn vừa xẩy ra tại Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ...có
nguyên nhân từ hiện tượng trái đất ấm lên trong nhiều thập kỷ qua. Những dữ liệu thu
được qua vệ tinh từng năm cho thấy số lượng các trận bão không thay đổi, nhưng số trận
bão, lốc cường độ mạnh, sức tàn phá lớn đã tăng lên, đặc biệt ở Bắc Mỹ, tây nam Thái
Bình Dương, Ấn Độ Dương, Bắc Đại Tây Dương. Số lượng các trận bão lớn, lốc xoáy
cường độ mạnh tăng gấp đôi, trùng hợp với nhiệt độ bề mặt đại dương tăng lên. Trận sóng
thần ở Ấn Độ Dương (2004) cướp đi sinh mạng 225 000 người thuộc 11 quốc gia, hay
cơn bão Katrina đổ bộ vào nước Mỹ (2005) gây thương vong lên đến hàng ngàn người và
thiệt hại kinh tế ước tính 25 tỷ USD, và gần đây nhất siêu bão Nargis đổ bộ vào tàn phá
Myanmar (2008) là thảm họa thiên nhiên tàn khốc nhất năm qua tính theo số lượng người
thiệt mạng. Trận bão này giết chết hơn 135.000 người và đẩy hơn một triệu người vào
cảnh không nhà cửa.
- Tính ra, thiên tai đã cướp đi mạng sống của hơn 220.000 người trong năm 2008
và gây thiệt hại khoảng 200 tỷ USD, biến nó thành một trong những năm đáng sợ nhất
trong lịch sử loài người tính theo tổn thất thiên tai về người và của. Một nghiên cứu với
xác suất lên tới 90% cho thấy sẽ có ít nhất 3 tỷ người rơi vào cảnh thiếu lương thực vào
năm 2100, do tình trạng ấm lên của Trái Đất.
- Ý thức về những tác hại do con người gây ra cho môi trường trái đất, gần đây đã

có sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế trong nỗ lực ngăn chặn những ảnh hưởng nguy
hại do biến đổi khí hậu toàn cầu. Nhiều diễn đàn quốc tế đã ngày càng thu hút được nhiều
sự quan tâm của các nhà khoa học, doanh nghiệp, chính trị cũng như các nhà hoạch định
chính sách đối ngoại như Liên hợp quốc, WTO, EU, ASEM, APEC, ASEAN..., một điều
chắc chắn rằng những thoả thuận kinh tế, chính trị, thương mại song phương hoặc đa
phương gắn liền với vấn đề biến đổi khí hậu luôn nhận được sự tán thành và hợp tác.
- Những cam kết quốc tế được cụ thể hoá vào năm 1997 khi Nghị định thư Kyoto
ra đời và chính thức có hiệu lực vào năm 2005 liên quan đến Chương trình khung về vấn
đề biến đổi khí hậu mang tầm quốc tế của Liên hiệp quốc với mục tiêu cắt giảm lượng khí
thải gây hiệu ứng nhà kính.
- Kể từ tháng 11/2007 đã có khoảng 175 nước kí kết tham gia chương trình này.
Nghị định thư Kyôtô ràng buộc 37 quốc gia phát triển đến năm 2012 phải cắt giảm khí
thải xuống 5% so với mức của năm 1990. Nghị định thư cũng được khoảng 137 nước

7


đang phát triển tham gia kí kết trong đó có Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ vốn là những
nền kinh tế mới nổi và có lượng khí phát thải cao. Sự kiện chính phủ Nga, nước chiếm
17% lượng khí thải phê chuẩn NĐT vào năm 2004, và chính phủ Úc ký kết NĐT vào năm
2007, đã gây sức ép buộc Mỹ (nước chiếm 25% khí thải ) - hiện là quốc gia phát triển duy
nhất không phê chuẩn Nghị định thư Kyoto - phải thay đổi quan điểm trong thời gian đến.
Thế giới hy vọng thái độ tích cực và sự tham gia có trách nhiệm của Mỹ sẽ được thể hiện
khi chính phủ của TT Obama tham gia hội nghị Copenhagen. Tuy nhiê cho đến nay tình
hình này vẫn chưa có gì sáng sủa hơn, chưa có bước tiến triển mang tính đột phá trong
cuộc chiến ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu
Như vậy, Nghị định thư Kyôtô được mong đợi sẽ là một thành công trong vấn đề
cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính. Mục tiêu được đặt ra nhằm "Cân bằng lại lượng khí
thải trong môi trường ở mức độ có thể ngăn chặn những tác động nguy hiểm cho sự tồn
tại và phát triển của con người vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường”. Trong những

năm tới, xu thế chung của hợp tác quốc tế và khu vực để đối phó với vấn đề biến đổi khí
hậu sẽ được tăng cường, tập trung vào quá trình thiết lập cơ chế hợp tác, nghiên cứu và
đánh giá tác động, xây dựng biện pháp phòng ngừa và nghiên cứu công nghệ, năng lượng
mới.
Mặc dù vậy, quá trình hợp tác sẽ còn gặp nhiều khó khăn, trắc trở do còn nhiều sự
khác biệt về lợi ích giữa các nước trong việc thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến
vấn đề biến đổi khí hậu (cơ bản là việc giảm chất thải gây hiệu ứng nhà kính hoặc sử dụng
tiết kiệm nhiên liệu có thể ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế của nhiều nước), việc
sản xuất theo Chương trình cơ cấu phát triển sạch (The Clean Development MechanismCDM)) đòi hỏi đầu tư lớn và công nghệ phức tạp...
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 158/2008/QĐ - TTg phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu và ngày 12/01/2009, tại
TP. Hồ Chí Minh, Bộ TN&MT chính thức công bố Chương trình mục tiêu quốc gia về
ứng phó với biến đổi khí hậu. Mục tiêu chiến lược của Chương trình là đánh giá được
mức độ tác động của biến đổi khí hậu đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương trong
từng giai đoạn và xây dựng được kế hoạch hành động có tính khả thi để ứng phó hiệu quả
với biến đổi khí hậu cho từng giai đoạn ngắn hạn và dài hạn nhằm đảm bảo sự phát triển
bền vững của đất nước, tận dụng cơ hội phát triển nền kinh tế theo hướng các-bon thấp và
tham gia cùng cộng đồng quốc tế trong nỗ lực giảm nhẹ biến đổi khí hậu, bảo vệ hệ thống
khí hậu trái đất.

8


4.2. Hành động của chúng ta
Thực tế cho thấy, biến đổi khí hậu đang đe doạ nghiêm trọng đến lợi ích sống còn
của con người trên khắp hành tinh và làm cho Trái Đất chúng ta ngày càng trở nên mỏng
manh, dễ bị tổn thương và ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững trong tương lai. Ngay từ
bây giờ chúng ta cần phải ý thức hơn đối với môi trường thông qua từng công việc cụ thể
của mỗi cá nhân.
Trước tiên, đó chính là sự thay đổi thói quen hàng ngày trong cuộc sống theo hướng

tiết kiệm năng lượng. Chỉ cần một cái nhấn nút tắt đèn hay các thiết bị điện, điện tử khi ra
vào phòng ở hay nơi làm việc thì cũng giảm thiểu được khá nhiều chi phí phải trả.
Thứ hai, cần phải nhận thức đầy đủ hơn về nguyên nhân và hậu quả của sự biến đổi
khí hậu để vận dụng trong những hoàn cảnh cụ thể, đặc biệt là đối với những người “ra
quyết định”. Ví dụ: bạn là người có quyền nhập khẩu thiết bị sản xuất thì nhất quyết phải
nói không với công nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều nhiên liệu và phát thải khí gây hiệu ứng
nhà kính.
Thứ ba, nghiên cứu khoa học và ứng dụng những thành tựu mới vào trong hiện
thực cuộc sống là sự đóng góp thiết thực nhất của thanh niên. Hiện nay, trên thế giới đã
tập trung vào việc nghiên cứu ứng dụng những nguồn năng lượng sạch như năng lượng
mặt trời, sức gió, sóng biển... để tạo ra những sản phẩm thân thiện với môi trường. Trong
xây dựng đã chú ý đến kiến trúc sinh thái, trong du lịch đã xuất hiện nhiều hơn sản phẩm
du lịch sinh thái... đều là những hướng đi tích cực.
Thứ tư, bạn hãy là một tuyên truyền viên có trách nhiệm thông qua trao đổi,
chuyện trò với gia đình, bạn bè, hàng xóm...về những vấn đề môi trường (như hạn chế xả
chất thải bẩn, trồng và chăm sóc cây xanh, đi xe đạp ở những cự ly ngắn hoặc tăng cường
sử dụng phương tiện giao thông công cộng...). Việc tuyên truyền, trao đổi thông tin trên
blog cá nhân hay diễn đàn trực tuyến cũng có tác dụng to lớn và nhanh chóng. Thông qua
các hoạt động văn hoá, văn nghệ, giải trí thể thao, tình nguyện và phát triển sẽ giúp bạn
đưa vấn đề bảo vệ môi trưòng xâm nhập vào cộng đồng một cách hữu hiệu hơn.
Khái niệm về Phát triển bền vững đại ý muốn nói đến những hành động của thế hệ
hôm nay đừng để cho thế hệ tương lai phải gánh chịu những hậu quả và di chứng xấu.
Nhưng đôi khi, hành động có trách nhiệm của thế hệ trẻ chúng ta hôm nay trước những
hậu quả nghiêm trọng của sự biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ giúp cho nhân loại có cơ hội tự
nhìn và ngẫm lại mình trong nhận thức, tư duy và hành động đúng đắn, thân thiện với môi
trường

9



5. Giáo dục, tuyên truyền phổ biến rộng rãi các giải pháp làm giảm thiểu biến
đổi khí hậu và thích ứng với những hậu quả do biến đổi khí hậu gây ra tại các địa
phương
- Các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo và quản lý đã xác nhận có hai nhóm giải
pháp quan trọng nhất để đối phó với những thách thức do sự biến đổi khí hậu gây là các
giải pháp giảm nhẹ biến đổi khí hậu và các giải pháp thích ứng với những thay đổi của
điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, giảm thiểu những thiệt hại của thiên tai do biến đổi
khí hậu gây ra.
Điều đáng chú ý là các giải pháp này rất đa dạng, phong phú song phải phù hợp
với tình hình cụ thể về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và dân cư của từng địa phương.
Biến đổi khí hậu có thể dẫn đến những hậu quả khác nhau đối với mỗi khu vực. Bão lớn
có sức tàn phá mạnh ở vùng ven biển trực tiếp gây sạt lở bờ biển, tràn ngập nước mặn,
phá hủy công trình xây dựng, nhà cửa..., song đối với vùng núi lại gây mưa lớn, lũ lụt, lũ
quét, sạt lở đường... gây nên những tổn thất và thiệt hại to lớn không kém.
- Vì vậy việc tuyên truyền phổ biến sâu rộng các kiến thức, kinh nghiệm cụ thể của
các địa phương có hoàn cảnh tương tự là rất cần thiết và có tác dụng thiết thực.
- Cần chú trọng giáo dục, tuyên truyền cho nhân dân các địa phương tình thần tích
cực, chủ động đối phó với những thách thức do biến đổi khí hậu gây ra theo phương châm
tại chỗ, dựa vào sức mình là chính.
II. GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG TRƯỜNG THCS

1. Vai trò, nhiệm vụ của giáo dục phổ thông đối với những thách thức của
biến đổi khí hậu
1.1. Vai trò của giáo dục phổ thông đối với những thách thức của biến đổi khí hậu
thể hiện ở các khía cạnh sau:
1) Số lượng học sinh nhiều, gần 8,5 triệu học sinh (Trong đó, THCS hơn 5,5 triệu
và THPT hơn 2,95 triệu) chiếm gần 1/10 dân số, liên quan đến mọi gia đình trong xã hội
và cộng đồng.
2) Các đối tượng rất trẻ, nhạy cảm dễ tiếp thu những kiến thức mới, lại được ngồi
trên ghế nhà trường, được giáo dục thường xuyên và đang hình thành nhân cách.

3) Học sinh phổ thông là những động lực và nhân tố cơ bản lan tỏa trong xã hội,
những hành động của các em đều có tính động viên, khích lệ lớn đối với gia đình, xã hội
và do đó, có tác động làm thay đổi hành vi, cách ứng xử của mọi người trong xã hội đối
với BĐKH.
4) Học sinh phổ thông là lực lượng chủ lực trong việc thực hiện và duy trì các hoạt
động tuyên truyền về ứng phó với BĐKH khi ngồi trên ghế nhà trường. Đồng thời, những

10


kiến thức và kĩ năng về ứng phó với BĐKH mà các em tiếp thu được từ nhà trường sẽ
dần hình thành trong tư duy, hành động của các em để ứng phó với BĐKH trong tương
lai. Bởi vậy việc đầu tư cho giáo dục ứng phó với BĐKH trong hệ thống giáo dục phổ
thông nói riêng, hệ thống giáo dục quốc dân nói chung, là một giải pháp lâu dài, nhưng
hiệu quả kinh tế nhất và bền vững nhất.
1.2. Nhiệm vụ của giáo dục phổ thông đối với những thách thức của biến đổi khí hậu
Giáo dục trung học cơ sở và trung học phổ thông bên cạnh việc hoàn thiện nội
dung giáo dục phổ thông qui định cho từng cấp học, trước thách thức của biến đổi khí hậu
có nhiệm vụ tiếp tục giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu
học về giáo dục ứng phó với BĐKH, phát triển thái độ, kiến thức và kĩ năng của học sinh
về ứng phó với BĐKH phù hợp với trình độ phát triển tâm, sinh lý của học sinh ở từng
cấp học nhằm chuẩn bị cho học sinh đi vào cuộc sống lao động hoặc tiếp tục học nghề,
trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học.
2. Mục tiêu của giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu trong
trường THCS
2.1. Kiến thức:
- Trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về khí hậu, thời tiết, khí nhà kính,
BĐKH hiện tại và quá khứ. Nguyên nhân và hậu quả. Mối quan hệ giữa con người, thiên
nhiên và BĐKH.
- Trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về BĐKH và ứng phó BĐKH, để

mỗi học sinh trở thành tuyên truyền viên tích cực trong gia đình, nhà trường và địa
phương về BĐKH
2.2. Kĩ năng:
- Trang bị và phát triển những kỹ năng cơ bản, thích ứng với BĐKH, biết ứng xử
tích cực đối với những rủi ro, tai biến cụ thể.
2.3. Thái độ:
- Giáo dục cho học sinh ý thức trong việc ứng phó với BĐKH (giảm nhẹ và thích ứng).
- Học sinh có ý thức vận dụng các hiểu biết, kĩ năng thu được để tham gia các hoạt
động tuyên truyền về ứng phó với BĐKH, tham gia các hoạt động nhằm ứng phó với
BĐKH phù hợp với lứa tuổi

11


3. Định hướng, yêu cầu của giáo dục ứng phó với Biến đổi khí hậu trong trường
THCS
- Quan điểm tiếp cận là lấy giáo dục nhận thức làm trung tâm - đầu tư vào con
người là loại hình đầu tư hiệu quả, bền vững, nhưng phải đảm bảo một hệ thống logic chặt
chẽ, tính liên thông giữa các cấp học,các trình độ đào tạo và khối kiến thức về BĐKH
phải phù hợp với từng đối tượng để cải thiện và đáp ứng đòi hỏi 3 đặc tính của con người
đã nêu trên.
- Thông qua việc tích hợp khối kiến thức về BĐKH ở trong và ngoài bài giảng, ở
trong và ngoài lớp học, ở trong và ngoài nhà trường để nâng cao nhận thức, phát triển các
thái độ, hành vi và ứng xử, rèn luyện kỹ năng và hành động cụ thể ứng phó với BĐKH.
- Giáo dục ứng phó với BĐKH là giáo dục tổng thể nhằm trang bị những kiến thức
về MT, về BĐKH, về khoa học công nghệ và phương pháp ứng phó cho học sinh thông
qua từng môn học và chương trình riêng phù hợp với từng đối tượng. Việc giáo dục này ở
trong các trường học chủ yếu thực hiện theo phương thức tích hợp trong nội dung các
môn học tự nhiên-xã hội theo chương trình như: Địa lý, Vật lí, Hóa học, Sinh học, Giáo
dục công dân, Dân số và sức khỏe...

- Nội dung của giáo dục ứng phó BĐKH, những thông tin về rủi ro BĐKH cùng
với những biện pháp ứng phó BĐKH cần được cung cấp theo những cách thức phù hợp
với trình độ và khả năng nhận thức của từng nhóm đối tượng theo cấp học, phản ánh tính
khoa học, tính hệ thống các khối kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp và đảm bảo tính liên
thông giữa các cấp học, phản ánh tính khoa học mà nội dung cơ bản của nó là giáo dục
ứng phó BĐKH, nghĩa là trang bị cho học sinh không chỉ các kiến thức, hiểu biết về
BĐKH mà còn là những định hướng để ứng phó với BĐKH hướng tới những hoạt động
thích ứng, tạo lập môi trường thích hợp cho con người BVMT và được thích ứng trong
điều kiện có nhiều biến động về khí hậu.
- Ứng phó với BĐKH đòi hỏi sự hợp tác giữa các trường trong một vùng, giữa các
trường trong một miền, trong phạm vi quốc gia và quốc tế và đòi hỏi sự chia sẻ về thông tin,
kinh nghiệm xử lý rủi ro và trong những trường hợp cụ thể cả về nhân lực và tài chính.
- Giáo dục ứng phó BĐKH là giáo dục hành động, tham gia để giải quyết những
rủi ro của BĐKH. Hiệu quả về nhận thức và hành động thực tiễn là thước đo chất lượng
của nó. Do đó, mỗi học sinh được giáo dục ứng phó BĐKH không chỉ có thêm nhận thức,
hiểu biết cần thiết để ứng phó BĐKH, mà còn phải biết vận dụng các nguyên lý, nguyên
tắc vào từng các vấn đề rủi ro cụ thể, phải biết làm một cái gì đó cho trường mình, trường
bạn, cho cộng đồng, nghĩa là giáo dục ứng phó BĐKH phải được tiến hành bằng cả
phương thức hành động thực tiễn. Ứng phó BĐKH cũng rất cần những số liệu cập nhật để

12


dẫn chứng và chứng minh thông qua các nguồn thông tin mới, hiện đại, những kết quả
của các đề tài NCKH chuyên sâu về khí hậu và BĐKH ở các cấp học cao hơn.
- Giáo dục về BĐKH và ứng phó BĐKH là dạy cho học sinh biết cách ứng xử và
hành động. Bởi vậy cần tận dụng các phương thức hợp tác: thày-trò; trò-trò;thầy trò-xã
hội trong quá trình giáo dục, có như vậy mới khai thác hết các nguồn lực, các sáng kiến
và các nguồn hiểu biết về ứng phó BĐKH của học sinh, đồng thời hướng học sinh vận
dụng ngay hiểu biết vào trong quá trình tham gia giải quyết các vấn đề BĐKH. Đây là quá

trình đòi hỏi nhiều thời gian, để đạt được mục tiêu này chương trình giáo dục ứng phó
BĐKH bước đầu cần thử nghiệm ở một số trường thông qua việc huấn luyện giáo viên và
cán bộ quản lý về nội dung và về phương pháp giáo dục. Sau đó tổ chức hội thảo trao đổi
ý kiến giữa các chuyên gia và giáo viên, cán bộ quản lý tham gia thử nghiệm để điều
chỉnh, hoàn thiện nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục BĐKH, rồi từng bước
nhân ra diện rộng.
4. Tích hợp giáo dục ứng phó với Biến đổi khí hậu trong trường THCS
4.1. Quan niệm về giáo dục tích hợp
Khái niệm tích hợp đã được sử dụng rất rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học và
kĩ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực kĩ thuật điện tử, công nghệ thông tin,... Tích hợp có nghĩa
là "gộp lại, sáp nhập lại thành một tổng thể" (tiếng Pháp là intégration, tiếng Anh là
integration). Hiện nay tư tưởng tích hợp đã được vận dụng trong nhiều giải pháp công
nghệ cũng như trong lĩnh vực kinh tế-xã hội , trong đó có giáo dục.
Phương thức tích hợp các môn học trong quá trình dạy học đã được vận dụng
tương đối phổ biến ở nhiều nước. Ở Việt Nam đã có nhiều môn học, cấp học quan tâm
vận dụng tư tưởng tích hợp vào quá trình dạy học để nâng cao chất lượng giáo dục (như
các môn vật lí, hóa học, sinh học, địa lí, ngữ văn,...và đưa các nội dung giáo dục về bảo
vệ môi trường, về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả vào các môn học,..).
Xavier Rogiers 1 đã đưa ra một định nghĩa về khoa học sư phạm tích hợp như sau:
"Khoa sư phạm tích hợp là một quan niệm về một quá trình học tập trong đó toàn thể các
quá trình học tập góp phần hình thành ở HS những năng lực rõ ràng, có dự tính trước
những điều cần thiết cho HS, nhằm phục vụ cho các quá trình học tập tương lai, hoặc
nhằm hòa nhập HS vào cuộc sống lao động".
"Khoa sư phạm tích hợp" được trình bày như một lí thuyết giáo dục, một mặt nó
đóng góp vào việc nghiên cứu xây dựng chương trình, sách giáo khoa, đồng thời góp
phần định hướng các hoạt động dạy học trong nhà trường.

1

Xaviers Rogiers (1996): Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà trường. NXB

Giáo dục.

13


Với ý nghĩa định hướng các hoạt động dạy học, trong nhiều tài liệu người ta cũng
thường sử dụng thuật ngữ “dạy học tích hợp” (DHTH). DHTH là một cách tiếp cận dạy
học đòi hỏi người học phải vận dụng nhiều kiến thức và kĩ năng để giải quyết một tình
huống phức hợp có vấn đề. DHTH hướng tới phát triển các năng lực của HS mà không
chỉ đơn giản tích lũy kiến thức.
Trong tài liệu này chúng tôi sẽ dùng thuật ngữ DHTH để chỉ quá trình dạy học
trong đó người GV quan tâm xây dựng các tình huống để học sinh học cách sử dụng phối
hợp các kiến thức và kĩ năng từ các môn học khác nhau, chúng được huy động và phối
hợp với nhau, tạo thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ lý luận
và thực tiễn được đề cập trong các môn học đó.
4.2. Nguyên tắc giáo dục tích hợp
Khi thực hiện DHTH cần tuân theo một số nguyên tắc chung sau:
- Nguyên tắc thống nhất tích hợp và phân hóa
Về thuật ngữ, tích hợp được hiểu như là một quá trình mà kết quả là tạo ra một
chỉnh thể duy nhất. Phân hóa là quá trình ngược lại, là sự phân chia tổng thể thành các
phần theo một dấu hiệu nào đó. Về mặt triết học, tích hợp và phân hóa là hai quá trình có
qua hệ biện chứng, qui định lẫn nhau không thể tách rời, như cộng và trừ, âm và dương.
Nguyên tắc thống nhất giữa tích hợp và phân hóa là một trong các nguyên tắc quan trọng
của giáo dục học nói chung và DHTH nói riêng. Nguyên tắc thống nhất tích hợp và phân
hóa thể hiện cách thức tự tổ chức của quá trình giáo dục. Nguyên tắc này đòi hỏi khi xây
dựng các nội dung DHTH cần phân tích, xem xét các đặc thù riêng của các lĩnh vực riêng
đóng góp vào nội dung DHTH đó, đồng thời nó cũng làm rõ vai trò của các kiến thức của
các môn học riêng trong mối quan hệ với nội dung DHTH.
- Nguyên tắc người học làm trung tâm
Nguyên tắc người học làm trung tâm xác định vị trí của HS và của GV trong hệ

thống giáo dục tích hợp. Theo nguyên tắc này, HS là chủ thể của quá trình giáo dục.
Trong DHTH, HS luôn đứng trước các tình huống có vấn đề mà để giải quyết chúng, HS
phải huy động nhiều kiến thức và kĩ năng đã học được từ các môn học khác nhau. Để giải
quyết các tình huống như vậy HS phải tích cực, chủ động. GV trong hệ thống DHTH
đóng vai trò người tổ chức và cố vấn, HS phải là trung tâm của các hoạt động học tập.
- Nguyên tắc đặc trưng văn hóa của giáo dục tích hợp
Nguyên tắc đặc trưng văn hóa của giáo dục tích hợp chỉ rõ mối quan hệ của giáo
dục với môi trường văn hóa. Nguyên tắc đặc trưng văn hóa của giáo dục tích hợp đòi hỏi
việc tổ chức quá trình giáo dục và dạy học phải tính đến đặc trưng văn hóa xã hội, bên
ngoài và bên trong của người học. Theo Adolph Diesterweg, văn hóa bên ngoài, đó là các

14


chuẩn mực đạo đức, sinh hoạt và nhu cầu của người học; văn hóa bên trong, là đời sống
tinh thần của con người và văn hóa xã hội là các quan hệ xã hội và văn hóa dân tộc.
Để đảm bảo hiệu quả việc tích hợp các nội dung ứng phó với BĐKH vào các môn
học ở trường phổ thông, tức là thực hiện một quá trình giáo dục tích hợp, chúng ta cần
xem xét và tuân theo các nguyên tắc DHTH nêu trên.
4.3. Phương pháp giáo dục tích hợp
- Các phương thức tích hợp
Do đặc điểm cấu trúc chương trình, sách giáo khoa các môn học ở trường THCS
hiện nay là có tính phân hóa, hướng đến tính hệ thống chặt chẽ của nội dung, tính khoa
học của bộ môn tương đối sâu nên việc đưa các nội dung giáo dục ứng phó BĐKH, cũng
như tích hợp các nội dung giáo dục khác vào các môn học trong trường phổ thông cũng
phải thực hiện sao cho không ảnh hưởng tới mục tiêu riêng của các môn học. Do vậy cần
tìm các phương thức DHTH tích hợp phù hợp với thực tế.
Các nội dung giáo dục ứng phó BĐKH có thể được tích hợp vào các môn học ở các
mức độ khác nhau tùy theo đặc trưng kiến thức môn học. Trong trường hợp cần tích hợp
nhiều nội dung có liên quan với nhau vào cùng một môn học, trước hết ta cần làm rõ mối

quan hệ giữa các nội dung này và nên lựa chọn các nội dung thể hiện rõ nhất, có cơ sở khoa
học và có ý nghĩa nhất để tích hợp vào nội dung môn học. Điều này giúp ta tránh được sự
dàn trải, đưa quá nhiều nội dung vào môn học làm quá tải quá trình học tập của HS.
Các phương thức tích hợp thường dùng hiện nay là:
+ Tích hợp toàn phần
Tích hợp toàn phần được thực hiện khi hầu hết các kiến thức của môn học, hoặc
nội dung của một bài học cụ thể, cũng chính là các kiến thức về sử dụng năng lượng và
các vấn đề năng lượng.
Ví dụ, trong chương trình, sách giáo khoa môn hóa học 8 có bài về "Không khí –
Sự cháy". Trong trường hợp này giáo viên chỉ cần quan tâm nhấn mạnh các khía cạnh
thành phần không khí, sự ô nhiễm không khí, hiệu ứng nhà kính, các biện pháp cải tiến để
giảm thiểu phát thải khí gây ô nhiễm môi trường. Tương tự như vậy, trong sách giáo khoa
hóa học 9 có bài “Nhiên liệu”,...Khi dạy bài này GV không chỉ khai thác khía cạnh sử
dụng nhiên liệu hóa thạch để sản xuất điện năng mà cần nêu được cả khía cạnh môi
trường của việc khai thác nhiên liệu, trong quá trình sản xuất và sử lý chất thải.
Tích hợp toàn phần hiệu quả cao nếu ta xây dựng được các đề tài tích hợp phù hợp,
cho phép HS giải quyết trên cơ sở vận dụng kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực liên quan.
Chẳng hạn, xây dựng đề tài cho dạy học theo dự án, đưa ra một bài tập lớn vừa sức HS,...
+ Tích hợp bộ phận

15


Tích hợp bộ phận được thực hiện khi có một phần kiến thức của bài học có nội
dung về năng lượng và sử dụng năng lượng, tức là liên quan tới vấn đề trực tiếp phát thải
khí nhà kính.
Ví dụ, trong sách giáo khoa môn hóa học 9, trong bài "oxit của cacbon" có mục
"Vai trò của CO2 trong đời sống". Ở đây GV có thể tích hợp các nội dung sử dụng năng
lượng tiết kiệm, hiệu quả bằng việc tận dụng năng lượng mặt trời, năng lượng gió và vai
trò của CO2 trong việc gây ra hiệu ứng nhà kính. Nếu tiết kiệm được năng lượng thì cũng

giảm thiểu được sự phát thải các khí gây ô nhiễm môi trường.
+ Hình thức liên hệ
Trong trường hợp này thường không nhìn thấy ngay mối quan hệ giữa kiến thức
môn học và các nội dung giáo dục tích hợp. GV phải khai thác kiến thức môn học, tìm ra
mối liên quan giữa chúng với các nội dung tích hợp cần phải đưa vào và liên hệ chúng với
các nội dung về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, môi trường, BĐKH. Liên hệ
cũng là hình thức tích hợp đơn giản nhất khi chỉ có một số nội dung của môn học có liên
quan tới vấn đề năng lượng và sử dụng năng lượng, BĐKH, song không nêu rõ trong nội
dung của bài học. Đây là trường hợp thường xảy ra.
Thí dụ, trong các bài " không khí", " nước", (hóa học 8 THCS), không thể hiện rõ
các nội dung liên quan tới sử dụng khí hậu, nhiệt độ không khí, ô nhiễm khí hậu, nước
biển, ô nhiễm nguồn nước ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Trong trường hợp này
GV phải khai thác kiến thức môn học để liên hệ với thực tế hiện nay (qua nội dung bài
học, qua việc giải các bài tập vận dụng kiến thức, các bài tập có nội dung kĩ thuật, qua
tham quan, ngoại khóa,..).
- Các hình thức tổ chức dạy học tích hợp
Việc cụ thể hóa các phương thức tích hợp nêu trên được thông hai hình thức tổ
chức dạy học phổ biến hiện nay trong nhà trường phổ thông.
+ Hình thức thứ nhất: Thông qua các bài học bộ môn trên lớp
Trong trường hợp này GV thực hiện các phương thức tích hợp với các mức độ đã
nêu ở trên. Các hoạt động của GV có thể bao gồm:
Hoạt động 1: Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa để xây dựng mục tiêu dạy
học, trong đó có các mục tiêu giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, mục tiêu
giáo dục bảo vệ môi trường, BĐKH.
Hoạt động 2: Xác định các nội dung giáo dục năng lượng, giáo dục môi trường,
BĐKH cụ thể cần tích hợp. Căn cứ vào mối liên hệ giữa kiến thức môn học và các nội
dung giáo dục năng lượng, giáo dục môi trường, giáo viên lựa chọn tư liệu và phương án
tích hợp, cụ thể phải trả lời các câu hỏi: tích hợp nội dung nào là hợp lí? Liên kết các kiến
thức về năng lượng và về môi trường như thế nào? Thời lượng là bao nhiêu?


16


Hoạt động 3: Lựa chọn các phương pháp dạy học và phương tiện phù hợp, trước
hết quan tâm sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, các phương tiện dạy học có hiệu
quả cao để tăng cường tính trực quan và hứng thú học tập của HS ( như sử dụng các thí
nghiệm, máy vi tính, đèn chiếu,...).
Hoạt động 4: Xây dựng tiến trình dạy học cụ thể. Ở đây GV cần nêu cụ thể các
hoạt động của HS, các hoạt động trợ giúp của GV.
+ Hình thức thứ hai: Tổ chức tham quan, ngoại khóa tích hợp nội dung môn học
và giáo dục BĐKH
Giáo dục ứng phó với BĐKH cũng có thể được triển khai như một hoạt động độc
lập song vẫn gắn liền với việc vận dụng kiến thức các môn học. Các hoạt động có thể
như: tham quan, ngoại khóa, tổ chức các nhóm ngoại khóa chuyên đề, các bài học dự án,
nghiên cứu một đề tài ( phù hợp với HS!). Với các hoạt động này, mức độ tích hợp kiến
thức, kĩ năng các môn học với các nội dung ứng phó với BĐKH sẽ đạt cao nhất. Trong
các hoạt động này, HS học cách vận dụng kiến thức các môn học trong các tình huống gần
với cuộc sống hơn, huy động kiến thức từ nhiều môn học.
- Một số kỹ thuật dạy học tích hợp
+ Xây dựng các bài tập gắn kiến thức môn học với các kiến thức thực tế liên quan
tới môi trường và BĐKH
Sử dụng các bài tập trong tiến trình dạy học bộ môn là một hình thức tích hợp linh
hoạt, sinh động và rất thuận lợi trong việc phát huy tính tích cực, sáng tạo và phát triển
năng lực của HS trong việc vận dụng kiến thức vào các tình huống thực tế khác nhau về
các vấn đề môi trường và BĐKH.
Thí dụ GV có thể xây dựng các bài tập như sau:
Bài tập 1: Mười ba điều đơn giản
Dưới đây là nội dung một tờ rơi "13 điều đơn giản có thể làm" (Hình 1) để góp
phần bảo vệ môi
trường sống của chúng ta

được Dự án truyền
thông nâng cao ý thức về
môi trường của
Câu lạc bộ FPT và Câu lạc
bộ Vì biển xanh
đưa ra.

17


Hình 1. Tờ rơi tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường
Câu hỏi:
1.1. Em hãy đọc Mười ba điều đó và chọn ra các điều có liên quan trực tiếp đến
việc hạn chế hiệu ứng nhà kính?
1.2. Em hãy xắp xếp những điều vừa chọn ra theo thứ tự mà em cho là quan trọng
nhất cần làm ngay ở nhà em, ở trường em?
1.3. Em hãy chọn ra một điều và vận dụng kiến thức các môn học đã học để giải
thích vì sao làm như vậy lại có thể hạn chế Hiệu ứng nhà kính?
Bài tập 2: Cọn nước
Theo báo Nông nghiệp (15/04/2010), "Sáng kiến của nông dân Pắc Nặm (Bắc
Kạn): Chống hạn bằng cọn nước": Cả nước đang hạn hán. Vùng đồng bằng dùng máy
bơm chống hạn, nhưng vùng cao lấy đâu ra máy móc. Vả lại có máy rồi thì kiếm đâu ra
dầu "nuôi" máy. Thế là người dân vùng cao của huyện nghèo Pác Nặm quay về dùng một
công cụ truyền thống để lấy nước trồng lúa, đó là cái cọn nước làm 100% bằng tre, gỗ.
Hiện nay trên địa bàn huyện Pác Nặm có hơn 100 chiếc cọn nước, thời gian qua đã chống
hạn, cung cấp nước tưới cho hàng trăm ha trên địa bàn. Điều đó cho thấy, đồng bào dân
tộc thiểu số đã phát huy sự sáng tạo và nội lực để khắc phục khó khăn.
Cùng với cọn nước, đồng bào miền núi còn làm cối giã gạo bằng sức nước.
Trong hình 2a và 2b là hình ảnh của cọn nước và cối giã gạo nước.


18


Hình 2a. Cọn nước đang bơm nước lên cao
Hình2b. Cối giã gạo nước
Em hãy quan sát các hình ảnh trên và trả lời các câu hỏi sau:
Câu hỏi:
1. Hãy giải thích hoạt động của cọn nước và cối giã gạo dùng sức nước?
2. Dạng năng lượng nào đã giúp cho cọn nước và cối giã gạo nước hoạt động? Sự
chuyển hóa năng lượng diễn ra ở đây như thế nào?
3. Tạo sao người ta nói cọn nước, cối giã gạo nước lại đóng góp vào giảm thiểu sự
biến đổi khí hậu?
4. Em hãy lập bảng so sánh nêu ưu, nhược điểm của cọn nước và cối giã gạo nước
với việc sử dụng các loại máy dùng động cơ điêzen, động cơ điện để bơn nước, xay sát gạo?
5. Theo em có nên suy nghĩ cải tiến cọn nước, cối giã gạo nước cho hiệu quả hơn,
năng suất cao hơn được không?
+ Tích hợp nội dung giáo dục BĐKH thông qua kênh hình (tranh ảnh, hình vẽ,
video clip,...)
Hiệu quả dạy học các môn học nói chung ở trường THCS, đặc biệt là giáo dục tích
hợp sẽ được nâng cao đáng kế nếu GV biết khai thác, lựa chọn và sử dụng hợp lý các
phương tiện nghe nhìn trong dạy học.
Thí dụ 1: Sử dụng hình vẽ sau để chỉ ra các nguồn gây ra hiệu ứng nhà kính

Hình 3. Các nguồn phát thải khí nhà kính
Thí dụ 2: Sử dụng hình ảnh để giải thích vai trò của rừng và cung cấp tư liệu

19


Hình 4. Vai trò của rừng (Nguồn: Encarta Encyclopedia)

+ Rừng cung cấp lâm sản ... Rừng điều hoà lượng nước trên mặt đất ... Rừng "lá
phổi xanh " của trái đất (1 ha rừng / năm đưa vào khí quyển ≈ 16 tấn 02 ) / Một nghiên
cứu tại Anh cho thấy các cánh rừng nhiệt đới đang hấp thụ 20% khí thải CO 2 từ khí
quyển, giúp con người tiết kiệm khoảng 13 tỷ USD mỗi năm. Rừng hạn chế sự sói mòn
đất. Rừng - nguồn gien quí giá ...
- Tư liệu về vai trò của rừng trong cuộc sống
Nếu như tất cả thực vật trên Trái Đất đã tạo ra 53 tỷ tấn sinh khối (ở trạng thái khô
tuyệt đối là 64%) thì rừng chiếm 37 tỷ tấn (70%). Và các cây rừng sẽ thải ra 52,5 tỷ tấn
(hay 44%) dưỡng khí để phục vụ cho hô hấp của con người, động vật và sâu bọ trên Trái
Đất trong khoảng 2 năm (S.V. Belov 1976). Rừng là thảm thực vật của những cây thân gỗ
trên bề mặt Trái Đất, giữ vai trò to lớn đối với con người như: cung cấp nguồn gỗ, củi,
điều hòa khí hậu, tạo ra oxy, điều hòa nước, nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các
nguồn gen quý hiếm. Một hecta rừng hàng năm tạo nên sinh khối khoảng 300 - 500 kg, 16
tấn oxy ( rừng thông 30 tấn, rừng trồng 3 - 10 tấn). Mỗi người một năm cần 4.000kg O2
tương ứng với lượng oxy do 1.000 - 3.000 m² cây xanh tạo ra trong một năm.
Nhiệt độ không khí rừng thường thấp hơn nhiệt độ đất trống khoảng 3 - 5°C.
Rừng bảo vệ và ngăn chặn gió bão. Lượng đất xói mòn của vùng đất có rừng chỉ
bằng 10% lượng đất xói mòn của vùng đất không có rừng. Rừng là nguồn gen vô tận của
con người, là nới cư trú của các loài động thực vật quý hiếm.Vì vậy tỷ lệ đất có rừng che
phủ của một quốc gia là một chỉ tiêu an ninh môi trường quan trọng ( diện tích đất có
rừng đảm bảo an toàn môi trường của một quốc gia tối ưu là ≥ 45% tổng diện tích).

20



×