Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở các số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.62 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH TÙNG

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở các số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh)
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tung hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS CHU THỊ TRANG VÂN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thanh Tùng




MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng

LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................2
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
...........................................................................................................................2
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.......................................................................................................2
Tôi xin chân thành cảm ơn!...............................................................................2
NGƯỜI CAM ĐOAN.......................................................................................2
Nguyễn Thanh Tùng..........................................................................................2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

CNH,HĐH


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

TP. HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

KCX, KCN

Khu chế xuất, khu công nghiệp

BLHS

Bộ luật hình sự

TNHS

Trách nhiệm hình sự

ĐTPCTP

Đấu tranh phòng chống tội phạm

TAND

Tòa án nhân dân

PLHS

Pháp luật hình sự


NXB

Nhà xuất bản

CTTP

Cấu thành tội phạm

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

BLDS

Bộ luật dân sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

ADPL

Áp dụng pháp luật

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

HTND

Hội thẩm nhân dân

HĐXX

Hội đồng xét xử


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số TT

Tên bảng

Trang

LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................2
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
...........................................................................................................................2
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo

vệ Luận văn.......................................................................................................2
Tôi xin chân thành cảm ơn!...............................................................................2
NGƯỜI CAM ĐOAN.......................................................................................2
Nguyễn Thanh Tùng..........................................................................................2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới của đất nước do Đảng ta lãnh đạo trong những năm
qua đã đạt được những thành quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội… nên đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, tạo
tiền đề vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
đất nước. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế đã làm phát sinh những bất cập cho
công tác quản lý nhà nước, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động đến
lối sống thực dụng và hưởng thụ của không ít các tầng lớp trong xã hội, làm
phát sinh nhiều biểu hiện tiêu cực ảnh hưởng đến trật tự an toàn của xã hội.
Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) là đô thị lớn nhất cả nước, là trung
tâm về kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ và du lịch và đầu mối giao lưu
quốc tế, có vị trí chính trị quan trọng trong cả nước. Thành phố có tốc độ phát
triển kinh tế khá nhanh, nhất là trong lĩnh vực phát triển công nghiệp, thương
mại và du lịch. Hàng năm thành phố thu hút hành chục ngàn lao động từ các
tỉnh lân cận, cũng như các tỉnh phía Nam vào làm việc tại các khu chế xuất,
khu công nghiệp (KCX, KCN). Vì vậy cũng nhiều vấn đề nảy sinh về an ninh
trật tự và công tác quản lý xã hội cũng ngày càng phức tạp do tình trạng dân
nhập cư trên địa bàn ngày càng tăng, các tệ nạn xã hội phát sinh, các hành vi
vi phạm và tội phạm hình sự cũng qua đó có xu hướng gia tăng về số lượng
và quy mô về phương thức vi phạm.
Trong số các tội phạm, những năm gần đây tội phạm trộm cắp tài sản
diễn ra phức tạp và phổ biến, trong đó nhiều vụ do đối tượng phạm tội chuyên
nghiệp, hoạt động có băng nhóm gây ra. Nhiều vụ tội phạm do các đối tượng

hoạt động là dân từ nơi khác đến chứ không phải trong địa bàn thực hiện.
Thực tiễn cho thấy hiệu quả công tác phòng ngừa và đấu tranh chống
1


tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn TP. HCM còn rất hạn chế. Công tác
phòng ngừa, đấu tranh với loại tội phạm này còn yếu kém, sự phối hợp giữa
các lực lượng, các ngành chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ.
Một vấn đề nữa là ý thức tự bảo vệ tài sản của mình và tham gia bảo vệ
tài sản của người khác trong nhân dân còn yếu. Các cơ quan, xí nghiệp, tổ
chức kinh tế tuy có điều kiện về tài chính nhưng công tác bảo vệ tài sản còn lơ
là mất cảnh giác, ít quan tâm trong việc trang bị các phương tiện khoa học kỹ
thuật để phục vụ cho việc phòng chống tội trộm cắp. Số đối tượng bị phạt tù
sau khi mãn hạn tù để hoà nhập cộng đồng còn chưa được quản lý chặt chẽ,
do đó tỷ lệ tái phạm là rất cao.
Trong thời gian qua, Công an TP. HCM cũng đã đề ra nhiều kế hoạch
theo chuyên đề như phòng ngừa đấu tranh chống trộm xe gắn máy, chống
trộm két sắt trong cơ quan; phòng chống trộm cắp tài sản trong nhà dân,
phòng chống trộm cắp tài sản của người nước ngoài… nhằm đấu tranh ngăn
chặn tội phạm này, nhưng chưa thực sự có kết quả đáng kể.
Mặt khác, Bộ luật hình sự hiện hành còn nhiều bất cập chưa phát huy
hiệu quả trong việc xử phạt có tính chất răn đe tội phạm, làm cho tình hình tội
trộm cắp tài sản ngày càng nhiều hơn.
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về tội trộm cắp tài sản không phải là mới
nhưng lại luôn thời sự bởi đây là tội phạm có tính chất phổ biến trong thực tiễn.
Hơn nữa, với mỗi địa bàn, tình hình tội phạm và công tác xử lý của các cơ quan
chức năng cũng có những đòi hỏi, yêu cầu khác nhau. Chính vì thế, Tác giả
chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở
các số liệu địa bàn TP. HCM)” làm đề tài luận văn Thạc sĩ với mục đích trên
cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác xử lý tội phạm này tại một địa

bàn xác định là TP. HCM, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố.

2


2. Tình hình nghiên cứu
Tội trộm cắp tài sản là tội có tính phổ biến cao trong xã hội, và đã
chiếm phần lớn trong các tội phạm và đã được các nhà luật học tham gia
nghiên cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản, trước
hết phải kể đến Giáo trình Luật hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội,
Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội, Sách chuyên khảo Bình luận khoa học
Bộ luật hình sự (BLHS) Phần Các tội xâm phạm sở hữu của Ths. Đinh Văn
Quế… đã phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản.
Tiếp đó là các công trình nghiên cứu như tác giả Vũ Thiện Kim với
“Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tài
sản của công dân”; tác giả Thân Như Thành với luận văn thạc sĩ luật học
“Đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội”;
Luận án Tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Ngọc Chí với “Trách nhiệm hình
sự (TNHS) đối với các tội xâm phạm sở hữu” (Viện nghiên cứu Nhà nước và
pháp luật, 2001) đã nghiên cứu về các tội xâm phạm sở hữu, một cách toàn
diện có hệ thống, và trên hai bình diện: tội phạm học và luật hình sự, có nhận
xét đánh giá về tình hình các tội xâm phạm sở hữu, phân tích có hệ thống
chính sách hình sự, nguyên tắc xử lý và các hình thức TNHS, trong đó có đề
cập đến tội trộm cắp tài sản.
Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Gia Hoàn “ Đấu tranh phòng
ngừa và chống tội trộm cắp tài sản trong quân đội” (trường Đại học Luật Hà
nội năm 2000), đã đề cập hoạt động đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài
sản trong phạm vi quân đội, đã giải quyết một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về tội trộm cắp tài sản trong quân đội.

Luận án Tiến sĩ luật học về “Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng
chống tội phạm này ở Việt nam” của Hoàng Văn Hùng (Bộ tư pháp năm
2007) đã nghiên cứu tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt nam, phân

3


tích thực trạng nguyên nhận và điều kiện của tội phạm này, có những giải
pháp để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm (ĐTPCTP)
trộm cắp tài sản.
Liên quan đến tội trộm cắp tài sản, có một số tác giả viết trên tạp chí
chuyên ngành như: Lê Văn Luật “Lắp đặt sử dụng thiết bị viễn thông trái
phép để thu tiền cước điện thoại đã có dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản”
(Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND) số 11 năm 2004), Dương Tuyết Miên
“Truy cứu TNHS đối với Lê Tuấn theo khoản 1 Điều 138 BLHS” (Tạp chí
TAND số 2 năm 2005).
Các kết quả nghiên cứu trên là cơ sở khoa học, song các công trình
nghiên cứu đó hoặc là về các tội xâm phạm sở hữu nói chung hoặc là tập
trung về mặt đấu tranh phòng chống tội phạm (ĐTPCTP), rất ít các công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu về tội trộm cắp tài sản tại địa bàn TP. HCM theo
pháp luật hình sự (PLHS) năm 1999. Vì vậy, thông qua việc nghiên cứu Luận
văn này chúng tôi đi sâu tìm hiểu toàn diện về tội trộm cắp tài sản, kế thừa
những nội dung đã được tiếp cận từ các công trình nghiên cứu khoa học của
các tác giả trước đây, các tài liệu trên tạp chí chuyên ngành, qua báo chí …
tìm ra những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm, những vấn đề cơ bản
về TNHS của người phạm tội, đồng thời phát hiện những điểm bất hợp lý
trong các quy định đó, đưa ra ý kiến cá nhân nhằm hoàn thiện quy định pháp
luật về tội trộm cắp tài sản.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

- Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, lịch sử về Tội trộm cắp
tài sản theo quy định của BLHS Việt Nam năm 1999, làm sáng tỏ bản chất
pháp lý của loại tội phạm này và phân biệt với các tội phạm cùng loại khác
hoặc có liên quan;

4


- Đánh giá thực tiễn việc phát hiện, xử lý tội phạm này của các cơ quan
chức năng tại TP. HCM, qua đó xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội và
đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng chống Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn TP. HCM.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, đề tài xác định các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Khái quát những vấn đề lý luận, lịch sử về Tội trộm cắp tài sản.
- Nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của Tội trộm cắp tài sản theo quy định
của BLHS Việt Nam hiện hành;
- Phân biệt Tội trộm cắp tài sản với một số tội phạm cùng loại hoặc có
liên quan;
- Đánh giá thực tiễn công tác điều tra và xét xử Tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn TP. HCM.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng chống Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn TP. HCM trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác điều tra và xét xử Tội trộm
cắp tài sản tại TP. HCM.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi không gian là tại TP. HCM.
- Về thời gian: Các dữ liệu lịch sử được tiếp cận nghiên cứu từ khi
thành lập nước năm 1945. Các số liệu thực tiễn của đề tài nghiên cứu trong
phạm vi thời gian là từ 2008 đến 2012.

5


5. Giả thuyết khoa học
Trước tình hình phát triển kinh tế đi đôi với việc phát sinh tội phạm xảy
ra ngày càng nhiều và có chiều hướng gia tăng, việc đấu tranh phòng chống
tội trộm cắp tài sản trên địa bàn TP. HCM còn nhiều bất cập. Vì vậy, nếu đề
xuất được các giải pháp mang tính khoa học và khả thi thì sẽ góp phần hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống Tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn TP. HCM.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên phép biện chứng duy vật của Triết học Mác
- Lê nin, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống
tội phạm, các đạo luật và văn bản qui phạm pháp luật có liên quan đến phạm
vi nghiên cứu đề tài.
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong Luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu các văn bản pháp luật,
các công trình nghiên cứu, các tài liệu khác có liên quan đến Tội trộm cắp tài
sản và công tác phòng chống loại Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn TP. HCM.
- Phương pháp thống kê: Thu thập, tổng hợp các tài liệu, số liệu phản
ảnh hoạt động phòng chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn TP. HCM,
- Phương pháp điều tra điển hình: nghiên cứu sâu một số vụ án điển
hình cho từng loại phương thức, thủ đoạn gây án. Từ đó rút ra những kết luận

phù hợp với mục đích nghiên cứu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn: Thông qua các công tác
khảo sát tình hình thực tiễn tại các đơn vị trực tiếp tiến hành các hoạt động
phòng chống các vụ án trộm cắp tài sản từ đó nghiên cứu, tổng hợp, rút ra các
nguyên nhân, bài học kình nghiệm đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động phòng chống.
6


- Phương pháp tọa đàm, lấy ý kiến chuyên gia: Trực tiếp tọa đàm, trao
đổi với các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lý luận, các cán bộ làm công tác
phòng chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn TP. HCM để rút ra những kinh
nghiệm phục vụ nghiên cứu đề tài.
- Ngoài ra là các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh cũng
được sử dụng.
7. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là những quan điểm đường lối chủ trương của
Đảng về phòng chống tội trộm cắp tài sản và các văn bản pháp luật, tài liệu về
phòng ngừa, điều tra tội trộm cắp tài sản.
7.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của đề tài là kết quả khảo sát tình hình hoạt động phòng
ngừa và điều tra, xử lý tội phạm trộm cắp tài sản của Công an TP. HCM từ
năm 2008 đến 2012 và báo cáo kết qủa công tác hàng năm, cũng như báo cáo
chuyên đề của ngành Kiểm sát, Tòa án TP. HCM.
8. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Đề tài góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận về phương pháp điều tra
và phòng ngừa Tội trộm cắp tài sản.
- Những giải pháp được nêu trong đề tài nếu được áp dụng sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan chức năng trong đấu tranh

phòng chống tội trộm cắp tài sản trong thời gian tới.
- Luận văn là tài liệu tham khảo tốt cho quá trình nghiên cứu, giảng
dạy và học tập cho sinh viên, học viên chuyên ngành luật tại các cơ sở đào
tạo có liên quan.

7


9. Cấu trúc Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của đề tài cấu trúc gồm 3 chương:
- Chương 1. Một số vấn đề chung về Tội trộm cắp tài sản
- Chương 2. Quy định về Tội trộm cắp tài sản trong BLHS Việt Nam
hiện hành và thực tiễn xử lý Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn TP. HCM giai
đoạn 2008 - 2012.
- Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và góp phần nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng chống Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn TP.
HCM.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm Tội trộm cắp tài sản
1.1.1. Đặc điểm pháp lý của Tội trộm cắp tài sản
Theo từ điển PLHS định nghĩa trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm
đoạt tài sản đang có người khác quản lý [22, 283].
Xét về phương diện lý luận, tội “Trộm cắp tài sản” là một loại tội phạm
có dấu hiệu hành vi khách quan khá đơn giản: “Trộm cắp tài sản là hành vi

lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác” [40, 196].
Trong BLHS Việt Nam, Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138,
trong Chương các tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV- BLHS) với khách thể
trực tiếp của tội phạm là quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức và đôi khi
cả quyền nhân thân (tính mạng, sức khoẻ của con người). Là tội phạm có bản
chất là tội chiếm đoạt, tức là người có hành vi trộm cắp đã cố ý chuyển dịch bất
hợp pháp tài sản (là đối tượng tội phạm) từ người có tài sản sang mình hoặc
sang người mà mình quan tâm. Thủ đoạn của việc chiếm đoạt đó là hành vi lén
lút. Ngoài những dấu hiệu pháp lý chung của tội phạm hình sự, Tội trộm cắp tài
sản có một số đặc điểm/dấu hiệu pháp lý riêng, vừa để xác định bản chất pháp
lý cơ bản của Tội trộm cắp tài sản, vừa để phân biệt giữa Tội trộm cắp tài sản
với các tội phạm có tính chất chiếm đoạt khác trong Chương các tội xâm phạm
sở hữu và các tội phạm trong các chương khác của BLHS.
Những dấu hiệu đó sẽ được lần lượt phân tích sau đây:
a) Hành vi chiếm đoạt tài sản trong Tội trộm cắp tài sản được thực
hiện một cách “lén lút”
Đặc điểm riêng biệt có tính đặc thù của tội "Trộm cắp tài sản" là hành
vi “lén lút”, không có việc lén lút thì không phải là trộm cắp. Các nghiên cứu

9


đều coi “lén lút” là thủ đoạn chiếm đoạt của Tội trộm cắp tài sản và đã lén lút
thì có nghĩa là bí mật, không công khai, Nếu một hành vi chiếm đoạt tài sản
trước sự chứng kiến của chủ sở hữu tài sản, người quản lý tài sản (sau này gọi
tắt là chủ tài sản) thì không thể coi đó là hành vi trộm cắp, mà hành vi trộm
cắp phải được thực hiện một cách lén lút, vụng trộm đối với chủ tài sản. Theo
Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng của Nhà xuất bản (NXB)Văn hóa
thông tin năm 2004, trang 467 giải nghĩa từ “lén lút” là hành vi: cố giấu diếm,
vụng trộm không để lộ ra do có ý gian. Trong tội "Trộm cắp tài sản", hành vi

“lén lút” chiếm đoạt tài sản có đầy đủ những dấu hiệu này, thiếu một trong
những dấu hiệu đó sẽ không thể hiện được bản chất của sự "lén lút", bởi nếu
làm một việc quang minh thì không bao giờ phải lén lút.
Nói cách khác, "lén lút" là hành vi của một người cố ý thực hiện một
việc làm bất minh, vụng trộm, giấu diếm không để lộ cho người khác biết,
nhằm mục đích chiếm đoạt trái phép tài sản của họ.
Tuy nhiên, nếu tất cả các hành vi "lén lút" của tội "Trộm cắp tài sản"
đều được thực hiện một cách giấu diếm, vụng trộm, thì việc nhận biết chúng
sẽ dễ dàng hơn và việc định tội danh cũng sẽ đơn giản hơn. Nhưng bởi thực
tế, hành vi “lén lút” có nhiều cách thể hiện. Có những hành vi lén lút được
thực hiện một cách giấu diếm, vụng trộm (trường hợp che giấu toàn bộ sự
việc phạm tội); nhưng cũng có những hành vi lén lút lại được thực hiện một
cách công khai, trắng trợn không có ý che đậy hay giấu diếm hành vi của
người phạm tội (trường hợp chỉ che giấu hành vi phạm tội đối với chủ tài
sản). Sự công khai ở đây có hai hình thức:
Công khai sự vi phạm pháp luật của hành vi: là trường hợp người
phạm tội chỉ thực hiện việc “lén lút” với chủ tài sản, còn những người xung
quanh, người phạm tội không cần giấu diếm hay che đậy hành vi vi phạm
pháp luật của mình.

10


Công khai thực hiện hành vi, nhưng bản chất chiếm đoạt của hành vi đã
được che đậy: là trường hợp người phạm tội công khai thực hiện hành vi trộm
cắp tài sản, nhưng bản chất tội phạm của hành vi đã được che đậy, nguỵ trang
bằng những thủ đoạn khác nhau.
b) Đặc điểm về chủ sở hữu tài sản bị chiếm đoạt
Chủ sở hữu tài sản mà tội phạm hướng tới để thực hiện hành vi “lén lút”
chiếm đoạt cần làm rõ bao gồm: chủ sở hữu tài sản và người quản lý tài sản.

i) Chủ sở hữu tài sản
Theo pháp luật dân sự, chủ sở hữu tài sản là người có đầy đủ 3 quyền
năng: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản theo quy
định của pháp luật. Có đầy đủ 3 quyền này mới là chủ sở hữu hợp pháp đối
với tài sản và được pháp luật bảo vệ. Như vậy, với việc thực hiện 3 quyền
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản, thì chủ sở hữu tài sản là đối
tượng chủ yếu mà tội phạm hướng tới để thực hiện hành vi "lén lút".
ii) Người quản lý tài sản
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng năm
2003, trang 800 thì “quản lý” được giải thích là: trông coi và giữ gìn theo
những yêu cầu nhất định. Từ định nghĩa này, liên hệ với pháp luật hình sự thì
người quản lý tài sản là người đang nắm giữ hoặc trông coi, bảo vệ tài sản,
nhưng lại không phải là chủ sở hữu tài sản và không có quyền định đoạt tài
sản. Để làm rõ vai trò, ý nghĩa của người quản lý tài sản trong việc xác định
đối tượng mà tội phạm hướng tới để thực hiện hành vi lén lút, ta có thể phân
chia người quản lý tài sản theo những góc độ sau:
* Xét về góc độ nắm giữ, kiểm soát tài sản: Có thể chia người quản lý
tài sản thành 2 dạng: trực tiếp và gián tiếp:
- Người quản lý tài sản trực tiếp:
+ Là những người được chủ sở hữu phân công quản lý tài sản, giao

11


tài sản cho để quản lý, cho mượn, cho thuê, hoặc có được do ký kết các hợp
đồng giao dịch… và những tài sản này đang trong vòng kiểm soát trực tiếp
của người đó.
+ Là trường hợp người quản lý tài sản giao tài sản cho người thứ 3
để quản lý.
+ Là người sử dụng tài sản trong trường hợp không phải do chủ sở hữu

giao, hay nói cách khác là chưa được sự đồng ý của chủ tài sản.
- Người quản lý tài sản gián tiếp
+ Là người do tính chất công việc nên có trách nhiệm bảo vệ, trông coi,
canh giữ tài sản nhưng không trực tiếp nắm giữ tài sản.
+ Là trường hợp người được giao nhiệm vụ quản lý những tài sản
thuộc quyền sở hữu của các cơ quan, tổ chức Nhà nước được để ở những nơi
công cộng để phục vụ sinh hoạt đời sống, những công trình phúc lợi…
* Xét về góc độ pháp lý: Có thể chia thành 2 trường hợp: người quản
lý tài sản hợp pháp và người quản lý tài sản bất hợp pháp.
- Người quản lý tài sản hợp pháp
+ Là trường hợp người được chủ sở hữu giao cho quản lý tài sản một
cách hợp pháp; hoặc tuy không phải do chủ sở hữu giao cho nhưng việc sử
dụng, quản lý tài sản được coi là hợp pháp; người được người quản lý hợp
pháp tài sản, giao tài sản cho để trông giữ; hoặc người phát hiện và thu giữ
các tài sản vô chủ, tài sản bị bỏ quên, chôn giấu, chìm đắm… phù hợp với các
điều kiện pháp luật quy định; hay các trường hợp quản lý tài sản theo quyết
định, mệnh lệnh của cơ quan Nhà nước.
- Người quản lý tài sản không hợp pháp
+ Xét về góc độ quyền sở hữu, thì đây là trường hợp chiếm hữu bất hợp
pháp trong quyền chiếm hữu tài sản, trong đó có cả chiếm hữu tài sản bất hợp
pháp ngay tình và không ngay tình. Một số trường hợp sau đây được coi là
người quản lý tài sản không hợp pháp:
12


Người có được tài sản do phạm tội mà có;
Người cố ý mua tài sản do người khác phạm tội mà có;
Người có được tài sản do hành vi gian dối, do vi phạm pháp luật nhưng
chưa đến mức là tội phạm hình sự…
* Về góc độ sự kiện: Ta có thể chia thành 2 trường hợp: Người quản lý

tài sản trong trường hợp bình thường và trong trường hợp đặc biệt.
- Người quản lý tài sản trong trường hợp bình thường
Là trường hợp người được giao quyền quản lý tài sản được diễn ra một
cách hợp pháp, thuần túy và có sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản.
- Người quản lý tài sản trong trường hợp đặc biệt
Đây là vấn đề khá phức tạp khi phân biệt đối tượng mà người phạm tội
hướng tới để thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản. Xác định chính xác
đối tượng này, ta có thể làm rõ việc người phạm tội có thực hiện hành vi lén
lút hay không, từ đó cơ sở để định tội danh sẽ rõ dàng hơn, không bị lẫn lộn
giữa tội "Trộm cắp tài sản" với các tội khác có cùng tình chất chiếm đoạt.
c) Quyền kiểm soát của chủ tài sản tại thời điểm tài sản bị chiếm đoạt
Trong tội trộm cắp tài sản, vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt, chủ tài
sản không biết việc mất tài sản. Đây là mốc thời gian quan trọng để phân biệt
với những tội khác. Thể hiện như sau:
Trước khi mất tài sản, người quản lý tài sản vẫn đang kiểm soát được
tài sản của mình một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Ở đây, trực tiếp được hiểu là người chủ tài sản đang nắm giữ tài sản của
mình bằng cách: cầm, nắm, giữ, nhìn thấy… Sau khi mất tài sản, chủ tài sản
có thể biết ngay việc bị mất. Còn gián tiếp là trường hợp chủ tài sản không
trực tiếp nắm giữ, cầm, sờ, nhìn thấy nhưng họ biết được cụ thể tài sản đó
đang ở đâu (Ví dụ tài sản để ở nhà khi đi vắng), số lượng, vị trí, tình trạng của
tài sản… (ví dụ trường hợp Công ty Điện lực nắm được số lượng, vị trí của

13


các đồng hồ công tơ điện). Trong trường hợp này, thông thường sau khi bị mất
tài sản, chủ tài sản không biết ngay việc bị mất tài sản.
Tại thời điểm mất tài sản, chủ tài sản không biết việc mình đã bị mất tài
sản, điều này có thể do:

- Không có mặt tại nơi để tài sản;
- Thủ đoạn và phương pháp tinh vi của người phạm tội làm cho chủ tài
sản không biết được việc mình bị mất tài sản;
- Do lâm vào tình trạng không có khả năng để biết, như: bị tai nạn
ngất, bị chết.
d) Đặc điểm về tài sản là đối tượng chiếm đoạt trong Tội trộm cắp tài sản
Theo Điều 172 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định: “Tài sản bao gồm
vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Từ khái
niệm về tài sản này, ta có thể thấy một điều: không phải bất cứ tài sản nào
cũng là đối tượng tác động của tội "Trộm cắp tài sản", có những tài sản mà tội
phạm không thể lấy trộm được, và có những tài sản không được coi là đối
tượng tác động của tội phạm. Cụ thể như sau:
i) Tài sản không phải là đối tượng của Tội trộm cắp tài sản
- Thứ nhất, đó là "quyền tài sản". "Quyền tài sản" là một dạng tài sản
vô hình, không nhìn thấy được, nó gắn liền với quyền nhân thân và cố định
với một chủ thể cụ thể được pháp luật công nhận. Do đó, nó không thể bị dịch
chuyển trái phép, bị chiếm đoạt bởi người khác được, vì về mặt pháp lý,
“quyền tài sản” phải được pháp luật thừa nhận thì mới có giá trị.
- Thứ hai, một số tài sản thuộc loại “bất động sản” có tính chất vật lý cố
định, ví dụ như: đất đai, nhà cửa, ao hồ. Những loại tài sản này không thể là đối
tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản” vì không dịch chuyển được chúng.
- Thứ ba, những tài sản sau tuy là động sản, nhưng cũng không thuộc
đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản” như:

14


+ Tài sản vô chủ;
+ Tài sản bị rơi, bị bỏ quên, thất lạc;
+ Tài sản mà chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản đó.

+ Những giấy tờ có giá trị, nhưng không trực tiếp chuyển thành tiền được.
+ Tài sản thuộc các loại có tính chất và công dụng đặc biệt (ma tuý, vũ khí….)
- Thứ tư, tài sản là tài nguyên, thiên nhiên như không khí, gió biển, tài
nguyên trong lòng đất…
ii) Tài sản là đối tượng của Tội trộm cắp tài sản
Trước hết, về mặt vật lý, tài sản là đối tượng tác động của tội “Trộm cắp
tài sản” phải là một dạng vật chất cụ thể và tồn tại dưới dạng là một động sản;
Là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của cá nhân, tổ chức, Nhà nước, đang
trong vòng kiểm soát của chủ sở hữu, người quản lý tài sản;
Là tài sản có giá trị hoặc giá trị sử dụng;
Tài sản do chiếm hữu không hợp pháp (ví dụ như tài sản do phạm tội
mà có, tài sản có được do mua nhầm của kẻ gian…)
Chiếm hữu không có căn cứ pháp lí tài sản thuộc sở hữu của người
khác. Có hai cách: chiếm hữu bất hợp pháp ngay thẳng và chiếm hữu bất hợp
pháp không ngay thẳng. Chiếm hữu bất hợp pháp ngay thẳng là khi người
chiếm hữu bất hợp pháp không biết và không thể biết người chuyển dịch tài
sản cho mình là người không có quyền chuyển dịch tài sản đó. Chiếm hữu bất
hợp pháp không ngay thẳng là khi người chiếm hữu bất hợp pháp biết hoặc
tuy không biết nhưng cần phải biết người chuyển dịch tài sản cho mình là
người không có quyền chuyển dịch tài sản. Ví dụ: một người đang giữ một vật
đã mua được mà vật đó lại là tài sản ăn cắp được của người khác hoặc là của
rơi thì việc giữ vật đó là chiếm hữu bất hợp pháp (mua tài sản của người
không phải là chủ sở hữu và không có quyền chuyển dịch tài sản). Nếu người

15


mua không biết đó là tài sản có được do trộm cắp thì đó là việc chiếm hữu bất
hợp pháp ngay thẳng. Nếu biết là của ăn cắp mà vẫn mua thì đó là việc chiếm
hữu bất hợp pháp không ngay thẳng.

Tội phạm hoàn thành kể từ khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản,
tức là khi người chủ sở hữu, quản lý hợp pháp tài sản mất quyền kiểm soát tài
sản của mình.
1.1.2. Định nghĩa Tội trộm cắp tài sản
Như trên đã nêu, Tội trộm cắp tài sản trước tiên phải có đầy đủ những
dấu hiệu đặc điểm cơ bản của Tội phạm nói chung. Do vậy, để xây dựng được
khái niệm Tội trộm cắp tài sản cần xuất phát từ khái niệm tội phạm nói chung
và những đặc điểm riêng của tội trộm cắp đã được phân tích trên, cũng như
đúc rúc từ những nghiên cứu trước đó.
Theo Tiến sĩ khoa học – Giáo sư Lê Cảm cho rằng để đưa ra được khái
niệm tội trộm cắp tài sản, cần khẳng định tội trộm cắp tài sản phải thỏa mãn
đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, tức là thể hiện ba bình diện với năm đặc
điểm của nó là: bình diện khác quan - tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội; bình diện pháp lý – tội phạm là hanh vi trái PLHS; bình diện chủ quan –
tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực
hiện một các có lỗi [9, 105].
Trong nghiên cứu của mình, Tiến sĩ Hoàng Văn Hùng đưa ra định nghĩa
“Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của người khác với mục
đích chiếm đoạt, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thực lỗi cố ý, xâm phạm các quyền
sở hữu được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật” [27, 23].
Đơn giản hơn Tội trộm cắp tài sản được định nghĩa một cách ngắn gọn
“là hành vi lén lút bí mật chiếm đoạt tài sản” [40, 196].

16


Từ các phân tích trên, Tác giả định nghĩa về Tội trộm cắp tài sản như
sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản xâm
phạm quyền sỡ hữu hợp pháp của cá nhân, tổ chức, Nhà nước do người có

năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện”
1.2. Phân biệt Tội trộm cắp tài sản với một số tội phạm khác có liên quan
1.2.1. Phân biệt Tội trộm cắp tài sản với các tội phạm khác thuộc
nhóm tội xâm phạm sở hữu
Nhóm tội xâm phạm sở hữu được quy định trong BLHS bao gồm các tội
có tính chất chiếm đoạt và các tội không có tính chiếm đoạt. Tội trộm cắp thuộc
nhóm tội có tính chất chiếm đoạt. So với các tội có tính chất chiếm đoạt khác
như Cướp tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì Tội
trộm cắp có hành vi là chiếm đoạt trong khi các tội kia có thể có hành vi khách
quan khác nhưng người phạm tội thực hiện nhằm mục đích chiếm đoạt.
Tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 có hành vi “người nào dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị
tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài
sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm …”
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 134 có hành vi
khách quan là “ người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt
tài sản, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm….”
Tội "Cưỡng đoạt tài sản" quy định tại Điều 135 BLHS có hành vi
khách quan "đe doạ sẽ dùng vũ lực…" là hành vi doạ sẽ gây thiệt hại đến sức
khoẻ, tính mạng trong tương lai nếu không thoả mãn yêu cầu chiếm đoạt của
người phạm tội. Xét về bản chất pháp lý thì Tội trộm cắp tài sản ít nguy hiểm
hơn so với các tội trên, khách thể xâm hại của Tội trộm cắp là quan hệ sở hữu
tài sản còn khách thể của các tội kia là bao gồm cả quan hệ nhân thân (tính
mạng, sức khỏe con người).

17


Đối với tội "Trộm cắp tài sản" thì người phạm tội lén lút chiếm đoạt tài
sản. Đây là đặc điểm nổi bật nhất của tội phạm này. Người phạm tội đã lén lút

bí mật lấy tài sản mà chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết là
mình đã bị lấy tài sản. Chỉ sau khi bị mất rồi mới biết. Vì vậy, trong cùng
nhóm các tội có hành vi chiếm đoạt như Cướp giật, Lừa đảo chiếm đoạt,
Công nhiên chiếm đoạt, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt thì đặc điểm “lén lút
bí mật” chính là thủ đoạn chiếm đoạt để phân biệt với những tội kia. Tính chất
lén lút thể hiện ở chỗ người phạm tội giấu diếm hành vi của mình, cũng có
nghĩa là đối lập hoàn toàn với công khai, trắng trợn trong giấu hiệu của tội
Cướp giật, khác so với sự ngang nhiên trước mặt người có tài sản trong tội
Công nhiên chiếm đoạt. Lén lút là giấu hiệu của nhiều tội nhưng lén lút chiếm
đoạt tài sản thì chỉ là của Tội trộm cắp.
Tội "Công nhiên chiếm đoạt tài sản", tội "Cướp giật tài sản" và tội
"Trộm cắp tài sản" quy định tại các điều 136, 137, 138 BLHS, đối với các tội
phạm này, hành vi khách quan ban đầu khác nhau, người có hành vi cướp giật
tài sản và công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi công khai, không có ý định
che dấu hành vi đó. Đối với tội cướp giật tài sản là lợi dụng sơ hở của chủ sở
hữu tài sản, người phạm tội nhanh chóng tiếp cận chủ sở hữu tài sản để chiếm
đoạt và lẩn tránh. Đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thì công khai, lợi
dụng hoàn cảnh chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản để chiếm đoạt tài sản.
Cần chú ý là trong các trường hợp trên, nếu người phạm tội đang trong
giai đoạn chiếm đoạt tài sản như vừa cầm được tài sản trong tay người bị hại
thì người bị hại giành giật lại, hoặc đang trong lúc giằng co tài sản mà người
phạm tội đánh, đấm, đâm, chém… người bị hại để chiếm đoạt bằng được tài
sản đó thì lúc này người phạm tội đã dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm
đoạt tài sản và do đó chuyển hoá thành tội "Cướp tài sản". Tuy nhiên trong
trường hợp hành vi phạm tội trên đã hoàn thành, nhưng do bị phát hiện đuổi

18


bắt mà đánh, chém… người bị hại hoặc người đuổi bắt thì đây chỉ là hành

hung để tẩu thoát. Ví dụ: một người có hành vi trộm cắp tiền của người khác,
khi họ vừa móc túi người bị hại, người bị hại giữ được tay họ đang cầm ví
tiền, hai người đang giằng co, người phạm tội đấm, đánh người kia, làm họ bỏ
tay ra, người phạm tội đút ví tiền vào túi của mình rồi chạy trốn thì trường
hợp này tội trộm cắp tài sản đã chuyển hoá thành tội “Cướp tài sản”. Nếu
người phạm tội đã lấy được tài sản và bỏ đi một đoạn, người bị hại phát hiện
mất trộm, nên đuổi theo bắt người phạm tội và bị đánh trả thì vẫn là tội trộm
cắp tài sản với tình tiết định khung hình phạt: “hành hung để tẩu thoát” quy
định tại điểm đ khoản 2 Điều 138 BLHS.
1.2.2. Phân biệt Tội trộm cắp tài sản với các tội phạm khác không
thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu
a) Tội trộm cắp tài sản và Tội tham ô tài sản
Tội trộm cắp tài sản được qui định tại điều 138 BLHS năm 1999 và Tội
tham ô tài sản được qui định tại điều 278 BLHS năm 1999. Trong thực tiễn,
hai tội tham ô tài sản và tội trộm cắp tài sản đều có thể giống nhau ở chỗ có
hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản.
Nhưng điểm khác nhau là người tham ô lợi dụng chức vụ quyền hạn để
chiếm đoạt tài sản. Người đó được giao tài sản để thực hiện công tác có nhiệm
vụ có quyền hạn trong việc sử dụng định đoạt hoặc trong việc quản lý, bảo vệ
tài sản. Như thủ kho chiếm đoạt tài sản trong kho mình phụ trách; kế toán thủ
quỹ chiếm đoạt tiền quỹ; giám đốc xí nghiệp chiếm đoạt tiền, hàng hóa, vật tư
của xí nghiệp là phạm tội tham ô.
Người không có nhiệm vụ, quyền hạn đối với tài sản nhà nước mà
lén lút chiếm đoạt tài sản này là phạm tội trộm cắp, người trong cơ quan xí
nghiệp nhưng không có phận sự đối với tài sản của cơ quan xí nghiệp hoặc
người ngoài cơ quan xí nghiệp mà lén lút chiếm đoạt tài sản này cũng đều

19



là phạm tội trộm cắp. Tội tham ô nguy hiểm hơn tội trộm cắp vì người có
chức vụ quyền hạn dễ dàng lợi dụng những thuận lợi mà chức vụ quyền
hạn tạo cho để tham ô và cũng dễ dàng lợi dụng những thuận lợi này để che
giấu tội phạm.
Tham ô tài sản trong mọi trường hợp đều là một tội nghiêm trọng, Đối
với tội này không được áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Còn tội trộm
cắp tài sản nếu không có tình tiết tăng nặng thì là một tội ít nghiêm trọng.
Đối với Tội tham ô tài sản thì dựa vào các yếu tố cấu thành tội phạm
(CTTP) như sau:
- Khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội tham ô tài sản là quan hệ sở hữu tài sản của Nhà
nước, của cơ quan, tổ chức được Nhà nước cấp kinh phí để bảo đảm hoạt
động; hoạt động đúng đắn của cơ quan tổ chức nêu trên; tình cảm và lòng tin
đối với Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội...
Đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản của Nhà nước, của cơ
quan, tổ chức.
- Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Đó là hành vi
chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức mà mình đang trực tiếp
hoặc gián tiếp quản lý bằng cách sử dụng chức vụ quyền hạn của mình.
- Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội tham ô tài sản có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi
trở lên (khoản 1 Điều 278) hoặc từ đủ 14 tuổi trở lên (các khoản 2, 3 và 4
Điều 278) có năng lực TNHS và là người có chức vụ, quyền hạn (trực tiếp
hoặc gián tiếp) trong việc quản lý tài sản.
- Mặt chủ quan của tội phạm:

20



×