Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Luật Hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu của địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh).

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.38 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRƯƠNG VĂN ÚT

TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ CÁC SỐ LIỆU ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Chu Thị Trang Vân

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật -Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Trương Văn Út


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt

HÀ NỘI - 2013.................................................................................................I
LỜI CAM ĐOAN.............................................................................................I
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
-Đại học Quốc gia Hà Nội................................................................................I
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn...............................................................................................I
Tôi xin chân thành cảm ơn!............................................................................I
NGƯỜI CAM ĐOAN......................................................................................I
Trương Văn Út.................................................................................................I
MỤC LỤC.......................................................................................................II
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1..........................................................................................................8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG........................................................8
VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ............................................8
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG GIẢ.........................................................................8



1.1.1. Các dấu hiệu về hàng giả..............................................................................................9
1.1.2. Phân biệt giữa hàng giả và hàng kém chất lượng.......................................................15
1.1.3. Định nghĩa hàng giả...................................................................................................17
1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ....................18
1.3. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN
BÁN HÀNG GIẢ.....................................................................................................21
1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945.........................................................21
1.3.2. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đến nay................................................22

Chương 2........................................................................................................31
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TỘI...............31
SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ..........31
TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ................................................31
2.1. QUY ĐỊNH CỦA BLHS HIỆN HÀNH VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG
GIẢ...........................................................................................................................31
2.1.1 Các tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong BLHS năm 1999......................................31
2.1.2 Hình phạt đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo quy định của BLHS năm 1999
..................................................................................................................................48
2.1.3. Phân biệt tội sản xuất, buôn bán hàng giả với một số tội phạm khác của BLHS năm
1999..........................................................................................................................58
2.2. THỰC TIỄN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN
HÀNG GIẢ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2012
..................................................................................................................................61
2.2.1. Kết quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2008 đến năm 2012...............................................61
2.2.2 Những kết quả đạt được và vướng mắc khó khăn trong điều tra, truy tố, xét xử tội
phạm sản xuất buôn bán hàng giả.............................................................................63
Chương 3..............................................................................................................................67



MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN ÁP DỤNG CÓ HIỆU QUẢ........................................67
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI SẢN XUẤT,.......................................................67
BUÔN BÁN HÀNG GIẢ.....................................................................................................67
3.1. YÊU CẦU CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN
HÀNG GIẢ..............................................................................................................67
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỘI SẢN XUẤT,
BUÔN BÁN HÀNG GIẢ.........................................................................................69
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội sản xuất, buôn bán hàng giả..............................69
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự liên quan đến tội sản xuất, buôn bán hàng giả
..................................................................................................................................79
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC.......................................................................................81

KẾT LUẬN....................................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................89


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

:

Bộ luật hình sự.

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự.

CTTP


:

Cấu thành tội phạm.

TNHS

:

Trách nhiệm hình sự.

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa.

XPTTQLKT:

Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần VI, Đảng và Nhà nước ta chủ trương
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường. Bằng các quy định pháp luật, Nhà nước ta đã thừa nhận và bảo vệ sự
tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Cùng với chủ trương mở cửa của Nhà
nước, nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta đã có những
bước phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, từ khi Luật Doanh nghiệp được ban hành,

hàng chục nghìn doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế trong cả nước,
với đủ mọi loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... đã ra đời, thu hút được
nguồn lực to lớn cả trong và ngoài nước vào công cuộc xây dựng kinh tế, phát
triển đất nước.
Một trong những đặc điểm của nền kinh tế thị trường là đa dạng hóa
các thành phần kinh tế, xuất nhập khẩu hàng hóa được mở rộng tự do hơn…
Chính vì lẽ đó, thị trường hàng hóa nước ta ngày nay, bên cạnh sự đa dạng
của hàng hóa sản xuất trong nước, còn hiện diện hầu hết sản phẩm nổi tiếng
trên thế giới. Điều đó cho chúng ta thấy rằng, nền kinh tế nước ta đang trong
giai đoạn phát triển, đời sống người dân ngày càng được nâng cao, sản phẩm
do xã hội tạo ra phong phú hơn trước. Đây là thành quả mà Đảng và Nhà
nước ta đã đạt được sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành quả đó, một vấn đề nhức nhối của xã hội mà chúng ta
cần quan tâm là tình hình tội phạm ngày một gia tăng và có chiều hướng phức
tạp, với nhiều thủ đoạn phạm tội tinh vi hơn, đặc biệt là tội phạm kinh tế.
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là một trong những tội phạm kinh tế đã
gây nên những tác hại hết sức to lớn trên nhiều mặt kinh tế, xã hội của đất
nước. Trước hết nó gây nên những thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước, cho các

1


đơn vị sản xuất, kinh doanh và cho cả người tiêu dùng. Tội phạm này còn tác
động xấu đến môi trường cạnh tranh và phát triển lành mạnh của nền kinh tế,
làm giảm sút lòng tin của người tiêu dùng đối với các cơ sở sản xuất kinh
doanh. Và điều đó làm cho các nhà đầu tư trong nước thiếu an tâm khi đầu tư,
phát triển sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, hàng giả tại Việt Nam xuất hiện hầu
như trong mọi lĩnh vực và bao gồm nhiều chủng loại hàng hóa. Hàng giả xuất
hiện trong những mặt hàng hóa cao cấp, đắt tiền như vàng bạc, đá quý; trong
hàng xa xỉ phẩm như nước hoa, mỹ phẩm, rượu ngoại hay trong cả các mặt

hàng chuyên dùng như thuốc tân dược, thuốc trừ sâu, phân bón... Hàng giả có
mặt từ mặt hàng ngoại nhập như điện tử, các mặt hàng công nghiệp... đến mặt
hàng sản xuất trong nước như giày dép, vật liệu xây dựng.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang từng bước hội nhập vào thị
trường kinh tế thế giới, là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) thì tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả còn tác hại xấu đến môi
trường đầu tư nước ngoài vào nước ta, làm giảm uy tín tiêu dùng hàng hóa
thật trong lòng người tiêu dùng, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp sản
xuất hàng thật.
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của cả
nước. Sau hơn 20 năm đổi mới, Thành phố Hồ Chí Minh đạt được những
thành tựu to lớn, toàn diện, tạo sự chuyển biến căn bản trong đời sống xã hội,
góp phần quan trọng vào thành tựu chung của vùng và cả nước. Kinh tế tăng
trưởng khá cao, bình quân hơn 11% một năm, bằng 1,2 lần tốc độ tăng trưởng
chung của vùng kinh tế trọng điểm phía nam và hơn 1,5 lần tốc độ tăng
trưởng chung của cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỉ trọng
khu vực dịch vụ chiếm 54,3% GDP, công nghiệp-xây dựng chiếm 44,5%
GDP, nông nghiệp chiếm 1,2% GDP, tăng dần tỉ trọng các ngành có giá trị gia
tăng và hàm lượng khoa học-công nghệ cao; mô hình kinh tế tiếp tục được mở

2


rộng, ngày càng đóng góp tích cực vào quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế của cả nước. Tuy chỉ
chiếm 0,6% về diện tích tự nhiên, nhưng Thành phố Hồ Chí Minh chiếm
8,56% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, 58,33% khách du lịch quốc tế, 43,72%
doanh thu du lịch, 27,9% kim ngạch xuất khẩu, 26% kim ngạch nhập khẩu,
22,4% giá trị gia tăng ngành công nghiệp, mức thu nhập bình quân của người
dân năm 2011 bằng 2,4 lần so với bình quân đầu người của cả nước [41].

Thành phố Hồ Chí Minh được cho là đầu tàu kinh tế của cả nước, nơi
tập trung nhiều doanh nghiệp, nhiều trung tâm thương mại, chợ đầu mối,
nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, xí nghiệp sản xuất... Đây cũng là một
trong những địa bàn rất nhạy cảm và năng động với hoạt động sản xuất kinh
doanh luôn diễn ra sôi động nhất trong cả nước. Sự phát triển của nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần cùng với chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư
nước ngoài trong những năm qua đã tạo cho Thành phố Hồ Chí Minh những
bước phát triển mới. Các ngành hàng truyền thống cùng với những sản phẩm
mới đã tạo nên một thị trường hàng hóa hết sức phong phú với các loại hàng
hóa đa dạng, không những đáp ứng được nhu cầu sản xuất tiêu dùng của nhân
dân Thành phố mà còn góp phần cung cấp hàng hóa cho thị trường trong cả
nước, cũng như tạo nên những mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao.
Mặc dù tình hình kinh tế cả nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng trong thời gian gần đây gặp nhiều khó khăn, thách thức do bị ảnh
hưởng bởi sự suy thoái kinh tế thế giới, nhưng Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là
địa phương tạo ra sản phẩm xã hội nhiều nhất nước, cụ thể tổng sản phẩm nội
địa (GDP) trong năm 2012 trên địa bàn thành phố ước đạt 595.375,6 tỷ đồng,
tăng 9,2% so với năm 2011[23].
Tuy nhiên, lợi dụng những “kẽ hở” trong công tác quản lý kinh tế, xã
hội và với mục đích thu lợi bất chính, các đối tượng phạm tội cũng đã tổ chức

3


sản xuất và đưa vào lưu thông khá nhiều hàng giả, với đủ các chủng loại cả về
nhãn hiệu và chất lượng, từ hàng tiêu dùng bình thường đến các loại đồ dùng
thiết yếu, kể cả thuốc chữa bệnh, phân bón...
Trong những năm qua, các cơ quan chức năng của Thành phố Hồ Chí
Minh đã phát hiện, xử lý nhiều vụ sản xuất, buôn bán hàng giả và thu được
những kết quả nhất định, góp phần ngăn chặn tội phạm sản xuất, buôn bán

hàng giả, bảo vệ hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như lợi ích của Nhà
nước, của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả cũng còn những
mặt hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu, làm rõ những quy định của Luật Hình sự Việt Nam và đối
chiếu với thực trạng điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm này trên một
địa bàn trọng yếu như Thành phố Hồ Chí Minh, qua đó tìm ra những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm sản
xuất, buôn bán hàng giả là một vấn đề cấp thiết để góp phần bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, lợi ích của các cơ sở sản xuất kinh doanh và lợi ích của nhân dân,
tạo môi trường lành mạnh để thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhằm thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung.
Xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi nêu trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài:
"Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Luật Hình sự Việt Nam (trên cơ sở
số liệu của địa bàn thành phố Hồ Chí Minh)" làm Luận văn thạc sỹ Luật
học. Đề tài sẽ góp phần làm rõ Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo quy định
của BLHS Việt Nam; thực trạng điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm
này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó đề xuất những giải
pháp hoàn thiện pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng chống tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng và cả nước nói chung.

4


2. Tình hình nghiên cứu
Đây là một đề tài không mới trong hệ thống khoa học pháp lý hình sự
nhưng lại luôn là đề tài có tính thời sự nên nhận được sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học, nghiên cứu. Đã có một số Công trình nghiên cứu khoa học tiếp

cận đề tài dưới các góc độ khác nhau liên quan đến tình hình tội phạm sản xuất,
buôn bán hàng giả trong phạm vi và đối tượng đấu tranh cụ thể, nhất định. Các
công trình đó tập trung nghiên cứu sâu dưới góc độ chuyên ngành tội phạm
học, đề cập đến những vấn đề cụ thể như: thực trạng công tác tổ chức đấu tranh
phòng chống tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả của lực lượng Cảnh sát điều
tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ hay tập trung phân tích
nguyên nhân, điều kiện phạm tội, thực trạng, diễn biến của tình hình tội phạm
này trong một giai đoạn nhất định… Có thể kể đến một số công trình như: Bình
luận khoa học Bộ luật Hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của TS. Phùng Thế
Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai,
ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2001, Khóa luận tốt nghiệp đại học “Tổ chức hoạt động đấu tranh phòng
chống tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả của Phòng Cảnh sát điều tra tội
phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ Công an TP. Hồ Chí Minh - Thực
trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả” của tác giả Võ Thị Thu Lan - TP. Hồ
Chí Minh -2007, Chuyên đề “Phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm sản xuất,
buôn bán hàng giả” của tác giả Nguyễn Đình Chiến - Cục Cảnh sát kinh tế 2003, Luận văn Thạc sỹ Luật học "Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo pháp
luật hình sự Việt Nam" của tác giả Mai Thị Lan - 2008.
Các công trình nêu trên đã đóng góp vào hệ thống khoa học pháp lý
hình sự những giá trị lý luận và thực tiễn nhất định. Tuy nhiên, các công trình
đó chưa đi sâu nghiên cứu, phân tích "Tội sản xuất, buôn bán hàng giả" dưới
góc độ pháp lý hình sự, nên chưa đưa ra những kiến nghị giải pháp hoàn thiện

5


pháp luật để nâng cao hiệu quả của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với
loại tội phạm này.
Quá trình nghiên cứu đề tài này, Tác giả cũng đã tiếp thu, kế thừa
những điểm phù hợp từ các công trình nghiên cứu trước đó để làm sáng tỏ

khía cạnh hình sự của đề tài.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là nghiên cứu khái quát lịch sử
pháp luật hình sự Việt Nam về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả qua các thời
kỳ; nghiên cứu phân tích làm rõ Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo quy
định tại BLHS hiện hành; nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động điều tra,
truy tố và xét xử đối với loại tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh trong giai đoạn 2008-2012, để từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội
phạm sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng, trên phạm vi cả nước nói chung.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có một số giới hạn về phạm vi
nghiên cứu như sau:
- Về đối tượng và địa bàn nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu
về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo các Điều 156, 157, 158 BLHS năm
1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009, quy định tại Chương XVI: Các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; Đề tài nghiên cứu thực tiễn điều tra, truy
tố, xét xử đối với tội phạm này trong những năm gần đây trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Về số liệu thống kê: Đề tài được nghiên cứu, khảo sát dựa trên số liệu
về thụ lý điều tra, truy tố, xét xử về tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian 5 năm (từ 2008 đến
2012) của Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Toà án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh.

6


4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong Luận văn bao gồm:

phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê… dựa trên nền tảng
phương pháp luận duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của
Triết học Mác- Lênin. Các phương pháp này được áp dụng riêng lẻ hoặc kết
hợp với nhau nhằm thực hiện mục đích nghiên cứu của Luận văn.
5. Ý nghĩa việc nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này sẽ bổ sung vào vốn kiến thức pháp luật của
tác giả về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả, góp phần làm rõ thực trạng của
tình hình tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh, tạo sự nhận thức sâu sắc về tác hại của hàng giả trên thị trường
hiện nay, về tầm quan trọng công tác điều tra, truy tố, xét xử tội sản xuất,
buôn bán hàng giả; từ đó đề xuất hoàn thiện pháp luật nhằm đưa hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử đối với tội phạm này đi vào chiều sâu, phù hợp với
tình hình mới, nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan chức năng
xử lý nghiêm minh loại tội phạm này, góp phần làm ổn định sự phát triển kinh
tế của đất nước thúc đẩy xã hội phát triển.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và
Phụ lục, Đề tài được kết cấu thành 3 chương nội dung như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
Chương 2. Quy định về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong BLHS
hiện hành và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử Tội sản xuất, buôn bán hàng giả
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua.
Chương 3. Một số giải pháp góp phần áp dụng có hiệu quả các quy
định pháp luật về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG GIẢ
Trong chế độ ta, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân không phải
chỉ là sự tuyên truyền mang tính hình thức, chúng không những được thể hiện
như một đặc điểm của chế độ XHCN mà còn được ghi nhận cả trong Hiến
pháp: “Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh bất hợp pháp, mọi hành vi phá
hoại nền kinh tế quốc dân làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tập thể, của công dân đều phải được xử lý nghiêm minh
theo pháp luật. Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của người sản xuất
và người tiêu dùng” [29]. Chính vì Hiến pháp đã quy định rõ ràng như vậy
nên trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình, nhà sản xuất, nhà kinh
doanh phải tôn trọng hoạt động sản xuất, kinh doanh của người khác, tôn
trọng người tiêu dùng. Sự tôn trọng ở đây là đòi hỏi phải có sự cạnh tranh
lành mạnh, đảm bảo hàng hóa, sản phẩm do mình tạo ra không làm ảnh hưởng
tiêu cực đến sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất, nhà kinh doanh khác cũng
như ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Vì vậy, hành vi sản xuất,
buôn bán hàng giả là hành vi vi phạm pháp luật, mang tính cạnh tranh không
lành mạnh, gây tác động tiêu cực đến người tiêu dùng, ảnh hưởng đến trật tự
quản lý kinh tế nói chung. Hành vi đó không chỉ bị xử lý hành chính mà còn
bị coi là một loại tội phạm.
Qua các thời kỳ của đất nước, BLHS Việt Nam đã quy định chế tài khá
nghiêm khắc đối với tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả; mặc dù vậy nhưng
hiện nay“Hàng giả đã và đang xuất hiện trên diện rộng, từ những sản phẩm
có giá trị thấp đến những mặt hàng có giá trị cao... Điều đó không những gây

8


ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích kinh tế, thương hiệu của nhà sản xuất mà còn
gây ảnh hưởng nghiêm trọng trực tiếp đến sức khoẻ người tiêu dùng”[7]

Trong hoạt động điều tra truy tố, xét xử về tội sản xuất, buôn bán hàng
giả, một vấn đề đặt ra cho các cơ quan chức năng là phải hiểu rõ thế nào là
hàng giả và các dấu hiệu của hàng giả để từ đó đưa ra những quyết định, bản
án phù hợp "đúng người, đúng tội", nhằm loại trừ dần nạn hàng giả ra khỏi
đời sống xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích cho các nhà sản xuất và
lợi ích của người tiêu dùng. Theo quan niệm chung của nhiều chuyên gia pháp
luật thì “Hàng giả là thứ không có giá trị sử dụng của loại hàng mà nó mang
tên hay tuy có giá trị sử dụng của loại hàng mà nó mang tên nhưng mang
nhãn hiệu của cơ sở sản xuất khác nhằm lừa dối khách hàng”[17]. Trong
thực tế người tiêu dùng rất khó phân biệt giữa hàng giả và hàng thật, giữa
hàng giả và hàng kém chất lượng. Để có được phân biệt chính xác này, thực tế
đòi hỏi cả một quá trình kinh nghiệm của các cơ quan chức năng trong công
tác đấu tranh phòng chống hàng giả, còn đối với người tiêu dùng rất dễ xảy ra
nhầm lẫn. Trong thực tế, nhiều trường hợp ranh giới giữa hàng giả và hàng
kém chất lượng là rất mong manh, rất khó phân biệt một cách chính xác.
Chính vì lẽ đó, một vấn đề đặt ra là chúng ta phải có quan điểm và quy định
pháp luật một cách rõ ràng, cụ thể về hàng giả, hàng kém chất lượng. Bên
cạnh đó, các cơ quan chức năng có thẩm quyền phòng chống hàng giả phải có
đội ngũ cán bộ am tường về pháp luật, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ để phát
hiện hàng giả, có ý thức làm việc, thái độ công tâm trong việc xử lý hàng giả.
Có như vậy chúng ta mới có thể đấu tranh phòng chống một cách có hiệu quả
tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả; đồng thời tránh gây thiệt hại cho những
nhà sản xuất hợp pháp, chân chính.
1.1.1. Các dấu hiệu về hàng giả
Từ thực tế và quan điểm trên, trong thời gian qua Nhà nước ta đã ban
hành một số văn bản quy phạm pháp luật nêu rõ một số dấu hiệu về hàng giả,

9



hàng kém chất lượng để hướng công tác đấu tranh phòng chống các hành vi vi
phạm liên quan đến hàng giả đi vào đúng trọng tâm và có hiệu quả thiết thực.
Trước đây Nhà nước ta cũng đã ban hành những văn bản pháp luật, trong đó
đưa ra những dấu hiệu để nhận biết hàng giả. Theo đó hàng giả có một trong
các dấu hiệu sau:
- Dấu hiệu thứ nhất: Sản phẩm, hàng hóa (kể cả hàng nhập khẩu) có
nhãn sản phẩm giả mạo hoặc nhãn sản phẩm của một cơ sở sản xuất khác mà
không được chủ nhãn đồng ý.
- Dấu hiệu thứ hai: Sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu hàng hóa
giống hệt hoặc tương tự có khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với
nhãn hiệu của cơ sở sản xuất, buôn bán khác đã đăng ký với cơ quan bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp (Cục sáng chế), hoặc đã được bảo hộ theo điều ước
quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
- Dấu hiệu thứ ba: Sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu không đúng
với nhãn sản phẩm đã đăng ký với cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng.
- Dấu hiệu thứ tư: Sản phẩm, hàng hóa ghi dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt
Nam khi chưa được cấp giấy chứng nhận và dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam.
- Dấu hiệu thứ năm: Sản phẩm, hàng hóa đã đăng ký hoặc chưa đăng
ký chất lượng với cơ quan Tiêu chuẩn đo lường chất lượng mà mức chất
lượng thấp hơn mức tối thiểu cho phép.
- Dấu hiệu thứ sáu: Sản phẩm, hàng hoá có giá trị sử dụng không đúng
với nguồn gốc, bản chất, tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó. [20]
Những đặc điểm (dấu hiệu) nói trên trong thời gian dài đã giúp cho các
cơ quan chức năng trong công tác đấu tranh với vi phạm và tội phạm về hàng
giả. Tuy nhiên, chúng ta nhận thấy khái niệm hàng giả là một khái niệm hết
sức phức tạp, các dấu hiệu nêu ra trong Nghị định 140/HĐBT ngày 24/4/1991
của Hội đồng Bộ trưởng quy định về kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán

10



hàng giả còn chung chung, chưa cụ thể, rõ ràng, chưa đảm bảo cho việc phân
biệt hàng thật, hàng giả trong tình hình sản xuất, lưu thông hàng hóa ngày
càng đa dạng với kỹ thuật làm giả ngày càng tinh vi trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì lẽ đó, Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT- BTM-BTC-BCABKHCNMT ngày 27/4/2000 của Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an,
Bộ Khoa học - Công Nghệ và Môi trường hướng dẫn thực hiện Chỉ thị
31/1999/CT-TTg ngày 27/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh
chống sản xuất và buôn bán hàng giả đã đưa ra các dấu hiệu mang tính khái
niệm về hàng giả, hàng kém chất lượng một cách cụ thể, rõ ràng hơn. Các dấu
hiệu mang tính khái niệm này (tại Mục III) đã góp phần cho công tác đấu
tranh chống hàng giả chính xác hơn, hiệu quả hơn, hạn chế được tối đa những
tác hại không lường của tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả trên thị trường
và tương đối phù hợp với tình hình hiện nay.
Theo Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT
ngày 27/4/2000, hàng hóa có một trong các dấu hiệu sau đây được coi là hàng giả:
Một là, hàng giả chất lượng hoặc công dụng, bao gồm:
- Hàng hóa không có giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng không đúng
với bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó. Tên hàng hóa được hiểu là
tên gọi cụ thể của sản phẩm, hàng hóa nói lên bản chất của hàng hóa được
tiêu chuẩn hóa hoặc đã quen thuộc với người tiêu dùng.
- Hàng hóa đưa thêm tạp chất, chất phụ gia không được phép sử dụng
làm thay đổi chất lượng; không có hoặc ít dược chất, có chứa dược chất khác
với tên dược chất ghi trên nhãn hoặc bao bì; không có hoặc không đủ hoạt
chất, chất hữu hiệu không đủ gây nên công dụng; có hoạt chất, chất hữu hiệu
khác với tên hoạt chất, chất hữu hiệu ghi trên bao bì.
- Hàng hóa không đủ thành phần nguyên liệu hoặc bị thay thế bằng
những nguyên liệu, phụ tùng khác không đảm bảo chất lượng so với tiêu

11



chuẩn chất lượng hàng hóa đã công bố, gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức
khỏe người, động vật, thực vật hoặc môi trường, môi sinh.
- Hàng hóa thuộc danh mục Tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng mà không
thực hiện sẽ gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực
vật hoặc môi trường, môi sinh.
- Hàng hóa chưa được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn mà sử dụng giấy
chứng nhận hoặc dấu phù hợp tiêu chuẩn.
Hai là, giả về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc
xuất xứ hàng hóa. Để có căn cứ xác định, Thông tư cũng đã giải thích:
Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng phân biệt hàng hóa, dịch
vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng
hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó bằng một hoặc
nhiều màu sắc.
Tên gọi xuất xứ hàng hóa là tên địa lý của nước, địa phương dùng để
chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện mặt hàng này
có các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên điều kiện địa lý độc đáo và ưu
việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó.
Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể
hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố đó có
tính mới đối với thế giới dùng làm mẫu để sản xuất sản phẩm công nghiệp
hoặc thủ công nghiệp.
Thuộc nhóm này gồm:
- Hàng hóa có nhãn hiệu hàng hóa trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn
với nhãn hiệu hàng hóa của người khác đang được bảo hộ cho cùng loại hàng
hóa, kể cả hàng hóa đang được bảo hộ theo các Điều ước quốc tế mà Việt
Nam tham gia, mà không được phép của chủ nhãn hiệu.
- Hàng hóa có dấu hiệu hoặc có bao bì mang dấu hiệu trùng hoặc tương

12



tự gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ hoặc tên gọi xuất xứ hàng
hóa được bảo hộ.
- Hàng hóa, bộ phận của hàng hóa có hình dáng bên ngoài trùng với
kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ mà không được phép của chủ kiểu
dáng công nghiệp.
- Hàng hóa có dấu hiệu giả mạo về chỉ dẫn nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa
gây hiểu sai lệch về nguồn gốc, nơi sản xuất, nơi đóng gói, lắp ráp hàng hóa.
Ba là, giả về nhãn hàng hóa, tức là giả về bản viết, bản in, hình vẽ, hình
ảnh dấu hiệu được in chìm, in nổi trực tiếp hoặc được dán, đính, cài chắc chắn
trên hàng hóa hoặc bao bì để thể hiện thông tin cần thiết, chủ yếu về hàng hóa
đó. Thuộc nhóm này gồm:
- Hàng hóa có nhãn hàng hóa giống hệt hoặc tương tự với nhãn hàng
hóa của cơ sở khác đã công bố.
- Những chỉ tiêu ghi trên nhãn hàng hóa không phù hợp với chất lượng
hàng hóa nhằm lừa người tiêu dùng.
- Nội dung ghi trên nhãn đã bị cạo, tẩy xóa, sửa đổi, ghi không đúng
thời hạn sử dụng để lừa dối khách hàng.
Bốn là, các loại ấn phẩm đã in sử dụng vào việc sản xuất, tiêu thụ hàng giả:
- Các loại đề can, tem sản phẩm, nhãn hàng hóa, mẫu nhãn hiệu hàng
hóa, bao bì sản phẩm có dấu hiệu vi phạm như: trùng hoặc tương tự gây nhầm
lẫn với nhãn hàng hóa cùng loại, với nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công
nghiệp, tên gọi xuất xứ hàng hóa đã được bảo hộ.
- Các loại hóa đơn, chứng từ, chứng chỉ, tem, vé, tiền, ấn phẩm có giá
trị như tiền, ấn phẩm và sản phẩm văn hóa giả mạo khác.
Bên cạnh cách xác định dấu hiệu hàng giả như trên, sau khi Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005 ra đời và được sửa đổi, bổ sung năm 2009, trong công
tác chống hàng giả và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực hải quan, áp


13


dụng các biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở
hữu trí tuệ theo quy định tại Điều 216, Mục 2, chương XVIII Luật Sở hữu trí
tuệ và các biện pháp quy định tại khoản 8, 9, 10, Điều 4, Chương I và Mục 5,
Chương III Luật Hải quan và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để
phát hiện, đấu tranh và xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong
lĩnh vực hải quan, ngày 01/4/2011 Bộ Tài chính ban hành Thông tư số
44/2011/TT-BTC trong đó đã quy định các đặc điểm coi là hàng giả gồm:
Một là, giả chất lượng và công dụng: Hàng hóa không có giá trị sử
dụng hoặc giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên
gọi và công dụng của hàng hóa.
Hai là, giả mạo nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa: Hàng hóa giả mạo tên,
địa chỉ của thương nhân khác trên nhãn hoặc bao bì cùng loại hàng hóa; hàng
hóa giả mạo chỉ dẫn về nguồn gốc hàng hóa hoặc nơi sản xuất, đóng gói lắp
ráp trên nhãn hoặc bao bì hàng hóa.
Ba là, giả mạo về sở hữu trí tuệ: Theo quy định tại Điều 213 Luật sở
hữu trí tuệ bao gồm hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân
biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng
đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý
chỉ dẫn địa lý; hàng hóa là bản sao được sản xuất mà không được phép của
chủ thể quyền tác giả hoặc quyền liên quan.
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Điều
213) có quy định về hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ, cụ thể: Hàng hóa giả
mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của luật này bao gồm hàng hóa giả mạo
nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi là hàng hóa giả mạo nhãn
hiệu) quy định tại khoản 2 Điều 213 và hàng hóa sao chép lậu quy định tại
khoản 3 Điều 213; hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng hóa, bao bì của hàng
hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ


14


dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được
phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý; hàng
hóa sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không cho phép của chủ thể
quyền tác giả hoặc quyền liên quan.
Bốn là, các loại đề can, tem chất lượng, tem chống hàng giả, phiếu bảo
hành, niêm màng co hàng hóa có nội dung giả mạo tên, địa chỉ thương nhân,
nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa.
Năm là, đối với hàng hóa thuộc diện quản lý chuyên ngành nếu pháp
luật có quy định riêng thì áp dụng các quy định đó để xác định hàng giả.
Như vậy, việc xác định các dấu hiệu hàng giả hiện nay theo các quy
định pháp luật Việt Nam là tương đối phức tạp, mang tính liệt kê và chưa
thống nhất.
1.1.2. Phân biệt giữa hàng giả và hàng kém chất lượng
Như đã trình bày, ranh giới giữa hàng giả và hàng kém chất lượng là
mong manh, rất khó phân biệt một cách chính xác. Để cuộc đấu tranh chống
hàng giả có hiệu quả, ngoài việc nhận thức thống nhất và đầy đủ về hàng giả
các cơ quan chức năng cũng cần am hiểu thế nào là hàng kém chất lượng.
Tại các văn bản pháp luật nêu trên đã đưa ra các khái niệm về hàng giả
và phân biệt hàng giả và hàng kém chất lượng tương đối cụ thể, rõ ràng nhưng
sự phân biệt này đôi khi cũng có những bất cập. Cụ thể: Thông tư liên bộ số
1254-TTLB ngày 08/11/1991 của Ủy ban Khoa học Nhà nước, Bộ thương mại
và Du lịch đã đưa ra dấu hiệu phân biệt giữa hàng giả và hàng thật trong mục
1.2 như sau: “sản phẩm hàng hóa có mức chất lượng thấp hơn mức chất lượng
đã đăng ký và ghi nhãn sản phẩm song chưa vi phạm mức chất lượng tối thiểu
thì chưa bị coi là hàng giả mà chỉ là hàng kém chất lượng…”. Vấn đề bất cập
ở đây là “mức chất lượng tối thiểu” được quy định trong các văn bản pháp luật

của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền rất khác nhau. Điều này sẽ tạo ra cơ

15


sở cho tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả phát sinh bởi lẽ người thực hiện
hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả trong nhiều trường hợp chỉ bị coi là sản
xuất, buôn bán hàng kém chất lượng và hậu quả pháp lý là chỉ bị xử lý hành
chính chứ không bị xử lý hình sự về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
Ngoài ra, việc đưa ra quy định “mức chất lượng tối thiểu” để phân định
hàng giả và hàng kém chất lượng, nhưng thực tế không phải bất cứ loại hàng
hóa nào cũng có được quy định mức chất lượng tối thiếu mà đa phần là không
có. Do vậy việc áp dụng thực tế của các quy định này là rất khó khăn.
Để khắc phục những bất cập nêu trên, Thông tư liên tịch số
10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT ngày 27/4/2000, đưa ra khái niệm
về Hàng kém chất lượng là hàng hóa có một trong các dấu hiệu sau:
- Hàng hóa có giá trị sử dụng, công dụng nhưng các chỉ tiêu, thành
phần cấu tạo về chất lượng chưa đầy đủ như công bố trên nhãn hàng hóa hoặc
quảng cáo, tiếp thị nhưng không gây hại đến sản xuất, sức khỏe người, động
vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường.
- Hàng hóa có một trong các chỉ tiêu chất lượng thuộc danh mục bắt
buộc áp dụng thấp hơn mức chất lượng tối thiểu đã công bố nhưng không gây
hại đến sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường.
- Hàng hóa có chất lượng thực tế thấp hơn mức ghi trên nhãn hàng hóa
hoặc quảng cáo công bố, nhưng không gây hại đến sản xuất, sức khỏe người,
động vật, thực vật.
- Hàng hóa cũ tân trang, sửa chữa lại rồi giả mạo hàng mới để lừa dối
khách hàng, bán theo đơn giá của hàng mới.
- Hàng hóa đã bị đưa thêm tạp chất hoặc các nguyên liệu khác làm thay
đổi định lượng của hàng hóa, nhưng không gây thiệt hại đối với sản xuất, sức

khỏe người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường.
Như vậy, căn cứ quy định nêu trên, chúng ta nhận thấy hàng giả đã được

16


cụ thể hóa thành những dấu hiệu pháp lý cụ thể. Dựa vào những dấu hiệu pháp
lý này, chúng ta có thể xác định được một mặt hàng đang bị nghi vấn là giả hay
thật, hay đó là hàng kém chất lượng. Việc phân biệt các khái niệm này có ý
nghĩa hết sức quan trọng, vì đó là một trong những căn cứ để xác định hành vi
sản xuất, buôn bán mặt hàng đó có phải là hành vi phạm tội hay không.
1.1.3. Định nghĩa hàng giả
Qua nghiên cứu các dấu hiệu của hàng giả cũng như so sánh hàng giả
với hàng kém chất lượng, có thể nhận thấy hàng giả gồm các nhóm như sau:
- Thứ nhất, hàng giả về nội dung: Đó là hàng có tên rõ ràng đúng với
tên hàng thật đang lưu thông trên thị trường, thậm chí có bao bì là bao bì thật
nhưng thành phần chất lượng của hàng hóa đó lại khác, không có giá trị sử
dụng như loại hàng mà nó mang tên. Ví dụ: Xi măng nhưng lại không có tính
năng của xi măng mà chỉ là một loại bột đá…
- Thứ hai, hàng giả về hình thức: Đó là hàng có bao bì, nhãn hiệu, kiểu
dáng giống bao bì, nhãn hiệu, kiểu dáng của sản phẩm hàng hóa do đơn vị
khác sản xuất. Ví dụ: Xe gắn máy, hàng điện tử do Trung Quốc sản xuất
nhưng có nhãn hiệu, kiểu dáng giống như những sản phẩm nổi tiếng do Nhật
sản xuất, dễ gây sự nhầm lẫn, ngộ nhận của người tiêu dùng.
- Thứ ba, hàng giả về cả nội dung và hình thức: Là những hàng hóa
vừa không có giá trị sử dụng như loại hàng hóa mà nó mang tên, vừa có bao
bì, nhãn hàng hóa, kiểu dáng giống như bao bì, nhãn hàng hóa, kiểu dáng của
một cơ sở sản xuất khác. Ví dụ: Dầu nhớt giả nhãn hiệu “Castrol” do người
phạm tội sản xuất tại Việt Nam không có tính năng của loại dầu nhớt đó,
nhưng lại được đóng hộp, bao bì ghi tên công ty sản xuất ở nước ngoài giống

như dầu nhớt “Castrol” thật.
Qua các quy định về các dấu hiệu của hàng giả được quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, chúng ta có thể đưa ra một định nghĩa
tương đối cụ thể về hàng giả như sau:

17


“Hàng giả là tất cả những sản phẩm, hàng hóa từ cao cấp đến
những mặt hàng tiêu dùng thông thường được sản xuất ra trái pháp luật,
có hình dáng giống như những sản phẩm, hàng hóa được Nhà nước cho
phép sản xuất, nhập khẩu để tiêu thụ trên thị trường hoặc những sản
phẩm hàng hóa không có giá trị sử dụng đúng với nguồn gốc, bản chất tự
nhiên, tên gọi, công dụng của nó”.
1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG
GIẢ
Hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là một hành vi nguy hiểm cho xã
hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả thể
hiện ở chỗ nó xâm hại đến chế độ kinh tế của đất nước. Hàng giả sẽ giết chết
hàng thật. Hàng giả sản xuất ra, sẽ cạnh tranh không lành mạnh với hàng thật.
Vì không có quá trình đầu tư nhiều vào chất lượng, nên hàng giả sẽ được bán
với giá thành thấp hơn nhiều lần hàng thật. Đó là sự cạnh tranh không lành
mạnh. Hàng thật, với giá thành cao hơn sẽ không thể nào cạnh tranh nổi. Từ
đó, những doanh nghiệp sản xuất hàng thật dễ đi đến sự thua lỗ, phá sản, gây
thiệt hại cho nền kinh tế của đất nước. Cho nên, sản xuất, buôn bán hàng giả
được coi là một vấn nạn của quốc gia.
Không chỉ xâm hại đến chế độ kinh tế, hàng giả còn gây thiệt hại đến
lợi ích hợp pháp của tổ chức, lợi ích hợp pháp và sức khỏe, tính mạng của
công dân. Một tổ chức, chẳng hạn là tổ chức kinh tế, khi mua hàng hóa về làm
nguyên vật liệu để tiếp tục sản xuất hàng hóa của mình, nếu gặp phải hàng giả

thì sẽ không thể sản xuất hàng hóa có chất lượng được, sẽ gây thiệt hại không
nhỏ về kinh tế, uy tín của tổ chức đó. Cá nhân công dân, chỉ đơn thuần mua
hàng hóa để tiêu dùng, nếu gặp phải hàng giả thì cũng thiệt hại tài chính bỏ ra
để mua hàng; trong qúa trình tiêu dùng, nếu là thực phẩm, thuốc men chữa
bệnh còn có thể thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng của họ nữa.

18


Cho nên, hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả xâm hại đến nhiều khách
thể khác nhau. Đó là chế độ kinh tế, nền sản xuất hàng hóa, làm mất sự ổn
định của thị trường, xâm hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, lợi ích hợp
pháp, tính mạng, sức khỏe của người tiêu dùng.
Hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả thường được thực hiện một cách
cố ý. Hành vi đó thể hiện tính có lỗi được quy định trong luật hình sự.
Những người vi phạm biết rõ hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là nguy
hiểm cho xã hội nhưng họ vẫn thực hiện hành vi đó. Do đó, lỗi ở đây là lỗi
cố ý trực tiếp. Hành vi này còn do người có năng lực TNHS và đủ độ tuổi
chịu TNHS thực hiện. Tùy theo mức độ của hành vi sản xuất, buôn bán
hàng giả trong những trường hợp cụ thể mà xác định độ tuổi chịu TNHS từ
14 hoặc 16 tuổi trở lên.
Hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả khác với hành vi gian lận thương
mại. Gian lận thương mại, theo Từ điển Tiếng Việt nghĩa là “dối trá, lừa lọc”
trong lĩnh vực thương mại. Hành vi gian lận thương mại là những hành vi thể
hiện chủ tâm không ngay thẳng, như xảo trá, mưu mô, lừa lọc, buôn bán gian
lận và trái phép được thực hiện trong hoạt động thương mại. Đối tượng gian
lận ở đây là hàng hóa, dịch vụ; còn chủ thể thực hiện hành vi gian lận thương
mại là chủ của những hàng hóa, dịch vụ đó, có thể là người mua, người bán
hoặc đồng thời cả người mua và người bán. Mục đích của hành vi gian lận
thương mại là nhằm thu lợi bất chính. Để gian lận thương mại, người vi phạm

có thể dùng nhiều thủ đoạn khác nhau như lừa dối khách hàng thông qua việc
cân, đong, đo, đếm, đánh tráo nhãn, mác...; trốn thuế, kê khai gian dối hàng
hóa trong hoạt động xuất nhập khẩu. Nói chung, người thực hiện hành vi gian
lận thương mại dùng nhiều thủ đoạn khác nhau nhằm lẫn tránh sự kiểm soát
của Nhà nước để lừa dối khách hàng, thu lợi bất chính.
Như vậy, hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả và hành vi gian lận

19


×