Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

TÀI LIỆU GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU THÔNG QUA MÔN SINH HỌC THCS (Tài liệu dành cho GV và CBQLGD)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.65 KB, 112 trang )

NGÔ VĂN HƯNG (Chủ biên)
NGÔ THÁI LAN – PHAN HỒNG THE

TÀI LIỆU
GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
THÔNG QUA MÔN SINH HỌC THCS
(Tài liệu dành cho GV và CBQLGD)

1


Lời giới thiệu

2


Mục lục

3


Phần I. GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRƯỚC NHỮNG THÁCH THỨC CỦA
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
I. Biến đổi khí hậu
1. Khái niệm
1.1. Định nghĩa
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc
sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục
hồi hoăc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt
động của các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con
người (Công ước chung mà Liên hợp quốc về BĐKH tại Hội nghị Thượng đỉnh


về Môi trường tại Riodefanero (Braxin) năm 1992). Nói một cách khác BĐKH
là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình hoặc dao động của khí hậu
duy trì trong một thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn.
1.2. Đặc điểm của biến đổi khí hậu toàn cầu
- Diễn ra chậm, từ từ, khó phát hiện, khó đảo ngược;
- Diễn ra trên phạm vi toàn cầu, có ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực có
liên quan đến sự sống và hoạt động của con người;
- Cường độ ngày một tăng và hậu quả khó lường trước;
- Là nguy cơ lớn nhất của con người phải đối mặt với tự nhiên trong lịch
sử phát triển của mình.
1.3. Nguyên nhân của biến đổi khí hậu
1.3.1. Nguyên nhân của BĐKH trong thời kỳ địa chất
Những nguyên nhân cơ bản của BĐKH trong thời kỳ địa chất xảy ra cách
đây hàng trăm triệu năm được giả thiết là do sự biến động của các nhân tố liên
quan đến quỹ đạo chuyển động của trái đất, độ nghiêng của trục trái đất trên mặt
phẳng quỹ đạo trái đất quay xung quanh mặt trời (mặt phẳng hoàng đạo), dẫn
đến sự thay đổi lượng bức xạ mặt trời đi tới trái đất. Sự thay đổi cơ bản của hằng

4


số mặt trời và hoạt động của mặt trời trong các thời kỳ địa chất, sự thay đổi khối
lượng vật chất trong quá trình trái đất chuyển động trong vũ trụ giữa các vì sao
do sự hấp thụ khác nhau năng lượng bức xạ mặt trời.
BĐKH trong thời kỳ địa chất còn liên quan đến các yếu tố địa chất và khí
quyển trái đất. Đó là sự thay đổi của bề mặt trái đất như sự phân bố biển và lục
địa cùng độ lớn của chúng, quá trình tạo sơn và sự nâng lên của các mảng lục
địa lớn, phân bố các dòng hải lưu và thay đổi độ mặn nước biển của các đại
dương, hoạt động của núi lửa, hàm lượng khí CO2 tự nhiên trong khí quyển và
lượng mây v.v…

Tóm lại, BĐKH trong thời kỳ địa chất có liên quan đến các nhân tố tự
nhiên ngoài trái đất và những nhân tố trong nội bộ trái đất (địa chất).
1.3.2. Nguyên nhân của BĐKH hiện đại
Biến đổi khí hậu (BĐKH) có thể do hai nguyên nhân: do những quá trình
tự nhiên và do ảnh hưởng của con người.
Trong khuôn khổ của tài liệu này, chúng ta không đi sâu phân tích ảnh
hưởng của các quá trình tự nhiên, mà chủ yếu đề cập đến tác động của con người
đến biến đổi khí hậu.
Cho đến nay các nhà khoa học đều khẳng định rằng hoạt động của con
người đã và đang làm BĐKH toàn cầu. Nguyên nhân chủ yếu của sự biến đổi đó
là sự tăng nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển dẫn đến tăng hiệu ứng nhà
kính. Đặc biệt quan trọng là khí điôxit cácbon (CO2) được tạo thành do sử dụng
năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch (như dầu mỏ, than đá, khí tự nhiên...), phá
rừng và chuyển đổi sử dụng đất.
Theo Báo cáo đánh giá lần thứ 4 của Ban liên Chính phủ của BĐKH (IPCC,
2007), hàm lượng khí CO2 trong khí quyển năm 2005 đã vượt xa mức tự nhiên
trong khoảng 650.000 năm qua (180 - 280ppm) và đạt 379ppm (tăng ~ 35%).
Lượng phát thải khí CO2 từ sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã tăng trung bình từ 6,4

5


tỷ tấn cacbon (23,5 tỷ tấn CO2) mỗi năm trong những năm 1990 đến 7,2 tỷ tấn
cacbon (45,9 tỷ tấn CO2) mỗi năm trong thời kỳ 2000 - 2005.
Lượng phát thải khí CO2 từ việc thay đổi sử dụng đất ước tính bằng 1,6 tỷ
tấn cacbon (5,9 tỷ tấn CO2) trong những năm 1990.
Nhu cầu về năng lượng của nhân loại ngày càng nhiều, trong đó năng
lượng hóa thạch chiếm phần lớn. Mặc dù năng lượng hạt nhân hoặc một số dạng
năng lượng sạch khác có xu hướng tăng lên nhưng vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ
so với nhu cầu năng lượng nói chung. Sử dụng nhiều năng lượng hóa thạch là

nguyên nhân làm tăng đáng kể nồng độ khí CO 2 trong khí quyển, trong đó các
nước phát triển đóng góp phần lớn.
Trong việc đánh giá hiệu ứng của các khí nhà kính, có hai vấn đề rất đáng
lưu ý là:
- Các khí nhà kính tồn tại lâu trong khí quyển, từ vài tháng đến vài trăm
năm, được xáo trộn nhanh chóng và làm thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu
nói chung.
- Do sự xáo trộn như vậy, phát thải khí nhà kính từ bất kỳ nguồn nào, ở
đâu cũng đều ảnh hưởng đến mọi nơi trên thế giới.
Như vậy, phát thải khí nhà kính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến BĐKH
hiện nay, một sự thay đổi môi trường lớn lao nhất mà con người phải chịu đựng.
Đây cũng là lý do vì sao BĐKH là một vấn đề mang tính toàn cầu.
Tăng nồng độ khí nhà kính dẫn đến tăng hiệu ứng nhà kính của khí quyển
và kết quả là tăng nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất. Trên phạm vi khu vực, sự
phát ra những chất khí và những phần tử gây ô nhiễm khác dẫn đến những tác
động lớn, mặc dù một số trong chúng có thể có tác động ngược lại. Thí dụ, chất
muội mồ hóng (sooty aerosols) có khuynh hướng làm khí hậu khu vực ấm lên,
trong khi chất sunfát làm lạnh đi bởi phản xạ ánh sáng mặt trời nhiều hơn. Trong
khi ta có cảm giác chịu tác động trực tiếp ở các vùng công nghiệp, các chất sol
khí này còn có thể tác động gián tiếp lên nhiệt độ trung bình toàn cầu.
6


Hàm lượng khí mêtan (CH4) trong khí quyển dã tăng từ 715ppb 1 trong
thời kỳ tiền công nghiệp lên 1732ppb trong những năm đầu thập kỷ 90 và đạt
1774ppb năm 2005 (tăng ~148%). Hàm lượng khí ôxit nitơ (N 2O) trong khí
quyển dã tăng từ 270ppb trong thời kỳ tiền công nghiệp lên 319ppb vào năm
2005 (tăng khoảng 18%). Các khí mêtan và ôxit nitơ tăng chủ yếu từ sản xuất
nông nghiệp, đốt nhiên liệu hóa thạch, chôn lấp rác thải v.v…
Việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch phát thải 70 - 90% lượng CO2 vào khí

quyển. Năng lượng hóa thạch được sử dụng trong giao thông vận tải, chế tạo các
thiết bị điện: tủ lạnh, hệ thống điều hòa nóng lạnh và các ứng dụng khác. Lượng
CO2 còn do hoạt động trong nông nghiệp và khai thác rừng (kể cả cháy rừng),
khai hoang và công nghiệp.
Tóm lại, tiêu thụ năng lượng do đốt các nhiên liệu hóa thạch đóng góp
khoảng một nửa (46%) vào tiềm năng nóng lên toàn cầu. Phá rừng nhiệt đới
đóng góp khoảng 18% và hoạt động nông nghiệp tạo ra khoảng 9% tổng số các
khí thải gây ra lượng bức xạ cưỡng bức làm nóng lên toàn cầu. Sản phẩm hoá
học (CFC, Halon...): 24% và các nguồn khác như rác chôn dưới đất, nhà máy xi
măng...: 3%.
Lượng bực xạ tăng thêm (bức xạ cưỡng bức) do sự gia tăng của hàm
lượng các khí nhà kính trong khí quyển do hoạt động của con người trong thời
kỳ 1750 - 2000 được xác định là 2,43w/m2, trong đó từ khí CO2 là 1,46w/m2, từ
khí CH4 là 0,48w/m2, từ các khí Halocacbon là 0,34w/m2 và từ khí N2O là
0,15w/m2.
Ngoài nguyên nhân do hc oạt động của con người nói trên, BĐKH hiện
nay còn có các nguyên nhân tự nhiên, trong đó có hoạt động của núi lửa phun
các tro bụi lên tới tầng bình lưu của khí quyển, hạn chế lượng bức xạ mặt trời đi
tới mặt đất, làm cho mặt đất lạnh đi (bức xạ cưỡng bức âm) thường kéo dài
khoảng vài năm. Ngoài ra, sự biến động của bức xạ mặt trời trong thời kỳ 1750
1

Tính bằng phần tỷ

7


đến nay được đánh giá là tạo ra lượng bức xạ cưỡng bức dương với trị số là
0,30w/m2, chủ yếu xảy ra vào nửa đầu thế kỷ 20.
Như vậy, BĐKH hiện nay có cả nguyên nhân tự nhiên và nguyên nhân

con người, song sự nóng lên toàn cầu được khẳng định là do hoạt động của con
người làm tăng hàm lượng các khí nhà kính trong khí quyển gây ra một lượng
bức xạ cưỡng bức dương, trong khi hậu quả tổng hợp từ các nguyên nhân tự
nhiên nói trên đã cho một lượng bức xạ cưỡng bức âm, tức là làm trái đất lạnh
đi.
2. Những biểu hiện của biến đổi khí hậu
- Nhiệt độ không khí của Trái Đất đang có xu hướng nóng dần lên: từ năm
1850 đến nay nhiệt độ trung bình đã tăng 0,74 0C, trong đó nhiệt độ tại 2 cực của
Trái Đất tăng gấp 2 lần so với số liệu trung bình toàn cầu; và theo dự báo nhiệt
độ trung bình của Trái Đất có thể tăng lên 1,1 - 6,4 0C tới năm 2100, đạt mức
chưa từng có trong lịch sử 10.000 năm qua.
Ở Việt Nam trong vòng 50 năm (1957 - 2007) nhiệt độ không khí trung bình
tăng khoảng 0,5 - 0,70C, sẽ tăng từ 1 - 2 0C vào năm 2020 và từ 1,5 - 2 0C vào năm
2070.
- Có sự dâng cao của mực nước biển gây ngập úng và xâm nhập mặn ở
các vùng thấp ven biển và xóa sổ nhiều đảo trên biển và đại dương.
Trong thế kỷ 20, trung bình mực nước biển ở châu Á dâng cao
2,44mm/năm, chỉ riêng thập kỷ vừa qua là 3,1mm/năm. Dự báo trong thế kỷ 21,
mực nước biển dâng cao từ 2,8 - 4,3mm/năm.
Ở Việt Nam, tốc độ dâng lên của mực nước biển khoảng 3mm/năm (giai
đoạn 1993 - 2008) tương đương với tốc độ dâng lên của đại dương thế giới. Dự
báo đến giữa thế kỷ 21 mực nước biển có thể dâng thêm 30cm và đến cuối thế
kỷ 21 mực nước biển có thể dâng lên 75cm so với thời kỳ 1980 - 1999.
- Có sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi
trường sống của con người và các sinh vật trên Trái Đất.
8


- Có sự xuất hiện của nhiều thiên tai bất thường, trái quy luật, mức độ lớn
như bão, mưa lớn, hạn hán gây nên những tổn thất to lớn về người và tài sản.

3. Hậu quả của biến đổi khí hậu
3.1. Phạm vi toàn cầu
Từ khoảng giữa thế kỷ XIX, nhờ đo đạc chính xác bằng các dụng cụ,
chúng ta mới có được số liệu định lượng chi tiết về BĐKH trong hơn một thế kỷ
qua. Những số liệu có được cho thấy xu thế chung là từ cuối thế kỷ XIX đến
nay, nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng lên đáng kể. Kết quả đo đạc và nghiên
cứu hiện nay cho thấy nhiệt độ không khí trung bình toàn cầu trong thế kỷ XX
đã tăng lên 0,74oC (± 0,2oC); trên đất liền, nhiệt độ tăng nhiều hơn trên biển và
thập kỷ 1990 là thập kỷ nóng nhất trong thiên niên kỷ vừa qua (IPCC, 2007).
Nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất đã tăng lên rõ rệt trong thời kỳ 1920 1940, giảm dần trong khoảng giữa những năm 1960 và lại tăng lên từ sau năm
1975. Bằng cách đo đạc các thớ cây, diện tích các vùng băng, người ta nhận thấy
đây là thời kỳ nhiệt độ cao nhất trong vòng 600 năm trở lại đây.
Các nhà khoa học đều nhất trí rằng, tình trạng nóng nhất xảy ra trong 50
năm cuối của thế kỷ XX là do hậu quả hoạt động của con người.
Sang những năm đầu thế kỷ XXI, nhiệt độ trái đất tiếp tục tăng. Có thể lấy
năm 2003 làm minh chứng: Nhiệt độ trung bình toàn cầu năm 2003 tăng 0,46oC
so với trung bình thời kỳ 1971 - 2000, là năm ấm thứ ba kể từ năm 1861. Trong
đó, chuẩn sai nhiệt độ bán cầu Bắc là + 0,59oC và bán cầu Nam: +0,32oC. Năm
ấm thứ hai là 2002 với chuẩn sai nhiệt độ là + 0,48oC. Kể từ năm 1850 đến
2006, trong số 12 năm nóng nhất, thì đã có 11 năm nằm trong 12 năm gần đây
(1995 - 2006).
Hiện tượng thời tiết ấm lên ở Alaska trong những năm gần đây cũng là
một minh chứng rõ rệt. Tại đây, nhiệt độ đã tăng 1,5oC so với trung bình nhiều
năm, lớp băng vĩnh cửu giảm 40% và hàng năm lớp băng thường dày 1,2m chỉ
còn khoảng 0,3m (mỏng hơn 4 lần so với trung bình nhiều năm).
9


Hiện tượng mưa cũng có những biến động đáng kể, tăng 5 - 10% trong thế
kỷ XX trên lục địa bán cầu Bắc và giảm ở một số nơi, tuy xu thế không rõ rệt

như nhiệt độ. Hiện tượng mưa lớn tăng lên ở các vĩ độ trung bình và cao của bán
cầu Bắc. Tương ứng với sự tăng của nhiệt độ toàn cầu, mực nước trung bình của
đại dương cũng tăng lên 10 - 25cm (trung bình 1 -2mm/năm trong thế kỷ XX)
do băng tan và giãn nở nhiệt đại dương. Xu thế tăng của mực nước như vậy là
lớn, đặc biệt là trong vòng 15 năm cuối cùng. Sự tan băng ở các vùng núi cao,
giảm tuyết ở bán cầu Bắc và tăng nhiệt độ đã làm cho mực nước biển dâng cao.
Từ cuối những năm 1960, phạm vi lớp phủ tuyết giảm khoảng 10%. Độ dày của
lớp băng biển ở Bắc Cực trong thời kỳ từ cuối mùa hạ đến đầu mùa thu giảm
xuống khoảng 40% trong vài thập kỷ gần đây. Cùng với xu thế tăng nhiệt độ
toàn cầu là sự phân bố các dị thường của nhiệt độ. Trên các đại lục ở bán cầu
Bắc, trong những năm gần đây xuất hiện hàng loạt kỷ lục về nhiệt độ cao và
thấp. Khoảng 20 năm gần đây, người ta đã phát hiện thấy mối quan hệ giữa các
dị thường khí hậu với hiện tượng ENSO.
Thiên tai (bão, lũ, lụt, hạn hán, tố, lốc...) và các hiện tượng thời tiết cực
đoan (nắng nóng, rét đậm, rét hại, mưa lớn v.v...) gia tăng.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra 5 bước thụt lùi do biến đổi khí hậu:
- Biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến lượng mưa, nhiệt độ và nước dùng cho
nông nghiệp. Đến năm 2080, thế giới sẽ có thêm 600 triệu người bị suy dinh
dưỡng.
- Đến năm 2080, sẽ có khoảng 1,8 tỷ người sống trong tình trạng khan hiếm
nước, đặc biệt là Bắc Trung Quốc, Trung Đông, Nam Mỹ và phía Bắc Nam Á.
- Khoảng 330 triệu người sẽ mất chỗ ở tạm thời vĩnh viễn hoặc vĩnh viễn do
lũ lụt nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm 30-40C.
- Tốc độ tuyệt chủng của các loại sẽ tăng lên nếu nhiệt độ ấm lên khoảng
20C.

10


- các căn bệnh chết người sẽ lan rộng. Có thẻ có thêm 400 triệu người bị

bệnh sốt rét.
3.2. Khu vực Châu Á và Đông Nam Á
Dân số châu Á chiếm trên 60% dân số thế giới, tài nguyên thiên nhiên đã
chịu nhiều áp lực và khả năng thích ứng đối với biến đổi khí hậu của phần lớn
lĩnh vực ở châu Á là thấp. Nền kinh tế - xã hội ở nhiều nước phụ thuộc vào tài
nguyên thiên nhiên như nước, rừng, thảo nguyên, đồng cỏ chăn thả và thủy sản.
Mức độ biến đổi của các yếu tố khí hậu sẽ khác nhau nhiều giữa các vùng và các
quốc gia.
Đông Nam Á là khu vực bao gồm các quốc đảo và nhiều quốc gia nằm ở
những vùng bờ biển thấp hoặc những vùng ngay cửa sông, là khu vực đặc biệt
dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng.
Sự tăng lên của mực nước biển là tiêu điểm chính trong nghiên cứu của
các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nói chung và các nước Đông Nam
Á, nói riêng. Tác động của mực nước biển dâng trung bình trên toàn cầu đã được
dự tính tại các nước Philippin, Việt Nam, Sri Lanka, Malayxia, Bănglađét và Ấn
Độ..... Chúng ta có thể đề cập đến một số nước thuộc khu vực Đông Nam Á, như
những thí dụ làm minh chứng cho tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là mực
nước biển dâng vào năm 2070.
Tại Inđônêxia, vào năm 2070 mực nước biển sẽ dâng cao hơn 1 m trên
phần lớn lãnh thổ Jakarta và 3,3 triệu dân ở những vùng đất thấp của Inđônêxia
sẽ phải dời chỗ ở do lũ và ngập lụt.
Tại Philippin, khi nước biển dâng cao 90 cm, những hòn đảo nhỏ, một số
điểm thuộc hệ thống tàu điện ngầm Manila và Cebu, cũng như một số quận,
huyện ở Manila và vùng bờ biển vịnh Manila .... sẽ bị nhấn chìm trong nước
biển.
Tại Malayxia, các nghiên cứu đã khẳng định, thậm chí mực nước biển chỉ
dâng cao ở mức khiêm tốn cũng đã làm tồi tệ thêm tình trạng xói lở vốn đã trầm
11



trọng, đang đe dọa những vùng duyên hải và các bãi biển. Nếu mực nước biển
dâng cao 100 cm, có thể sẽ nhấn chìm phần lớn những rừng đước rất giầu có của
đất nước này.
Tại Việt Nam, mực nước biển dâng cao sẽ làm ngập phần lớn khu vực
đông dân cư thuộc các vùng cửa sông châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long
vào năm 2070, đe dọa nghiêm trọng sản xuất lúa và an ninh lượng thực. Nếu
mực nước biển dâng cao 90 cm vào năm 2070, theo kịch bản mức cao CSIRO,
thì khoảng 500.000 ha ở châu thổ sông Hồng, 1.500.000 - 2.000.000 ha ở đồng
bằng sông Cửu Long và khoảng 400.000 ha rừng đước và đầm lầy ở phía Nam
bị ngập. Mặn xâm nhập và tác động tới khoảng 2.200.000 - 2.500.000 ha. Sẽ làm
giảm khả năng thoát nước, làm ngập lụt 400 km chiều dài dọc theo sông Mê
Kông và 200 km chiều dài dọc theo sông Hồng. Nhiều thành phố, thị xã, như
cảng Hải Phòng, cảng Vũng Tầu và nhiều nơi thuộc tỉnh Bến Tre bị ngập.
Như vậy, trong những tác động tiềm tàng rất lớn của biến đổi khí hậu ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, sự dâng cao mực nước biển liên quan đến
ngập lụt, xói lở bờ biển, xâm nhập mặn sâu vào đất liền và tăng cường mối đe
dọa của nước dâng do bão được đánh giá là rất nghiêm trọng.
Nhìn chung, khuynh hướng tăng mực nước biển toàn cầu có thể được nhìn
nhận đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương, với các mức độ khác nhau, có
thể lớn hơn hoặc thấp hơn mức biến đổi trung bình toàn cầu do các biến động tự
nhiên hoặc hoạt động của con người, như khai thác nước ngầm, dầu và khí, sự
biến đổi của dòng trầm tích tự nhiên.
3.3. Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi
khí hậu. BĐKH là sự biến động trạng thái trung bình của khí quyển toàn cầu hay
khu vực theo thời gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm. Những biến đổi này
được gây ra do quá trình động lực của Trái Đất, nước biển dâng cao, bức xạ mặt
trời và gần đây có thêm hoạt động của con người. Những nghiên cứu gần đây

12



việc phát xả khí nhà kính là nguyên nhân hàng đầu của BĐKH, đặc biệt kể từ
năm 1950 khi thế giới đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và tiêu dùng, tăng
cường sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, sản xuất xi măng, phá
rừng và gia tăng chăn nuôi gia súc, khai hoang các nguồn đất ngập nước chứa
than bùn…Với những diễn biến thời tiết khó lường, thiên tai lũ lụt kéo dài. Ước
tính hàng năm nước ta phải gánh chịu không biết bao nhiêu cơn bão lũ gây thiệt
hại to lớn đến người và của. Đó là chưa kể việc kéo theo dịch bệnh hoành hành,
cuộc sống người dân bị đe dọa nghiêm trọng. Đây chính là nguy cơ đe dọa đến
mục tiêu xóa đói giảm nghèo, cho việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ và sự
phát triển bền vững của đât nước. Trong những năm gần đây, tác động của
BĐKH đến nước ta ngày càng thể hiện rõ nét. Thực tế cho thấy, khí hậu Việt
nam đang nóng lên. Mùa đông ít đi, mưa phùn giảm rõ rệt ở Bắc Bộ và Trung
Bộ, hạn hán ngày càng khắc nghiệt…bão lũ lớn và bất thường liên tiếp xảy ra,
diện tích đất ngập mặn tăng lên nhất là ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, liên
tiếp các đợt áp thấp nhiệt đới xảy ra ở khu vực Miền Trung. BĐKH đang trở
thành một vấn đề mang tính toàn cầu cần được tất cả các nước quan tâm kịp thời
và Việt Nam đã và đang tiến hành một số biện pháp ứng phó với BĐKH. Bộ Tài
Nguyên và Môi Trường đã thực hiện nhiều dự án giảm thiểu và thích ứng với
BĐKH. Hiện nay Bộ đang nghiên cứu những kịch bản BĐKH khác nhau trong
tương lai và xây dựng chiến lược ứng phó quốc gia tương ứng. Hệ thống dự báo
thời tiết đang được nâng cấp, đemlại kết quả tích cực trong các trận bão gần đây
với dự báo chính xác giúp các địa phương thực hiện các kế hoạch chống bão cần
thiết và giảm thiểu tốt nhất. Trong lĩnh vực quốc tế nhằm ứng phó với BĐKH,
các đại diện của LHQ cho biết Việt Nam có thể giữ vai trò quan trọng trong cuộc
chiến chống BĐKH trên toàn cầu.
Trong những năm qua, Việt Nam đạt được tiến bộ đáng kể trong các lĩnh
vực phát triển con người. Tuy nhiên, BĐKH đang đe dọa ảnh hưởng xấu đến
mục tiêu tăng trưởng của đất nước và điều kiện sống của người dân. Biến đổi

khí hậu là không thể tránh khỏi và đòi hỏi Việt Nam có những hành động cụ thể
13


và ứng phó với những hậu quả không tránh khỏi để đảm bảo phát triển bền
vững.
Nhìn trên toàn cầu, ở những mức độ nhất định và những khu vực nhất
định BĐKH cũng có những tác động tích cực:
- Là một cơ hội để thúc đẩy các nước đổi mới công nghệ phát triển các công
nghệ sạch, công nghệ thân thiện với môi trường và các hoạt động nghiên cứu và
triển khai (R&D) nói chung có liên quan;
- Phát triển trồng rừng để hấp thu CO2, giảm phát thải khí nhà kính, ...
- Ở một số nước ôn đới, khi nhiệt độ tăng lên sẽ thuận lợi hơn để phát triển
nông nghiệp; Năng lượng để sưởi ấm cũng được tiết kiệm hơn ...
II. Tổng quan ngành Giáo dục nước ta

III. Tác động của biến đổi khí hậu đến ngành Giáo dục

14


Phần II. GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG CÁC
MÔN HỌC Ở TRƯỜNG THCS
I.

Mục tiêu cơ bản của GD BĐKH trong trường THCS

Giáo dục ứng phó với BĐKH được tích hợp vào nhiều môn học ở trường
THCS, trong đó có môn Sinh học. Bộ môn Sinh học là một trong những bộ môn
có khả năng đưa giáo dục biến đổi khí hậu vào một cách thuận lợi nhất vì hầu

hết các nội dung trong chương trình sinh học 6, 7, 8, 9 đều có khả năng đề cập
đến các nội dung biến đổi khí hậu (BĐKH). Các kiến thức BĐKH trong môn
Sinh học có thể phân biệt thành 2 nhóm:
1. Hình thành kiến thức về biến đổi khí hậu:
+ Khái niệm về BĐKH
+ Những biểu hiện của sự BĐKH
+ Nguyên nhân của biến đổi khí hậu
+ Tác động của BĐKH đối với tự nhiên và mọi mặt hoạt động của con
người
+ Chiến lược ứng phó với BĐKH nói chung và của các địa phương nói
riêng
2. Hình thành thái độ, hành vi về biến đổi khí hậu:
+ Có ý thức bảo vệ môi trường
+ Có ý thức sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên.
+ Có tình cảm yêu quý quê hương, đất nước, yêu quí thiên nhiên và tôn
trọng các di sản văn hóa.
+ Có ý thức giảm nhẹ BĐKH và tích cực, chủ động đối phó với những
thách thức do BĐKH gây ra theo phương châm tại chỗ, dựa vào sức mình là
chính.
Tuy nhiên, khi soạn giáo án người giáo viên cần xem xét, nghiên cứu và chọn
lọc những nội dung giáo dục biến đổi khí hậu (GDBBĐKH) phù hợp để đưa
15


vào nội dung bài giảng dưới dạng lồng ghép toàn phần ( nếu toàn bài có nội
dung BĐKH), lồng ghép một phần ( trong bài có một mục, một đoạn hay một
vài câu có nội dung BĐKH), liên hệ ( nếu kiến thức trong bài có một hoặc nhiều
chỗ có khả năng liên hệ, bổ sung thêm kiến thức BĐKH mà SGK chưa đề cập).
II. Định hướng và yêu cầu của GD BĐKH trong trường THCS


III. Tích hợp lồng ghép GD BĐKH vào các môn học cấp THCS
1. Quan niệm về giáo dục tích hợp (quan niệm, lí do chọn tích hợp
lồng ghép kiến thức, kĩ năng ứng phó với BĐKH vào các môn học)
Tích hợp trong phạm vi GD BĐKH là một khái niệm chung, nói về một
phương thức, một cách tiến hành giảng dạy về BĐKH cho học sinh. Cách này
không đòi hỏi phải có một môn học riêng, bởi vì các kiến thức GD BĐKH được
đưa xen vào nội dung các môn học đã có ở trường THCS. Tích hợp là sự kết hợp
một cách có hệ thống các kiến thức GD BĐKH và kiến thức môn học thành một
nội dung thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau dựa trên những mối liên hệ về lí
luận và thực tiễn được đề cập trong bài học. Như vậy, kiến thức GD BĐKH
không phải muốn đưa vào bài học nào cũng được, mà phải căn cứ vào nội dung
của bài học có liên quan với vấn đề BĐKH mới có thể tìm chỗ thích hợp để đưa
vào.
Ví dụ: Khi nội dung bài học nói về quá trình quang hợp thì giáo viên có
thể nhấn mạnh quang hợp của cây xanh đã góp phần giữ cân bằng hàm lượng
khí oxy và cacbonic trong không khí, giảm hiệu ứng nhà kính, qua đó giáo dục
học sinh ý thức bảo vệ cây xanh, trồng cây gây rừng........ Phần kiến thức giáo
viên bổ sung sau chính là một dạng tích hợp kiến thức GD BĐKH vào bài học.
Sự tích hợp kiến thức GD BĐKH vào môn học, đối với môn Sinh học có thể
phân thành 2 dạng khác nhau:
1.1. Dạng lồng ghép
16


Ở dạng này các kiến thức GD BĐKH đã có trong chương trình và sách
giáo khoa (SGK) và trở thành một bộ phận kiến thức của môn học. Trong SGK
THCS, kiến thức GD BĐKH được lồng ghép có thể:
- Chiếm một vài chương: Ví dụ, trong SGK Sinh học 9 có bốn chương
nói về các kiến thức môi trường và bảo vệ môi trường: chương I: Sinh vật và
môi trường, chương II: Hệ sinh thái chương III: Con người, dân số và môi

trường, chương IV: Bảo vệ môi trường.
- Chiếm một hoặc một số bài trọn vẹn (lồng ghép toàn phần): Ví dụ,
trong SGK Sinh học 6 có bài 49 nói về”Bảo vệ sự đa dạng của động vật”. Trong
SGK Sinh học 7 có bài 57, 58 nói về “Đa dạng sinh học”, bài 58 nói về ”Biện
pháp đấu tranh Sinh học” và bài 60 nói về “Động vật quý hiếm”.
- Chiếm một mục, một đoạn hay một câu trong bài học (lồng ghép một
phần): Ví dụ, trong SGK Sinh học 6 có bài 46 nói về “Thực vật góp phần điều
hòa khí hậu”. Trong bài này ở mục cuối cùng , mục 3, có nêu lên vai trò của thực
vật trong việc làm giảm ô nhiễm môi trường. Trong SGK Sinh học 7 có bài 50
nói về “Đa dạng của lớp thú”. Trong bài này ở mục cuối cùng , mục 3, có nêu số
lượng thú trong tự nhiên đã bị giảm sút nghiêm trọng, do đó cần có ý thức và
đẩy mạnh phong trào bảo vệ động vật hoang dã, tổ chức chăn nuôi những loài có
giá trị kinh tế, góp phần bảo vệ môi trường sống hiện nay”. Trong SGK Sinh học
8 có bài 22 nói về “Vệ sinh hô hấp”. Trong bài này ở phần tóm tắt các ý chính có
nêu: cần tích cực xây dựng môi trường sống và làm việc có bầu không khí trong
sạch, ít ô nhiễm bằng các biện pháp như trồng nhiều cây xanh, không xả rác bừa
bãi, không hút thuốc lá...
Trong SGK Sinh học 9 có bài 29 nói về “Bệnh và tật di truyền ở người”.
Trong bài này ở mục cuối cùng, mục III có nêu các biện pháp hạn chế phát sinh
bệnh, tật di truyền: “Đấu tranh chống sản xuất, thử, sử dụng vũ khí hạt nhân, vũ
khí hóa học và các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Sử dụng đúng quy cách các
thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc chữa bệnh”. Bài 30 nói về “Di truyền học với

17


con người”. Trong bài này ở mục cuối cùng, mục III còn nêu lên hậu quả di
truyền do ô nhiễm môi trường.
Trong mục “Em có biết” sau các bài học chính, nhằm giáo dục ý thức môi
trường cho học sinh. Ví dụ, trong SGK SH 6, sau bài 21, ở mục “em có biết” có

bài ”Đi thăm nhà máy chế biến thực phẩm kì diệu” nói về vai trò của cây xanh
trong việc chống ô nhiễm môi trường, giảm hiệu ứng nhà kính; sau bài 40 có
nêu lên biện pháp bảo vệ cây Hạt trần có giá trị kinh tế cao. Trong SGK SH 9 ,
sau bài 29 nói về tác hại của thuốc bảo vệ thực vật đối với đời sống con
người...
1.2 Dạng liên hệ
Ở dạng này, các kiến thức GD BĐKH không được đưa vào chương trình
và SGK, nhưng dựa vào nội dung bài học, người giáo viên có thể bổ sung kiến
thức GDMT có liên quan với bài học qua giờ giảng lên lớp. Ví dụ, trong SGK
SH 6, bài 28, có nói về ”cấu tạo và chức năng của hoa”. Bài này có thể tích hợp
kiến thức GD BĐKH liên hệ vào bài học như sau: Học sinh cần bảo vệ cây trồng
nói chung và các cơ quan sinh sản nói riêng (không bẻ cành, chặt cây, hái hoa
bừa bãi) tạo điều kiện chăm sóc cây để cây cho năng suất cao (quả to, hạt mẩy)
→ học sinh có ý thức bảo vệ cảnh quan môi trường, đặc biệt những cảnh đẹp ở
nơi công cộng, không hái hoa, phá hoại ở công viên, trường học. Có ý thức làm
cho trường lớp, nơi ở thêm tươi đẹp bằng cách trồng thêm cây xanh, các loài
hoa...
Trong SGK Sinh học THCS có hàng loạt các bài học có khả năng liên hệ
kiến thức GD BĐKH. Tuy nhiên, các giáo viên cần xác định các bài học có khả
năng lồng ghép và lựa chọn các kiến thức và vị trí hay nơi có thể đưa kiến thức
GD BĐKH vào bài học một cách hợp lí. Muốn làm được điều này có hiệu quả
cao thì người giáo viên sinh học THCS luôn phải cập nhật các kiến thức về
BĐKH ...

18


2. Phương pháp tích hợp, lồng ghép GD BĐKH vào các môn học cấp
THCS
2.1. Các hình thức tổ chức dạy học GD BĐKH

2.1.1. Hình thức dạy học nội khóa
Bao gồm hình thức dạy học trên lớp và ngoài lớp. Hình thức dạy học trên
lớp được sử dụng chủ yếu ở Việt Nam, song cần phải lựa chọn những bài thích
hợp để đưa kiến thức giáo dục môi trường vào cho phù hợp. Trong khí đó hình
thức dạy học ngoài lớp cũng đã được chú ý tới, đặc biệt là với môn Sinh học môn học liên quan nhiều đến thực tế thiên nhiên. Trong chương trình Sinh học
THCS có một số bài dạy ngoài lớp: trong SGK SH 6, bài 53 nói về tham quan
thiên nhiên. Trong SGK SH 7, bài 64, 65, 66 nói về tham quan thiên nhiên.
Trong SGK SH 9, bài thực hành 45, 46: tìm hiểu môi trường và ảnh hưởng của
một số nhân tố sinh thái lên đời sống sinh vật, bài thực hành 51, 52: Hệ sinh
thái, bài thực hành 56, 57: tìm hiểu tình hình môi trường ở địa phương, bài thực
hành 62: Vận dụng luật bảo vệ môi trường vào việc bảo vệ môi trường địa
phương.
Đối với những bài chỉ có một phần hay một số câu là kiến thức liên quan
GD BĐKH thì giáo viên cố gắng phân tích rõ những khía cạnh môi trường,
BĐKH liên quan đến bài học. Đối với các bài học không có kiến thức GD
BĐKH được lồng ghép, thì tùy theo khả năng mà liên hệ các kiến thức BĐKH
vào bài học.
2.1. 2. Hình thức dạy học ngoại khóa
Ở nước ta, hình thức dạy học ngoại khóa từ trước đến nay chưa phổ biến.
Ở nhiều nước trên thế giới, việc GD BĐKH cho học sinh qua hình thức này rất
được chú ý, vì đây là cơ hội để học sinh được tiếp cận với thiên nhiên, ứng dụng
những kiến thức môi trường đã học vào thực tế môi trường tự nhiên, phát triển
khả năng độc lập của học sinh, giúp học tự tổ chức việc tìm hiểu, nhận xét, thảo
luận các vấn đề về BĐKH và các hoạt động giảm nhẹ BĐKH. Chính những hoạt
19


động này dễ dàng giúp học sinh có ý thức bảo vệ môi trường, giảm nhẹ và thích
ứng với BĐKH. Hoạt động ngoại khóa có thể tiến hành với nhiều hình thức khác
nhau:

- Tổ chức nói chuyện giao lưu về BĐKH.
- Tổ chức thi tìm hiểu BĐKH, đố vui về BĐKH.
- Tổ chức xem phim về BĐKH.
- Nghiên cứu biểu hiện BĐKH ở địa phương.
- Tổ chức tham quan về ảnh hưởng của BĐKH.
- Tổ chức hoạt động giảm nhẹ BĐKH trong trường học và BĐKH ở địa
phương theo chế độ thường xuyên hay định kì...
Để thực hiện được những hoạt động trên, cần có sự quan tâm của Ban
giám hiệu nhà trường, sự nhiệt tình của các thày cô giáo. Bởi vì mỗi hoạt động
cần tốn nhiều thời gian và công sức để: xây dựng kế hoạch, nội dung, hình thức,
thời gian tổ chức, đối tượng tham gia...
2.2. Phương pháp dạy học tích hợp BĐKH
Nội dung BĐKH được tích hợp trong nội dung của các môn học nên các
phương pháp GD BĐKH cũng được tích hợp vào các phương pháp giảng dạy bộ
môn. Tuy nhiên, muốn đạt được mục tiêu của GD BĐKH là không chỉ giúp cho
người học có kiến thức mà phải hình thành cho họ sự quan tâm, hành vi đối với
BĐKH thì không chỉ dừng lại ở phương pháp truyền thống mà nên kết hợp với
việc sử dụng các phương pháp tích cực, việc sử dụng phương pháp này sẽ phát
huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Một số phương pháp GD BĐKH có
thể sử dụng là:
2.2.1 Phương pháp trần thuật
Đây là phương pháp dùng lời. Sử dụng phương pháp này để mô tả sự vật,
hiện tượng BĐKH. Ví dụ: có thể mô tả, kể chuyện cho học sinh về một số cảnh
quan độc đáo của thiên nhiên, các hoạt động gây ô nhiễm môi trường, những

20


biến đổi bất thường của thiên nhiên do các hoạt động sinh hoạt và hoạt động sản
xuất của con người.

2.2.2. Phương pháp giảng giải
Đây cũng là phương pháp dùng lời nói, thường sử dụng khi giải thích các
vấn đề. Giáo viên nêu ra các dẫn chứng để làm rõ những kiến thức mới và khó
về BĐKH.
Ví dụ: Khi nói về hiện tượng nóng lên toàn cầu thì nêu rõ nguyên nhân
dẫn đến hiện tượng nhiệt độ nóng lên, giải thích rõ vì sao khí CO 2, CH4 tăng cao,
vì sao tầng ôzôn đang bị mỏng ...
2.2.3. Phương pháp vấn đáp
Trong phương pháp này giáo viên đưa ra câu hỏi, học sinh trả lời, cùng có
khi học sinh hỏi, giáo viên trả lời hoặo trao đổi giữa học sinh và học sinh...”.
Ví dụ: “Vì sao nhiệt độ của trái đất ngày càng tăng?”
“Sẽ ra sao nếu như khí hậu của trái đất sẽ trở lên nóng hơn?”
“Sẽ ra sao nếu trên trái đất không có cây xanh?”
Việc sử dụng các câu hỏi này khuyến khích học sinh quan tâm đến các
vấn đề BĐKH và dự đoán các vấn đề BĐKH sẽ xảy ra trong tương lai.
2.3.4. Phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan
Các phương tiện trực quan như: tranh ảnh, băng hình video, phim ảnh là
những phương tiện rất hữu ích cho việc giảng dạy kiến thức về GDBĐKH. Việc
sử dụng các phương tiện trực quan gây hứng thú và ấn tượng sâu sắc cho học
sinh.
Giáo viên nên sử dụng tranh ảnh về những loài thú quí hiếm đang có nguy
cơ bị mất nơi ở do tác động của BĐKH, về phong cảnh đẹp đang có nguy cơ bị
tàn phá do ảnh hưởng xấu của BĐKH để GD BĐKH. Hệ thống tranh dùng minh
hoạ có thể do giáo viên tự sưu tầm hoặc giao nhiệm vụ cho các em sưu tầm từ
các nguồn: sách, báo, tạp chí, mạng internet....

21


Các phim, băng hình video có nội dung về GD BĐKH là một loại phương

tiện cũng có tác dụng như một nguồn tri thức. Băng hình được sử dụng trong
dạy học có nhiều ưu điểm hơn hẳn các loại tranh ảnh, vì nó sinh động, phong
phú về số lượng hình, âm thanh tốt và nhất là dễ hình thành những biểu tượng và
khái niệm sâu sắc.
Khi lựa chọn và sử dụng băng hình, giáo viên nên chú ý:
- Nội dung ( phim, băng hình phải phù hợp với nội dung bài học và có ý
nghĩa trong việc GD BĐKH. Ví dụ: các băng hình về hạn hán, lũ lụt ở Việt Nam
và các nước trên thế giới, khí thải CFCs tác động làm mỏng tầng Ôzôn, việc
khai thác rừng bừa bãi, rác thải quá sức chứa của môi trường làm tăng khí CH 4
v.v...).
- Thời gian sử dụng.
- Hệ thống các câu hỏi (để học sinh trả lời sau khi xem).
- Tổng kết (nêu lên những ý chính của bài theo mục đích).
2.2.5. Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ
Lớp được chia thành các nhóm nhỏ (mỗi nhóm 4- 6 người) được duy trì
ổn định trong cả tiết học hay thay đổi tùy theo hoạt động. Các nhóm được giao
cùng nhiệm vụ hoặc các nhiệm vụ khác nhau.
- Các bước tiến hành:
+ Làm việc chung cả lớp: GV nêu vấn đề, phân công nhiệm vụ cho các
nhóm, cung cấp nguồn tài liệu tham khảo.
+ Làm việc theo nhóm: Từng cá nhân làm việc độc lập -> Trao đổi ý
kiến trong nhóm(chú ý: mỗi nhóm bầu một nhóm trưởng và thư kí ghi chép các
ý kiến thảo luận) -> Các nhóm báo cáo thảo luận dưới nhiều hình thức: nói, bài
viết, kết hợp với hình ảnh. Trong quá trình thảo luận giáo viên làm nhiệm vụ
quan sát theo dõi và không tham gia thảo luận.

22


+ Thảo luận, tổng kết trước toàn lớp: Các nhóm lần lượt báo cáo kết

quả -> Thảo luận chung -> Giáo viên tổng kết ý kiến của các nhóm.
Ví dụ: Chủ đề Ô nhiễm môi trường
+ Làm việc chung:
- GV nêu vấn đề: GV nêu 4 câu hỏi sau:
Ô nhiễm môi trường là gì?
Các tác nhân chủ yếu gây ô nhiễm môi trường không khí?
Khí CO2 tăng lên sẽ gây hậu quả gì?
Các biện pháp nào làm giảm sự gia tăng khí CO2 trong khí quyển?
- Chia nhóm: Mỗi nhóm 6 học sinh
+ Làm việc theo nhóm:
Các nhóm thảo luận và trình bày kết quả bằng bảng trong hoặc giấy khổ
lớn. Cử đại diện trình bày.
+ Tổng kết: Giáo viên tổng kết 4 vấn đề nêu ra trên cơ sở kết quả thảo
luận của các nhóm.
2.2.6. Phương pháp dạy học đặt vấn đề và giải quyết vấn đề
Theo giáo trình đại cương phương pháp dạy học sinh học của tác giả Trần
Bá Hoành và Trịnh Nguyên Giao, cấu trúc của một bài học theo dạy học đặt và
giải quyết vấn đề thường như sau:
- Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức:
+ Tạo tình huống có vấn đề
+ Phát hiện và nhận dạng vấn đề nay sinh
+ Phát biểu vấn đề cần giải quyết
- Giải quyết vấn đề:
+ Đề xuất các giả thuyết
+ Lập kế hoạch giải quyết

23


+ Thực hiện kế hoạch giải quyết

- Kết luận:
+ Thảo luận kết quả và đánh giá
+ Phát biểu kết luận
+ Đề xuất vấn đề mới
Ví dụ: Chủ đề Ô không khí
- Tạo tình huống, nêu vấn đề:
Trước kia, nói đến Hà Nội là người ta đã hình dung tới phố phường tấp nập
có các cô gái Hà thành với khuôn mặt thanh tú, xinh tươi. Tuy nhiên, gần đây đi
lại trên đường phố Hà Nội người ta không còn biết mặt con gái Hà thành như thế
nào nữa vì không chỉ họ mà hầu hết mọi người đều đeo khẩu trang bịt kín mặt.
Học sinh có thể tự nêu vấn đề: Vì sao ở Hà Nội khi đi trên đường phố mọi
người đều đeo khẩu trang?
- Giải quyết vấn đề:
Học sinh nêu ra các nguyên nhân khiến mọi ngượi đều dùng khẩu trang
khi đi lại trên đường phố Hà Nội: Có thể là do bụi; do mùi xăng, khí thải và khói
từ ô tô, xe máy; do nắng nóng...
GV hướng dẫn học sinh thảo luận để bảo vệ giả thuyết của mình, bác bỏ
các giả thuyết khác
Tiếp theo GV cho học sinh xem một số hình ảnh về việc thải trực tiếp khí
thải từ các phương tiện giao thông trên đường phố Hà Nội vào môi trường ở đây.
Đa số học sinh nhận ra nguyên nhân chính dẫn đến việc hầu hết mọi người đều
đeo khẩu trang khi đi trên đường là do môi trường không khí bị ô nhiễm do khí
thải ra từ các phương tiện giao thông và bụi trên đường.
- Kết luận:

24


Nguyên nhân làm dẫn đến việc hầu hết mọi người đều đeo khẩu trang khi
đi trên đường là do môi trường không khí bị ô nhiễm do khí thải ra từ các

phương tiện giao thông và bụi trên đường.
→ Biện pháp: Sử dụng phương tiện giao thông công cộng, giảm sử dụng
phương tiện giao thông cá nhân; Sử dụng các loại phương tiện giao thông ít tốn
nhiên liệu, ít khí thải; tăng cường đi bộ, hoặc đi xe đạp vừa có lợi cho sức khoẻ,
vừa góp phần bảo vệ môi trường không khí, vừa giảm nhẹ sự gia tăng nhiệt độ
trái đất.
Phương pháp động não
- Khái niệm : Động não là một kĩ thuật giúp cho người học trong một thời
gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về vấn đề nào đó.
- Cách sử dụng: Giáo viên nêu vấn đề cần tìm hiểu trước lớp hoặc nhóm.
Ví dụ: Chúng ta nên làm gì để hạn chế ô nhiễm môi trường không khí?
+ Khích lệ mọi người phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
+ Liệt kê các ý kiến của mọi người và ghi lên bảng hoặc giấy to, không
loại trừ một ý kiến nào.
+ Phân loại các ý kiến.
+ Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận về các ý kiến vừa
nêu ra.
+ Tổng hợp ý kiến của học sinh xem có thắc mắc hay thay đổi gì không?
2.2.8. Phương pháp giao cho học sinh làm các bài tập thực hành ở nhà
Các bài tập giúp cho học sinh vận dụng các kiến thức đã học vào thực
tiễn. Vì vậy, nó hình thành cho học sinh kĩ năng học tập, kĩ năng giảm nhẹ
BĐKH.
Ví dụ : Tìm hiểu về tình hình tác động của BĐKH ở địa phương
- Các khu vực bị ảnh hưởng của BĐKH ở địa phương.
- Các tác nhân gây BĐKH.
25


×