Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

Thơ lục bát từ truyền thuyết đến hiện đại (luận án TS ngôn ngữ và văn hoá việt nam)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 168 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------

TRẦN VĂN TRỌNG

THƠ LỤC BÁT
TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2017

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------

TRẦN VĂN TRỌNG

THƠ LỤC BÁT
TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 62 22 01 20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS LÝ HOÀI THU


HÀ NỘI - 2017

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong luận án là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án

TRẦN VĂN TRỌNG

iii


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Lý Hoài Thu, người đã tận tình
hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Văn học, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội và các thầy giáo,
cô giáo đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu tại Nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội, cơ quan đã
cử tôi đi học và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành luận án này.
Đồng thời tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè đồng môn, phật hữu,
những người đã ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và làm luận
án Tiến sĩ.
Hà Nội, ngày 25 tháng 9 năm 2017
Tác giả luận án


TRẦN VĂN TRỌNG

iv


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài ……………………………………………………………… .................. ………..1
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu …………………………………………………… .................. ……….3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ……………………………………………................... ………......3
4. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………… ................... …………...3
5. Đóng góp mới của luận án ………………………………………………… .................. ………………....4
6. Cấu trúc luận án ……………………………………………………………………… ................... …………...4
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. 1. Vấn đề thể loại và thể lục bát …………………………………………………................... …………5
1.1.1. Thể loại nói chung và thơ nói riêng …………………………………… .................. …………...5
1.1.2. Các thể thơ và thể lục bát ……………………………………………………................... ………….8
1.2. Tình hình nghiên cứu thơ lục bát ……………………………………………................... ………..16
1.2.1. Nghiên cứu các vấn đề chung của thơ lục bát ………………………................... ……….16
1.2.2. Nghiên cứu các hiện tượng, tác giả, tác phẩm, phong cách tiêu
biểu của thơ lục bát……………………………………………………………………… ...................………..20
1.2.3. Nghiên cứu về truyền thống và hiện đại trong thơ lục bát ………................... ……..22
Chƣơng 2. THƠ LỤC BÁT - LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN,
ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI
2.1. Lịch sử hình thành, phát triển thể lục bát ……………………………................... ……………24
2.1.1. Nguồn gốc, sự hình thành thể lục bát ………………………………… .................. …………24
2.1.2. Các giai đoạn phát triển của thể lục bát …………………………… ................... ………….26
2.2. Đặc trưng thể loại của thơ lục bát ……………………………………… .................. …………….38
2.2.1. Cấu trúc hình thức thể lục bát ………………………………………… .................. ……………38

2.2.2. Biến thể lục bát ………………………………………………………………… ................... ………….46
Chƣơng 3. GIÁ TRỊ CỦA THƠ LỤC BÁT TRUYỀN THỐNG
3.1. Khái luận về truyền thống và giá trị truyền thống trong thơ ……… ................... ……..56
3.1.1. Khái niệm truyền thống và truyền thống văn học …………………… .................. ……. 56
3.1.2. Truyền thống trong thơ và những giá trị truyền thống
trong thơ Việt Nam ………………………………………………………… .................. ……………57
v


3.2. Thơ lục bát truyền thống - những giá trị cốt lõi ………………………................... ………..65
3.2.1. Giá trị hiện thực, tinh thần yêu nước, nhân đạo
và bản sắc văn hoá dân tộc ………………………………………………… .................. ………...65
3.2.2. Nghệ thuật biểu hiện đậm chất dân gian ……………………………… .................. ……….69
3.3. Thơ lục bát truyền thống - những trường hợp điển hình …………… ................. ………71
3.3.1. Lục bát ca dao, dân ca …………………………………………………………… ................. ……..71
3.3.2. Lục bát truyện thơ Nôm ……………………………………………………… .................. ………...77
3.3.3. Lục bát kinh sách Phật giáo ……………………………………………… .................. ………….83
3.3.4. Lục bát Truyện Kiều ………………………………………………………… .................. ………….87
3.3.5. Lục bát Lục Vân Tiên ………………………………………………………… .................. ………..93
Chƣơng 4. TIẾP BIẾN CỦA THƠ LỤC BÁT HIỆN ĐẠI
4.1. Khái luận về hiện đại, tiếp biến truyền thống và hiện đại ………….................. ……….98
4.1.1. Khái niệm hiện đại và tính hiện đại ……………………………………….................. ……….98
4.1.2. Tiếp biến truyền thống và hiện đại ……………………………………….................. ………104
4.2. Thơ lục bát hiện đại - truyền thống và cách tân ………………… ................. ……………108
4.2.1. Truyền thống và hiện đại trong nội dung phản ánh ………… ................. ………… 108
4.2.2. Những cách tân về nghệ thuật biểu hiện ……………………………… ................. ………112
4.3. Thơ lục bát hiện đại tiêu biểu ………………………………………………................. ………….115
4.3.1. Lục bát Tản Đà ………………………………………………………………… ................. …………115
4.3.2. Lục bát Thơ mới và Nguyễn Bính …………………………………… ................ ……………119
4.3.3. Lục bát Tố Hữu ………………………………………………………………… ................ …………129

4.3.4. Lục bát Bùi Giáng ……………………………………………………………… ................ ………..133
4.3.5. Lục bát Nguyễn Duy ………………………………………………………… ................ ………….137
4.3.6. Lục bát Đồng Đức Bốn …………………………………………………… ................ ………… 142
KẾT LUẬN .......................................................................................................................................... ................147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ………................. …….151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………… ................ ………...152

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nếu như người
Trung Quốc có Đường thi, người Nhật có thơ Haikư, người Anh và người Italia tự
hào vì có thơ Sonnet..., thì chúng ta cũng có quyền tự hào vì có thơ lục bát. Nó từng
được mệnh danh là “quốc phong”, “quốc túy” của thi pháp thơ Việt, là “quốc thi”
của người Việt. Đó là một trong những thể thơ đã có từ lâu đời, tồn tại và phát triển
thông qua lời ăn, tiếng nói của cha ông ta truyền lại cho con cháu, qua tục ngữ, ca
dao và qua các làn điệu dân ca ở khắp mọi miền đất nước. Có thể nói, ở đâu có văn
hóa Việt Nam, ở đó có lục bát. Không thể thơ nào có khả năng bám sát đời sống của
người dân Việt Nam như thơ lục bát. Thơ lục bát đã luôn được các thế hệ nhà thơ
Việt Nam yêu mến và dành nhiều suy cảm để làm mới, hấp dẫn thông qua ngôn từ,
nhạc điệu trong thơ.
Người Việt Nam ai cũng ít nhất một lần trong đời được nghe, được đọc, hoặc
thuộc vài ba câu, vài ba bài thơ thuộc thể lục bát, thậm chí cũng có thể sáng tác một
bài thơ lục bát. Lục bát có trong lời ru ngọt ngào của những người bà, người mẹ, êm
đềm trong làn điệu ca dao, sắc nét trong hát xẩm ký... Lục bát có trong kho tàng thi
ca nước Việt từ những câu nói có vần điệu, đến những câu hò điệu lý, câu hát giao
duyên cho đến những tác phẩm văn học đồ sộ như Truyện Kiều (Nguyễn Du), Lục

Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu)..., và kể cả trong những ý chỉ truyền thừa của đạo
giáo, gia phả hay y thuật cũng đều có mặt của thơ lục bát.
1.2. Trước đây, lục bát không được truyền dạy trong học đường và không có
trong khoa cử. Cho đến khi Truyện Kiều của Nguyễn Du ra đời và sau này là các
nhà thơ tài danh khác, lục bát mới thật sự được công nhận là một thể thơ riêng biệt
và rất đặc biệt của Việt Nam. Trên đường phát triển, lục bát đã từng bước hình
thành niêm luật bằng - trắc, những quy định cho thể thơ này. Bao thế hệ các nhà thơ
Việt Nam đều ít nhiều đã thử sức mình sáng tác những câu, những bài thơ lục bát.

1


Không ít người đã tìm được “lối đi” cho giọng thơ, chất thơ của riêng mình trong
thể thơ này.
Thơ lục bát tưởng dễ mà không dễ làm vì nó có quy luật chặt chẽ. Cùng với sự
vận động của đời sống xã hội, lục bát cũng có thêm sự phát triển mới. Thơ lục bát
không những là thể thơ truyền thống đặc thù cho thi ca cổ truyền, mà đã trở thành
một thể thơ giàu cảm xúc, có sức truyền cảm trong trào lưu thi ca hiện đại. Từ Tản
Đà, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn,... đến một số
cây bút trẻ sau này, lục bát đã trở thành những tác phẩm mang phong cách hiện đại,
là những tác phẩm “đóng đinh” trong sự nghiệp văn chương của họ.
1.3. Được hình thành từ điều kiện văn hoá - lịch sử của dân tộc, vượt qua mọi
khoảng cách của thời gian, không gian, sự sàng lọc trong văn hoá, văn học, lục bát
như thứ “vàng mười” vẫn tồn tại để minh chứng cho sự bất diệt, trường tồn của
tiếng Việt, tâm hồn Việt, văn hoá Việt. Từ những câu ca dao mộc mạc, ngọt ngào,
tha thiết cho đến thơ hiện đại và đương đại, lục bát vẫn tồn tại và khẳng định được
vị trí của mình trong nền văn học luôn vận động và biến đổi không ngừng để phù
hợp với nhu cầu thẩm mỹ của con người. Nếu tâm hồn một dân tộc thường gửi trọn
vào thi ca của dân tộc mình, thì lục bát là thể thơ mà phần hồn của dân Việt đã
nương náu ở đó nhiều nhất, sâu nhất. Có thể nói, người Việt sống trong bầu thi

quyển lục bát. Dân ta nói vần nói vè chủ yếu bằng lục bát. Dân ta đối đáp giao
duyên, than thân trách phận, tranh đấu tuyên truyền, trào lộng giải trí chủ yếu bằng
lục bát. Và dân ta hát ru các thế hệ, truyền nguồn sữa tinh thần của giống nòi cho
lớp lớp cháu con cũng chủ yếu bằng lục bát. Thơ lục bát không chỉ là hồn của đất
nước, hơi thở của thời đại, bóng dáng của lịch sử, mà sâu xa hơn nó chính là linh
hồn con người non nước này, hồn cốt đời sống người Việt, nó lay động và cuốn hút
con người bởi nó chính là tâm hồn, hình bóng của họ.
Chính sự tích hợp hai phẩm tính truyền thống và hiện đại đã tạo nên giá trị lâu
bền của lục bát trong địa lý thơ ca dân tộc. Nghiên cứu và tìm hiểu thơ lục bát một
cách toàn diện, hệ thống để thấy được những cái hay, cái đẹp truyền thống và thấy

2


cả những sáng tạo mang màu sắc hiện đại của nó là một nhu cầu cấp thiết của tiến
trình văn học Việt Nam, của đời sống dân tộc Việt Nam.
2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án là thể thơ lục bát với các phương diện
biểu hiện từ khi mới hình thành, qua các giai đoạn phát triển, cho đến hôm nay.
2.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án là các sáng tác tiêu biểu trong tiến trình vận
động lịch sử của thơ lục bát.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài hướng tới mục tiêu là phát hiện và khẳng định giá trị tư tưởng, giá trị thẩm
mỹ của thơ lục bát truyền thống, sự tiếp biến của thơ lục bát hiện đại, các hiện
tượng thơ, các nhà thơ, các phong cách thơ lục bát tiêu biểu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Luận án làm sáng rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thể loại và thể lục bát, nét
độc đáo của thể lục bát trong các thể thơ, đồng thời phân tích, đánh giá các xu
hướng nghiên cứu thơ lục bát trên các vấn đề chung, đặc biệt là vấn đề truyền thống

và hiện đại.
- Luận án đưa ra một cái nhìn khái quát về nguồn gốc, sự hình thành, các giai
đoạn phát triển của thể lục bát, đi sâu phân tích đặc trưng thể loại: cấu trúc hình
thức và biến thể lục bát.
- Từ việc tìm hiểu khái niệm truyền thống và những giá trị truyền thống trong
thơ, luận án chỉ ra những giá trị cốt lõi, những trường hợp điển hình của thơ lục bát
truyền thống.
- Qua khái luận về hiện đại, tính hiện đại, sự tiếp biến truyền thống và hiện đại
trong thơ, luận án làm sáng tỏ mối quan hệ truyền thống và cách tân, những hiện
tượng tiêu biểu của thơ lục bát hiện đại.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi kết hợp sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu chính:

3


- Phương pháp lịch sử - xã hội: nhằm tìm ra những tác động của hoàn cảnh lịch
sử, xã hội Việt Nam đến sự hình thành, phát triển, kế thừa và cách tân của thơ lục
bát.
- Phương pháp loại hình: nhằm xác định đặc trưng thể loại, các đặc điểm, tính
chất của thơ lục bát trong tương quan với loại hình thơ trữ tình.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để đi sâu vào một số tác giả,
tác phẩm, những biểu hiện cụ thể, một vài khía cạnh độc đáo, đồng thời có một cái
nhìn khái quát và chung nhất, mang tính hệ thống cho vấn đề được đề cập đến.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: để làm rõ yếu tố “hình thức mang tính quan
niệm” của các hiện tượng thơ lục bát.
4.2. Để đạt được mục tiêu khoa học của đề tài, luận án còn sử dụng phương pháp
nghiên cứu liên ngành (văn học với văn hoá, tâm lý học, ngôn ngữ học), phương
pháp cấu trúc, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê… và các thao tác

nghiên cứu khác.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện, có hệ thống thơ lục bát
với cấu trúc, đặc trưng thể loại, những giá trị bền vững, những hiện tượng tiêu biểu
trong diễn trình vận động lịch sử từ truyền thống đến hiện đại.
5.2. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khẳng định vị thế và đóng góp to
lớn của thơ lục bát cho thi ca, văn nghệ, văn hoá dân tộc, cho cuộc sống đất nước từ
xa xưa đến hôm nay.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thơ lục bát - lịch sử phát triển, đặc trưng thể loại
Chương 3: Giá trị của thơ lục bát truyền thống
Chương 4: Tiếp biến của thơ lục bát hiện đại

4


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. 1. Vấn đề thể loại và thể lục bát
1.1.1. Thể loại nói chung và thơ nói riêng
Thể loại văn học là dạng thức tồn tại của chỉnh thể các tác phẩm văn học, nó
phản ánh những khuynh hướng phát triển bền vững và tương đối ổn định của văn
học. Sự vận động của mỗi thời kỳ văn học luôn gắn liền với sự biến động về thể
loại, điều đó biểu hiện rõ sức sống của một nền văn học. Không có một nền văn học
nào, một thời kỳ, một giai đoạn văn học nào được coi là phát triển mà lại đơn điệu
và nghèo nàn về thể loại.
Thể loại vừa rất cổ sơ vừa luôn luôn mới mẻ. Những thay đổi của thể loại, của
cách thức biểu hiện bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa là cảm hứng sáng tạo, tư duy

nghệ thuật, quan niệm thẩm mỹ về con người, cuộc sống. Sự “lên ngôi” của từng
thể loại trong mỗi thời kỳ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Có sự thống trị lâu
bền, có sự xuất hiện rồi lụi tàn, thể loại đôi khi đi qua nhanh chóng nhưng nhiều khi
lại để lại những ảnh hưởng lâu dài, sâu đậm. Có những thể loại trải qua quá trình
phát sinh, phát triển, đã có nhiều biến đổi, tạo ra nhiều biến thể phong phú. Trong
thể loại kịch, các thể bi kịch, hài kịch, chính kịch,… được đề cao và thịnh hành vào
tuỳ từng thời điểm. Trong văn xuôi, các thể loại truyện ngắn, truyện vừa, tiểu
thuyết,… cũng có những biến đổi và thâm nhập lẫn nhau theo thời gian. Trong thơ,
thể bốn chữ, năm chữ, bảy chữ hay tám chữ, thể lục bát, thể tự do,… có những thời
kỳ tồn tại và khẳng định riêng. Trong lịch sử phát triển của văn học, mỗi thể loại
văn học đều có vai trò và diện mạo riêng. Có một thời, anh hùng ca (sử thi) được
xem như đại diện tiêu biểu nhất, đạt được những thành tựu rực rỡ, của thể loại văn
học. Dần dần theo thời gian, những yếu tố của sử thi được tiếp thu, chọn lọc và hình
thành nên nhiều cách biểu hiện khác hơn, mới mẻ hơn. Ví như, đặc trưng cơ bản
của sử thi được tiểu thuyết hiện đại tiếp nhận để hình thành nên thể loại mới tiểu
thuyết sử thi và tác phẩm đỉnh cao phải kể đến như: Chiến tranh và hoà bình của L.

5


Tolstoy, Sông Đông êm đềm của M. Sholokhov,… Số phận lịch sử của nhiều thể
loại khác như thơ Đường luật, thơ Sonnet,… cũng có chung con đường phát sinh,
phát triển và để lại dư âm vang vọng như thế.
Thể loại mang tính lịch sử và dân tộc, tính kế thừa và sáng tạo. Dấu ấn lịch sử
bao giờ cũng khá đậm trong bản thân các thể loại. Nền nghệ thuật cổ đại Hy Lạp rất
huy hoàng, nhưng nó chỉ gắn liền với thời đại chưa có bàn in và máy in. Hình tượng
Asin không thể tồn tại trong thời đại có thuốc súng và đạn chì. Trong quá trình phát
triển, mỗi dân tộc sẽ có những thể loại tiêu biểu thể hiện bản sắc văn hoá, đặc điểm
tư duy, hình thái ngôn ngữ, tâm lý thưởng thức nghệ thuật,… ví như ở Nhật Bản là
thơ haikư (chỉ có 3 câu), ở Trung Quốc là thơ Đường và tiểu thuyết chương hồi, ở

Việt Nam là thơ lục bát,… Mỗi thể loại cũng thường xuyên tự điều chỉnh để hoàn
thiện chính mình. Nó song song hai quá trình kế thừa truyền thống quá khứ và cách
tân, sáng tạo cái mới.
Một đặc điểm cũng cần phải đề cập đến là tính giao thoa của thể loại. Ranh giới
giữa các thể loại mang tính chất tương đối, không phải là sự ngăn cách và phân chia
tuyệt đối. Giữa các thể loại luôn luôn có hiện tượng giao kết, sự chuyển hoá, thâm
nhập, vay mượn lẫn nhau và từ đó sản sinh ra những thể có thể coi là cầu nối giữa
hai thể loại như thơ văn xuôi, kịch thơ, tiểu thuyết phóng sự v.v…
Thơ là một thể loại trong văn học. Chia theo phương thức biểu hiện, khả năng
phản ánh hiện thực và khả năng vận dụng ngôn ngữ, thơ (trong loại hình trữ tình)
đặt ngang hàng với loại hình tự sự, loại hình kịch. Trong thơ lại có những thể nhỏ
hơn, từ thể bi ca, tụng ca, thơ đồng quê,… cho đến các thể thơ trữ tình trong thời kỳ
hiện đại. Thơ là hình thái văn học đầu tiên của loài người. Suốt một thời gian dài, từ
thế kỷ XVII trở về trước, nói đến văn học tức là nói đến thơ ca.
Thơ có lịch sử lâu dài. Định nghĩa sớm nhất ở châu Âu về thơ có thể bắt đầu từ
nhà triết học người Hy Lạp Aristotle (384 - 322 trước Công nguyên). Ở Việt Nam,
thơ có thể bắt nguồn từ tục ngữ, ca dao mà ra. Những câu có vần điệu, dễ nhớ như
Sấm bên đông, động bên tây vốn là những kinh nghiệm có được thông qua sự từng
trải, sự quan sát các hiện tượng thiên nhiên, mà đúc kết lại, truyền từ đời nọ sang

6


đời kia, giống như một thứ mật mã trong ngôn ngữ để truyền thông tin vậy. Những
đúc kết bao gồm đủ mọi mặt trong cuộc sống, sau này khi được biến thành những
câu ca dao, câu vè, chúng trở thành một hình thức văn nghệ, giải trí.
Thơ sinh ra cùng cuộc sống phong phú, muôn màu muôn vẻ, được nuôi dưỡng
bởi những tâm hồn thiết tha yêu sự sống, yêu cái đẹp. Thơ gắn liền với cảm xúc, với
trí tưởng tượng, tuy nhiên vẫn có một sợi dây vô hình gắn kết thơ với thực tại hiện
hữu xung quanh. Sống với thơ, tâm hồn con người sẽ được “thanh lọc” (Aristotle).

“Thi khả dĩ hứng, khả dĩ quan, khả dĩ oán, khả dĩ quần, khả dĩ nộ” như có lần
Khổng Tử đã nói. Thơ cũng như văn học và mọi loại hình nghệ thuật khác bồi đắp
và làm phong phú đời sống tinh thần, đem lại những xúc cảm yêu thương, vừa nhân
đạo hoá con người vừa là niềm vui bất tận cho cuộc sống, thơ ca là niềm vui cao cả
nhất mà loài người đã tạo ra cho mình.
Tuy thơ là một thể loại văn học nằm trong phương thức trữ tình nhưng nó có
những biến thái rất phong phú, đa dạng. Mỗi thể thơ lại mang trong nó những đặc
trưng riêng và thích hợp cho việc bộc lộ những xúc cảm, tình cảm khác nhau. Điểm
tựa của thơ bao giờ cũng là ở việc bộc lộ thế giới nội tâm của con người; thơ bắt
đầu từ cái ngày mà con người cảm thấy cần phải tự biểu hiện bản thân mình, như
trong Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn đã bình giải: “Thơ khởi phát tự trong lòng
người ta”. Khi cuộc sống đã tràn đầy trong tim, thơ đến như một nơi để giãi bày và
cùng chia sẻ nỗi lòng. Thơ có thể chỉ là những lời ca thể hiện sự trân trọng, mến yêu
quê hương, đất nước, có thể chỉ là một khoảnh khắc vui mừng chợt đến, có thể chỉ
là một giây phút nhớ mong, chờ đợi, nhưng cũng có thể là những đau thương dồn
nén lâu ngày, có thể là những nghĩ suy không biết cùng ai chia sẻ,… Và lúc ấy,
những cảm xúc, những rung động kia sẽ tìm cho mình một cách biểu đạt thích hợp
nhất, đạt hiệu quả thẩm mỹ cao nhất. Thơ đã trở thành người bạn tri âm, luôn hội
ngộ khi chúng ta muốn bày tỏ nỗi lòng, hay muốn có điểm tựa tinh thần trước bao
tình huống khác nhau của cuộc sống. “Những câu thơ hay/ Ở mãi trong lòng/ Như
những viên ngọc trai của tình người cô lại/ Cứ trong trẻo ánh trời sáng mãi/ Cứ
hồn nhiên ngọn gió đồng quê/ Sưởi hồn ta ấm nóng nỗi đam mê/ Mềm mại thế mà

7


tột cùng vững chãi/ Đã có người thốt lên:/ „Khi ngã xuống, hãy vịn câu thơ mà
đứng dậy!‟/ Ôi! Những câu thơ hay không cũ bao giờ/ Thơ với người/ Người với
thơ/ Cuộc hôn phối này do Thiên sứ định” (Do Thiên sứ định - Cảnh Trà). Chính
thơ ca đã giúp chúng ta chống chọi lại nguy cơ máy móc, cơ khí hoá, lập trình hoá

cuộc sống, chống lại sự han gỉ tình người, vượt qua “bi kịch của con người trong
thời đại chúng ta là thừa trí tuệ mà thiếu tâm hồn” như Octavio Paz đã nói trong
Diễn từ khi nhận giải Nobel.
Dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển đã chứng tỏ sự
phong phú, giàu có của kho tàng thơ ca. Những biến chuyển và đổi mới liên tục ở
từng thời kỳ, từng giai đoạn đã mang đến cho thi ca Việt Nam những thay đổi đáng
kể. Trong suốt tiến trình phát triển ấy, các thể thơ ca cổ truyền được sử dụng phổ
biến hơn cả và là cơ sở cho sự hình thành những thể thơ mới. Ban đầu là những
sáng tạo dân gian, dần dần thu nhận những yếu tố mới và nâng cao theo sự tiến triển
của tư duy, cảm xúc, của đời sống con người. Các thể cổ truyền của thơ ca Việt
Nam như thể bốn chữ, năm chữ, bảy chữ, tám chữ, thể lục bát, thể song thất lục
bát,… đều là cơ cở cho sự đổi mới, nhưng những ảnh hưởng đó diễn ra không đồng
đều. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX và cho đến tận ngày nay, trải qua một quá trình
phát triển rất dài, những thể thơ Việt Nam, những thể thơ du nhập của nước ngoài
đều có những dòng, những chặng phát triển và để lại những thành tựu đáng ghi
nhận.
1.1.2. Các thể thơ và thể lục bát
Thơ là một hình thức nghệ thuật dùng từ ngữ làm chất liệu, và sự chọn lọc từ
cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới một hình thức logic nhất định tạo nên
hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm mỹ cho người đọc, người nghe. Từ thơ
thường được đi kèm với từ câu để chỉ một câu thơ, hay với từ bài để chỉ một bài
thơ. Mỗi câu thơ là một hình thức câu cô đọng, truyền đạt một hoặc nhiều hình ảnh,
có ý nghĩa với người đọc, và hoàn chỉnh trong cấu trúc ngữ pháp. Một bài thơ là tổ
hợp của các câu thơ. Tính cô đọng trong số lượng từ, tính tượng hình và dư âm

8


thanh nhạc trong thơ biến nó thành một hình thức nghệ thuật độc đáo, tách biệt hẳn
khỏi các hình thức nghệ thuật khác.

Thơ, câu thơ, bài thơ, các thể thơ được tạo nên bởi âm, thanh, vần, điệu. Âm là
gốc của một chữ sau khi bỏ các phụ âm ở đầu chữ và các dấu. Như vậy âm bắt đầu
bằng một hay nhiều nguyên âm và có thể kết thúc bằng một hay nhiều phụ âm.
Thanh là sự khác nhau trong độ cao thấp của một âm. Trong tiếng Việt các chữ có
thể mang 6 thanh là không dấu, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng; chia làm hai nhóm có
thanh bằng và thanh trắc. Thanh bằng hay theo tiếng Hán Việt là bình thanh gồm
các chữ không dấu và có dấu huyền. Thanh trắc hay trắc thanh gồm các chữ có dấu
sắc, hỏi, ngã và nặng. Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần
giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Đây là một quy luật để nối các câu
trong bài thơ với nhau. Vận là cách gieo vần trong câu, có một số cách gieo vần như
sau: cước vận (vần chân) là cách gieo vần ở cuối câu; yêu vận (vần lưng) là cách
gieo vần ở giữa câu; liên vận (vần liền) là cách gieo vần ở hai câu đi liền nhau; cách
vận (vần cách) là cách gieo vần ở hai câu cách nhau; chính vận (vần chính) là vần
mà hai chữ hoàn toàn giống nhau về âm; cưỡng vận (vần thông) là vần mà hai chữ
có âm tương tự nhau; liên châu vận là cách gieo vần nối tiếp nhau như chuỗi ngọc.
Điệu hay còn gọi là nhạc điệu, tạo nên do âm thanh của từ được chọn và nhịp ngắt
câu; nói cách khác, nhạc điệu trong thơ được tạo nên bởi ba yếu tố: vần, tiết tấu và
từ.
Thông qua giao lưu giữa các nền văn hóa, các thể thơ được tăng dần, từ những
cấu trúc đơn giản đến những cấu trúc phức tạp. Trong các thể thơ ở Việt Nam ta có
thể kể đến lục bát, song thất lục bát, các thể thơ Đường luật như thất ngôn bát cú,
thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú rồi đến các thể thơ mới và thơ tự do. Ngoại trừ
thơ tự do, một hình thức hầu như không có một cấu trúc rõ rệt, các thể thơ khác đều
có một cấu trúc nhất định. Chặt chẽ nhất là các thể thơ Đường, trong đó cấu trúc về
nội dung, luật về số chữ trong câu, số câu trong bài, về cách gieo vần quyết định thể
loại của bài thơ.

9



Cấu trúc thơ theo đặc trưng kiểu loại tạo nên các thể thơ. Có nhiều quan niệm về
kiểu loại, nhưng phổ biến hơn cả là quan niệm kiểu loại theo số chữ tạo nên câu thơ,
từ đó định danh thể thơ: thơ bốn chữ, thơ năm chữ, thơ sáu chữ, thơ bảy chữ, thơ
tám chữ, thơ lục bát, thơ song thất lục bát v.v… Mỗi thể thơ có những quy luật kiến
tạo riêng về âm, thanh, vần, điệu; tuy nhiên, trong một số trường hợp vẫn chấp nhận
sự phá cách.
Trong thơ bốn chữ, ở từng câu thơ, nếu tiếng thứ 2 là thanh trắc thì tiếng thứ 4 là
thanh bằng; ngược lại, tiếng thứ 2 bằng thì tiếng thứ 4 trắc: “Bão đến ầm ầm/ Như
đoàn tàu hoả/ Bão đi thong thả/ Như con bò gầy” (Mặt bão - Trần Đăng Khoa).
Trong thơ năm chữ (ngũ ngôn), luật thơ tương tự như thơ bốn chữ: “Hôm nay đi
chùa Hương/ Hoa cỏ mờ hơi sương/ Cùng thầy me em dậy/ Em vấn đầu soi gương”
(Chùa Hương - Nguyễn Nhược Pháp); về cách gieo vần (ở chữ cuối câu), có khi là
vần ba tiếng, hoặc vần ôm, có khi là vần chéo: “Nắng hè đỏ hoa gạo/ Nước sông
Thương trôi nhanh/ Trên đường đê bước rảo/ Gió nam giỡn lá cành” (Tiếng chim tu
hú - Anh Thơ).
Trong thơ sáu chữ, chữ cuối câu có thể được gieo vần chéo: “Quê hương là gì hở
mẹ/ Mà cô giáo dạy phải yêu/ Quê hương là gì hở mẹ/ Ai đi xa cũng nhớ nhiều”
(Quê hương - Đỗ Trung Quân), hoặc gieo vần ôm: “Xuân hồng có chàng tới hỏi/ Em thơ, chị đẹp em đâu?/ - Chị tôi tóc xoã ngang đầu/ Đi bắt bướm vàng ngoài
nội” (Tình sầu - Huyền Kiêu).
Do ảnh hưởng của thể thất ngôn tứ tuyệt trong thơ Đường, thơ bảy chữ vẫn mang
ảnh hưởng thi luật chặt chẽ, nghĩa là hạn định tiếng bằng tiếng trắc trong câu thơ, có
đối, có vần, cả bài theo một vần, thường là vần bằng: “Quanh năm buôn bán ở mom
sông/ Nuôi đủ năm con với một chồng/ Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Eo sèo mặt
nước buổi đò đông” (Thương vợ - Tú Xương); cũng có khi chỉ cần chữ cuối câu thứ
hai vần với chữ cuối câu thứ tư: “Xa quá rồi em người mỗi ngả/ Bên này đất nước
nhớ thương nhau/ Em đi áo mỏng buông hờn tủi/ Dòng lệ thơ ngây có dạt dào”
(Đôi bờ - Quang Dũng).

10



Thơ tám chữ (bát ngôn) thường làm theo lối liên vận hoặc cách vận. Ở lối liên
vận, câu đầu thường không bắt vần, từ câu hai trở đi mới cặp vần, cứ hai câu vần
bằng rồi đến hai câu vần trắc hay ngược lại: “Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm/
Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em/ Không gì buồn bằng những buổi chiều êm/ Mà
ánh sáng đều hoà cùng bóng tối/ Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối/ Vài miếng
đêm u uất lẩn trong cành/ Mây theo chim về dãy núi xa xanh/ Từng đoàn lớp nhịp
nhàng và lặng lẽ…” (Tương tư chiều - Xuân Diệu). Ở lối cách vận, câu lẻ vần với
câu lẻ, câu chẵn vần với câu chẵn. Cá biệt có khi theo vần ôm: “Nắng Sài Gòn anh
đi mà chợt mát/ Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông/ Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng/
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng” (Áo lụa Hà Đông - Nguyên Sa).
Thơ song thất lục bát gồm hai câu bảy chữ và hai câu lục bát. Trong hai câu thất,
ở câu thất trên, tiếng thứ 3 là trắc, 5 là bằng, 7 là trắc; ở câu thất dưới, tiếng thứ 3 là
bằng, 5 trắc, 7 bằng. Hai câu lục bát thì theo luật thường lệ. Tiếng cuối câu thất trên
vần với tiếng 5 câu thất dưới, tiếng cuối câu thất dưới vần với tiếng cuối câu lục,
tiếng cuối câu lục vần với tiếng 6 câu bát. Và tiếng cuối câu bát vần với tiếng 5 của
câu thất tiếp theo. Tuy nhiên, tiếng cuối câu bát cũng có thể vần với tiếng 3 câu thất,
biến tiếng này đổi sang vần bằng, do đó, tiếng 3 trong câu thất trên có thể là trắc hay
bằng. Tác phẩm Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm) được viết theo
thể thơ này: “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt/ Xếp bút nghiên theo việc đao cung/
Thành liền mong tiến bệ rồng/ Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời”.
Lục bát là thể thơ một câu sáu chữ rồi đến một câu tám chữ cứ thế nối liền nhau.
Bài thơ lục bát thông thường được bắt đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát;
đôi khi cũng có trường hợp kết thúc bằng câu lục để đạt một dụng ý tư tưởng nghệ
thuật nhất định. Trong các thể thơ, lục bát là thể thơ thông dụng nhất, vì cách làm và
gieo vần tương đối đơn giản. Trong bài thơ, chữ thứ sáu của câu lục vần với chữ thứ
sáu của câu bát, chữ thứ tám của câu bát vần với chữ thứ sáu của câu lục kế tiếp và
cứ theo quy luật đó cho đến hết bài thơ. Lục bát là thể thơ dân tộc mang đậm bản
sắc Việt Nam và phong vị quê hương. Thơ lục bát rất dễ thuộc và dễ nhớ vì lời thơ
giản dị, mộc mạc, có sự kết hợp giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời thường. Câu


11


thơ đọc lên mà cứ ngỡ là câu hát hay một bản nhạc, vừa có vần vừa có điệu nghe rất
thanh thoát và êm tai. Có nhiều câu lục bát đã đi vào lòng người như một lời ru:
“Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương/ Nhớ ai dãi
nắng dầm sương/ Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao” (Ca dao). Lại có câu lục bát
khiến người ta nhớ mãi bởi lời thơ ý nhị, sâu sắc: “Anh ngồi uống cạn dòng sông/
Lo em nhan sắc về không có đò” (Lời ru năm tháng - Trương Nam Hương). Không
phải ngẫu nhiên thi sĩ Bùi Giáng khẳng định: “Lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng
viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ” (Thi ca tư tưởng).
Ba thể thơ lục bát, tuyệt cú và haikư đều là thể thơ cách luật ngắn nhất trong văn
học dân tộc của Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản. Ba thể thơ này có nhiều điểm
giống hoặc gần gũi nhau.
Về sự hình thành, có thể thấy chúng đều có nguồn gốc từ thơ ca dân gian, được
các nhà thơ sống gần gũi với nhân dân tiếp thu và phát triển để rồi đạt đến đỉnh cao
ở các nhà thơ lớn thời trung đại của mỗi dân tộc. Đó là Lý Bạch và Đỗ Phủ ở Trung
Quốc, Basho ở Nhật Bản và Nguyễn Du ở Việt Nam. Đương nhiên đó là nhìn đại
thể, còn con đường hình thành và phát triển của chúng cũng có những sự khác biệt
sẽ đề cập đến sau.
Về mặt tính chất, nếu chỉ xét lục bát ở cấp độ một đơn vị chỉnh thể tối thiểu, tức
là một chu kỳ 6+8, đủ để làm nên một bài lục bát đơn giản nhất, thì cả ba thể thơ
tuyệt cú, haikư và lục bát đều chủ yếu là thể thơ trữ tình. Nói “chủ yếu” là vì trong
quá trình phát triển chúng đều có thể thích dụng với trào phúng, triết lý…
Cả ba thể thơ này đều có một đặc trưng cơ bản giống nhau: hàm súc cao độ.
Điều này như một lẽ đương nhiên và là lý do tồn tại của thể thơ. Bởi vì chúng rất
ngắn, nếu chúng không có khả năng ngụ ý và gợi ý thì chúng đã chẳng có sức sống
lâu bền đến thế. Tiền đề của sự hàm súc là sự ngắn gọn. Trong ba thể thơ, dài nhất
là tuyệt cú cũng chỉ 4 câu với 28 âm (nếu là thất ngôn tuyệt cú) hoặc 20 âm (nếu là

ngũ ngôn tuyệt cú), thứ đến là haikư với 17 âm, ngắn nhất là lục bát với 14 âm.
Không rõ trên thế giới có thể thơ nào ngắn hơn lục bát nữa không. Quy mô rất nhỏ,
nếu không nói là cực nhỏ, mà điều gửi gắm trong cả tuyệt cú, haikư và lục bát, lại

12


rất phong phú, sâu xa: “Bên đê cổ tha thướt/ Liễu như vòm khói xanh/ Giá mà tơ
chẳng đứt/ Níu giữ buộc thuyền anh”(Liễu ven sông - Ung Dụ Chi); “Dù tan đi vỡ
lại/ Vầng trăng nơi đáy nước/ Còn mãi” (Shiki); “Qua cầu rút ván tháo đinh/ Đó đà
ở bạc với mình thì thôi” (Ca dao).
Một điều cũng đương nhiên do tính hàm súc của thể thơ đưa lại, khiến chúng gặp
nhau ở một điểm có tính quy luật: ở cả ba thể thơ, trọng tâm ý nghĩa đều ở cuối.
Thơ haikư là thế: “Mưa đông giăng đầy trời/ Một chú khỉ đơn độc/ Cũng mong
chiếc áo tơi” (Basho). Có ba câu ngắn ngủi thôi mà tấm lòng nhân dành cho câu
cuối. Câu một là bối cảnh lạnh lùng mênh mông. Câu hai Basho nhìn thấy chú khỉ.
Câu ba là chú khỉ nhìn Basho mà “mong chiếc áo tơi”. Chú khỉ cô đơn, chú khỉ lạnh
lùng, chú khỉ không nói, sao Basho nhận ra? Nhà thơ đã đặt mình vào cảnh ngộ trần
trụi giữa mưa đông, co ro vì lạnh của chú khỉ mà ngộ ra và “phát biểu” cái mong
ước nhỏ nhoi tội nghiệp của sinh linh bé bỏng ấy. Tiếng nói nhỏ nhẹ của haikư đã
chở tiếng nói của lòng nhân hậu bao la đến với mọi tấm lòng “tri âm”. Đây là thơ
tuyệt cú: “Đầu giường ánh trăng rọi/ Ngỡ mặt đất phủ sương/ Ngẩng đầu nhìn
trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương” (Tứ đêm lặng - Lý Bạch). Đến nỗi có nhà
nghiên cứu tinh thâm về thơ Đường đã nói: “Muốn làm một bài thơ tuyệt cú hay là
phải bắt đầu từ câu… cuối”. Vậy còn thơ lục bát? Cứ thử lấy ra bất kỳ cặp câu lục
bát nào trong hàng ngàn bài ca dao mà toàn bài chỉ vẻn vẹn có một câu sáu và một
câu tám, từ trong một bài thơ gồm nhiều chu kỳ sáu tám, cũng hoàn toàn có thể
nhận thấy: trọng tâm ý nghĩa bao giờ cũng ở câu tám (tức câu cuối của chu kỳ). Câu
sáu thường chỉ là bước chuẩn bị cho câu tám. Câu sáu là “đề”, câu tám là “thuyết”:
“Gió sao gió mát sau lưng/ Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này” (Ca dao); “Trải qua

một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” (Truyện Kiều - Nguyễn
Du); “Măng non là búp măng non/ Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre” (Tre
Việt Nam - Nguyễn Duy). Như vậy, trọng tâm ý nghĩa được dồn vào phần cuối là
một đặc trưng thể loại của cả ba thể thơ.
Mặt khác, ba thể thơ này cũng có nhiều điểm khác nhau, trong đó có sự khác
nhau ngay trong những điểm tương đồng.

13


Về nguồn gốc, điểm chung của chúng là bắt nguồn từ trong thơ ca dân gian
nhưng con đường định hình của chúng lại khác nhau. Tên gọi của các thể thơ này
cũng xuất hiện sau trước khác nhau. Cái tên “tuyệt cú” đã được xuất hiện từ đời
Lương (502-557) cách đây 1.500 năm. Thể thơ lục bát được định danh muộn hơn,
khoảng đời Hậu Lê. Còn ở Nhật Bản, thể thơ 3 dòng 5-7-5 đạt đến đỉnh cao ở thế kỷ
XVII với Basho nhưng mãi đến cuối thế kỷ XIX mới được nhà thơ Shiki định danh
là haikư. Thực ra, nguồn gốc, con đường phát triển, định hình và định danh rồi lại
phát triển của ba thể này cần những công trình nghiên cứu công phu tường tận.
Chẳng hạn như thể thơ lục bát ở ta quá chừng quen thuộc nhưng nguồn gốc của nó
cũng còn nhiều ý kiến tranh luận.
Nguồn gốc, con đường phát triển khác nhau của ba thể thơ này cũng phản ảnh vị
trí, số phận của chúng trên văn đàn của mỗi dân tộc cũng như ảnh hưởng của chúng
đến văn học các dân tộc khác. Trong thơ ca của ba dân tộc Trung Quốc, Nhật Bản,
Việt Nam ba thể thơ này đều có vị trí quan trọng nhưng ảnh hưởng của chúng đối
với thơ ca các nước ngoài thì rất khác nhau. Hình thành từ rất sớm (thế kỷ VI), lại
theo con đường ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đến các nước láng giềng “đồng
văn”, thơ tuyệt cú được các nhà thơ Nhật Bản, Việt Nam tiếp thu từ rất sớm, có thể
nói là ngay từ buổi đầu xây dựng nền thơ ca dân tộc. Nhật Bản, từ thế kỷ thứ VII đã
xuất hiện thơ tuyệt cú bằng chữ Hán và cho đến thế kỷ XIX, thơ tuyệt cú vẫn chiếm
tỉ lệ rất cao trong thơ chữ Hán của người Nhật (chẳng hạn trong cuốn Nhật Bản Hán

thi hiệt anh có 1.451 bài thơ thì thơ tuyệt cú có đến 906 bài, chiếm tỉ lệ 61%). Ở
Việt Nam, trong văn học viết, thơ tuyệt cú cũng rất phổ biến. Trong thơ Lý - Trần
tức là thơ chủ yếu sáng tác bằng chữ Hán, thơ tuyệt cú chiếm tỉ lệ rất cao (nếu
không nói là áp đảo). Thơ haikư thì cho đến thế kỷ XIX, trước Minh Trị duy tân,
chủ yếu chỉ được lưu hành trên đảo quốc Phù Tang. Nhưng cuối thế kỷ XIX sang
thế kỷ XX, theo đà phát triển của kinh tế xã hội Nhật Bản, cùng với sự tiêu thụ hàng
hóa Nhật Bản, thể thơ haikư cũng được nhiều nhà thơ nước ngoài biết đến và nhiều
người đã tiếp thu thể thơ này. Còn thơ lục bát dường như vẫn chưa vượt được lũy
tre xanh Việt Nam. Sự khác biệt về khả năng và phạm vi ảnh hưởng của ba thể thơ

14


này là do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản vẫn là do đặc điểm về
cách luật của ba thể thơ này và đặc điểm ngôn ngữ dân tộc. Tuy cùng là thơ cách
luật nhưng trong ba thể thơ này mức độ chặt chẽ của cách luật có khác nhau. Có lẽ
cách luật của thơ lục bát là chặt chẽ nhất, cách gieo vần cũng phức tạp hơn. Mặc dù
có chấp nhận biến thể nhưng về cơ bản là cặp câu lục bát đòi hỏi gieo cả vần chân,
vần lưng và chỉ gieo vần bằng, gần như là thuần âm. Điều này khiến lục bát không
thể “vào” được các nền thơ của ngôn ngữ đa âm và không có thanh điệu.
Có một sự khác biệt khá rõ nữa giữa hai thể thơ tuyệt cú, haikư với thể lục bát. Ở
điểm này thì ưu thế lại thuộc về lục bát. Lục bát, ở hình thức tối thiểu của nó chỉ là
một cặp hai câu 14 âm vẫn hoàn toàn có thể tự thành một đơn vị tác phẩm như hàng
ngàn “bài” ca dao chúng ta thường gặp. Nhưng do đặc điểm vừa gieo vần chân vừa
gieo vần lưng của nó, lục bát còn có khả năng “lắp ghép” để thành một bài thơ dài
như Lỡ bước sang ngang hoặc lắp ghép với thể thơ song thất lục bát, rồi các chu kỳ
song thất lục bát lại được lắp ghép, làm thành những khúc ngâm trường thiên
như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Ba mươi năm đời ta có Đảng… Đặc biệt,
người ta có thể viết truyện thơ bằng cách lắp ghép hàng ngàn (hoặc vô số) cặp câu
lục bát lại. Khả năng “sinh nở”, lắp ghép này không thấy có ở tuyệt cú và haikư.

Người ta có thể sáng tác liền một hơi hai vạn bài haikư nhưng không thành một
truyện thơ. Người ta có thể sáng tác từng chùm tuyệt cú xoay quanh một chủ đề
như Hí vi lục tuyệt cú của Đỗ Phủ, Luận thi thi của Triệu Dực, chùm 100 bài Giang
hành vô đề nhất bách thủ, chùm 315 bài Kỷ Hợi tạp thi của Củng Tự Trân, nhưng
cũng không phải là truyện thơ. Nghĩa là thơ haikư và tuyệt cú không lắp ghép được.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lắp ghép các chu kỳ lục bát thành truyện
thơ, nhưng hai nguyên nhân có thể coi là cơ bản: một là khả năng “sinh nở” bằng
cách lắp ghép của thể thơ lục bát; một nữa là nhu cầu sáng tác những câu chuyện
(tiểu thuyết) trường thiên, nhưng ở thời trung đại trong văn học Việt Nam thể tài
văn xuôi tự sự chưa kịp phát triển. Người ta bèn dùng hình thức văn vần để sáng tác
truyện. Một điều thú vị là những truyện thơ đầu tiên của người Việt lại không phải
bằng thơ lục bát mà bằng thể thơ Đường luật, như Truyện Vương Tường, Tô Công

15


phụng sứ. Nhưng những thử nghiệm ấy đã không thành công. Chứng cớ là sau đó
không ai làm theo lối ấy nữa và những tác phẩm ấy chỉ được các nhà nghiên cứu
nhắc đến trong văn học sử chứ không được lưu truyền rộng rãi về sau. Lục bát được
thử nghiệm trong diễn ca lịch sử, trong truyện Nôm bình dân thành công, rồi các
nhà thơ lớn cũng dùng nó để viết truyện thơ. Trong ba thể thơ tuyệt cú, haikư và lục
bát, chỉ có lục bát được dùng để sáng tác tác phẩm tự sự trường thiên. Đó là cái
năng lực biến hoá, co giãn tùy nhu cầu của thể lục bát. Thế rồi, đôi khi người ta rút
từng cặp sáu tám ra nó vẫn có thể đứng độc lập có nghĩa được. Chẳng hạn: “Tiếc
thay chút nghĩa cũ càng/ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng” (Truyện Kiều); “Trai
thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình” (Lục Vân Tiên).
“Khắc xuất khắc nhập” thật linh hoạt. Có so ra như thế mới thấy cái sở trường kỳ
diệu của lục bát Việt Nam.
1.2. Tình hình nghiên cứu thơ lục bát
1.2.1. Nghiên cứu các vấn đề chung của thơ lục bát

Khảo sát những tài liệu liên quan đến đề tài, chúng tôi nhận thấy có hai khuynh
hướng chính nghiên cứu các vấn đề chung của thơ lục bát:
1.2.1.1. Khuynh hướng nhận xét, đánh giá tổng quan về thơ lục bát
Lục bát có từ ngàn đời, có sức sống mãnh liệt. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi gọi lục
bát là “hơi thở” của người Việt. Còn nhà văn Nguyễn Tuân lại lấy thơ lục bát làm
tiêu chuẩn đánh giá tài năng của một nhà thơ Việt: “Anh là nhà thơ Việt Nam ư?
Vậy hãy chiềng ra cho tôi mấy câu lục bát của anh, tôi sẽ nói cho anh ngay anh là
hạng thi sĩ như thế nào”. Rất nhiều thi nhân tài danh và biết bao “thi sĩ thảo dân” đã
sáng tác thơ lục bát. Trên các báo, tạp chí mỗi năm đăng tải hàng trăm, hàng ngàn
bài thơ viết theo thể lục bát. Đồng thời cũng có không ít đầu sách thơ lục bát của
các nhà thơ được xuất bản, càng khẳng định lục bát luôn được duy trì, ngày càng
phát triển. Năm 1998, sau cuộc thi thơ lục bát, báo Giáo dục và thời đại phát hành
ấn phẩm Những tác phẩm vào chung khảo cuộc thi thơ lục bát. Năm 2000, NXB
Văn hoá Thông tin in Tuyển tập thơ lục bát Việt Nam do Quang Huy, Nguyễn Bùi
Vợi, Võ Văn Trực tuyển chọn. Với sự kiện kỷ niệm Đại lễ 1.000 năm Thăng Long -

16


Hà Nội, nhiều báo, tạp chí đã phát động cuộc thi làm thơ theo thể lục bát với chủ đề
“Ngàn năm thương nhớ”, thu hút đông đảo người yêu thơ tham gia. Sau 6 tháng
phát động, Ban Tổ chức đã nhận được trên 15.500 tác phẩm dự thi của hơn 1.000
tác giả. Đầu tháng 7 năm 2010, Ban Tổ chức cuộc thi đã trao 4 giải Nhì (không có
giải nhất), 7 giải Ba, 7 giải Tư cho các tác giả đoạt giải. Có thể nói, thơ lục bát
mang tính kế thừa, nó đang phát triển như chính những dòng sông vẫn không ngừng
chảy. Chính sự mượt mà, đằm thắm, du dương, giàu xúc cảm của thể lục bát đã giúp
cho nó luôn có sức sống lâu bền trong lòng các thế hệ người dân Việt Nam, luôn
đứng ở vị trí quan trọng, đặc biệt trong nền thơ ca nước nhà. Với những ý nghĩa đó,
thơ lục bát đang được Câu lạc bộ Thơ Việt Nam đề nghị với Nhà nước công nhận là
Quốc Thi, sau đó sẽ tiếp tục đề nghị với UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi

vật thể của thế giới.
Vì sao chúng ta tôn vinh thơ lục bát? Vì thơ lục bát có quốc tịch Việt Nam và chỉ
ở Việt Nam ta mới có thơ lục bát. Đại thi hào lục bát Việt Nam được cả hành tinh
này tôn vinh là Danh nhân văn hóa thế giới. Thơ lục bát là nơi hội tụ tinh hoa của
thơ ca dân tộc, bản sắc văn hoá dân tộc. Trong bài Sức sống mãnh liệt của thơ lục
bát, Chu Văn Sơn viết: “Lục bát là phương tiện phổ dụng để người Việt giải toả tâm
sự, ký thác tâm trạng, thăng hoa tâm hồn. Gắn với tiếng Việt, gắn với hồn Việt, thơ
lục bát đã thuộc về bản sắc dân tộc này... Lục bát mãi mãi là một tài sản thiêng liêng
của nền văn hoá Việt. Chừng nào thế giới còn chưa thấu tỏ vẻ đẹp của lục bát,
chừng ấy họ chưa thực sự hiểu vẻ đẹp của thơ Việt. Và, chừng nào ta còn chưa làm
cho thế giới tiếp nhận được vẻ đẹp của lục bát, chừng ấy nền thơ Việt vẫn còn chưa
thực sự làm tròn sứ mạng của mình” (lucbat.vn, 29/12/2013).
1.2.1.2. Khuynh hướng nghiên cứu nguồn gốc, lịch sử, đặc trưng thể loại của thơ
lục bát
Chu Xuân Diên trong Tục ngữ Việt Nam khẳng định sự ra đời của lục bát có chịu
ảnh hưởng và khả năng nhiều bắt nguồn từ trong tục ngữ: “Tục ngữ (vần và nhịp) là
nguồn gốc ra đời lục bát và song thất lục bát”. Bửu Cầm, trong bài Ca dao, nền tảng
văn học dân tộc (Nội san Viện khảo cổ, số 2, Sài Gòn, tháng 3/1956), khẳng định:

17


“Lục bát sinh thành từ ca dao”. Các nhà nghiên cứu Hoa Bằng, Nguyễn Đổng
Chi,… cũng có ý kiến tương tự. Khi viết bài Thể lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều,
Nguyễn Văn Hoàn đã ngầm thừa nhận rằng lục bát bắt nguồn từ ca dao (Tạp chí
Văn học, số 1/1974). Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức tuy chưa đổ nhiều công sức
nhưng cũng đã quan tâm đến vấn đề này trong việc khẳng định lục bát là thể thơ dân
tộc (Thơ ca Việt Nam - hình thức và thể loại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978).
Nguyễn Xuân Kính khi dành 20 trang viết để khảo sát thể thơ này trong ca dao, dù
chỉ phác thảo sơ bộ, cũng ngầm định thể lục bát là thể thơ dân gian (Thi pháp ca

dao, Nxb Đại học và THCN, Hà Nội, 1991). Trong bài viết Đi tìm nguồn gốc thể
lục bát Việt Nam (Tạp chí Văn học, số 6/2004), Nguyễn Xuân Đức đã rất công phu
tìm hiểu, so sánh quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu và đi đến kết luận: “Cả trong
tục ngữ lẫn trong ca dao người Việt vẫn còn lưu giữ rất nhiều dấu tích của quá trình
hình thành, hoàn thiện thể thơ lục bát Việt Nam. Hay nói cách khác, những gì đã
được hoàn thiện trong thể lục bát ngày nay đều in dấu bàn tay sáng tạo của người
Việt qua tục ngữ, ca dao. Thể thơ lục bát Việt Nam do người Việt sáng tạo ra đầu
tiên trong văn học dân gian và được góp sức hoàn thiện thêm bởi nền văn học viết”.
Phan Diễm Phương dù chỉ nghiên cứu thể lục bát trong loại hình văn học viết cũng
đã đặt ra vấn đề trên một phương pháp luận khoa học (Lục bát và song thất lục bát lịch sử phát triển, đặc trưng thể loại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998).
Về diễn trình lịch sử của thơ lục bát, Phan Ngọc viết Thể thơ lục bát - một vài
suy nghĩ (Báo Giáo dục và thời đại, số 32/1996), Nguyễn Duy Bắc viết Bản sắc dân
tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại (Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1998), Mã Giang
Lân viết Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000), Ngô Văn
Phú viết Thơ lục bát sẽ đi tới đâu (lucbat.vn, 17/9/2013). Các nhà nghiên cứu tập
trung sự chú ý để phân tích làm rõ khả năng phát triển cũng như sự biến đổi linh
hoạt, tài tình của thể thơ lục bát. Trong bài viết Thể lục bát từ ca dao đến Truyện
Kiều [67], Nguyễn Văn Hoàn đã có những khẳng định về sự tiến triển đi lên và đổi
thay của lục bát Việt Nam. Phạm Quốc Ca trong Mấy vấn đề thơ Việt Nam 1975 -

18


2000 [16] cũng phác hoạ sự vận động của thể thơ lục bát qua các giai đoạn của thế
kỷ XX.
Nói về cách làm thơ lục bát và phân tích những đặc trưng nghệ thuật của thơ lục
bát có Cách làm thơ lục bát (Nguyễn Bính, Nxb Văn nghệ, 1955), Khảo luận luật
thơ (Lam Giang, Sơn Quang xuất bản, Sài Gòn, 1967), Chung quanh mấy quan
niệm về luật bằng trắc trong thơ lục bát (Hồng Diệu, Tạp chí Văn học, số 4/1986),
Tiếng Việt và thể thơ lục bát (Nguyễn Thái Hòa, Tạp chí Văn học, số 2/1999), Giới

thiệu các thể thơ, luật thơ và cách làm thơ (Hoàng Xuân Soạn, Nxb Văn hoá dân
tộc, Hà Nội, 2004) v.v… Thơ lục bát mới mẻ bởi nó đan xen giữa cổ điển với hiện
đại, giữa mộc mạc của dân gian với uyên thâm của bác học, giữa say đắm của tình
cảm với tỉnh táo của lý trí. Vì vậy nó không chỉ khẳng định được vị trí của mình
trong cái bộn bề của các thể thơ mà nó ngày càng độc đáo, hấp dẫn và cuốn hút bạn
đọc. Tuy nhiên, việc làm thơ lục bát không phải là một công việc đơn giản: “Lục bát
là thể thơ ngỡ như dễ làm, ai cũng làm được nhưng để đạt tới hay thì khó thay, nếu
không nói là khó nhất” (Nguyễn Quang Sáng). Người làm thơ lục bát nếu dụng
công quá, “khôn chữ quá” thì không hay bởi nó thiếu tự nhiên, nó bị gò ép trong cái
khuôn âm luật chật hẹp nhưng đồng thời nếu dễ dãi quá nó cũng “dễ tuồn tuột trở
thành bài thơ thường” (Đinh Nam Khương). Lục bát là một thể thơ có nhiều thành
tựu và chứa đựng trong nó nhiều khả năng biến đổi, cách tân. Vấn đề âm luật, vần,
ngôn ngữ, nhịp điệu, chức năng,… của lục bát đã được xem xét và nghiên cứu dưới
nhiều góc độ, có nhiều công trình công phu dày công tìm hiểu và đưa ra những nhận
xét chính xác, khái quát, như bài viết của Võ Bình (Vần trong thơ lục bát, Tạp chí
Ngôn ngữ, số 2/1985), Mai Ngọc Chừ (Vần, nhịp, thanh điệu và sức mạnh biểu hiện
ý nghĩa của lục bát biến thể, Tạp chí Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 2/1989),… Với
công trình Khảo sát một số đặc trưng ngôn ngữ thơ lục bát hiện đại, tác giả Hồ Văn
Hải đã nghiên cứu thể thơ lục bát dưới góc độ của chuyên ngành ngôn ngữ. Thơ lục
bát có một phẩm chất thẩm mỹ đặc biệt, kết tinh tinh hoa văn hoá - ngôn ngữ dân
tộc, nó thể hiện cảm thức cộng đồng ở mọi thời đại, vì thế nó đồng hành với tiến
trình phát triển văn hoá xã hội.

19


×