Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.35 KB, 29 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG NINH
TRƯỜNG THPT VŨ VĂN HIẾU
----------****----------

KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY VĂN BẢN NGHỊ LUẬN
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10 THPT
Giáo viên
Tổ

Năm học 2016-2017
------***------1-

: Phạm Thị Hậu
: Khoa học xã hội 1


ĐỀ TÀI

KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY VĂN BẢN NGHỊ LUẬN
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10 THPT
I.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Trong chương trình Ngữ Văn lớp 10, bên cạnh việc lựa chọn các tác phẩm văn
học mang tính hình tượng, sử dụng hư cấu với một số thể loại chính như: thơ,
truyện, tiểu thuyết (gọi chung là văn bản nghệ thuật) là việc sử dụng tác phẩm văn
học không hư cấu được viết bằng nhiều thể loại khác nhau theo mỗi giai đoạn như:
nghị luận, sử kí, văn tế, phú, dân ca lịch sử,…Nếu như chương trình sách giáo
khoa trước đây ít chú ý thể loại văn nghị luận (giảng văn nghị luận) thì chương


trình mới xuất hiện khá nhiều loại này. Như vậy, vấn đề thể loại văn học được mở
rộng phạm vi, giáo viên và học sinh có điều kiện bao quát về hệ thống thể loại văn
học trong nhà trường. Đáng lưu ý nhất là thể loại văn nghị luận, việc giảng dạy và
tiếp nhận các tác phẩm thể loại này chưa được chú ý đúng mức.
Việc dạy và học văn bản nghị luận gặp nhiều khó khăn bởi các lí do sau:
- Mục đích của văn bản nghị luận: phát ngôn cho một tư tưởng, một quan
điểm, một chủ trương, một lập trường xã hội nhất định. Vì thế, nội dung thường là
các vấn đề có tính chất thời sự, chính trị, văn hoá, quốc gia, dân tộc, lịch sử,…
tương đối rộng với tầm hiểu biết phổ biến của học sinh.
- Hình thức: thường sử dụng hệ thống lập luận chặt chẽ, nhiều lí lẽ, đa dạng
về phương thức biểu hiện và các phương tiện nghệ thuật.
- Đặc điểm: khô khan, ít phù hợp với tâm lí và nhận thức của học sinh; ít tính
văn chương, khó đi vào cảm xúc của người đọc; ý tưởng thâm thuý khó nắm bắt,…
- Nguồn tư liệu bổ trợ khan hiếm.
Đề tài này hướng đến việc xây dựng một phương pháp dạy học nhằm thu hút
và giúp học sinh có hứng thú khi học văn nghị luận để việc nắm bắt nội dung các
tác phẩm nghị luận đạt hiệu quả cao.
2.Mục đích
Đề tài này hướng đến việc xây dựng một phương pháp dạy học văn nghị luận
phù hợp, thu hút sự chú ý của học sinh, nhằm nâng cao hiệu quả học tập.
3. Thời gian, địa điểm.
Phương pháp dạy học này được tiến hành nghiên cứu trong phạm vi thời
gian năm học 2016- 2017 với đối tượng học sinh khối 10.
4. Đóng góp về mặt thực tiễn.
Trong đề tài này, kinh nghiệm giảng dạy văn bản nghị luận trong chương
trình Ngữ văn 10, giáo viên và học sinh có cách tiếp cận văn bản nghị luận tốt nhất.
-2-


Kết quả của đề tài dựa trên việc phân tích, nghiên cứu vấn đề đổi mới phương pháp

dạy học của Bộ GD- ĐT kết hợp khảo sát thực tiễn dạy học hiện nay.
II.
PHẦN NỘI DUNG
1. Chương trình 1: Tổng quan
1. 1.Cơ sở lý luận
Văn nghị luận là một thể văn ra đời từ rất lâu. Ở Trung Hoa, văn nghị luận
có từ thời Khổng Tử (551- 479TCN). Ở Việt Nam, văn nghị luận cũng là một thể loại
có truyền thống lâu đời, có giá trị và tác dụng hết sức to lớn trong trường kì lịch sử,
trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Có thể kể từ Chiếu dời đô(1010) của Lí
Công Uẩn (Lí Thái Tổ), Hịch tướng sĩ (1285) của Trần Quốc Tuấn cho đến Bình
Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trãi; từ bài Tựa Trích diễm thi tập (1497) của
Hoàng Đức Lương, Chiếu cầu hiền (1788) của Ngô Thì Nhậm đến bản điều trần
Xin lập khoa luật (1867) của Nguyễn Trường Tộ; Chiếu Cần Vương (1885) đến
Hịch đánh Pháp sau này…
Có thể nói trong suốt trường kì lịch sử dân tộc, văn nghị luận là một thể văn
phản ánh rõ nhất đời sống tinh thần, tư tưởng, ý chí và khát vọng của cả một dân
tộc. Do đó, văn nghị luận ngày càng phát triển mạnh mẽ, càng trở nên đa dạng và
phong phú hơn.
Nội dung và cấu trúc của một văn bản nghị luận được hình thành từ các yếu
tố cơ bản là: Vấn đề cần nghị luận (còn gọi là luận đề), luận điểm, luận cứ và lập
luận (còn gọi là luận chứng). Như vậy, do văn nghị luận trình bày tư tưởng và
thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lí lẽ và lập luận nên hệ thống các luận điểm
hết sức chặt chẽ và luận cứ cũng phải xác đáng. Cho nên khi dạy loại văn bản này,
người dạy nhất thiết bao giờ cũng phải khai thác hệ thống luận điểm, luận cứ và
cách lập luận của văn bản. Tuy nhiên nếu chỉ đơn thuần khai thác các hệ thống luận
điểm như lâu nay chúng ta vẫn làm thì bài học trở nên khô khan, khó gợi được
hứng thú tích cực cho học sinh. Vì vậy trong khuôn khổ của một sáng kiến kinh
nghiệm nhỏ, tôi xin được đề xuất một số giải pháp mang tính bổ trợ để những giờ
đọc – hiểu văn bản nghị luận thêm sinh động.
1.2. Cơ sở thực tiễn

Xu thế hội nhập quốc tế hiện nay đang đặt mỗi cá nhân trước nhiều thách
thức mới, nhất là các vấn đề chính trị xã hội. Việc tiếp nhận các văn bản nghị luận
trong nhà trường góp phần không nhỏ trong việc hình thành hệ thống quan điểm,
tư tưởng cho thế hệ trẻ trong việc xử lí các vấn đề đặt ra của cuộc sống một cách
đúng đắn, vừa phù hợp với tinh thần thời đại mới, vừa đảm bảo tinh thần quốc gia,
dân tộc.
Trong khi đó, những văn bản nghị luận lại được giảng dạy và tiếp nhận với
tư cách là tác phẩm văn học, vì thế, cái khó của người dạy là vừa đảm bảo tính
khách quan của tác phẩm, vừa truyền lại những rung cảm của văn bản với tư cách
-3-


là một sáng tạo nghệ thuật thật sự. Chính vì tầm quan trọng của thể loại, sự khó
khăn của giáo viên khi giảng dạy, tôi xin được đề xuất một vài kinh nghiệm có tính
chất cá nhân góp phần đổi mới hướng nghiên cứu và giảng dạy môn Văn trong nhà
trường qua đề tài: “Kinh nghiệm giảng dạy những văn bản nghị luận trong
chương trình Ngữ Văn lớp10”.
2. Chương 2: Nội dung vấn đề nghiên cứu
2.1. Thực trạng
2.1.1 Hệ thống văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn 10
Bộ

SGK

bản

Thể
Loại

Tên văn bản


Tác giả

Năm

Trang

Chính
trị

Đại cáo bình Ngô

Nguyễn Trãi

Cuối
1427

Tập 2
tr.16

Tựa “Trích diễm thi tập” (trích)

Hoàng Đức
Lương

1497

Tập 2
tr.28


Thân Nhân
Trung

1484

Tập 2
tr.31

Ngô Sĩ Liên

Nhà
Trần

Tập 2
tr.41

Văn
hoá
XH

Nhân
vật
Lịch
sử

Hiền tài là nguyên khí
của quốc gia
(Trích Bài kí đề danh tiến sĩ
khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại
Bảo thứ ba) Đọc thêm

Hưng Đạo đại vương
Trần Quốc Tuấn
(Trích Đại Việt sử kí toàn thư)

2.1.2. Kết quả khảo sát và những nhược điểm còn tồn tại trong dạy và học:
Đối với việc dạy học Văn ở các cấp học nói chung và ở trường học phổ thông
nói riêng, việc làm sao để đảm bảo được nội dung kiến thức bài học mà đồng thời
học sinh lại phải chủ động chiếm lĩnh kiến thức bài học theo yêu cầu đổi mới về
phương pháp hiện nay quả thật là điều không dễ thực hiện. Văn học là khoa học
nhưng cũng là nghệ thuật, vì vậy việc dạy văn đòi hỏi người giáo viên phải vận
dụng nhiều kĩ năng, trong đó không chỉ là kiến thức mà đòi hỏi cả sự sáng tạo, linh
hoạt của người giáo viên ở mỗi bài dạy cụ thể. Sự chuẩn bị kĩ càng cho việc lên lớp
của người giáo viên từ khâu chuẩn bị - tức là phần thiết kế bài dạy - là một trong
những yếu tố góp phần không nhỏ vào hiệu quả của tiết học, đặc biệt là với những
tiết học đọc văn, trong đó có những văn bản nghị luận.
Trước thực tế đó, tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về phía học sinh lớp 10
của trường để các em phát biểu những cảm nhận và nêu ý kiến, nguyện vọng của
-4-


mình khi tiếp cận các văn bản nghị luận. Nội dung câu hỏi là: Em có cảm nhận
như thế nào khi học những văn bản nghị luận?
Kết quả :
+ 78,62% học sinh trả lời: Văn bản nghị luận có ý nghĩa, thực tế nhưng đa
phần dài, khô khan, khó nhớ nên không thích học bằng các văn bản thuộc
thể loại khác.
+ 6,39 % học sinh trả lời: có thích học nhưng chưa thật sự hiểu.
+ 14,99 % học sinh trả lời: không hiểu gì, không thích học.
Kết quả trên cho thấy, phần đa học sinh không thích học văn bản thuộc thể
loại nghị luận. Tuy nhiên, có đến 78,62% học sinh nhận ra ý nghĩa của văn bản

nghị luận, nghĩa là nguyên nhân các em không thích học các văn bản này là do
chưa thực sự hứng thú với giờ học mà thôi.
Từ thực trạng trên, cộng với kinh nghiệm giảng dạy cá nhân, tôi nhận thấy
trong dạy và học văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn lớp 10 còn tồn tại
những nhược điểm sau:
* Phía người dạy:
-Tâm lí: ít hứng thú, chưa coi trọng, giờ dạy ít hào hứng.
- Cách truyền đạt: chú ý tính nội dung văn bản nhiều hơn tính nghệ thuật, vì thế,
giờ dạy thiên về lí trí hơn việc biểu đạt những xúc cảm thẩm mĩ.
- Kết quả: nghiêng về những thông tin, dư âm của những rung cảm thẩm mĩ hạn
chế.
*Phía người học:
- Tâm lí tiếp nhận: nghiêng về tìm hiểu những thông tin hơn là việc biểu lộ cảm
xúc.
- Cách tiếp nhận: nghiêng về mặt xã hội, chính trị.
-Kết quả: giờ học tác phẩm thành giờ tìm hiểu lịch sử.
Với khối lượng văn bảnkhá nhiều và thực tế dạy - học nêu trên, tôi đề xuất
một số giải pháp bước đầu mà bản thân thấy có hiệu quả trong quá trình giảng
dạy.
2.2 Giải pháp thực hiện:
2.2.1. Xuất phát từ đặc trưng phong cách thể loại mà triển khai văn bản trên
các phương diện: đề tài, chủ đề (mục đích), hình thức, nội dung, ý nghĩa,… Thể
loại nghị luận (tức văn chính luận) có các đặc điểm cơ bản sau đây:
* Khái niệm:
Phong cách (PC) ngôn ngữ chính luận là PC được dùng trong lĩnh vực chính
-5-


trị xã hội. Người giao tiếp ở PC này thường bày tỏ chính kiến, bộc lộ công khai
quan điểm chính trị, tư tưởng của mình đối với những vấn đề thời sự nóng bỏng

của xã hội. Ðây là khái niệm ít nhiều mang tính truyền thống và việc phân giới
giữa phong cách này với PC ngôn ngữ khoa học, PC ngôn ngữ báo chí vẫn còn một
số quan niệm chưa thống nhất.
Ví dụ:
Tác phẩm

Đại cáo bình Ngô
(Nguyễn Trãi)

Tựa “Trích diễm thi
tập”
(Hoàng Đức Lương)

Lĩnh vực

Chính trị

Văn hoá
xã hội

Quan điểm, tư tưởng
- Vạch trần âm mưu xâm lược, lên
án chủ trương cai trị thâm độc, tố
cáo mạnh mẽ những hành động độc
ác của giặc Minh.
- Đứng trên quan điểm nhân nghĩa
của nhân dân: lấy dân làm gốc, coi
trọng tư tưởng nhân đạo, nhân bản
cao cả làm nền tảng cho hành động.
- Đau xót trước thực trạng bảo tồn

sách vở và thơ ca Việt Nam đương
thời. Từ đó nhận thấy nhu cầu bức
thiết phải biên soạn sách.
- Đứng trên quan điểm của cái đẹp.

Hiền tài là nguyên
khí của quốc gia
(Thân Nhân Trung)
Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc
Tuấn

Văn hoá
Xã hội

(Ngô Sĩ Liên)

- Coi giáo dục là quốc sách hàng
đầu bởi “một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu”.

Nhân vật
lịch sử

- Ca ngợi người anh hùng tài năng,
trung quân, trọng dân, chính trực,
chân thành, thẳng thắn.

Nhân vật
Lịch sử


- Ca ngợi người anh hùng trung
thực, thẳng thắn, độ lượng, nghiêm
minh, chí công vô tư.

(Ngô Sĩ Liên)
Thái sư Trần Thủ
Độ

- Phải biết quý trọng hiền tài bởi nó
có mối quan hệ sống còn đối với
việc thịnh suy của đất nước.

* Chức năng và đặc trưng:
- Chức năng:
-6-

Ghi chú


PC chính luận có ba chức năng: thông báo, tác động và chứng minh. Chính vì
thực hiện các chức năng này mà ta thấy PC ngôn ngữ chính luận có sự thể hiện
đặc trưng và đặc điểm ngôn ngữ có nét giống với các loại phong cách ngôn ngữ
khác.
Ví dụ : Chức năng một số văn bản nghị luận.
Tác phẩm

Chức năng
Thông báo


Tác động

- Chiến thắng giặc
Minh và nền dân
chủ thái bình. Kết
thúc chiến tranh.
Đại cáo bình Ngô
(Nguyễn Trãi)

Tựa “Trích diễm
thi tập”
(Hoàng Đức
Lương)

Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc
Tuấn
(Ngô Sĩ Liên)

Chứng minh

- Niềm tự hào dân - Nêu tư tưởng
tộc và ý thức bảo nhân nghĩa và chân
vệ nền dân chủ lí độc lập của dân
thái bình.
tộc.

- Sức mạnh của tư - Tư tưởng nhân - Kể tội ác của giặc
tưởng nhân nghĩa nghĩa trong mỗi (kẻ thù phi nghĩa).
kết hợp với sức người.

- Kể lại diễn biến
mạnh của lòng yêu
cuộc kháng chiến
nước.
khó khăn (Đại Việt
chính nghĩa).
- Lí do vì sao làm - Thái độ trân - Thu thập sưu
“Trích diễm thi trọng và bảo lưu tầm, thu lượm tác
tập”.
cái đẹp của mỗi phẩm qua các thời
kì lịch sử.
- Quá trình hoàn người.
thành, nội dung và - Niềm tự hào dân
kết cấu.
tộc, tình cảm xót
xa trước sự tàn lụi
của cái đẹp.
- Thời gian viết, họ
tên, chức danh,
quê quán, tên hiệu
người viết.

- Tuyển chọn, sắp
xếp, đặt tên sách.
- Đưa thêm các bài
thơ của mình vào
phần cuối tác
phẩm.

- Tên tuổi, địa vị - Lòng cảm phục - Đưa ra các chứng

người anh hùng và sự ngưỡng mộ cứ về tài năng và
dân tộc.
của mỗi người.
phẩm chất, đức độ.
- Lịch sử người - Tấm lòng với non
anh hùng dân tộc sông, tổ quốc, khí
qua các thời kì.
phách anh hùng
trong mỗi người.

-7-

- Dùng các quan hệ
làm sáng tỏ chân
dung, những tình
huống làm sáng tỏ
nhân cách.


- Ðặc trưng: PC chính luận có ba đặc trưng.
+ Tính bình giá công khai: Người nói, người viết bao giờ cũng bộc lộ công
khai, rõ ràng trực tiếp quan điểm, thái độ của mình đối với sự kiện. Ðây là đặc
trưng khu biệt PC ngôn ngữ chính luận với PC ngôn ngữ khoa học và PC ngôn ngữ
nghệ thuật. Nếu văn chương là bình giá gián tiếp, khoa học là tránh sự thể hiện
những yếu tố cảm tính chủ quan thì ngôn ngữ của PC chính luận bao giờ cũng bộc
lộ trực tiếp quan điểm, thái độ của mình về một vấn đề thời sự của xã hội. Sự bình
giá này có thể là của cá nhân hoặc nhân danh một tổ chức, đoàn thể chính trị nào
đó.
+ Tính lập luận chặt chẽ: Ðể bày tỏ chính kiến, giải thích, thuyết phục và động
viên mọi người tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thời sự nóng hổi của đất

nước, sự diễn đạt ở PC này đòi hỏi có tính chất lập thuyết. Nghĩa là phải bằng
những lí lẽ đúng đắn, có căn cứ vững chắc, dựa trên cơ sở những luận điểm, luận
cứ khoa học mà đấu tranh, thuyết phục, động viên. Tính lập luận chặt chẽ thể hiện
ở việc khai thác những quan hệ chiều sâu giữa hình thức ngôn ngữ và mục đích
biểu đạt. Một văn bản chính luận hay thường là những văn bản chứa đựng nhiều
hàm ý sâu sắc, có sức chinh phục lòng người, có sức cuốn hút mãnh liệt.
+ Tính truyền cảm: PC ngôn ngữ chính luận có tính truyền cảm mạnh mẽ, thông
qua sự diễn đạt hùng hồn, sinh động, có sức hấp dẫn và đạt hiệu quả cao, thuyết
phục cả bằng lí trí và tình cảm, đạo đức. Ðặc trưng này tạo nên sự khu biệt giữa PC
ngôn ngữ chính luận với PC ngôn ngữ khoa học và khiến PC này gần với PC ngôn
ngữ nghệ thuật. Trong văn bản chính luận, chúng ta thường bắt gặp các biện pháp
tu từ, những từ ngữ có đặc điểm tu từ cao nhằm gây ấn tượng mạnh mẽ về mặt âm
thanh và ý nghĩa.
Ví dụ : Đặc trưng một số văn bản nghị luận.
Đặc trưng
Tác phẩm
Đại cáo bình Ngô
(Nguyễn Trãi)

Tính bình giá

Tính lập luận

công khai

chặt chẽ

- Căm phẫn trước - Nêu tiền đề: chân
tội ác của giặc.
lí độc lập dân tộc

- Xót xa trước nỗi và tư tưởng nhân
khổ của dân, tự nghĩa.

Tính truyền cảm
- Các thủ pháp
nghệ thuật.

- Hình tượng kì vĩ
mang tầm vóc vũ
hào vui sướng - CM qua thực trụ, đa dạng.
trước chiến thắng tiễn: kẻ thù phi - Ngôn ngữ: sử
của ta.
nghĩa (tố cáo tội ác dụng các động từ
của giặc), Đại Việt mạnh, các tính từ
chính nghĩa (khởi
-8-


nghĩa Lam Sơn).

chỉ mức độ tối đa.

- Rút ra kết luận: - Giọng điệu đa
Sức mạnh của dạng, nhịp điệu
nhân nghĩa, độc linh hoạt
lập dân tộc đã
chiến thắng kẻ thù
xâm lược, tương
lai đất nước huy
hoàng.

- Xót xa trước lòng - Các lí do khiến - Chất trữ tình hoà
tự hào dân tộc bị thơ văn không lưu quyện chất nghị
tổn thương.
truyền hết ở đời.
luận.

Tựa“Trích diễm thi
- Khiêm tốn, nhún - Kết quả: đau xót,
tập”
nhường khi nói về tổn thương lòng tự
(Hoàng Đức
mình.
hào dân tộc dẫn
Lương)
đến việc sưu tầm,
tuyển chọn, biên
soạn để bảo tồn.

Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc
Tuấn
(Ngô Sĩ Liên)

- Cảm phục và
ngưỡng mộ sâu sắc
đến mức thần
thánh hoá.
- Tự hào sâu sắc.

- Giới thiệu lai - Lời kể hoà quyện

lịch.
hai yếu tố tự sự và
- Trình bày các nghị luận.
mối quan hệ làm
sáng tỏ chân dung
nhân cách, tài
năng.
- Sự hiển linh khi
mất.

* Ðặc điểm:
- Ngữ âm: Có ý thức hướng tới chuẩn mực ngữ âm. Khi phát biểu trong hội nghị
hoặc diễn thuyết trong mit tinh, ngữ điệu được xem là phương tiện bổ sung để tăng
thêm sức hấp dẫn, lôi cuốn người nghe.
- Từ ngữ:
+ Ðặc điểm nổi bật nhất là sự có mặt của lớp từ chính trị, thuật ngữ khoa học.
Đây chính là công cụ riêng của PC chính luận. PC chính luận đòi hỏi khi dùng từ
phải luôn luôn tỏ rõ lập trường, quan điểm, chỗ đứng và tình cảm, thái độ của
mình.
-9-


Ví dụ:
“Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,…”
(Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi)
+ Từ ngữ đòi hỏi sự minh xác cao. Ðề tài được đưa ra bàn luận ở PC ngôn ngữ

chính luận là những vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội cho nên khi cần thiết người
viết phải dùng tất cả các lớp từ ngữ có quan hệ đến đề tài này.
+ Khi cần bày tỏ sự đánh giá tình cảm của mình một cách mạnh mẽ đối với các
vấn đề nêu ra, người viết chọn lọc và sử dụng các đơn vị từ khẩu ngữ, bởi đây là
lớp từ giàu sắc thái ý nghĩa và sắc thái biểu cảm.
Ví dụ: “…trải qua mấy triều đại lâu dài, dẫu đến những vật bền như đá,
như vàng, lại được quỷ thần phù hộ, cũng còn tan nát trôi chìm. Huống chi bản
thảo sót lại, tờ giấy mỏng manh để trong cái níp, cái hòm, trải qua mấy lần binh
lửa, thì còn giữ mãi thế nào được mà không rách nát tan tành?” (Tựa “Trích diễm
thi tập” – Hoàng Đức Lương)
- Cú pháp:
+ Do phải thực hiện chức năng thông báo, chứng minh và tác động nên phong
cách chính luận dùng nhiều kiểu câu khác nhau: câu đơn, câu ghép, câu tường
thuật, câu nghi vấn, câu cảm thán.
+ Câu văn chính luận thường dài, có kết cấu tầng bậc làm cho tư tưởng nêu ra
được xác định chặt chẽ.
+ Ðể nhấn mạnh ý tưởng, gây sự chú ý ở người đọc, PC ngôn ngữ chính luận sử
dụng nhiều lối nói trùng điệp, phép điệp từ, điệp ngữ, các cách so sánh giàu tính
liên tưởng và tương phản để tăng cường độ tập trung thông tin và hiệu quả bình
giá, phán xét.
Ví dụ 1:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận tan tác chim muông…”
(Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi)

- 10 -



Ví dụ 2:
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi
lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp…”
(Hiền tài là nguyên khí của quốc gia – Thân Nhân Trung)
Tóm lại: việc vận dụng đặc điểm thể loại trong việc tiếp cận và giảng dạy các
văn bản nghị luận là phù hợp nhưng đòi hỏi sự linh hoạt và sáng tạo mới tiến hành
thiết kế giáo án hiệu quả, phải linh động trong việc kết hợp với các phương pháp
khác mới thực sự để lại dấu ấn cho học sinh qua mỗi bài học.
2.2.2 Vận dụng lịch sử giai đoạn xuất hiện tác phẩm để lí giải.
Với tư cách là một tác phẩm văn học, văn bản nghị luận cũng chịu sự chi
phối của điều kiện lịch sử xã hội. Những vấn đề phức tạp của lịch sử xuất hiện
thường tác động lớn đến đời sống, số phận con người. Tất cả đều trở thành nguồn
cảm hứng để người nghệ sĩ phản ánh, một mặt ghi lại những biến đổi của thời
cuộc, mặt khác, bày tỏ chính kiến, quan niệm và cách nhìn nhận, đánh giá của
mình. Vì vậy, tác phẩm bao giờ cũng truyền đến người đọc một tư tưởng, một thái
độ, thậm chí có tác dụng liên kết xã hội bằng những hành động cụ thể. Phân tích
các văn bản nghị luận nhất thiết phải tìm hiểu lịch sử xuất hiện của chúng mới hiểu
rõ và lí giải chính xác: Tác phẩm phản ánh vấn đề gì? Phản ánh để làm gì? Phản
ánh như thế nào? Tác phẩm có ý nghĩa ra sao với đương thời và hiện nay? Bài học
rút ra từ sự phản ánh đó?.v.v…
Ví dụ: Khái quát sơ bộ về lịch sử xuất hiện một số văn bản nghị luận trên như sau:
Tác phẩm

Đại cáo bình Ngô
(Nguyễn Trãi)

Tựa “Trích diễm
thi tập”
(Hoàng Đức
Lương)

Hiền tài là nguyên
khí của quốc gia
(Thân Nhân Trung)

Thời điểm

Xã hội
- Triều đại Hồ Quý Ly (1400-1407), Triều đại Hậu
Trần (1407-1413) với các phong trào khởi nghĩa
“Binh áo đỏ” (1410), Lam Sơn (1418).

Cuối 1427 - Triều đại Lê Sơ (1428-1527).
- Các nhân vật hào kiệt: Lê Lợi (Lê Thái Tổ), Lê
Lai, Nguyễn Trãi, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Lưu
Nhân Chú, Lê Liễu…

1497

1484

- Triều đại Lê Thánh Tông (1460-1497) có nhiều
đóng góp vào đời sống mọi mặt của quốc gia Đại
Việt, hoạt động sôi nổi trên nhiều lĩnh vực bởi
nhiều tài năng: tư tưởng cao siêu, anh minh quyết
đoán, hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, tay không
rời sách, từng sáng lập “Hội Tao đàn” gồm 28 tiến
sĩ giỏi thơ văn nhất nước thời đó. Lê Thánh Tông
là một nhà văn hoá lớn.
- 11 -



- Việc thi cử, giáo dục thời này thịnh đạt nhất
trong lịch sử giáo dục và khoa cử thời phong kiến
Việt Nam, nhiều công trình biên soạn tầm cỡ xuất
hiện: Đại Việt sử kí toàn thư (1479), Thiên Nam
dư hạ tập (hơn trăm bài thơ của Nguyễn Trãi cũng
được sưu tầm thời này).

Hưng Đạo đại
vương Trần Quốc
Tuấn
(Ngô Sĩ Liên)

Nhà Trần

- Các đời vua: Trần Thái Tông (1225-1258), Trần
Thánh Tông (1258-1278), Trần Nhân Tông (12791293), Trần Anh Tông (1293-1314), Minh Tông,
Hiến Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông, Duệ Tông, Phế
Đế, Thuận Tông, Hiếu Đế (1314-1400).
- Ba lần chống quân Mông Nguyên, xuất hiện các
nhân tài: Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần
Quang Khải, Trần Nhật Duật…

Tóm lại: Hiện tượng văn sử bất phân trong văn học trung đại Việt Nam là
cảm quan trong sáng tác nghệ thuật. Vì vậy, việc hiểu tường tận lịch sử là điều kiện
rất cần thiết để triển khai văn bản.
2.2.3. Bám sát nội dung và hình thức văn bản để triển khai.
Tìm hiểu, nghiên cứu bất cứ tác phẩm văn học nào người giảng dạy cũng phải
tiến hành trực tiếp trên hai phương diện nội dung và hình thức. Đây là những căn
cứ cụ thể và khoa học nhất để người tiếp nhận lĩnh hội tác phẩm. Dưới góc độ lí

luận văn học, nội dung và hình thức là hai phạm trù có mối quan hệ chặt chẽ, thống
nhất không thể tách rời, tác động qua lại, quy định tính chất tồn tại của nhau. Nếu
nội dung tác phẩm cho phép người đọc lí giải câu hỏi: tác phẩm viết về vấn đề gì,
mục đích, ý nghĩa, giá trị,… thì hình thức giúp người đọc lí giải tác phẩm viết như
thế nào, hiệu quả ra sao, tính thẩm mĩ, khả năng rung cảm và thuyết phục người
đọc thế nào,…
Khi bám sát văn bản trên hai phương diện này, cần chỉ ra:
- Về mặt nội dung: cần tìm hiểu và nắm đề tài, chủ đề, cảm hứng, hình
tượng của tác phẩm, các sự kiện, các chi tiết, tình tiết, biến cố… Xâu chuỗi chúng
lại theo những lôgic nhất định giúp người tiếp nhận lĩnh hội được tư tưởng, tình
cảm, thái độ, quan điểm, lập trường và giá trị của tác phẩm trên nhiều bình diện.
- Về mặt hình thức: cần tìm hiểu các hình thức diễn đạt và các phương tiện
diễn đạt như hệ thống ngôn từ (với các đặc tính: chính xác, biểu cảm, hàm súc,
hình tượng; các lớp từ, các loại từ…), hệ thống biện pháp nghệ thuật, cách thức lập
luận, nhịp điệu, giọng điệu, kết cấu. Mục đích cuối cùng là chỉ ra tác dụng của
chúng trong việc biểu hiện tư tưởng, tình cảm, thái độ…của người tạo lập, sức
thuyết phục của tác phẩm, qua đó mà đánh giá được tài năng và tấm lòng của
- 12 -


người tạo lập.
Hơn bất cứ hoạt động nào, việc phân tích trực tiếp văn bản đòi hòi người giáo
viên phải có năng lực thực sự, trình độ kiến thức nhiều mặt, phân tích có nghệ
thuật,… mới giải mã được các lớp ý nghĩa một cách toàn diện, thấu đáo. Bất cứ
một vấn đề nào, nếu được lí giải một cách sâu sắc, thấu tình đạt lí sẽ thuyết phục
được người đọc, từ đó mới xuất hiện những rung cảm thật sự để mà yêu mến, quý
trọng. Tất nhiên, vấn đề sẽ có sức sống dài lâu trong tâm trí người tiếp nhận, thậm
chí có thể hoá thân trong cách ứng xử, cảm quan người tiếp nhận.
2.2.4. Gia tăng chất “văn học” để giảm bớt tinh chất “lí luận khô khan, giáo
huấn” của các văn bản nghị luận.

“Chất văn học” ở đây nên hiểu là chất nghệ thuật. Mà thực chất của nghệ
thuật là tính trữ tình. Nghệ thuật thường được tạo lập và tác động đến người tiếp
nhận thông qua con đường tình cảm. Tình cảm có thể “chuyển hoá”, “mềm hoá”
mọi vấn đề để người tiếp nhận lĩnh hội một cách tự nguyện như một nhu cầu tinh
thần thực sự. Đây là yêu cầu thiết yếu của giáo viên ngay cả khi dạy những văn bản
nghệ thuật. Vì thế, đòi hỏi người giáo viên Ngữ văn phải có những phẩm chất, tư
chất nghệ thuật thật sự từ sự học tập, rèn luyện thường xuyên mới có được.
Để “gia tăng chất văn học” cho bài dạy các văn bản nghệ thuật, người dạy có
thể sử dụng nhiều cách: kể chuyện giai thoại, kể chuyện danh nhân, kể chuyện lịch
sử,… một cách lôi cuốn, hấp dẫn, đúng lúc, đúng chỗ, vừa kể vừa kèm theo những
lời bình luận sâu sắc, thấm thía ứng với một khía cạnh nào đó của bài học; vận
dụng những hiểu biết về văn hoá, nghệ thuật mỗi giai đoạn cũng là cách phụ hoạ
cho bài giảng thêm phong phú, sinh động; dùng những bài thơ, câu chuyện có tính
chất triết lí phù hợp với từng chi tiết của văn bản; cùng với giọng văn, khẩu khí,
động tác, cử chỉ, điệu bộ là cách diễn đạt lôi cuốn…luôn luôn khiến bài giảng trở
nên nhẹ nhàng, lan toả mà thấm sâu. (Tất nhiên, cần chú ý tính cân đối về thời
gian quy định cho mỗi bài).
2.2.5. Sử dụng vai trò tưởng tượng, liên tưởng của học sinh để hình tượng có
sức bay bổng và cảm hoá.
Theo tâm lí học, mỗi biểu hiện của tình cảm đều gắn với động cơ hoạt động
của con người. Tình cảm không tự nhiên bột phát mà thường do một điều kiện cụ
thể có tính xác định. Nếu tạo ra được hoàn cảnh “có vấn đề” sẽ làm nảy sinh cảm
xúc, sự kích thích của cảm xúc trong quá trình tri giác sẽ là điều kiện hoạt động
của trí nhớ và hình thành biểu tượng. Theo đó, hình dung, liên tưởng và tưởng
tượng càng được mở rộng. Nếu được đẩy mạnh, sự hút dẫn đối tượng vào bài học
càng lớn.
Liên tưởng, tưởng tượng của học sinh có các loại sau đây: tưởng tượng tái
hiện, sáng tạo, có phê phán, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát. Tuỳ thuộc vào
sự dẫn dắt, định hướng của giáo viên, sự liên tưởng và tưởng tượng của học sinh có
- 13 -



những biểu hiện cụ thể khiến bài học sinh động, hấp dẫn hơn. Vì thế, vai trò của
giáo viên là xây dựng câu hỏi (nghĩa là làm thay đổi tình thái của giờ học, hay nói
cách khác là mở ra tình huống “có vấn đề”, xác định tâm thế thực tại và đặt học
sinh vào các yêu cầu của việc nhận thức) để khai thác hết khả năng này của học
sinh. Vận dụng linh hoạt các dạng câu hỏi sau đây: phát hiện, tái hiện, phân tích, so
sánh, tranh luận, vận dụng kiến thức thông qua các hình thức:
- Liên tưởng hiện thực xác định tác phẩm trong quan hệ với hiện thực của đời
sống xã hội.
- Liên tưởng mối quan hệ giữa nhân vật và hoàn cảnh, không gian và thời gian
nghệ thuật, các nhân vật với nhau và với hoàn cảnh điển hình.
- Liên tưởng mối quan hệ giữa các chi tiết, tình huống nghệ thuật, các điểm sáng
thẩm mĩ cùng hoặc ngược chiều,…
- Tưởng tượng về khả năng phát triển của các hình tượng nghệ thuật trung tâm.
- Liên tưởng với các hình ảnh, hình tượng, biểu tượng của tác phẩm khác.
- Liên tưởng giọng điệu tác giả với thái độ tư tưởng, quan điểm nghệ thuật.
- Liên tưởng tâm trạng của tác giả khi lựa chọn một chi tiết hay hình ảnh tiêu biểu
của tác phẩm.
- Liên tưởng và tưởng tượng về điểm nhìn nghệ thuật của tác giả với hiệu quả nghệ
thuật của tác phẩm…
Ví dụ:
* Giả sử em là nhà thơ Nguyễn Trãi khi viết bài “Đại cáo bình Ngô”, lúc viết,
tâm trạng của em sẽ như thế nào? Em định biểu hiện ý tưởng gì?
* Theo em, nếu không có thực tế chiến thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi sẽ viết bài
cáo như thế nào? Nội dung có sự khác biệt ra sao?...
* Thử tưởng tượng em là Trần Quốc Tuấn, em sẽ nói thế nào khi Thánh Tông hỏi
về thế giặc? Đoạn hiển linh sẽ nói thế nào?..

- 14 -



Thực hiện: thiết kế bài học.
TỰA “TRÍCH DIỄM THI TẬP”
- Hoàng Đức LươngA.Mục tiêu
1.Kiến thức: - Hiểu được niềm tự hào sâu sắc và ý thức trách nhiệm của tác
giả trong việc bảo tồn di sản văn học của dân tộc.
- Nắm được nghệ thuật lập luận của tác giả.
2.Kỹ năng: - Rèn kĩ năng lập luận chặt chẽ để thể hiện quan điểm của người viết
một cách thuyết phục.
- Cách lập luận chặt chẽ kết hợp với tính biểu cảm.
3. Thái đô: Ý thức trách nhiệm trong việc bảo tồn di sản văn học của tiền nhân
và lời nhắc nhở các thế hệ sau hãy biết trân trọng và yêu quý di sản văn học của
dân tộc.
B.Chuẩn bị của GV&HS
- GV: SGK,G/án (Tập thơ “Sóng Hồng” với lời nói đầu do chính tác giả viết;
Tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu với lời nói đầu “Mấy ý nghĩ” do GS Đặng Thai Mai
viết.
Tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố với lời tựa của Nguyên Hồng hoặc Nguyễn
Tuân; Lời bạt hoặc lời nói đầu của một tác phẩm văn học nước ngoài (Tam quốc –
La Quán Trung, Thuỷ Hử - Thi Nại Am, Chiến tranh và hoà bình – L.Tônxtoi…)
C. Phương pháp
Nêu vấn đề, thuyết trình, phân tích, câu hỏi gợi mở vấn đề...
D. Tiến trình dạy học
1. Ổn định tổ chức :
2.Kiểm tra bài cũ:
-Nêu hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”?
- Đọc diễn cảm và phân tích một đọan tự chọn trong tác phẩm “Bình Ngô đại
cáo”?
- Giải thích vì sao bài cáo được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai trong ls

VN?
- Phân tích cơ sở và nguyên nhân chiến thắng của quân ta được nêu trong bài
cáo?
- Em hiểu thế nào là “bài tựa”? Kể tên một số bài tựa mà em biết?
3.Bài mới :


Dẫn vào bài mới:Sưu tầm và bảo tồn di sản văn hoá dân tộc là
- 15 -


công việc rất quan trọng và cần thiết nhưng cũng hết sức khó khăn, nhất là thời kì
xa xưa và sau chiến tranh. Là một trí thức đời Lê thế kỉ 15, Hoàng Đức Lương
(quê Văn Giang – Hưng Yên, đỗ tiến sĩ 1478) đã không tiếc công sức, thời gian để
làm công việc đó. Sau khi hoàn thành, năm 1497, ông đã tự viết một bài tựa ở đầu
sách nói rõ quan điểm và tâm sự của mình khi giới thiệu sách với bạn đọc.
Hoạt động của GV & HS

Nội dung cần đạt

HĐ1: Hướng dẫn tìm hiểu I. Tìm hiểu chung



tiểu dẫn.

1. Tác giả: Hoàng Đức Lương (?-?)

- GV: gọi một HS đọc phần tiểu dẫn sgk/tr.28
Sgk/ tr.28.

và đánh dấu những điểm chính về tác giả, tác
2. Tác phẩm: Sgk/ tr.28.
phẩm.
a. Hoàn cảnh ra đời và lời tựa của
+
GV: Tác phẩm ra đời
“Trích diễm thi tập”.
trong thời gian nào? Nêu những nét chính về
bối cảnh xã hội thời đại sản sinh ra tác
phẩm?


GV dựa vào sự hiểu biết của HS,
bổ sung những chi tiết về lịch sử thời Lê
Thánh Tông để HS có cái nhìn biện chứng
về MQH giữa tác phẩm và thời đại, bước
đầu suy luận được nội dung và ý nghĩa của
tác phẩm. Giới thiệu một vài bài thơ của
Lê Thánh Tông và hội Tao đàn.
Giai đoạn nửa sau thế kỉ
XV, thời Lê Thánh Tông: triều đại thịnh
trị nhất của nhà Lê và chế độ PKViệt
Nam về nhiều mặt: kinh tế phát triển,
XH ổn định, bờ cõi mở mang, nhiều
hiền tài (Lương Thế Vinh, Thân Nhân
Trung, Đỗ Nhuận…), văn chương được
trọng dụng (hội Tao Đàn do Lê Thánh
Tông lập gồm “Nhị thập bát tú” – 28
ngôi sao về thơ ca. Đây cũng là TK mà
tinh thần và ý chí độc lập dân tộc lên

cao. Sau chiến thắng quân Minh, ngoài
việc ổn định và phát triển kinh tế đất
nước, vua còn phục hồi danh dự và cho
sưu tầm các tác phẩm của Nguyễn Trãi, b. Nhan đề: Tuyển tập những bài
trong đó tập hợp được hàng trăm bài thơ hay.
thơ Nôm của Nguyễn Trãi thành “Quốc
- 16 -


Âm thi tập” (cùng với “Hồng Đức quốc
âm thi tập”)…Chính không khí ấy thôi
thúc Hoàng Đức Lương làm tuyển chọn
và viết bài tựa này.
- GV: Vì sao tác giả đặt tên tác phẩm là
“Trích diễm thi tập”? Em hiểu như thế nào về
nhan đề tác phẩm? Hãy giới thiệu ngắn gọn
về tác phẩm? Có thể nhận xét như thế nào về
việc làm này của tác giả, đặc biệt là đặt tác
phẩm vào thời điểm ngày ấy?


Do câu hỏi này HS đã chuẩn bị ở nhà
nên GV gọi 1 HS đại diện một nhóm trình
bày , các nhóm khác theo dõi và bổ sung.
Nhan đề:


Trích: tiếng Hán là chọn,
tuyển.






Diễm: sự kiều diễm, diễm
lệ, cái đẹp, cái hay ở mức độ cao.



Thi: thơ, diễm thi là những
bài thơ hay.

“Trích diễm thi tập”
là tập thơ tuyển chọn những bài thơ hay
Nội dung: Là tập thơ gồm 6
quyển do Hoàng Đức Lương sưu tầm,
tuyển chọn tác phẩm từ thời Trần đến
đời Lê thế kỉ XV, cuối tập là thơ của c. Thể loại “Tựa”
Trần Đức Lương. Bài tựa do ông viết
vào 1497.
Nhận xét:


Tuyển chọn này thể hiện
tấm lòng trân trọng đối với quá khứ,
là việc làm cụ thể rất có ý nghĩa
nhằm bổ cứu cho tình trạng mất mát
đáng tiếc trong lịch sử VHVN trước
thế kỉ XV.




Tuyển chọn này phản ánh
quan điểm tiến bộ và đúng đắn trong
- 17 -


cách lựa chọn của tác giả bởi nó bộc
lộ một bước tiến về lí luận thơ ca mà
sau tác giả không có được (do quan
điểm “văn dĩ tải đạo”)
- GV kiểm tra việc chuẩn bị lời giới thiệu về
tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu do GS Đặng Thai
Mai viết, so sánh với lời giới thiệu của Hoàng
Đức Lương về tác phẩm, từ đó rút ra nhận xét
về đặc điểm của “Tựa” - một thể loại văn học.
+

+

+

Trong lời giới thiệu
của GS Đặng Thai Mai về tập thơ có
những luận điểm nào? Từ đó, nêu đặc
điểm của thể loại “Tựa”?
GV giới thiệu nguồn
gốc và những đặc điểm của thể loại này.
GV lưu ý HS khi viết
lời “tựa” cho một công trình nghiên cứu,

một tập san do chính HS làm để gắn việc
học với thực tế hoạt động của đời sống.



Có nguồn gốc từ Trung Quốc (thời
Hán). Lúc đầu được đặt ở vị trí cuối tác
phẩm với mục đích nói rõ nguyên cớ, qúa
trình hoàn thành sách. Từ đời Đường trở d. Tựa “trích diễm thi tập”
đi, được đặt ở đầu tác phẩm và là yêu cầu
- Bố cục. Gồm 3 phần:
bắt buộc dùng cho tất cả các lĩnh vực khác
Lí do làm
nhau: văn, sử, triết, đại lí, ý học, hội hoạ, +
sách “Trích diễm thi tập” (từ
kiến trúc…
đầu đến…tan tành).

Đặc điểm:
+
Thuật lại

Do chính tác giả hoặc người
quá trình hoàn thành sách
khác viết nhằm mục đích giới thiệu rõ
(“Đức Lương này… người xưa
thêm với độc giả về cuốn sách: động
vậy”).
cơ, mục đích sáng tác, kết cấu, bố cục,
Lạc khoản

nội dung hoặc tâm tư, tâm sự của người +
(còn lại).
viết hoặc là những nhận xét, đánh giá,
phê bình hay cảm nhận của người đọc
(nếu là người khác viết).


Luôn được đặt ở đầu sách, viết
sau khi đã hoàn thành. Cuối bài thường
- 18 -


ghi rõ họ tên, chức tước của người viết
và ngày tháng, địa điểm viết (gọi là
phần Lạc khoản).


Thường được viết bằng thể văn
nghị luận, thuyết minh, biểu cảm hoặc
tổng hợp cả 3 loại văn bản này. Đôi khi
chất nghị luận được kết hợp với tự sự,
và thường mang sắc thái trữ tình.

- GV: Căn cứ vào những hiểu biết trên, xác
định các phần và giá trị chung của “trích
diễm thi tập”?


Là văn bản mang đầy đủ đặc điểm của
thể loại “tựa”. Đây là văn bản có giá trị lí

luận, phê bình văn học.

Gọi HS đọc văn bản, nhận xét

II.Đọc – hiểu văn bản:
1.Đọc-chú thích

HĐ2: Hướng dẫn HS đọc –
2.Tìm hiểu văn bản
hiểu (tìm hiểu lập luận) của bài tựa
2.1 Lí do biên soạn “Trích diễm thi
“trích diễm thi tập”
tập”:
- GV định hướng: Tựa thiên về kiểu sáng tác
có tính “nghị luận” dựa trên hệ thống lập luận
chặt chẽ. Hãy: Xác định hệ thống lập luận của
bài “tựa” này? (lí do sưu tập, quá trình sưu
tập, xuyên suốt là thái độ của người viết).




Phần này HS cũng
đã chuẩn bị trước, GV gọi HS lên trình
bày; GV giúp HS có cái nhìn khái quát về
bài tựa làm điều kiện triển khai nội dung
và hình thức của văn bản.

+


Phương pháp lập luận: phân tích bằng những
luận cứ cụ thể về các mặt khác nhau để lí
giải
- GV: Phân HS thành 6 nhóm thảo luận thống
nhất nội dung :
1. Trong phần thứ nhất của lập luận,
tác giả đưa ra những lí do nào
khiến thơ văn không lưu truyền đầy
- 19 -

Những nguyên nhân để thơ văn
không lưu hành hết ở đời:
+

Chủ quan:



Chỉ có thi nhân mới thấy được cái
hay, cái đẹp của thơ ca.


Người có học, người làm quan thì
bận việc nên ít để ý hoặc không


đủ cho đời sau?

quan tâm đến thơ ca.


2. Trong các nguyên nhân trên, nguyên
nhân nào là chính? Vì sao?
3. Tác giả đã lập luận như thế nào?
Cách lập luận như thế nhằm mục
đích gì? (Chứng minh bằng sự phân
tích cụ thể văn bản).
Chủ
quan: Cách lập luận chung là dùng
phương pháp quy nạp.

+

Đ
ối với thơ văn…trên đời → Cách lập luận:
liên tưởng so sánh thơ văn như khoái
chá, gấm vóc, sắc đẹp ngoài sắc đẹp, vị
ngon ngoài vị ngon (vì trừu tượng, khó
cảm nhận cụ thể). Từ đó dẫn đến kết luận
(dùng lối quy nạp).



+

Khách
quan: Cách lập luận là dùng hình ảnh và
câu hỏi tu từ (tan nát trôi chìm, rách nát
tan tành…làm sao giữ mãi…được mà
không…).
Tâm trạng tác giả:



Yêu quý, trân trọng văn thơ của
ông cha.

Xót xa, thương tiếc trước di sản
quý báu bị tản mát, huỷ hoại, đắm chìm
trong quên lãng của người viết (“Than
ôi…lắm sao!”)
.
- GV: Thực chất của thơ ca là gì? Thi nhân là
người có những phẩm chất gì? Sự tồn tại của
thơ ca phụ thuộc vào những yếu tố nào, yếu tố
nào là chính? Giả sử cuộc sống không có thơ
ca, môn nghệ thuật nào sẽ thay thế, không có
các nguyên nhân này, tác phẩm có ra đời
không?


(GV chú ý MQH giữa sự tồn tại của thơ ca với
- 20 -



Người yêu thích thơ ca thì không
đủ năng lực, trình độ và sự kiên
trì.


Nhà nước (triều đình) không

khuyến khích in ấn (khắc ván),
chỉ in kinh Phật
Khách

+

quan:
Sức phá huỷ của thời



gian.




Chiến tranh, hoả hoạn
làm sách vở rách nát, mai một
đi.
Việc biên soạn
là do yêu cầu của thời đại.


người tiếp nhận, thời đại và chính sách văn
hoá từng giai đoạn. Đây là vấn đề có tính chất
lí luận).
(GV có thể giới thiệu vài nét về việc sáng tác
và lưu truyền của văn học thời trung đại)
- GV dẫn dắt:
+


+

Em
nghĩ như thế nào về sự tồn tại của cái đẹp
trước quy luật băng hoại của thời gian?
Em nêu
những hiểu biết về nguyên nhân binh hoả
của thời đại này? (Liên hệ đến hậu quả
của chính sách cai trị đồng hoá thâm hiểm
của nhà Minh: tìm mọi biện pháp để huỷ
diệt nền văn hoá Đại Việt – thu đốt mọi
sách vở, trừ kinh Phật, đập xoá các văn
bia…Vì vậy, trong các triều vua Thái Tổ,
Thái Tông, Thánh Tông…công việc sưu
tầm, thu thập, ghi chép, phục dựng các di
sản văn hoá tinh thần của người Việt bị
tản mát sau chiến tranh được khuyến
khích tiến hành).

- GV: Lí giải vì sao tác giả lại mở đầu bằng
luận điểm này? Điều đó có ý nghĩa như thế
nào trong việc lập luận của tác phẩm? Giả sử
tác giả nêu luận điểm 2 trước thì điều gì xảy
ra?

Sở dĩ tác giả mở đầu bằng luận điểm này vì
đó là luận điểm quan trọng của bài, muốn
nhấn mạnh việc làm sưu tầm, biên soạn
cuốn sách là xuất phát từ yêu cầu cấp thiết

của thực tế chứ không chỉ từ sở thích cá
nhân ( thực trạng đau xót → lòng tự hào
tổn thương → động cơ mạnh mẽ) và đó là
công việc khó khăn, vất vả nhưng nhất
định phải làm.
- GV: Thử hình dung, nếu là tác giả, với ý
- 21 -


định và sự trình bày các nguyên nhân này, tâm
trạng của em lúc đó như thế nào? Từ đó nhận
xét về ý nghĩa của việc ra đời tác phẩm này?
(PT cụ thể ngôn từ)
- GV: Phần 2 nêu rõ quá trình biên soạn tác
phẩm. Dựa vào lập luận của tác giả, hãy:
+ GV: Xác định động cơ khiến tác giả tiến
hành sưu tầm và tuyển chọn thơ văn của tiền
nhân? Động cơ nào thôi thúc hành động ấy
mãnh liệt nhất? Vì sao? (Phân tích cụ thể văn
bản ngôn từ)
→ HS trả lời cá nhân. GV chốt ý.

2.2. Quá trình hình thành, nội dung
và kết cấu tp “Trích diễm thi tập”.
a. Động cơ :
- Đau xót trước thực trạng bảo tồn
văn bản thơ ca của dân tộc.
- Yêu cầu xây dựng nền tảng văn
chương dân tộc. Bày tỏ sáng kiến,
trách nhiệm, phương pháp làm sách

(cách sưu tầm và phương pháp sắp
xếp).

b. Việc sưu tầm và tuyển chọn:
- GV: Để hoàn thành “Trích diễm thi tập” tác
- Nhiều gian khổ, tốn nhiều thời
giả đã làm những công việc gì? (PT cụ thể
gian, công sức, thiếu tâm huyết
ngôn từ và ngữ điệu của văn bản) Phần trình
không thể làm được:
bày này giúp em hiểu gì về bố cục của tác
Sưu tầm,
phẩm? Từ đó, nêu yêu cầu của việc viết lời +
nhặt nhạnh những gì còn sót
“Tựa” cho sách hoặc công trình nhất định nào
lại.
đó?
→ HS trả lời cá nhân. GV chốt ý.

+

+

+

Thu lượm
các tác phẩm đương đại.
Tuyển
chọn, sắp xếp thành sách.
Đem

lại
cho người hiểu biết, bình phẩm
đánh giá.

- GV: Nhận xét về thái độ của tác giả khi trình
bày? (CM qua phân tích văn bản) Từ đó nêu
yêu cầu tạo sức thuyết phục cho lời “tựa” của
- Tuyển chọn, sắp xếp, đặt tên,
sách?
phân loại, bố cục, chia quyển (6
quyển, chia 2 phần mà trung tâm là
thơ ca các tác giả từ thời Trần đến
Thái độ của tác giả
thời Lê).

Khiêm tốn, nhún nhường thể
hiện qua các lời lẽ, từ ngữ sử dụng khi - Đưa thêm thơ của mình vào phần
- 22 -


thuật lại quá trình hoàn thành.


cuối tác phẩm.

Mang đầy đủ đặc điểm của người
phương Đông thời trung đại khi nói về
mình (tài hèn sức mọn, mạn phép phụ

thêm, vụng về)

HĐ3: Hướng dẫn HS tổng



kết.

Tấm lòng giàu tâm huyết,
trân trọng những di sản tinh thần
của cha ông.

- GV: Nhận xét nghệ thuật bài “tựa” từ sự
phân tích trên làm kinh nghiệm khi ứng dụng III.Tổng kết
vào thực tiễn? (CM qua sự phân tích cụ thể 1. Nghệ thuật
văn bản)
- Lập luận chặt chẽ, luận điểm rõ
Thiên về luận giải, khẳng định và ràng, mạch lạc, khúc chiết, rất tiêu
bác bỏ...
biểu cho thể loại nghị luận trung
đại.
- GV : gọi một HS nêu ý nghĩa văn bản.
- Kết hợp với chất tự sự rất nhuần
nhuyễn khiến văn bản đậm sắc thái
trữ tình, sức thuyết phục sâu sắc.
2. Nội dung (sgk-30)
4. Củng cố : GV tuỳ theo tình hình từng lớp học, từng giờ dạy cụ thể mà chọn
cách củng cố phù hợp.
Thực hành: GV nêu đề thực hành, định hướng, gợi ý cho HS suy nghĩ
và giải đáp những thắc mắc của HS (nếu có). GV nêu những yêu cầu cần đạt
và yêu cầu của bài viết.
1.Cảm nhận của em về bài “Tựa trích diễm thi tập” của Hoàng Đức lương. Bài

học nhân sinh rút ra từ tác phẩm là gì?
2.Trình bày sự hiểu biết của em về một nét văn hoá, phong tục tập quán, môn
nghệ thuật (của địa phương em hoặc của đất nước) đang bị mai một và tinh thần
bảo tồn, gìn giữ của chúng ta hiện nay.
So sánh với lời tựa của cuốn sách thông thường: So sánh với một
số bài tựa từ các loại sách mà em biết để thấy rõ hơn đặc điểm riêng của tác
giả?
- Hiện nay, lời tựa cũng có yêu cầu gần giống như vậy (lí do, mục đích, phương
pháp biên soạn, các giải trình khác…).
- Lời tựa của “Trích diễm thi tập” có nhiều điểm khác rất đáng đề cao: đó là tình
cảm trân trọng, lời tâm sự chân thành, nguyện vọng tha thiết, lí tưởng cao cả của
tác giả là xây dựng một nền văn học riêng cho dân tộc, tư tưởng độc lập dân tộc về
mặt văn hoá, văn hiến của dân tộc.
- 23 -


Bài học kinh nghiệm: Học xong vb này ta rút ra được bài học kinh nghiệm
gì ? Cho biết, hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng nước ta có
những chương trình gì theo tinh thần của Hoàng Đức Lương xưa? Em nghĩ
như thế nào về các chương trình ấy?
-Mỗi cá nhân cần ý thức cao trong việc bảo vệ, giữ gìn và lưu truyền những giá
trị văn hoá tinh thần bằng những hành động cụ thể trong nhiều lĩnh vực. Biết phát
triển nó một cách sáng tạo trong tình hình thời đại mới để tránh chủ quan, thái độ
bảo thủ, tinh thần phân biệt dân tộc.
- Trên các phương tiện truyền thông đại chúng xuất hiện nhiều chương trình hữu
ích giúp xây dựng ý thức trách nhiệm này: “Giữ cho muôn đời sau”, “Theo dòng
lịch sử”, “Những người muôn năm cũ”, “Danh nhân đất Việt”, “Câu chuyện
phương Đông”…
5. Hướng dẫn học bài và chuẩn bị bài sau
Bài tập về nhà: HS chọn một trong những đề sau để làm bài:

1. Viết một bài giới thiệu một việc làm thiết thực góp phần bảo tồn nền văn hoá –
văn học dân tộc hiện nay (400 từ).
2. Nếu phải phát biểu nội dung hình thức và ý nghĩa của bài Tựa “trích diễm thi
tập”, em sẽ nêu những điểm chính nào? Bài học nhân sinh rút ra từ tác phẩm là gì?
Là HS, em hình dung công việc sắp tới của em là gì? Nếu phải thể hiện tính tự
cường dân tộc, em sẽ làm gì trong tương lai góp phần bảo vệ và lưu truyền những
di sản văn hoá dân tộc mình?
3. Thử tưởng tượng chân dung Hoàng Đức Lương khi viết bài tựa này? Giải thích
vì sao có đặc điểm đó?
4 . Đọc kĩ văn bản, rèn luyện tư duy so sánh thông qua việc xem xét một số lời tựa
của SGK, cuốn tiểu thuyết, cuốn sách giới thiệu về một danh nhân. Tham khảo một
số tài liệu bổ trợ như: Ý thức về văn hiến dân tộc - Tạp chí văn học số 1, 1980 của
Trần Nho Thìn; Hành trình nghiên cứu văn học thời trung đại -Trần Thị Băng
Thanh; Thi pháp văn học trung đại - Trần Đình Sử; Lịch sử Việt Nam qua các
triều đại - Đỗ Đức Hùng,…
Hướng dẫn HS chuẩn bị bài sau: Đọc thêm Hiền tài là nguyên
khí quốc gia – Thân Nhân Trung.

- 24 -


2.3 Kết quả:
Từ thực tế dạy học tôi nhận thấy phương pháp này có những ưu điểm sau
đây:
1. Giờ học gây hứng thú thực sự cho học sinh, sự yêu thích tăng lên rõ rệt. Không
những học sinh hiểu văn bản mà còn hiểu thêm về lịch sử.
2. Phát huy được sự tích cực chủ động của học sinh trong giờ học. Giờ học tác
phẩm trở thành giờ phát hiện những thông tin, nuôi dưỡng cảm xúc và mĩ cảm
nghệ thuật, bày tỏ quan điểm, thái độ và cách nhìn mới mẻ của học sinh.
3. Phát huy năng lực nhiều mặt của học sinh: khả năng bình luận, thẩm bình, ngôn

ngữ và cách diễn đạt được nâng lên rõ rệt.
Kết quả : Sau khi học xong các văn bản nghị luận có thực hiện các phương
pháp bổ trợ này, tôi đã thu được kết quả rất khả quan. Có 98,9% học sinh ở
những lớp tôi giảng dạy trả lời là rất hứng thú với bài học, hiểu bài hơn, dễ
nhớ hơn tuy có vất vả hơn.
2.4 Bài học kinh nghiệm:
Khi soạn giảng và dạy các văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn
lớp 10 theo cách trên, tôi nhận thấy có một số khó khăn sau:
1.

Tốn khá nhiều thời gian tìm hiểu lịch sử phục vụ cho từng bài giảng.
Đôi khi xảy ra tình trạng “cháy” giáo án, những câu trả lời của học
sinh ngoài dự định,…

2.

Dù vậy thì cách dạy này cũng là một trong những giải pháp khá hữu hiệu
cho nên ta có thể vận dụng. Chỉ cần giáo viên:
1.

Chuẩn bị bài giảng kĩ.

2.

Sưu tầm và chọn lựa những câu chuyện, bài thơ, giai thoại, chi
- 25 -


×