Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

BẢN CHẤT CỦA HỢP ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.11 KB, 9 trang )

THỬ BÀN VỀ BẢN CHẤT CỦA HỢP ĐỒNG TỪ GÓC ĐỘ
KINH TẾ HỌC
PGS.TS Dương Anh Sơn, PGS.TS Hoàng Vĩnh Long
Trường Đại học Kinh tế-Luật, ĐHQG TP. HCM
Đặt vấn đề
Xã hội phát triển, nền kinh tế vận hành được là nhờ các chủ thể tham gia vào các giao
dịch, hợp đồng, bởi họ luôn có nhu cầu thỏa mãn các lợi ích khác nhau về tài sản. Vì tầm
quan trọng của nó nên hợp đồng và pháp luật hợp đồng có được sự quan tâm nghiên cứu
của nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau cũng như được đề cập đến trong
các ngành khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học xã hội. Vấn đề cốt lõi được quan
tâm là việc nghiên cứu bản chất của hợp đồng-là sự thỏa thuận. Ngay từ thời La Mã, bản
chất của hợp đồng đã được các nhà khoa học xem xét và nghiên cứu một cách nghiêm
túc. Không tồn tại hợp đồng nếu không có sự thỏa thuận. Đây được coi là một trong
những tiên đề vô cùng quan trọng mà bất kỳ người nghiên cứu pháp luật nào cũng đều
biết. Liên quan đến bản chất của hợp đồng, có hai vấn đề cần được làm sáng rõ, i) Tại sao
pháp luật cần phải tôn trọng và thừa nhận sự thỏa thuận của các bên; và ii) Trong những
trường hợp, hoàn cảnh nào pháp luật không thừa nhận giá trị pháp lý của một hoặc một số
thỏa thuận nào đó và tại sao? Ở Việt Nam trong những năm qua,việc nghiên cứu những
vấn đề pháp lý thường được thực hiện chủ yếu là các luật gia và thường chỉ tiếp cận vấn
đề dưới góc độ luật học. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu bản chất của hợp đồng
không là ngoại lệ. Chính vì vậy nên có nhiều vấn đề pháp lý chưa được lý giải một cách
thấu đáo. Trong phạm vi bài viết bước đầu chúng tôi muốn thử phân tích hai vấn đề nói
trên từ góc độ kinh tế học.
1. Thừa nhận và tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng- nhìn từ góc
độ kinh tế học
Trước hết chúng tôi muốn phân tích để lý giải vấn đề, tại sao pháp luật cần phải tôn trọng
và thừa nhận sự thỏa thuận của các chủ thể. Tài sản và quyền sở hữu là một trong những
vấn đề quan trọng và vì vậy được nghiên cứu bởi nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Các
lý thuyết kinh tế chỉ ra rằng, nhu cầu là vô hạn trong khi đó tài nguyên là hạn chế, vì vậy
nên nguồn lực, của cải luôn ở tình trạng khan hiếm. Đây có thể được coi là tiên đề. Vì của
cải khan hiếm nên:


Thứ nhất, phải sử dụng chúng một cách có hiệu quả nhất để đạt được thỏa mãn tối
đa nhu cầu vật chất của con người. Một trong những cách thức để nguồn lực, của cải
được sử dụng có hiệu quả là chúng cần phải được phân bổ hợp lý-hiệu quả Pareto 1. Rõ
ràng, khi các bên đạt được thỏa thuận, có nghĩa là họ thấy có lợi khi tham gia giao dịch.

1

Thuật ngữ này được đặt theo tên của Vilfredo Pareto, một nhà kinh tế học người Ý đã sử dụng khái niệm này trong
các nghiên cứu của ông về hiệu quả kinh tế và phân phối thu nhập. Nếu một hệ thống kinh tế đạt được hiệu quả
Pareto, không một cá nhân nào có cuộc sống tốt lên mà không khiến một người khác có cuộc sống xấu đi.

1


Tính hữu dụng ở đây chính là việc mỗi bên có được cái mình cần và vì được sở hữu thứ
mình cần nên họ sẽ sử dụng chúng có hiệu quả hơn.
Thứ hai, sự khan hiếm của nguồn lực cộng với tính tư lợi của con người làm phát
sinh vấn đề sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu (bảo vệ tài sản) 2. Để thỏa mãn nhu cầu của
con người, của cải (tài sản) không chỉ là thuộc sở hữu của cá nhân nào đó ở trạng thái
tĩnh mà nó được đưa vào lưu thông. Chính lý tính tạo nên sự tất yếu rằng, con người phải
tham gia các quan hệ hợp đồng hơn là chỉ sở hữu tài sản.3
Có thể nói rằng, trong môi trường xã hội, trong đó có hoạt động kinh tế, cũng như
môi trường tự nhiên (vật lý) luôn tồn tại sự dịch chuyển, vận động. Trong môi trường tự
nhiên vật chất vận động dịch chuyển và tồn tại lực ma sát cản trở sự vận động đó. Lực ma
sát luôn tồn tại và các nhà vật lý có nhiệm vụ là phải tìm cách để giảm lực ma sát, làm
cho vật chất vận động nhanh hơn. Trong môi trường xã hội luôn tồn tại việc trao đổi lợi
ích giữa các chủ thể nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ. Việc trao đổi này cũng luôn gặp phải
lực cản, đó là chi phí giao dịch. Chi phí giao dịch bao gồm thời gian và chi phí đàm phán,
soạn thảo, và thực thi các hợp đồng. Cũng như lực ma sát, chi phí giao dịch luôn tồn tại
và nhiệm vụ của các nhà kinh tế học và luật học là phải tìm ra các phương cách để chi phí

giao dịch là thấp nhất. Việc tiết kiệm chi phí giao dịch là vấn đề chính yếu trong việc
nghiên cứu các tổ chức kinh tế một cách tổng quát hoàn toàn-trong các nền kinh tế thị
trường cũng như các nền kinh tế phi thị trường. 4 Bởi lẽ chi phí giao dịch và khả năng
cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ là hai đại lượng tỉ lệ nghịch.
Một trong những điều kiện để giảm chi phí giao dịch là pháp luật nói chung và
pháp luật hợp đồng nói riêng cần phải rõ ràng và nhất quán. Bởi lẽ mỗi khi pháp luật
không rõ ràng và nhất quán thì việc đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng gặp nhiều khó
khăn và sẽ bị kéo dài và mất nhiều thời gian và như vậy sẽ tốn nhiều chi phí hơn. Không
những thế sự không rõ ràng và thiếu nhất quán của pháp luật cũng là nguyên nhân dẫn
đến việc tranh chấp (nếu có) được giải quyết không hiệu quả vì các cấp của tòa án có các
cách hiểu không giống nhau và cách áp dụng luật cũng có thể không giống nhau.
Tuy nhiên vì phạm vi bài viết này chỉ để cập đến bản chất của hợp đồng nên chúng
tôi muốn hướng sự chú ý đến việc, xác định mối liên hệ giữa chi phí giao dịch với sự thỏa
thuận với tư cách là bản chất của hợp đồng. Chúng tôi cho rằng nếu giữa các chủ thể tồn
tại sự thỏa thuận thì chi phí giao dịch sẽ giảm. Chi phí giao dịch và mức độ tự do trong
thỏa thuận là hai đại lượng có tỉ lệ nghịch. Sự thỏa thuận có tính tự do càng cao thì chi
phí giao dịch càng thấp và ngược lại. Chi phí giao dịch gia tăng khi đối tác trong giao
dịch hành động cơ hội, nghĩa là thu lợi cá nhân từ chi phí của người khác. Một trong
những thuộc tính của con người là tính tư lợi. Bởi vậy hành vi cơ hội tồn tại khi con
người không đáng tin cậy, người này có khuynh hướng diễn đạt sai chủ đích dưới hình
thức hứa hẹn sai hoặc không đầy đủ liên quan đến hợp đồng. Thông tin sai lệch và chỉ tiết
2

Nếu của cải dư thừa và luôn thỏa mãn nhu cầu của con người thì vấn đề sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu không cần
phải đặt ra.
3
Xem: G.W.F Hegel, Các nguyên lý của triết học pháp quyền, Bản dịch của Bùi Văn Nam Sơn, NXB Tri thức, 2010.
tr. 285.
4
Xem: Oliver E. Williamson, Kinh tế học về chi phí giao dịch, Bản địch tiếng Việt của Nguyễn Thị Xinh Xinh.

Chương trình giảng dạy kinh tế của Fulbright. Niên khóa 2005-2006.

2


lộ thông tin một cách hạn chế là những hành vi cơ hội và gây ra chi phí giao dịch lớn, cản
trở thị trường vận hành hiệu quả bởi lẽ hạn chế sự lựa chọn của bên kia. Như vậy có thể
nói rằng, khi người tham gia giao dịch hành động cơ hội thì không tồn tại tự do ý chí,
không tồn tại sự thỏa thuận. Để giảm chi phí giao dịch, thị trường vận hành có hiệu quả
hơn thì cần phải hạn chế tính cơ hội trong hành vi của chủ thể. Và chúng tôi cho rằng,
một trong những cách thức để hạn chế đó là sự thỏa thuận.
Hợp đồng là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa
vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ dân sự ở đây liên quan đến tài sản (đặc điểm của nghĩa vụ
dân sự là có tính tài sản). Nếu các bên không tự thỏa thuận thì cần phải sử dụng các biện
pháp khác để xác lập hoặc bảo vệ quyền sở hữu, ví dụ, biện pháp cưỡng chế hay ép buộc.
Ví dụ, A có hành vi gây thiệt hại tài sản cho B. Trong trường hợp A và B đạt được sự thỏa
thuận (thương lượng được với nhau) về việc B sẽ bồi thường cho A. Ở đây chi phí giao
dịch là thấp nhất bởi lẽ thời gian giải quyết tranh chấp nhanh chóng, các bên không phải
chịu các loại chi phí khác. Còn nếu các bên không thể thỏa thuận mức bội thường thì
tranh chấp buộc phải được giải quyết bởi cơ chế trung gian hòa giải hoặc bằng cơ quan
tài phán. Trong những trường hợp như vậy: i) thời gian giải quyết tranh chấp sẽ bị kéo
dài; ii) các bên buộc phải trả tiền cho các thiết chế này, và rõ ràng là chi phí giao dịch sẽ
cao hơn. Trong trường hợp hợp đồng được ký kết không trên cơ sở thỏa thuận mà do một
trong các bên hành động cơ hội, ví dụ ép buộc hay áp đặt bởi độc quyền hoặc lừa dối…
thì hậu quả là bên bị ép buộc, bên bị lừa dối sẽ bị thiệt hại là điều đương nhiên và điều
này sẽ là nguy cơ làm phát sinh tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng sau này.
Kinh tế học nghiên cứu cách thức vận hành của nền kinh tế nói chung và cách thức
ứng xử của từng chủ thể tham gia vào nền kinh tế nói riêng. Dưới góc độ ứng xử của các
chủ thể, kinh tế học được coi là “Khoa học của sự lựa chọn” 5. Chính vì thế nên con người
được coi là con người kinh tế bởi lẽ lý tính là đặc trưng của họ. Xét về ý thức của con

người, chính nhu cầu nói chung-thiện ý, lợi ích là cái dẫn dắt họ đến chỗ ký kết hợp
đồng, tuy nhiên chính lý tính mới là kẻ dẫn dắt họ. 6 Khác với các loài động vật, con
người có ý chí và luôn hành động có ý chí. Điều đó có nghĩa là khi hành động con người
luôn có sự lựa chọn và họ thường lựa chọn thực hiện những hành vi nào có lợi nhất cho
họ. Một khi tất cả các chủ thể được quyền lựa chọn hành vi, hoạt động nào để thực hiện
thì hoạt động của họ trở nên hiệu quả hơn. Lợi ích của toàn xã hội là tổng lợi ích của các
chủ thể. Chính vì vậy pháp luật cần phải tôn trọng sự lựa chọn ý chí của họ. Tôn trọng sự
thỏa thuận chính là tôn trọng ý chí của từng chủ thể và sau đó là ý chí chung của các chủ
thể. Ngoài ra, tôn trọng sự thỏa thuận là tôn trọng sự tự do ý chí của cá nhân và các chủ
thể khác của pháp luật. Văn minh nhân loại phụ thuộc vào mức độ tự do của các chủ thểtự do lựa chọn cách thức hành động bởi lẽ “năng lực nhận thức, phán xét, ý kiến sáng
suốt, hoạt động tinh thần và thậm chí cả ưu tiên đạo đức của con người chỉ được vận
5

Có quan điểm cho rằng, Kinh tế học đạt gần tình trạng là một “Khoa học về hợp đồng”. Xem: James Buchanan, C
The Limits of Liberty: Between Anarchy and Leviathan. Publisher Indianapolis, IN: Liberty Fund, Inc.
1975, p. 229. Có thể chia sẻ với quan điểm này bởi vì hợp đồng không còn được xem xét theo kiểu” bút sa, gà chế”
mà là một quá trình gắn liến với các tổ chức kinh tế.
6
Xem: G.W.F Hegel, Các nguyên lý của triết học pháp quyền, Bản dịch của Bùi Văn Nam Sơn, NXB Tri thức, 2010.
tr. 285

3


dụng khi đưa ra một sự lựa chọn”. 7 Khi con người hành động theo khuôn khổ định sẵn,
theo truyền thống thì sẽ không có sự lựa chọn và điều bày sẽ ngăn cản sự phát triển toàn
diện và khả năng tự do của họ.
Như vậy, có thể nói rằng, chính sự tự do thỏa thuận chính là cách thức đảm bảo lợi
ích cao nhất cho các bên và hệ quả là các bên trao đổi tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình một cách hiệu quả nhất, tài sản, của cải được phân bổ một cách hợp lý nhất.

2. Kinh tế học về giới hạn của sự thỏa thuận
Trong phần trên chúng tôi cố gắng thử tiếp cận bản chất của hợp đồng từ góc độ kinh tế
học và có thể kết luận rằng sự thỏa thuận của các chủ thể trong giao dịch hợp đồng là
điều kiện quan trọng để nguồn lực được phân bổ hợp lý, được sử dụng có hiệu quả, tiết
giảm chi phí giao dịch, giảm lực ma sát để nền kinh tế vận hành tốt hơn, nhanh hơn.
Chính vì vậy nên pháp luật cần phải tôn trọng và thừa nhận sự thỏa thuận của các chủ thể.
Tuy nhiên pháp luật có nên tôn trọng mọi thỏa thuận của các bên hay không và tại sao?
Đây là vấn đề được những người nghiên cứu pháp luật chuyên nghiệp đã, đang và sẽ
quan tâm.
Để bảo vệ trật tự công cộng, trong một số trường hợp pháp luật không thừa nhận
giá trị pháp lý sự thỏa thuận của các bên. Đây có thể được coi là trung tâm của mọi hệ
thống pháp luật hợp đồng và đã được đề cập đến khá nhiều trong khoa học pháp lý Việt
Nam.8 Trong bài viết này chúng tôi chỉ xem xét, phân tích các thỏa thuận trong mối liên
hệ giữa các chủ thể với giả định là các thỏa thuận đó không xâm hại trật tự công cộng và
thể hiện sự tự nguyện của các chủ thể.
Pháp luật hợp đồng của mọi quốc gia được đặc trưng bởi nguyên tắc tự nguyện
thỏa thuận giữa các chủ thể trong hợp đồng. Và như trên đã đề cập đến, kinh tế học là
khoa học của sự lựa chọn, tuy nhiên sự lựa chọn đó được thực hiện trên cơ sở nền tảng
nào? Chúng tôi cho rằng, liên quan đến vấn đề này có hai luận điểm cần phải được làm
sáng rõ: i) tự nguyện thỏa thuận giữa các chủ thể bình đẳng và tự nguyện thỏa thuận giữa
các chủ thể không bình đẳng; ii) tự nguyện thỏa thuận hoàn toàn tự do và tự nguyện thỏa
thuận khi tự do bị hạn chế.
2.1 Tự nguyện thỏa thuận giữa các chủ thể bình đẳng và không bình đẳng
Sự bình đẳng của các chủ thể hợp đồng bao gồm bình đẳng về sức mạnh kinh tế, bình
đẳng về kinh nghiệm thương mại và bình đẳng về thông tin và tiếp cận thông tin. Trong
những trường hợp này có thể nói các bên có điểm xuất phát là ngang nhau. Và việc pháp
luật tôn trọng và thừa nhận sự tự nguyện thỏa thuận của họ sẽ mang lại những hiệu quả
kinh tế như đã được đề cập đến ở trên. Bởi lẽ sự thừa nhận này của pháp luật khuyến
khích các chủ thể phát huy tối đa năng lực của các chủ thể. Sự bình đẳng nói trên giữa
các chủ thể trong giao dịch chỉ là tương đối và chỉ tồn tại trong thời kỳ tự do kinh tế

(laissez- faire), khi mà lý thuyết bàn tay vô hình được coi là nền tảng của kinh tế học 9.
Nghiên cứu cho thấy rằng, vào thời kỳ laissez- faire, các chủ thể có tiềm lực kinh tế
7

Xem: John Stuart Mill, Bàn về tự do, Bản dịch tiếng Việt, NXB Tri thức nam 2006. Tr. 135.
Xem: Ngô Huy Cương, Tự do ý chí và tiếp nhận ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 115, tháng 2 năm 2008. Xem: Phạm Duy Nghĩa. Chuyên khảo Luật Kinh tế, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2004, tr. 401.
9
Về vấn đề này chúng tôi đã có dịp luận bàn. Xem: Hoàng Vĩnh Long, Dương Anh Sơn, Tự do hợp đồng-Từ bàn tay
vô hình đến chủ nghĩa can thiệp. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Số 6/ 2011.
8

4


tương đương, bởi gần như tất cả đều có điểm xuất phát như nhau, độc quyền và vị trí
thống lĩnh thị trường chưa tồn tại, phạm vi hoạt động thương mại chưa đủ rộng và kinh
nghiệm trong hoạt động thương mại của các chủ thể, của các nhà buôn là tương đương
bởi lẽ các nhà buôn cùng mới tham gia vào thị trường. Cũng vào thời kỳ này có thể nói
mức độ có và tiếp cận thông tin như nhau, bởi lẽ khi đó vì khoa học công nghệ chưa phát
triển nên cấu trúc của hàng hóa đơn giản. Hơn nữa khi tiềm lực kinh tế và kinh nghiệm ở
mức độ tương đương thì sự bất đối xứng về thông tin cũng chưa gây hại cho các chủ thể
và cho thị trường.
Khi hoạt động thương mại đã tồn tại và vận hành đủ lâu, khi trên thị trường xuất
hiện độc quyền và thống lĩnh thị trường và đặc biệt là cùng với sự phát triển của khoa học
kỹ thuật, cấu trúc của hàng hóa ngày càng trở nên phức tạp hơn nên không còn tồn tại sự
bình đẳng giữa các chủ thể trên thực tế. Maynard J. Keynes đã nhận xét rằng, “Các đặc
trưng của trường hợp đặc biệt do lý thuyết cổ điển giả định không phải là những đặc
trưng của xã hội kinh tế mà trong đó chúng ta đang sống” 10. Vấn đề này về sau cũng

được John Jawls đề cập đến trong Lý thuyết về công lý. 11 John Jawls cho rằng, các thỏa
thuận bình đẳng chỉ có thể đạt được khi không ai có thể biết được vị trí của mình trong xã
hội, không ai có thể biết được về năng lực của họ, phẩm chất của họ so với người khác,
không ai thông minh hơn ai. Ông giả thiết là tất cả các chủ thể đứng sau bức màn vô
minh và không ai có bất kỳ lợi thế hơn ai. Cũng chính vì vậy nên không ai có hành vi cơ
hội. Và vì tất cả đều có vị thế ngang nhau nên mọi thỏa thuận đều rõ ràng, minh bạch.
Tuy nhiên bức màn vô minh chỉ là giả định. Thực tế thì không có sự bình đẳng thực sự
giữa các chủ thể. Vì vậy thỏa thuận thường cũng khó có thể bình đẳng.
Khi không còn sự bình đẳng thì có nhiều thỏa thuận về mặt hình thức thể hiện ý
chí chung của các bên, nhưng thực chất chưa hẳn đã thể hiện ý chí chung của các bên.
Chính vì vậy sẽ là hợp lý nếu pháp luật tôn trọng và thừa nhận những thỏa thuận giữa các
chủ thể bình đẳng, còn những thỏa thuận giữa các chủ thể không bình đẳng thì cần phải
xem xét và cân nhắc theo hướng ưu tiên bảo vệ quyền lợi của bên yếu hơn 12.
Pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện nay có vẻ còn xa lạ với vấn đề này và theo
hướng tôn trọng và thừa nhận gần như mọi sự thỏa thuận của các bên, ngay cả khi đó là
sự lựa chọn của người thiếu hiểu biết. Giữa người tiêu dùng với doanh nghiệp luôn tồn tại
bất bình đẳng và vì vậy nhiều thỏa thuận trong hợp đồng giữa họ cũng sẽ không bình
đẳng. Để có thể khắc phục tình trạng bất bình đẳng đó pháp luật quy định một số điều
khoản của hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, điều kiện giao dịch chung không có
hiệu lực.13 Tuy nhiên chúng tôi cho rằng, cách quy định theo lối liệt kê trong pháp luật
của Việt Nam là chưa đầy đủ và chưa bao quát hết mọi trường hợp có thể xảy ra, ví dụ
pháp luật không loại bỏ loại thỏa thuận hạn chế trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. 14
10

Xem: Maynard J. Keynes. Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ.NXB Giáo dục, Hà Nội 1994. Tr. 39
Xem: John Jawls, Học thuyết về công lý.
12
Xem thêm: Nguyễn Như Phát, Điều kiện thương mại chung và nguyên tắc tự do khế ước, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, Số 6/2003
13

Xem: Điều 16 Luật Bảo vệ quyền lơi người tiêu dùng 2010.
14
Không tìm thấy sự thể hiện trong Điều 16 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.
11

5


Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại 2005 15 quy định, Luật Thương mại điều chỉnh hoạt
động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân trong
trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng luật
này. Các nhà làm luật và nhiều người cho rằng 16, pháp luật quy định như vậy là tôn trọng
sự thỏa thuận, tôn trọng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. Hệ quả là pháp luật gần
như tôn trọng mọi sự lựa chọn của các chủ thể, ngay cả khi sự lựa chọn đó không xuất
phát từ sự hiểu biết, thiếu thông tin. Có thể nhận thấy rằng, bằng quy định này pháp luật
hợp đồng của Việt Nam có vẻ như tôn trọng cả những thỏa thuận giữa các chủ thể và về
thực tế họ không hề bình đẳng. Trong giao dịch giữa một bên vì lợi nhuận với một bên
tham gia không vì lợi nhuận, thì rõ ràng bên tham gia không vì lợi nhuận chắc chắn thiếu
kinh nghiệm trong lĩnh vực đó vì họ không phải là người thường xuyên ký kết và thực
hiện những giao dịch này. Cũng vì lý do này nên họ thường bị thiếu thông tin so với bên
tham gia giao dịch vì mục đích sinh lợi. Ở đây có thể nói là giao dịch được xác lập giữa
một bên chuyên nghiệp và một bên không chuyên nghiệp. Bên tham gia giao dịch theo
quy định tại Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại hoàn toàn có thể là người tiêu dùng, vậy
thì Điều 16 Luật Bản vệ quyền lợi người tiêu dùng liệu có bảo vệ được quyền lợi của họ
trong trường hợp vì người tiêu dùng lựa chọn Luật Thương mại áp dụng nên họ phải chịu
bản án bất lợi?
2.2. Tự nguyện tham gia giao dịch một cách tự do và tự nguyên nhưng không có tự
do
Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận. Cả lý thuyết và thực tiễn cho thấy rằng, tồn tại
hai loại thỏa thuận: i) thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện được pháp luật thừa nhận và bảo

vệ; và ii) thỏa thuận không được hình thành trên cơ sở tự nguyện thì không được pháp
luật thừa nhận và bảo vệ, có nghĩa là loại thỏa thuận này không có giá trị pháp lý ràng
buộc các chủ thể. Những hợp đồng được ký kết do bị lừa dối, đe dọa hoặc bị nhầm lẫn
được coi là trái nguyên tắc tự do tự nguyện thỏa thuận và là căn cứ để yêu cầu tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Với những trường hợp này thì pháp luật của các nước có cách
tiếp cận giống nhau và khá rõ ràng. Điều 4 Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam quy định:
Quyền tự do cam kết thỏa thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật
bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
đạo đức xã hội”. Điều 11 Luật Thương mại 2005 của Việt Nam cũng quy định: i) Các bên
có quyền tự do thỏa thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục
và đạo đức xã hội để xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại,
Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó; và ii) trong hoạt động thương mại, các bên
hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe dọa,
ngăn cản bên nào.
Mặc dù được quy định như vậy, tuy nhiên pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng
pháp luật ở Việt Nam hiểu có cách hiểu về tự do tự nguyện giao kết ở phạm vi rất hẹp.
Điểm c, Khoản 1 Điều 122 quy định rằng, giao dịch dân sự có hiệu lực khi người tham
15

Xem thêm: Dương Anh Sơn, Bàn về Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại 2005, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
10/2006.
16
Xem: Báo cáo giải trình, tiếp thu chỉnh lý Dự thảo Luật Thương mại (sử đổi) trình Quốc hội thông qua Ngày 18
tháng 5 năm 2005.

6


gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Chỉ bị coi là trái nguyên tắc tự do tự nguyện khi hợp
đồng được ký kết do bị đe dọa, lựa dối hoặc bị nhầm lẫn. Không có dấu hiệu đe dọa, lừa

dối hoặc nhầm lẫn thì hợp đồng được coi là đã ký kết phù hợp với nguyên tắc tự do tự
nguyện thỏa thuận. Ở đây chúng tôi muốn xem xét vấn đề tự do tự nguyện thỏa thuận ở
phạm vi rộng hơn, bởi đây là chủ đề tạo được sự quan tâm nghiên cứu, thảo luận trong
lĩnh vực khoa học pháp lý nói riêng, khoa học xã hội nói chung.
Pháp luật hợp đồng của Châu Âu có cách nhìn toàn diện hơn so với pháp luật của
Việt Nam. Ví dụ , Điều 1.02 quy định, Các bên được tự do giao kết hợp đồng và xác định
nội dung của hợp đồng phụ thuộc vào các yêu cầu về thiện chí và công bằng và các quy
tắc bắt buộc được thiết lập bởi các Nguyên tắc này. Khác với pháp luật của Việt Nam, chỉ
quy định nguyên tắc tự do tự nguyện thỏa thuân, Nguyên tắc Luật hợp đồng của Châu Âu
gắn nguyên tắc này với các yêu cầu về thiện chí và công bằng.
Có thể nói rằng, có hai loại tự nguyện tham gia giao dịch: tự do và không được tự
do, hay nói cách khác: có sự lựa chọn và không có sự lựa chọn. Tự do tự nguyện tham gia
giao dịch là khi chủ thể có nhiều sự lựa chọn. Trong trường hợp này ý chí của chủ thể
được thể hiện một cách tự do, không chịu bất kỳ một sự tác động nào, hay nói cách khác
là tự do ý chí được thể hiện một cách đầy đủ. Trong trường hợp có nhiều sự lựa chọn, chủ
thể có đầy đủ thông tin và giữa các chủ thể không tồn tại sự bất đối xứng về thông tin
cũng như tiềm lực, kinh nghiệm thực tiễn của họ có thể được coi là tương đương nhau, thì
với tư cách là chủ thể duy lý họ có sự cân nhắc nên hay không nên tham gia vào một giao
dịch nào đó và họ có thể lựa chọn phương án nào có lợi nhất cho họ. Trong trường hợp
này sẽ là hợp lý khi pháp luật tôn trọng và thừa nhận sự lựa chọn của họ tức là thừa nhận
thỏa thuận của các bên, thừa nhận ý chí chung của họ. Ví dụ, có nhiều người bán cùng
một loại hàng hóa, khi người mua có đầy đủ thông tin về những người bán đó và họ có
thể so sánh, cân nhắc nên ký hợp đồng với người bán nào có lợi nhất cho họ. Hay nói
cách khác là hợp đồng được ký kết giữa các thương nhân chuyên nghiệp có thể được coi
là có sự tồn tại của tự do ý chí một cách tương đối đầy đủ bởi vị thế của họ, tiềm lực kinh
tế, kinh nghiệm thực tiễn của họ tương đương, và ít có yếu tố ngoại trị tác động lên ý chí
của họ.
Thực tiễn cho thấy, có nhiều trường hợp một bên tham gia giao dịch hoàn toàn tự
nguyện không bị bất kỳ sự đe dọa, lừa dối hoặc nhầm lẫn nào, tuy nhiên không trên cơ sở
tự do ý chí. Về hình thức chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện, tuy nhiên ý chí

của chủ thể có thể không được hình thành một cách tự do mà chịu ảnh hưởng của những
yếu tố ngoại trị, tuy nhiên vẫn có thể dẫn đến sự trùng hợp ý chí của các chủ thể. Trong
những trường hợp này chủ thể cũng tự nguyện tham gia vào giao dịch, tuy nhiên sự tự
nguyện này không xuất phát từ tự do ý chí mà họ “tự nguyện” bởi không còn sự lựa chọn
nào khác. Sự tự nguyện này không thể hiện sự tự chủ của chủ thể mà vì bị thôi thúc bởi
những yếu tố khác ngoài ước muốn của chủ thể hoặc chủ thể bị tác động bởi hoàn cảnh.
Trong trường hợp này chủ thể có thể gặp rủi ro sau này-trong quá trình thực hiện hợp
đồng. Để luận giải vấn đề này chúng ta có thể xem xét ba trường hợp, trong đó có sự tự
nguyện nhưng nhưng không có tự do, mặc dù chủ thể không bị lừa dối, đe dọa hoặc nhầm
lẫn.
7


Thứ nhất, có không ít trường hợp chủ thể rơi vào tình thế không có sự lựa chọn
nào khác vì vậy buộc phải chấp nhận đề nghị của bên kia. Điều này thường xảy ra trong
đời sống hàng ngày và trong hoạt động kinh doanh thương mại. Ví dụ, người tiêu dùng
buộc phải ký hợp đồng với người cung cấp điện hoặc với nhà cung cấp nước sinh hoạt.
Rất đơn giản bởi họ không còn sự lựa chọn nào khác. Người tiêu dùng biết được những
điều khoản của hợp đồng mà họ ký kết với công ty điện lực có thể gây bất lợi cho họ, tuy
nhiên họ vẫn buộc phải ký kết vì: i) họ hy vọng rằng, sẽ không gặp những rủi ro do
những điều khoản đó gây ra; và ii) quan trọng hơn là họ không còn sự lựa chọn nào khác.
Ở đây người tiêu dùng cũng được coi là tham gia giao dịch với công ty điện lực một cách
tự nguyện. Các doanh nghiệp buộc phải ký kết hợp đồng tín dụng với ngân hàng mặc dù
biết rằng các ngân hàng thường đưa vào hợp đồng nhiều điều khoản bất lợi cho người
vay. Mặc dù có nhiều ngân hàng và có vẻ như người vay có nhiều sự lựa chọn, nhưng
thực ra họ không có sự lựa chọn nào khác vì các điều khoản bất lợi cho người vay đều tồn
tại trong các hợp đồng tín dụng do ngân hàng soạn thảo. Trong những trường hợp nói
trên, người tiêu dùng hoặc khách hành chỉ có1 sự lựa chọn duy nhất: ký hoặc không ký
hợp đồng. Như vậy có thể nói chủ thể tự nguyện tham gia giao dịch chỉ vì họ không có sự
lựa chọn nào khác. Nếu như vậy thì cũng không thể coi là tự do. Vấn đề này đã được

John Stuart Mill luận giải trước đây. “Sự nhất trí ý kiến, nếu không phải là kết quả của sự
so sánh đầy đủ nhất và tự do nhất với các ý kiến đối lập thì không phải là điều đáng hoan
nghênh”17.
Trường hợp nói trên cũng giống với tình huống, trên bàn tiệc chỉ có 1 món ăn duy
nhất và thực khách không có sự lựa chọn nào khác ngoài ăn hay không ăn. Món ăn này
không có lợi cho sức khỏe của thực khách. Như vậy nếu ăn thì có hại cho sức khỏe, còn
không ăn thì sẽ bị đói. Sự đói đang tồn tại hiện hữu còn mối nguy hiểm là tiềm ẩn, chưa
hiện hữu và tất nhiên chủ thể sẽ ăn món ăn đó. Sẽ là không hợp lý nếu nói rằng, biết là sẽ
nguy hiểm cho sức khỏe mà vẫn ăn thì hãy tự gánh chịu hậu quả. Điều này cũng giống
với trường hợp, theo Khoản 3 ĐIều 1 Luật Thương mại 2005, bên tham gia giao dịch
không nhằm mục đích sinh lợi, vì thiếu hiểu biết nên đã chọn Luật Thương mại áp dụng
và kết quả là họ bị thiết hại. Liệu Tòa án có thể nói rằng, chủ thể phải chịu trách nhiệm về
sự lựa chọn của mình hay không.
Cũng có những tình huống chủ thể chấp nhận tham gia giao dịch bởi vì tình thế bắt
buộc hoặc do hoàn cảnh thôi thúc. Họ tham gia giao dịch vì điều kiện kinh tế khó khăn
chẳng hạn, và khi chấp nhận tham gia giao dịch họ chưa ý thức được hậu quả của việc
tham gia giao dịch này. Liên quan đến vấn đề này ở Mỹ có vụ án Baby M. Vợ chồng
William và Elizabeth Stern vì không thể có con chung nên đã ký hợp đồng với Mary Beth
Whiteeah, một phụ nữ nghèo có 2 con và là vợ của một nhân viên vệ sinh. Theo hợp đồng
Mary Beth đồng ý thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của William và trả con cho William
sau khi sinh, William đồng ý trả cho Mary Beth 10.000 USD cộng với chi phí y tế. Sau
khi sinh con, Mary Beth đổi ý và không muốn trao con cho William. William yêu cầu
cảnh sát cưởng chế Mary Beth giao con cho William. Mary Beth yêu cầu Tòa án tuyên bố
hợp đồng mang thai hộ vô hiệu. Tòa sơ thẩm thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng,
thẩm phán Sorkow ủng hộ việc phải thực thi hợp đồng, viện dẫn tính thiêng liêng của hợp
17

Xem: John Stuart Mill, Bàn về tự do, Bản dịch tiếng Việt, NXB Tri thức, năm 2006. Tr. 131.

8



đồng. Ông cho rằng, trong trường hợp này không bên nào có ưu thế hơn bên nào, không
bên nào ép buộc bên nào, không bên nào có chuyên môn để ép bên kia vào thế bất lợi và
hoàn toàn không có sự bất tương xứng trong quá trình thương lượng. Mary Beth không
đồng ý với phán quyết của Tòa sơ thẩm và xin phúc thẩm bản án tại Tòa án Tối cao Bang
New Jersey. Tòa tối cao lật ngược phán quyết của Tòa sơ thẩm và tuyên hợp đồng đẻ thuê
vô hiệu. Một trong những lý do đó là, Chánh Tòa tối cao Robert Wilentz cho rằng, Mary
Beth tham gia hợp đồng không thực sự tự nguyện, bởi vì cô không thực sự am hiểu việc,
cô đã tham gia hợp đồng trước khi cô biết được sức mạnh của tình mẫu tử giữa cô với
đứa bé. Trước khi em bé ra đời người mẹ thiếu hiểu biết và cơ bản là thiếu thông tin nên
không có sự lựa chọn nào khác. Chánh án lập luận rằng, Mary Beth không được tự do khi
quyết định tham gia hợp đồng mà bị cưỡng bách bởi sự đe dọa của một vụ kiện và sự hấp
dẫn của 10.000 USD tiền công, và đương nhiên quyết định này cũng không hoàn toàn
thật sự được tự nguyện bởi lẽ nhu cầu về tiền bạc sẽ dễ làm cho phụ nữ nghèo chấp nhận
mang thai hộ. Chính điều này thách thức tính tự nguyện của các thỏa thuận 18. Chúng tôi
cho rằng, cách nhìn nhận vấn đề tự do tự nguyện thỏa thuận của chánh án Robert Wilentz
có phạm vi rộng hơn cách hiểu truyền thống của chúng ta.
Thứ ba, tự nguyện tham gia giao dịch vì thiếu thông tin hoặc không thể so sánh
với các cách thức, giao dịch khác vì thiếu thông tin. Đây là trường hợp khá phổ biến
trong lưu thông dân sự và trong hoạt động thương mại nhất là trong bối cảnh khoa học
công nghệ phát triển, cấu trúc của hàng hóa ngày càng phức tạp19.
Kết luận: Trên cơ sở phân tích các vấn đề, chúng tôi cho rằng:
Thứ nhất, để hiểu rõ hơn bản chất của hợp đồng và lý giải vấn đề tại sao pháp luật cần
phải thừa nhận và tôn trọng của các bên trong hợp đồng thì cần phải tiếp cận vấn đề này
từ nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt là góc độ kinh tế học.
Thứ hai, sự tự nguyện tham gia giao dịch của các bên giao dịch chỉ là biểu hiện ý chí của
họ ra bên ngoài. Ý chí đó có thể tự do và cũng có thể không tự do, hệ quả là tồn tại tự
nguyện tự do và tự nguyện không tự do. Mặc dù cả hai tình huống trên đây cũng được coi
là sự tự nguyện tham gia giao dịch, tuy nhiên bản chất và hậu quả hoàn toàn khác nhau và

vì vậy cần phải có sự đánh giá về mặt pháp lý khác nhau. Để làm được điều đó cần thiết
phải xem xét bản chất của hợp đồng không những chỉ từ góc độ luật học mà còn cần phải
xem xét chúng từ góc độ kinh tế học, có như vậy mới có cách nhìn vấn đề tổng quát hơn
và khách quan hơn.
.

18

Xem thêm: Michael Sandel, Phải trái, đúng sai (Justice What’s the right thing to do?). Bản dịch tiếng Việt của Hồ
Đắc Phương, NXB Trẻ năm 2011, tr. 136-141.
19
Vấn đề này đã được nói đến trong khoa học pháp lý Việt Nam, ví dụ, xem: Phạm Duy Nghĩa, Điều chỉnh thông tin
bất cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp luật hợp đồng Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, số 5 tháng 5/2003

9



×