Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Hoạt động học tập của sinh viên dưới góc độ tiếp cận sự gắn kết của sinh viên vào giờ lên lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.28 KB, 13 trang )

HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
DƯỚI GÓC ĐỘ TIẾP CẬN SỰ GẮN KẾT CỦA SINH VIÊN
VÀO GIỜ HỌC TRÊN LỚP
Nguyễn Hoàng Đoan Huy
Viện NCSP-Trường ĐHSP Hà Nội

Tóm tắt
Theo quan niệm dạy học hiện đại, hoạt động học trên lớp của sinh viên có thể được
hiểu là sự gắn kết của họ vào các nhiệm vụ học tập trên lớp, biểu hiện ở ba khía
cạnh bao gồm nhận thức, hành vi và thái độ. Trong môi trường đào tạo theo học chế
tín chỉ, với những giờ học được giảng viên thực hiện một cách hợp lý theo tiếp cận
sư phạm tương tác, bên cạnh hoạt động tự học, mức độ gắn kết vào hoạt động học
tập của sinh viên trên lớp có thể được xem là yếu tố quan trọng nhất trong việc
quyết định chất lượng của giờ học. Dưới góc nhìn về sự gắn kết đó, hoạt động học
tập của sinh viên trên lớp cũng cần được khái niệm lại một cách phù hợp, trên cơ sở
đó, xác định cấu trúc của hoạt động học cũng như phân loại các kiểu học tập, làm
căn cứ lý thuyết để đánh giá và nâng cao hiệu quả quá trình dạy học ở bậc đại học.
1. Đặt vấn đề
Học tập thường được xem là hoạt động chủ đạo của sinh viên để chuẩn bị hành
trang về kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp, giúp họ sẵn sàng bước vào môi
trường lao động nghề nghiệp trong tương lai. Nguyễn Thạc (2009) đã định nghĩa về
hoạt động học tập ở đại học là “một loại hoạt động tâm lý được tổ chức một cách
độc đáo của sinh viên nhằm mục đích có ý thức là chuẩn bị trở thành người chuyên
gia phát triển toàn diện sáng tạo và có trình độ nghiệp vụ cao” [2].Là một loại hoạt
động tâm lý, học tập ở đối tượng sinh viên mang những nét đặc trưng bao gồm sự
căng thẳng mạnh mẽ về trí tuệ, các quá trình tâm lý cấp cao, các hoạt động khác
nhau cũng như nhân cách người sinh viên nói chung. Học tập chỉ thực sự mang lại
hiệu quả đối với người học khi và chỉ khi người đó chủ động, tích cực tập trung vào
hành vi và thao tác học. Nói cách khác, hoạt động học tập với cấu trúc phức tạp bao
1



gồm các yếu tố như nhận thức, thái độ và hành vi là biểu hiện rõ nét nhất của vấn
đề sinh viên tham gia học hay không học. Do vậy, sự tham gia học tập trên lớp của
sinh viên đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc định hướng, hướng dẫn và hỗ
trợ cho sinh viên cách thức tìm kiếm tri thức, hình thành và rèn luyện năng lực
nghề cũng như hun đúc, củng cố tình cảm đối với công việc mình đã lựa chọn.
Theo quan điểm hiện đại, hoạt động học trên lớp của sinh viên, có thể được hiểu là
sự tham gia của sinh viên vào tiến trình dạy học trên lớp, có thể được nhìn nhận
dưới 2 góc độ. Thứ nhất là sự tham gia biểu hiện bên ngoài, bề mặt, thông qua hành
vi, cử chỉ, nét mặt, điệu bộ, hoặc đơn giản chỉ là sự có mặt của sinh viên trong lớp
(classroom participation); và thứ hai là sự gắn kết vào tiến trình dạy học trên lớp
(classroom engagement) thông qua hoạt động tâm lý thực sự đang diễn ra bên trong
họ trong suốt giờ học. Một sinh viên gắn kết với hoạt động trong lớp học có thể
được xem là người đóng vai trò chủ động trong việc học của mình [3]. Đồng tình
với quan điểm đó, bài báo đề cập đến hoạt động học tập dưới góc độ sự gắn kết của
sinh viên vào hoạt động học trên lớp, qua đó khái niệm lại hoạt động học tập trên
lớp của sinh viên, cấu trúc lại hoạt động đó, đồng thời, phân loại các kiểu hoạt động
học tập của sinh viên trong giờ học trên lớp.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dưới góc nhìn sự gắn
kết
Trong quá trình phát triển của giáo dục, kể từ khi nhà trường ra đời, hình thức dạy
học lớp – bài với những lớp học nhiều học sinh cùng lứa tuổi và trình độ tương
đồng, giáo viên sử dụng kiểu dạy học “thông báo – đồng loạt” mới có thể hoàn
thành trách nhiệm của mình là truyền đạt toàn bộ nội dung quy định trong chương
trình và kế hoạch giảng dạy do nhà trường quy định. Cũng từ đó, học sinh thường
có xu hướng học theo kiểu thụ động, chú trọng ghi nhớ và ít thực hành, vận dụng
và trải nghiệm. Nhận thấy hạn chế và bất cập trong xu hướng này cũng như thực tế
chất lượng đào tạo yếu kém, không đáp ứng yêu cầu của xã hội đặt ra cho giáo dục,
nhu cầu cần phải đổi mới vai trò của người dạy cũng như người học, đặc biệt là nhu

2


cầu phát huy tính tích cực chủ động học tập của học sinh cũng như thực hiện dạy
học phân hoá, quan tâm đến nhu cầu, khả năng của cá nhân người học… ngày càng
trở nên cấp thiết. Các cách tiếp cận, quan điểm, phương pháp dạy học tích cực
trong đó “dạy học lấy người học làm trung tâm” hay “dạy học hướng vào người
học”… ra đã đời xuất phát từ những nhu cầu đó.
Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng, tư tưởng nhấn mạnh vai trò tích cực, chủ động
của người học, xem người học là chủ thể của quá trình dạy học đã xuất hiện từ rất
lâu, ở thế kỉ XVII, A.Kômenski đã viết: “Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực
nhạy cảm, phán đoán, phát triển nhân cách… hãy tìm ra phương pháp cho phép
giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn”. Tiếp sau đó, rất nhiều nhà giáo dục
học như John Dewey hay Carl Rogers… cũng đề cao nhu cầu, lợi ích của người
học, đề xuất việc phát huy vai trò lựa chọn nội dung học tập cũng như vai trò tự tìm
tòi, nghiên cứu của người học. Quan điểm dạy học hướng vào người học dần hình
thành, phát triển và hiện vẫn được xem là cách tiếp cận đúng đắn và được sử dụng
rộng rãi trong các nền giáo dục tiên tiến ở các quốc gia trên thế giới.
Theo đó, với cách tiếp cận dạy học hướng vào người học, toàn bộ quá trình dạy học
(giáo dục) đều hướng vào nhu cầu, khả năng, lợi ích của người học. Mục tiêu của
dạy học là trang bị cho học sinh năng lực và phẩm chất để sớm thích ứng với cuộc
sống xã hội, hoà nhập và phát triển cộng đồng; đặc biệt là tôn trọng nhu cầu, lợi
ích, khả năng và tiềm năng của người học. Nội dung dạy học không chỉ là kiến thức
phổ thông và khoa học mà cái chính là phương pháp tìm kiếm và tiếp thu kiến thức
trong bể tri thức rộng lớn đang ngày càng gia tăng của nhân loại; bên cạnh đó, dạy
học còn chú trọng hình thành và rèn luyện hệ thống kỹ năng thực hành, vận dụng
cũng như phát triển các năng lực phát hiện và giải quyết các vấn đề thực tiễn. Với
mục tiêu và nội dung đó, quá trình dạy học theo quan điểm này cũng phải sử dụng
hệ thống phương pháp dạy học tích cực trong đó chủ yếu tổ chức cho người học
hoạt động độc lập hoặc theo nhóm, qua đó các em có thể tự giác và chủ động chiếm

lĩnh tri thức, kỹ năng và thái độ đồng thời rèn luyện phương pháp tự học cũng như
làm quen với hoạt động nghiên cứu khoa học. Và như vậy, giờ học trên lớp của sinh
3


viên trở thành khoảng thời gian các em thực sự tham gia vào hoạt động học tập, là
chủ thể của quá trình dạy học dưới sự hướng dẫn và điều chỉnh của giảng viên.
Trong các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, hoạt động học tập của sinh
viên trên lớp được tiếp cận với nhiều cách thức và khía cạnh khác nhau. Ở Việt
Nam, hoạt động học tích cực, chủ động được nghiên cứu tập trung vào phương
hướng, phương pháp, cách thức, công nghệ cụ thể mang tính sư phạm nhằm tạo ra
hành vi và thao tác học tập, kích thích và nâng cao tính tích cực của chủ thể, đặc
biệt là tính tích cực nhận thức của người học. Theo đó, mảng đề tài về tính tích cực
học tập được nghiên cứu trên nhiều đối tượng bao gồm sinh viên đại học. Trên bình
diện chung, tính tích cực học tập được nhìn nhận dưới góc độ là phẩm chất nhân
cách của người sinh viên, thể hiện ý thức tự giác của họ về mục đích của hoạt động
học tập, thông qua đó sinh viên huy động ở mức cao các chức năng tâm lý nhằm tổ
chức và thực hiện hoạt động học tập có hiệu quả (Đỗ Thị Coong 2003, Lê Thị Xuân
Liên 2007, Phạm Văn Tuân 2011) [4,5,6]. Và như vậy, hoạt động học thực sự chỉ
được đề cập đến trên bình diện là một thuộc tính tâm lý của nhân cách thiêng về
nhận thức, chưa bao hàm yếu tố xúc cảm, thái độ và hành vi của người học; đây có
thể được xem là một hạn chế trong các nghiên cứu ở nước ta hiện nay về hoạt động
học của sinh viên.
Theo tiếp cận hiện đại, trong các công trình nghiên cứu đã và đang được thực hiện
trên thế giới, các nhà giáo dục học nghiên cứu về hoạt động học tập của sinh viên
trên lớp theo tiếp cận “sự gắn kết của sinh viên vào hoạt động học” (student
engagement in classroom). Ở đây, hoạt động học của sinh viên, hay nói cách khác
là sự gắn kết học tập của sinh viên được định nghĩa là “sự tham gia vào hoạt động
giáo dục, ở cả trong và ngoài lớp học, nhằm đạt được những kết quả có thể đo
lường được” (Kuh và cộng sự 2007), và là “mức độ sinh viên tham gia vào các hoạt

động giáo dục được kết nối với những kết quả học tập có chất lượng cao” (Krause
và Coates 2008), hay là “hiệu quả của những nổ lực bản thân sinh viên cống hiến
cho các hoạt động giáo dục nhằm góp phần trực tiếp tạo ra các kết quả họ mong
đợi” (Hu và Kuh 2001). Coates (2007) cho rằng sự gắn kết học tập của sinh viên là
4


“một cấu trúc tương đối rộng trong đó sinh viên nỗ lực trong lĩnh vực học thật để
đạt mục tiêu đã định”, bao gồm các yếu tố như học tích cực và hợp tác, tham gia
vào các hoạt động học thuật mang tính thách thức, giao tiếp chính thức với cán bộ
giảng dạy và cán bộ trường đại học, tham gia trải nghiệm các hoạt động giáo dục,
cảm thấy thuộc về và được hỗ trợ từ cộng đồng học tập trong nhà trường [7].
Trong công trình nghiên cứu xây dựng hệ thống phiếu điều tra bằng bảng hỏi
(survey) với tên gọi Điều tra quốc gia về sự tham gia của sinh viên (NSSE), được
tiến hành hằng năm trong các trường đại học công lập và tư thục tại Hoa Kỳ,
Canada và hiện được đưa vào sử dụng tại Úc, các nhà nghiên cứu đã định nghĩa về
sự gắn kết học tập của sinh viên như là “trạng thái tham gia của người học vào các
hoạt động và các điều kiện có khả năng kiến tạo việc học có chất lượng cao”, và
được đánh giá trên 6 khía cạnh gồm: thách thức học thuật, học tích cực, tương tác
giữa sinh viên và cán bộ giảng dạy, trải nghiệm hoạt động giáo dục, môi trường học
tập được hỗ trợ và học đi đôi với vận dụng vào nghề nghiệp.
Trong phạm vi lớp học, sự gắn kết của sinh viên vào hoạt động học trong giờ học
còn được hiểu là “một quá trình người học chủ động gắn hoạt động của cá nhân vào
hoạt động học tập trên lớp với những biểu hiện cụ thể ở các khía cạnh bao gồm:
tâm thế sẵn sàng cho hoạt động học, tham gia đóng góp vào thảo luận trên lớp, các
kỹ năng làm việc theo nhóm, các kỹ năng giao tiếp và sự hiện diện trên lớp”
(Dancer & Kamvounias, 2005) [8]. Trong một quan niệm khác, Fritschner (2000)
đã chỉ ra được 6 mức độ tham gia hoạt động học trên lớp của sinh viên, từ mức đơn
thuần chỉ là sự hiện diện đến mức cao nhất là trình bày bằng ngôn ngữ nói trước
toàn thể lớp học [9]; và trong giờ học, sinh viên có thể lựa chọn im lặng hoặc tham

gia hoạt động bằng cách thể hiện qua ngôn ngữ nói như đặt câu hỏi, tham gia thảo
luận, trình bày trước nhóm, trước lớp,… nhưng khi sinh viên lựa chọn im lặng
không có nghĩa là không tham gia vào hoạt động học trên lớp [10].
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu khác cũng đã chỉ ra những quan niệm khác nhau về các
yếu tố thành phần tạo nên sự gắn kết. Chẳng hạn như, mô hình 2 thành phần bao
gồm hành vi (sự tham gia, nỗ lực, thực hành một cách tích cực,…) và xúc cảm
5


(hứng thú, cảm giác thuộc về, giá trị, các xúc cảm tích cực,…) (Finn 1989, Marks
2000, Skinner, Kindermann, & Furrer 2009); hoặc 3 thành phần bao gồm hành vi,
xúc cảm và nhận thức (Archaumbault 2009, Fredricks 2004, Jimerson 2003,
Wigfield 2008); hoặc 4 thành phần bao gồm học thuật, hành vi, nhận thức và tâm lý
(Appleton, Christenson, Kim, & Reschly 2006, Reschly & Christenson 2006) [11].
Mặc dù vẫn tồn tại những khác nhau cơ bản về số lượng và dạng thức của các thành
phần cấu thành nên sự gắn kết học tập của sinh viên trên lớp, các nhà nghiên cứu
cũng đã có sự thống nhất tương đối về quan niệm cấu trúc đa thành tố của thuật ngữ
này.
Xuất phát từ phân tích trên, chúng tôi lựa chọn cách hiểu về thuật ngữ sự gắn kết
của sinh viên vào hoạt động học như là một trạng thái hoạt động của người học bao
gồm các mặt về nhận thức, thái độ và hành vi, khi người đó tham gia một cách tích
cực, chủ động và sáng tạo vào các hoạt động diễn ra trên lớp nhằm đạt được các
mục tiêu học tập một cách hiệu quả.
Trên cơ sở lý thuyết dạy học lấy người học làm trung tâm và lý thuyết về sự gắn kết
vào hoạt động học tập của sinh viên như đã trình bày ở trên, chúng tôi thống nhất
quan niệm hoạt động học trên lớp của sinh viên như sau:
Hoạt động học trên lớp của sinh viên là hoạt động trung tâm của quá trình dạy học
trên lớp ở bậc đại học, trong đó sinh viên tham gia và gắn kết với các nhiệm vụ học
tập trên cả ba bình diện bao gồm nhận thức, hành vi và thái độ.
2.2. Cấu trúc hoạt động học tập của sinh viên trong giờ học trên lớp

Với khái niệm hoạt động học như trên, mô hình cấu trúc của hoạt động học tập của
sinh viên trong giờ học có thể được minh hoạ như sau:

6


Theo đó, các yếu tố cấu thành nên sự gắn kết học tập của sinh viên trên lớp bao
gồm 3 khía cạnh: về mặt hành vi, về mặt thái độ và về mặt nhận thức.
Về mặt hành vi, đây có thể xem là khía cạnh biểu hiện rõ nét nhất của hoạt động
học tập của sinh viên trong giờ học trên lớp, bao gồm cả hoạt động mang tính chất
học thuật lẫn tính chất xã hội. Có 3 thành phần hoat động học tập được biểu hiện về
mặt hành vi: hành động tích cực (tuân thủ nội quy lớp học), tham gia vào các nhiệm
vụ học tập (chú ý, tập trung, kiên trì, nỗ lực, trình bày thắc mắc, đóng góp cho thảo
luận…) và tham gia vào các hoạt động khác của lớp (chơi trò chơi, giúp đỡ bạn bè
trong học tập…). Như vậy, với những phương pháp và kỹ thuật dạy học được giảng
viên sử dụng trong giờ học, có thể dễ dàng quan sát được sinh viên học hay không
học thông qua những hành vi thông thường như sau: hiện diện trong lớp, lắng nghe
lúc giảng viên thuyết trình hoặc bạn bè thảo luận, ghi chép bài học, làm bài tập,
tham gia thảo luận, trình bày trước nhóm, cả lớp, tham gia các hoạt động được
giảng viên tổ chức trên lớp,… Ngoài ra, hoạt động học tập trên lớp của sinh viên
còn cho thấy sự gắn kết thực sự hay không còn bộc lộ qua mối quan hệ tương tác
giữa sinh viên với giảng viên và giữa sinh viên với nhau.
Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, sinh viên im lặng và không bộc lộ một hay nhiều
hơn trong số những biểu hiện đã liệt kê ở trên không đồng nghĩa với việc họ không
7


gắn kết vào hoạt động học tập. Bởi vì, sinh viên tham gia hoạt động học hay không
còn có thể biểu hiện trên khía cạnh xúc cảm. Đó là những biểu hiện về mặt thái độ
của sinh viên trong suốt giờ học khi họ cho thấy mức độ chú ý, sự hứng thú hay thờ

ơ, háo hức hay buồ chán, và cảm giác thuộc về hay không thuộc về cộng đồng học
tập trong lớp thông qua quá trình tương tác với giảng viên, bạn cùng lớp, hoặc
những biểu hiện của ngôn ngữ cơ thể như nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ…
Về mặt nhận thức, đây là khía cạnh khó quan sát nhất nhưng lại chính là thành phần
quan trọng nhất trong hoạt động học tập của sinh viên trên lớp. Chúng tôi cho rằng,
thành tố này tương đồng với quan niệm về tính tích cực nhận thức vốn được nghiên
cứu rộng rãi trong ngành Tâm lý học, Giáo dục học ở nước ta hiện nay. Sinh viên
biểu hiện tính tích cực nhận thức khi họ huy động các quá trình tâm lý như tư duy,
tưởng tưởng, trừu tượng hoá, tổng hợp, phân tích, sáng tạo,… vào hoạt động học
của mình, họ tìm cách để đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của giảng viên về bài học
và cố gắng vượt qua các thử thách do vấn đề học thuật mang lại. Như vậy, sự gắn
kết về mặt nhận thức là sự tổng hợp của 2 thành phần chính: tâm lý và nhận thức.
Thành tố tâm lý bao gồm mục tiêu, động cơ học, và khả năng tự quản lý của người
học liên quan đến những vấn đề như tâm thế sẵn sàng, nỗ lực cố gắng để thông hiểu
các vấn đề khoa học trừu tượng cũng như hình thành và rèn luyện các kỹ năng nghề
nghiệp phức tạp. Thành tố nhận thức liên quan đến khả năng tự quản lý của người
học về đến những vấn đề như ý thức học tập, vận dụng các phương pháp học phù
hợp cũng như có chiến lược trong tư duy và học tập. Nói cách khác,
Các khía cạnh biểu hiện hoạt động học tập của sinh viên còn có thể được phân chia
thành các mức độ khác nhau qua đó cho thấy người học tích cực, không tích cực, hay
thậm chí có những biểu hiện tiêu cực trong việc thực hiện các thao tác học trên lớp.
Bảng 1 cho thấy một số ví dụ về các mức độ như sau:
Gắn kết tích cực

Không gắn kết

Tham gia tiêu cực

Mặt hành Có mặt ở lớp, tham Vắng mặt trong giờ Tẩy chay, ngắt quảng
vi


gia các hoạt động học không lý do

hoặc phá phách khi

được tổ chức trên

giảng viên và cả lớp
8


Mặt thái
độ

lớp một cách nhiệt

đang thực hiện hoạt

tình, tích cực

động dạy và học

Hứng thú với các Buồn chán, ủ rủ Gắt gỏng, cáu kỉnh, dè
hoạt động trên lớp

trong giờ học

bỉu giảng viên hoặc
bạn bè


Đáp ứng hoặc vượt Không thực hiện các Thay đổi, làm khác đi
qua yêu cầu của nhiệm vụ học tập, so với yêu cầu của
Mặt nhận giảng viên về các hoặc
thức

thực

hiện giảng viên và tổ chức

nhiệm vụ học tập không đầy đủ

của nhóm khi thực

trên lớp

hiện các nhiệm vụ học
tập trên lớp

Như vậy, một sinh viên có thể bộc lộ cho thấy một số biểu hiện ở mức độ tích cực
về một hoặc nhiều khía cạnh của hoạt động học tập nhưng đồng thời cũng có thể
cho thấy sự không gắn kết hoặc thậm chí tham gia một cách tiêu cực ở các khía
cạnh khác. Chẳng hạn, trong lớp học thuộc học phần Xã hội học, một sinh viên nữ
chăm chỉ tham gia tất cả các hoạt động học trên lớp như lắng nghe giảng viên
thuyết trình, đặt câu hỏi cho giảng viên về những vấn đề chưa hiểu, tham gia thảo
luận với bạn cùng lớp… là những biểu hiện về mặt hành vi của sự gắn kết của sinh
viên này trong hoạt động học trên lớp. Tuy vậy, trong suốt buổi học, người sinh
viên bộc lộ ánh mắt thờ ơ và nét mặt không hứng thú. Không những vậy, khi tham
gia vào hoạt động thảo luận nhóm, cô đã không đồng ý sự phân công của nhóm khi
được đề xuất là người thuyết trình sản phẩm hoạt động của cả nhóm vì cô cho rằng
giảng viên giao nhiệm vụ không công bằng cho các nhóm. Đó là một ví dụ cho thấy

sự phong phú và đa dạng về mức độ gắn kết của sinh viên trong hoạt động học tập
trên lớp. Thấy được một cách cụ thể và chi tiết từng loại mức độ trong mỗi khía
cạnh của sự gắn kết này sẽ cho phép giảng viên cũng như cán bộ giáo dục có được
cái nhìn chính xác và khách quan hơn trong việc đánh giá hoạt động học tập của
sinh viên nói riêng và đánh giá chất lượng quá trình dạy học nói chung.
9


Bên cạnh đó, hoạt động học tập của sinh viên trong giờ học trên lớp còn được xem
xét dưới 2 góc độ bao gồm: tính chất học thuật (academic) và tính chất xã
hội (social) (Coates 2007) [12]. Sự phân chia này được chúng tôi sử dụng làm cơ sở
để phân loại các kiểu gắn kết của sinh viên sẽ trình bày ở phần tiếp theo.
Từ những phân tích ở trên, có thể kết luận rằng, hoạt động học tập của sinh viên
trong giờ học trên lớp theo tiếp cận lý thuyết “dạy học lấy người học làm trung
tâm” và lý thuyết “sự gắn kết vào hoạt động học của sinh viên” có thể được hiểu
là một tổ hợp các biểu hiện về mặt nhận thức, thái độ và hành vi của sinh viên khi
họ tham gia một cách tích cực, chủ động và sáng tạo vào các hoạt động diễn ra
trong giờ học nhằm đạt được các mục tiêu học tập một cách hiệu quả và chất
lượng.
2.3. Các kiểu hoạt động học tập của sinh viên trong giờ học
Từ khái niệm và cấu trúc đã phân tích ở trên, chúng tôi phân chia hoạt động học tập
của sinh viên trên lớp thành những kiểu được minh hoạ.
Khi phân chia cấu trúc hoạt động học tập của sinh viên trong giờ học thành 2 yếu tố
chính mang tính chất học thuật và tính chất xã hội, những kết hợp giữa các mức độ
cao hay thấp của 2 ngưỡng này cho thấy rõ các kiểu học tập sinh viên thực hiện
trong giờ học trên lớp.
- Kiểu học tập tích cực. Đây là hình thức trong đó người học tham gia sâu vào hoạt
động học để trang bị kiến thức khoa học, tri thức chuyên môn và kỹ năng nghề
nghiệp đồng thời phát triển các kỹ năng xã hội khác như làm việc nhóm, giao tiếp,
thuyết trình trước đám đông, rèn luyện khả năng lãnh đạo… Những sinh viên thuộc

loại này thường không ngần ngại tiếp xúc với giảng viên cũng như bạn cùng lớp, họ
xem lớp học là môi trường thích hợp, được hỗ trợ và đầy thử thách để tạo điều kiện
cho họ phát huy và phát triển năng lực của bản thân.
-Kiểu học tập độc lập. Sinh viên tham gia vào hoạt động học trên lớp một cách độc
lập cho thấy tinh thần học thuật cao độ nhưng cách thức tiếp cận với hoạt động học
theo hướng hoà nhập với tập thể lại tương đối hạn chế. Họ có thể rất chăm đến lớp,
chú ý, lắng nghe giảng viên thuyết trình, thực hiện đầy đủ các yêu cầu về nhiệm vụ
10


học tập… Tuy nhiên, trong mối quan hệ tương tác với giảng viên cũng như với bạn
học cùng lớp, họ tỏ ra e ngại hợp tác, kỹ năng giao tiếp hạn chế làm họ không phát
huy được vài trò chủ động của mình trong việc phát triển các kỹ năng xã hội cần
thiết.
- Kiểu học tập tập thể. Với thế mạnh về khả năng hoà nhập tốt với tập thể thông
qua năng lực giao tiếp và tính tích cực, chủ động trong tham gia hoạt động, sinh
viên thuộc kiểu học tập tập thể thường cho thấy xu hướng linh hoạt và năng động
trong việc chứng tỏ cái tôi của mình trong đám đông. Tuy vậy, càng nghiêng về các
kỹ năng mềm, họ lại càng ít lưu tâm đến bản chất của việc học là trang bị kiến thức
và rèn luyện năng lực chuyên môn. Tính chất học thuật không rõ nét trong sự tham
gia này có thể làm kết quả học tập của người học không cao như mong đợi.
- Kiểu học tập thụ động. Đây là hình thức học tập trong đó sinh viên không bộc lộ
hứng thú, tính tích cực nhận thức đối với nội dung học tập cũng như cách thức tiến
hành hoạt động học. Sự thờ ơ việc trang bị tri thức, rèn luyện năng lực và phát triển
các kỹ năng xã hội làm cho họ không cảm thấy mình thuộc về cộng đồng học tập
trong lớp học. Sự im lặng này không chỉ biểu hiện ở bề mặt qua hành vi mà ngay cả
về mặt hành vi và nhận thức đều không tích cực, chủ động. Kiểu gắn kết này có thể
dễ dành nhận thấy và cần thiết được nghiên cứu để xây dựng tác động phù hợp.
Sự phân chia các kiểu học tập của sinh viên trong giờ học trên lớp chỉ mang tính
tương đối và biểu hiện của các kiểu học của sinh viên cũng hết sức đa dạng và

phong phú tuỳ thuộc vào từng điều kiện khách quan và chủ quan khác nhau; trong
đó, các tác nhân bao gồm người dạy, nội dung bài học, phương pháp dạy học, tâm
trạng và sức khoả của sinh viên cũng có những ảnh hưởng nhất định đến kiểu học
tập của từng sinh viên trong lớp.
Việc xác định kiểu học tập của sinh viên trong giờ học có vai trò quan trọng đối với
người giảng viên. Bởi vì trên cơ sở nắm bắt được đối tượng của hoạt động dạy mà
mình hướng đến, xác định chính xác và kịp thời kiểu học của từng đối tượng, sẽ
giúp cho giảng viên có thể thiết kế và điều chỉnh phương pháp giảng dạy, nội dung
bài học cũng như cách thức tiếp cận để phù hợp hơn với lớp học, mang lại hiệu quả
11


cho quá trình dạy học trong đó nâng cao chất lượng học tập của sinh viên là mục
tiêu trên hết.
3. Kết luận
Hoạt động học tập của sinh viên trong giờ học trên lớp đóng vai trò hết sức quan
trọng đối với chất lượng giáo dục đại học. Quan niệm hiện đại về hoạt động học tập
của sinh viên theo tiếp cận sự gắn kết của học trong giờ học trên lớp cho thấy bản
chất của quá trình học tập của sinh viên biểu hiện ở 3 khía cạnh bao gồm nhận thức,
hành vi và thái độ của họ đối với các nhiệm vụ học tập trên lớp. Nghiên cứu nội
hàm của các khía cạnh này, đồng thời xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chúng có
thể xác định những tiêu chí đánh giá hoạt động học của sinh viên trên lớp, qua đó
có thể đánh giá được hiệu quả của quá trình dạy học cũng như cải thiện được chất
lượng hoạt động học của sinh viên khi ngồi trên ghế nhà trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Charles T. Towley (2005). Tập huấn đào tạo tín chỉ. ĐH Vinh.
[2] Nguyễn Thạc, Phạm Thành Nghị (2009). Tâm lý học sư phạm đại học. NXB Đại học
Sư phạm. Hà Nội.
[3] Weaver and Qi, qtd. inRogers, Susan L.(2013). Calling the question: Do college
instructors actually grade participation? College Teaching, 11-22.

[4] Đỗ Thị Coong (2003). Nâng cao tính tự giác, tích cực trong hoạt động học tập của
sinh viên. Tạp chí Tâm lý học, số 3, 2003, tr.60-63.
[5] Lê Thị Xuân Liên (2007). Phát huy tính tích cực của học sinh – sinh viên trong dạy
học Toán ở các trường Cao đẳng Sư phạm. Kỷ yếu Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị,
tr.14-15.
[6] Phạm Văn Tuân (2011). Một số biện pháp nâng cao tính tích cực học tập của sinh
viên trường Đại học Trà Vinh. Tạp chí Tâm lý học, số 02, tháng 09/2011, tr.74-78.
[7] Vicki Trowler (2010). Student engagement literature review. The Higher Education
Academy,

Innovation

Way.

York

Science

Park,

Heslington.

/>df
12


[8] Dancer, D., & Kamvounias, P. (2005). Student involvement in assessment: A project
designed to assess class participation fairly and reliably. Assessment & Evaluation in
Higher Education, 30, 445-454. (ES)
[9] Fritschner, L. M. (2000). Inside the undergraduate college classroom: Faculty and

students differ on the meaning of student participation. The Journal of Higher Education,
71, 342-362. (LR)
[10] Kevin R. Meyer (2009). Student classroom engagement: Rethinking participation
grades and student silence. Scripps College of Communication.
[11] Jennifer A. Fredricks, Wendy McColskey (2012). The measurement of student
engagement: A comparative analysis of various methods and students self-report
instruments. Handbook of research on Student engagement. Spinger.
[12] Coates, H. (2007). A Model of online and general campus-based student
engagement. Assessment and evaluation in higher education. 32 (2), pp. 121-141.

13



×