Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tiểu luận những động cơ chủ yếu thúc đẩy hoạt động học tập của sinh viên trường mình và đề xuất biện pháp tạo động cơ học tập cho sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.03 KB, 23 trang )

TIỂU LUẬN
Học phần: Tâm lí ho ̣c dạy học đại học

Chủ đề tiểu luận:
Những động cơ chủ yếu thúc đẩy hoạt động học tập của sinh viên trường
mình và đề xuất biện pháp tạo động cơ học tập cho sinh viên?

Huế, 6/2016

Phần 1. BÀI KIỂM TRA
CÂU HỎI
Theo anh/chị, vai trò chính của người giảng viên ĐH/CĐ là gì? Những
vai trò đó được thể hiện như thế nào trong những hoạt động cụ thể của các
anh/chị?
BÀI LÀM
Hiện nay, trước sức ép của xu hướng toàn cầu hóa
đang có những biế n đổ i to lớn

, nền giáo dục thế giới

. Học thuyết “thế giới phẳ ng” của Thomas L

Friedman trong giáo du ̣c ĐH thời đa ̣i kinh tế tri thức

.

đang hiện hữu rõ ràng hơn


bao giờ hết. Xuấ t khẩ u “sản phẩm” giáo dục ĐH đang trở thành một trào lưu khá
phổ biế n, sinh viên đã đươ ̣c coi là một da ̣ng “khách hàng” đặc biệt và giáo du ̣c ĐH


đư ơ ̣c coi là một “thi ̣trường giáo du ̣c ĐH” . Theo đó, vai trò của giảng viên ĐH/CĐ
cũng phải thay đổi phù hợp với yêu cầu mới của “khách hàng” đặc biệt trong một
“thi trường
giáo dục ĐH”.
̣
Vai trò của người giảng viên ĐH/CĐ
Trước sự phát triển của nền kinh tế tri thức , giáo dục ĐH/CĐ là yếu tố quyết
đinh
̣ chấ t lươ ̣ng nguồn nhân lực - “sản phẩm” đào tạo và mố i quan hệ giữa chấ t
lượng “sản phẩm” đào tạo và thị trường lao động ngày càng trở lên khăng khít. Vì
vậy, sứ mạng của các trường ĐH /CĐ là đào tạo ra nguồn lực có chất lượng và đáp
ứng được yêu cầu phù hợp cả về số lượng và chất lượng của xã hội

, đào tạo ra

những con người tự chủ với phẩ m chấ t , năng lực chuyên môn và được trang bị các
kĩ năng ứng xử với môi trường sống xung quanh . Chính điều này đã làm thay đổi
hẳ n những chức năng của hoa ̣t động đào ta ̣o

truyền thống, trong đó nhiệm vụ và

vai trò của người giảng viên ĐH/CĐ trở lên toàn diện hơn. Giảng viên không chỉ là
người cung cấp tri thức mà còn là người định hướng học tập cho sinh viên, hướng
dẫn sinh viên tiếp cận với tri thức , khoa ho ̣c hiệu quả nhất, nhanh nhất, tố t nhấ t
một cách chủ động, sáng tạo.Tư duy sáng tạo được coi là một trong những yếu tố
quyế t đinh
̣ đi đế n khẳ ng đinh
̣ tự chủ. Thực vậy, có tri thức mà thiếu sáng tạo thì chỉ
có thể học làm theo những cái có sẵn


, dập khuôn, khó thích nghi với một môi

trường xã hội không ngừng biến động cho dù đó là lĩnh vực nào đi nữa như khoa
học, kinh doanh, hay văn hóa nghệ thuật… , không có sáng tạo đều đi đến một co n
đư ờng là “tri thức chế t ”. Theo quan điể m của nhà triế t ho ̣c và giáo du ̣c Hoa Kỳ
John Dewey, ông cho rằng “Học sinh đến trường không phải là để tiếp thu những
tri thức đã đươ ̣c ghi vào trong một chư ơng triǹ h rồ i mà có lẽ

không bao giờ dùng

đến, nhưng chính là để giải quyết vấn đề , giải quyết các “bài toán” của nó , những


thực tế mà nó gặp hằ ng ngày . Về phía người thầ y, ông ta hành động như một người
bạn có kinh nghiệm, khuyên nhủ, hướng dẫn cho trẻ biết những gì mà thầy biết về
vấ n đề đươ ̣c đặt ra”.
Nền giáo dục thế giới đã hình thành một cơ sở để thiế t lập phương pháp da ̣y
học mới mà ta gọi đó là phương pháp nêu vấn đề và giải quyết vấn

đề thay cho

phương pháp truyền đạt và tiếp thu một cách thụ động các bài giảng có sẵn trong
giáo trình. Nhưng trên thực tế , không phải bất cứ những vấn đề thầy đặt ra lại phù
hơ ̣p với những tình huố ng xảy ra trong ch uyên môn mà sinh viên sẽ gặp phải , và
điề u này có lẽ chính bản thân người thầ y cũng đã gặp phải . Vì thế, buộc sinh viên
phải tư duy để phát hiện ra những vấn đề , cho dù chỉ mang tính giả thiế t . Qua đó ,
sinh viên đư ợc rèn luyện tư duy độc lập, tập nghiên cứu, sáng tạo, phát hiện và giải
quyế t vấ n đề hơn là ho ̣c thuộc bài và làm bài đầ y đủ . Giờ ho ̣c không chỉ đơn thuầ n
là những giờ giảng giải cung cấp kiến thức thay vào đó là những giờ thảo luận, đố i
thoại, phát hiện vấn đề theo nhiều chiều và xử lý vấn đề theo các hướng khác nhau .

Trên cơ sở tôn trọng tính tự chủ, sinh viên cầ n chủ động nghiên cứu, phân tích, suy
luận, tìm tòi, nghi ngờ và đặt lại vấn đề , tranh luận , thậm chí là phê phán , phản
đố i… qua đó rèn luyện tư cách độc lập, dám nghĩ, dám hành động để dần trở thành
một người làm chủ trí thức thực sự. Hoạt động học của sinh viên vì thế không đóng
kín trong môi trường nhà trường mà được mở rộng ra trên toàn không gian sống

.

Nội dung ho ̣c không chỉ bao hàm những kiế n thức về chiń h tri ̣tư tưởng và khố i
kiế n thức chuyên ngành mà còn bao hàm cả kiế n t hức về kỹ năng số ng. Vì vậy, vai
trò và nhiệm vụ của người giảng viên ĐH/CĐ cũng theo đó thay đổi phù hợp để
đạt được các mục tiêu thông qua việc thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản là nhiệm vụ
giáo dưỡng, phát triển và giáo dục.
Nề n giáo du ̣c của chúng ta chiụ ảnh hưởng nhiề u của quán tiń h da ̣y ho ̣c theo
kiể u hàn lâm. Vai trò của người thầ y dù ở cấ p bậc nào cũng luôn luôn đứng ở vi ̣trí


tố i cao. Thầ y luôn là một khuôn mẫu mà trò không thể đươ ̣c phép phản biện cho dù
đôi khi các giá tri ̣mang tính thời đa ̣i đã làm cho những chân lý thế hệ có ít nhiề u
thay đổ i . Hay cũng có khi , với tố c độ của phát triể n thông tin mà những luồ ng
thông tin và những phát hiện mới thầy chưa có điều kiện tiế p xúc và xử lý thì đây
cũng là một hạn chế còn tồn tại rất lớn trong khoảng cách mà nền giáo dục nhất
nhấ t “Tôn sư tro ̣ng đa ̣o” của chúng ta đang mắ c phải. Vì thế, bên cạnh việc trang bị
và định hướng cho sinh viên tin
́ h tự chủ trong việc tiế p thu những kiế n thức khoa
học về ngành , nghề theo ho ̣c. Đồng thời là những hiểu biết cần thiết để giải quyết
các vấn đề xã hội theo khả năng của mình hay nói cách khác là những kĩ

năng


số ng. Trong đó , người thầy cũng phải cần điều chỉnh thái độ mang tính “dân chủ
là tôn trọng người học” với sinh viên trong quá trình trao đổi , đố i thoại. Một thực
tế cho thấ y , việc lấ y ý kiế n của sinh viên không những giúp cho giảng viên nhận
thức đươ ̣c những mặt còn tồ n ta ̣i trong phư ơng pháp giảng da ̣y mà

còn giúp cho

giảng viên củng cố , hoàn thiện mình trong sự đối chiếu với nhận thức của sinh
viên. Đây cũng chin
́ h là mu ̣c đích hướng tới quá trình đào tạo và tự đào tạo mà bản
thân người giảng viên và sinh viên đều phải nhận thức được nhu cầu xã hội là luôn
phát triển. Nế u, xã hội đặt ra những yêu cầu mà bản thân mỗi cá nhân khôn g đáp
ứng được thì đồng thời đó là quá trình tự đào thải mình trong vòng xoáy chọn lọc
của xã hội.
Bên cạnh đó, vai trò quan trọng của người giảng viên ĐH/CĐ còn thể hiện
trong quá trình tự học của sinh viên, một quá trình rất quan trọng trong việc giúp
quá trình đào tạo đạt được kết quả mỹ mãn. Tự học là quá trình bản thân người học
tích cực, độc lập, tự giác chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, năng động tìm tòi,
phân tích sách vở, tài liệu tham khảo bằng những phương pháp phù hợp trên cơ sở
hướng dẫn của GV. Như vậy, vấn đề tự học cần có sự đổi mới về bản chất, không
còn là một hoạt động tự phát hay ép buộc mà phải là một hoạt động tự giác và chịu


sự điều khiển của GV trong nội dung học tập. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý
giáo dục, biểu hiện của ý thức tự học rất đa dạng: Một SV có ý thức tự học tốt phải
là người biết cách sắp xếp thời gian học tập: Học tập trên lớp, nghiên cứu tài liệu
mọi nơi mọi lúc ngay cả trong vui chơi giải trí hoặc học qua mạng Internet. Trên
lớp một người có ý thức tự học tốt chính là người tập trung nghe giảng, hăng hái
phát biểu xây dựng bài, nêu câu hỏi đối với GV. Người có ý thức tự học tốt còn là
người luôn tìm thấy những điều đáng học hỏi trong cuộc sống xung quanh, ngay từ

những điều nhỏ nhặt nhất, biến nó thành vốn sống, kỹ năng sống cho bản thân.
Sự thể hiện vai trò của người giảng viên ĐH/CĐ trong công việc bản thân
Với bản thân, vai trò của người giảng viên được thể hiện qua những công
việc giúp SV học tốt nhất, cụ thể như sau:
Công tác chuẩn bị cho hoạt động định hướng tự học cho sinh viên:
Những công việc chuẩn bị của GV thể hiện vai trò định hướng cho SV như
giúp SV tìm kiếm tài liệu, theo dõi, kiểm tra kết quả kết quả tự học của SV. Như
vậy, GV phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ. Người giảng viên không
những cần có kiến thức sâu rộng mà còn phải tâm huyết với nghề nghiệp với SV
đồng thời cần phải chương trình hóa việc tự học của SV, nghĩa là GV cần có sự
chủ động thực hiện một quy trình tương tác với SV càng cụ thể càng tốt như làm
đề cương môn học thật chi tiết, cụ thể để từ đó giúp hướng dẫn SV đọc nội dung
gì, tìm hiểu vấn đề nào và đặc biệt là nghiên cứu tài liệu tham khảo gì... Hướng
dẫn SV chuẩn bị bài của tiết học kế tiếp là công việc rất quan trọng với vai trò định
hướng học tập cho SV. Thực tế, cho thấy rằng nếu SV chịu đọc, nghiên cứu trước
thì SV có thể nắm được các vấn đề đơn giản, có những ý kiến thắc mắc với những
vấn đề phức tạp, hiểu sâu, hiểu thấu đáo hơn nội dung kiến thức của bài học. Theo
nghiên cứu của các nhà tâm lý giáo dục thì: “ Một nguyên lý quan trọng là những


gì SV tự làm được nên để họ tự làm, tự khám phá. Vì thế người thầy cần đưa ra các
vấn đề để buộc SV phải nghiên cứu, tự khám phá, nếu không họ sẽ không bao giờ
đọc tài liệu, sách vở.” Chúng ta không nên sợ SV làm sai vì một nguyên lý đơn
giản là: người thầy cần tăng cường việc dạy SV cách tự học từ những lỗi của họ
hơn là dạy cho họ cách bắt chước những điều chúng ta cho là đúng.
GV cần đầu tư suy nghĩ thiết kế giờ dạy để tạo hứng thú cho SV, buộc SV
phải tích cực hoạt động cùng GV trong tiết dạy học. Trong quá trình thực hiện mục
tiêu cải tiến phương pháp dạy học theo hướng lấy người học làm trung tâm của
Nhà trường, GV cần sử dụng tối đa sự trợ giúp của các phương tiện công nghệ
thông tin, để làm được điều này các thao tác thể hiện nội dung bài dạy cần được

tính toán một cách khoa học và nghệ thuật, đảm bảo sử dụng đúng lúc, đúng chỗ để
mang lại hiệu quả cao. Một trong số đó, cần đặc biệt chú ý nội dung và quy trình
thiết kế slide bài giảng chẳng hạn. Cụ thể, có thể tham khảo một giờ lên lớp được
xây dựng như xác định thời gian, chủ đề, nội dung, yêu cầu cho giờ lên lớp lý
thuyết; cụ thể hóa phần nội dung GV trình bày; giới thiệu mục tiêu bài học và các
yêu cầu cần thực hiện; trình bày cấu trúc nội dung dạy học và logic các đơn vị kiến
thức của bài giảng; lựa chọn và chuyền tải nội dung trình bày trên lớp, nội dung cốt
lõi cần trình bày; nội dung, vấn đề SV để SV trình bày và thảo luận trên lớp; nội
dung, vấn đề SV cần giải quyết khi làm việc theo nhóm…Tóm lại, tất cả những
công việc chuẩn bị của GV đều phải hướng tới một mục đích là: yêu cầu SV cũng
phải có sự đầu tư, chuẩn bị chu đáo nhằm có thể tích cực đóng góp xây dựng bài và
tiếp thu tốt nội dung bài học.
Quá trình lên lớp
Quá trình lên lớp chính là quá trình thực hiện thiết kế mà GV đã xây dựng,
tuy nhiên để phát huy tốt việc tự học của SV trong giờ lên lớp GV cần chú ý các
vấn đề như: Tích cực huy động kiến thức SV đã có để tiếp thu cái mới: GV không


nhắc lại kiến thức cũ mà thông qua đề cương hoặc sơ đồ đã giao cho SV chuẩn bị
trên cơ sở đó kiểm tra, bổ sung phần kiến thức SV nắm chưa chắc hoặc nội dung
cần mở rộng; Khai thác tối đa những tình huống có vấn đề để phát huy vai trò chủ
động tìm hiểu khám phá kiến thức và khả năng tư duy của SV; Chuẩn bị, lựa chọn
các ví dụ ngoài giáo trình, các ví dụ có tính thực tiễn, sinh động. Công việc này
cũng là một cách làm gương cho SV về vấn đề tự học; Khai thác và áp dụng linh
hoạt sơ đồ, biểu, bảng trong bài giảng: Điều này sẽ giúp SV dễ hiểu, dễ nhớ, SV
buộc phải sử dụng ngôn ngữ của mình để biểu đạt nhờ vậy khả năng tư duy logic
và diễn đạt được nâng cao; Chốt lại mạch kiến thức và các kiến thức cốt lõi
Hướng dẫn SV tự hoàn thiện bài học sau khi lên lớp:
GV cần chú trọng các nhiệm vụ cơ bản sau: Giao các bài tập phù hợp với nội
dung kiến thức theo các cấp độ tái hiện, tái tạo, vận dụng, phân tích tổng hợp…

trong đó phải chú ý đến trình độ SV: khá, giỏi, trung bình, yếu kém; Có những gợi
ý, yêu cầu hoặc bài tập mà buộc SV phải đọc lại giáo trình; Việc SV tự hoàn thiện
bài học là rất quan trọng bởi đó chính là lúc SV biến quá trình đào tạo thành tự đào
tạo, biến tri thức nhân loại thành tri thức của mình.
Hướng dẫn SV làm các bài tập nghiên cứu
Đây là một việc làm có thể phát huy cao nhất ý thức tự học của SV,
bài tập nghiên cứu thường được tiến hành trong cả quá trình học một học phần
gồm GV lựa chọn nội dung, vấn đề chỉ rõ mục đích, yêu cầu nghiên cứu, gợi ý
cách thức thực hiện để giao cho SV thực hiện; Công khai các tiêu chí đánh giá, thời
hạn hoàn thành; Cung cấp tài liệu hoặc địa chỉ tài liệu tối thiểu cho SV, hướng dẫn
cách thức tìm kiếm, thu thập, xử lý thông tin; Kiểm soát và sẵn sàng giúp đỡ SV
khi SV gặp khó khăn hoặc SV yêu cầu, đưa ra các điều chỉnh khi cần thiết; Đánh


giá chính xác kết quả của SV, có chính sách động viên khen thưởng đúng đắn, kịp
thời.
Đánh giá qua kiểm tra, thi.
Qua thực tế dạy học, không ai có thể phủ nhận vai trò của kiểm tra đánh giá
trong động lực học tập của SV. Nhưng trong thực tế có những GV coi nhẹ, hoặc
chưa khai thác được sức mạnh của kiểm tra đánh giá: Việc ra đề kiểm tra chưa
được đầu tư nhiều công sức, đề quá dễ hoặc quá khó không có tính phân loại SV,
việc chấm bài, nhận xét bài làm của SV chưa được quan tâm đúng mức.

Đề thi

phải đảm bảo tính toàn diện, khách quan, cần quan tâm những giá trị cốt lõi của
môn học, sát với năng lực thực tế của SV
Như vậy, trong tru ̣c đào ta ̣o bậc ĐH giảng viên và sinh viên là hai đố i tươ ̣ng
trực tiế p tham gia vào kiế n thiế t nguồ n nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển xã
hội. Để đáp ứng đươ ̣c yêu cầ u xã hội đòi hỏi cả hai đố i tươ ̣ng phải nhận thức đươ ̣c

sự tương tác trong quá trình hình thành những giá tri ̣tự chủ mà ở đây vai trò của
giảng viên mang tính quyế t đinh.
̣
Phần 2. TIỂU LUẬN
Chủ đề tiểu luận:
Những động cơ chủ yếu thúc đẩy hoạt động học tập của sinh viên trường
mình và đề xuất biện pháp tạo động cơ học tập cho sinh viên?

1. Đặt vấn đề
Động cơ học tập là vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn cơ bản trong tâm lí
học dạy học. Động cơ học tập đúng đắn có ý nghĩa quyết định sự thành công của
hoạt động dạy học và hướng phát triển nhân cách của người học. Trên thế giới, có


nhiều lí thuyết tâm lí học khác nhau như phân tâm học, tâm lí học hành vi, tâm lí
học nhận thức… giải thích hiện tượng tâm lí phức tạp này. Do đó, vấn đề động cơ
học tập cần sự quan tâm nghiên cứu đúng mức với người làm công tác giáo dục và
cũng là một vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học giáo dục. Để nâng
cao chất lượng học tập đòi hỏi sinh viên phải có động cơ học tập đúng đắn.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Động cơ học tập
Khái niệm động cơ học tập được xây dựng dựa trên khái niệm động cơ hoạt
động. Có nhiều quan niệm khác nhau về động cơ hoạt động của con người, song
điểm chung thống nhất trong các cách nhìn nhận về hiện tượng tâm lí này là xem
động cơ là sự định hướng, kích thích, thúc đẩy và duy trì hoạt động/hành vi của
con người.
Động cơ có thể được hiểu như là yếu tố tâm lí phản ánh đối tượng có khả
năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể, nó định hướng, thúc đẩy và duy trì hoạt động
của chủ thể nhằm chiếm lĩnh đối tượng đó. Vì động cơ học tập là một hệ thống các
yếu tố vừa có tính chất định hướng, vừa có chức năng kích thích, thúc đẩy và duy

trì hoạt động học tập, nên có thể coi động cơ học tập là yếu tố tâm lí phản ánh đối
tượng có khả năng thỏa mãn nhu cầu của người học, nó định hướng, thúc đẩy và
duy trì hoạt động học tập của người học nhằm chiếm lĩnh đối tượng đó.
Để có động cơ học tập, trước hết phải có đối tượng học (kiến thức, kĩ năng,
kĩ xảo). Đối tượng này là những cái có khả năng kích thích, thúc đẩy và duy trì
hoạt động học tập. Như vậy, nguồn gốc thực sự của động cơ học tập không phải ở
bên trong, mà ở bên ngoài người học, hóa thân vào sự vật là đối tượng mà người
học có nhu cầu chiếm lĩnh. Khi nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng được người học ý
thức, đối tượng đó sẽ trở thành động cơ thúc đẩy, định hướng và duy trì hoạt động


học tập. Sức hấp dẫn, lôi cuốn của đối tượng càng lớn, động cơ thúc đẩy hoạt động
học tập càng cao. Vì vậy, động cơ học tập giống như véc-tơ lực, xuất phát từ đối
tượng và hướng về phía người học.
Vai trò của động cơ học tập
Một khi có động cơ học tập đúng đắn, sinh viên sẽ học để nâng cao tri thức,
phát triển nhân cách, có năng lực và đạo đức nghề nghiệp,... đáp ứng nhu cầu của
thị trường lao động và những chuẩn mực do xã hội đặt ra.
Động cơ học tập là yếu tố mà có nó người học sẽ nỗ lực và chủ động trong
quá trình học nhằm đạt mục tiêu là sự tiến bộ và kết quả học tập tốt. Động cơ học
tập đóng vai trò rất quan trọng vì nó là kim chỉ nam và là động lực cho hoạt động
học tập; là nguyên nhân trực tiếp giúp sinh viên duy trì hứng thú và vượt qua mọi
khó khăn để đạt được mục đích đề ra. Động cơ học tập có mối tương quan tích cực
đến phát triển tư duy phân tích, phê phán và khả năng tự chủ của người học. Động
cơ học tập cũng là cơ sở để giải thích tại sao người học lại nhiệt tình, thích thú, tích
cực và không cảm thấy áp lực khi tham gia các hoạt động học tập.
Phân loại động cơ học tập
Có nhiều cách phân loại động cơ học tập, song động cơ học tập có thể được
phân chia theo 2 nhóm chính như sau:
- Nhóm động cơ xuất phát từ bản thân hoạt động học tập: Học tập để chiếm

lĩnh đối tượng đích thực của hoạt động học (động cơ khái quát rộng lớn, động cơ
nhận thức, động cơ bên trong).
- Nhóm động cơ xuất phát từ mối quan hệ của người học với môi trường
xung quanh (cha mẹ, giáo viên, bạn học và những người khác): Với loại động cơ
này, hoạt động học tập trở thành phương tiện để thỏa mãn những nhu cầu khác


ngoài nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng học của người học (động cơ riêng lẻ, động cơ
bên ngoài, động cơ xã hội).
Khi thực hiện hoạt động học tập, người học có thể có cả hai nhóm động cơ
học tập trên đây. Mỗi nhóm động cơ đều cần thiết và có ý nghĩa thúc đẩy hoạt
động học tậptheo những kiểu khác nhau (trực tiếp hoặc gián tiếp). Nhiệm vụ của
giáo viên là tạo các điều kiện thuận lợi nhất để người học hình thành và phát triển
hai nhóm động cơ này, đặc biệt là nhóm động cơ xuất phát từ bản thân hoạt động
học tập.
Vai trò của người học
Giáo dục là một quá trình truyền thụ kiến thức với vai trò trung tâm của
người thầy được áp dụng một thời gian dài trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt
Nam, đã bộc lộ rõ những hạn chế, bất cập của nó: đó là sự quá tải về tri thức, kiến
thức nặng về tính hàn lâm, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của người học và đòi hỏi
của thực tiễn cuộc sống, sự thụ động của người học. Từ những hạn chế và bất cập
nêu trên, đứng trước yêu cầu của tình hình mới, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu,
lựa chọn một quan điểm giáo dục mới, hiệu quả, phù hợp. Trong các quan điểm
giáo dục đang phổ biến trên thế giới và trong nước hiện nay, quan điểm lấy người
học làm trung tâm (đặc biệt hướng tới việc phát triển năng lực của người học) được
đánh giá cao và đã được kiểm chứng trong thực tiễn. Dựa trên quan điểm này,
chương trình đào tạo chuyển trọng tâm từ nội dung giáo viên muốn dạy sang nội
dung học viên cần học và vai trò của giáo viên thay đổi từ chỗ là nguồn chủ yếu
truyền thụ kiến thức sang giúp điều phối quá trình học tập của học viên. Việc tổ
chức hoạt động dạy học sao cho thuận lợi nhất đối với người học dù cho việc quản

lý có thể phức tạp và tốn kém hơn. Nói cách khác, việc khơi dậy, giáo dưỡng và
pháp triển các động cơ học tập tích cực, giúp người học đạt mục tiêu của chương
trình đào tạo là sứ mạng của các nhà làm công tác giáo dục.


3. Phân tích động cơ chủ yếu thúc đẩy hoạt động học tập của sinh viên
Như trình bày ở trên, động cơ hoạt động là lực đẩy trực tiếp, là nguyên nhân
trực tiếp của hành động, duy trì hứng thú, tạo ra sự chú ý liên tục, giúp chủ thể
vượt qua mọi khó khăn, đạt mục đích đã định. Vì vậy, động cơ của hoạt động quyết
định đến kết quả của hoạt động đó. Hoạt động học tập của sinh viên có tính độc lập
cao và mang đậm sắc thái cá nhân, điều này càng khẳng định nó phải được thúc
đẩy bởi một hệ thống động cơ học tập nói chung, động cơ tự học nói riêng. Giống
như động cơ hoạt động, động cơ học tập cũng có nhiều cấp độ khác nhau, bắt đầu
từ sự thỏa mãn nhu cầu phải hoàn thành nhiệm vụ học tập, khẳng định mình, mong
muốn thành thạo nghề nghiệp tương lai… cho tới cấp độ cao là thỏa mãn nhu cầu
hiểu biết, lòng khát khao tri thức. Nguồn gốc động cơ học tập của sinh viên có thể
xuất phát từ bên ngoài, tức là do yêu cầu của nhà trường, gia đình và xã hội. Đồng
thời, có thể xuất phát từ bên trong, tức là từ nhu cầu nhận thức, nhu cầu mong
muốn có ích cho xã hội, từ xu hướng, hứng thú, thế giới quan, niềm tin… của sinh
viên. Như vậy, để có động cơ học tập, trước hết phải có đối tượng ở bên ngoài chủ
thể, có giá trị đối với chủ thể và làm nảy sinh ở chủ thể nhu cầu cần chiếm lĩnh nó.
Khi nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng đó được cá nhân ý thức, sẽ trở thành động cơ
thúc đẩy, định hướng và duy trì hành động. Động cơ luôn gắn liền với nhu cầu,
mong muốn của cá nhân, nói khác đi, nhu cầu, mong muốn chính là những yếu tố
bên trong quan trọng nhất để hình thành động cơ.
Động cơ xuất phát từ bản thân hoạt động học tập của người học
Đây là loại động cơ học tập khá bền vững, có tác dụng chi phối người học
trong một thời gian dài và ít phụ thuộc vào những hoàn cảnh xuất hiện ngẫu nhiên.
Là loại động cơ nảy sinh trong quá trình học tập, có liên quan trực tiếp tới nội dung
và quá trình thực hiện hoạt động học tập. Loại động cơ này là sự đối tượng hóa nhu

cầu nhận thức (nhu cầu muốn chiếm lĩnh nội dung tri thức, phương pháp khám phá


tri thức...) và trở thành động lực thúc đẩy, điều khiển hoạt động học tập nhằm
chiếm lĩnh đối tượng học tập (biểu tượng, khái niệm...). Động cơ nhận thức sẽ
được phát triển ở mức độ cao (cả về số lượng và chất lượng) khi hoạt động học tập
được tổ chức một cách hợp lí về nội dung và phương pháp theo nguyên tắc khái
quát lí luận. Đây cũng là động cơ xuất phát từ nhu cầu, sự ham hiểu biết, niềm tin
hay sự quan tâm... của người học đến đối tượng đích thực của hoạt động học tập
(kiến thức, kĩnăng, kĩxảo). Khi được thúc đẩy bởi động cơ bên trong, người học ít
cần đến sự khuyến khích hay trách phạt vì chính hoạt động học và kết quả học tập
là phần thưởng lớn nhất đối với người học.
Động cơ xuất phát từ mối quan hệ của người học với môi trường xung quanh
Đây là loại động cơ học tập có tác động tương đối ngắn, phụ thuộc vào hoàn
cảnh trước mắt và những tác động trực tiếp. Loại động cơ này kích thích trựctiếp
các hành động học tập. Là loại động cơ thể hiện nhu cầu, hứng thú, ước muốn…
của người học, nảy sinh trong quá trình người học thực hiện các mối quan hệ với
môi trường xung quanh. Loại động cơ này có liên quan tới xu hướng nhân cách
như nhu cầu tự khẳng định, ước mong về nghề nghiệp, muốn làm vui lòng cha mẹ
và giáo viên, muốn được bạn bè mến phục... Là động cơ chỉ những tác động từ bên
ngoài lên hoạt động học tập của người học. Khi người học được thúc đẩy bởi loại
động cơ này, họ thường không quan tâm tới đối tượng đích thực của hoạt động
học, mà chỉ quan tâm tới kết quả như đạt được điểm số cao, phần thưởng, tránh sự
trách phạt từ cha mẹ hoặc giáo viên, nhận một tấm bằng...
Động cơ học tập xét trong xu thế toàn cầu hóa
Theo UNESCO (1996) các mục tiêu trụ cột của việc học trong thời đại ngày
nay là "học để biết, học để làm, học để chung sống với nhau và học để tồn tại".
Mục tiêu này chính là nguồn gốc động lực học tập của người học. Trước khi dạy tri



thức, rèn luyện kỹ năng, hãy dạy cho người học biết rằng: Học tập là mục tiêu tự
thân. Chỉ khi nào sinh viên tự xác định được (hay nhà trường giúp sinh viên xác
định được) những mục tiêu học tập đúng đắn cho chính họ làm động cơ tự thân thì
họ mới tích cực nỗ lực học tập.
Học trước tiên để hiểu biết (learn to know) và là mục tiêu truyền thống của
việc học. Khi người học khao khát muốn biết thì sẽ say sưa học tập để tìm kiếm
kiến thức. Tuy nhiên, kiến thức nhân loại không ngừng được cập nhật và trong xã
hội đầy biến động làm sao một con người có thể hiểu biết hết tất cả những gì xung
quanh và sử dụng lượng kiến thức học được ở trường đại học trong một số năm để
tác động vào thực tiễn? Do vậy, cái biết quan trọng nhất của người học là để biết
cách học (knowing how to learn), đặc biệt là cách tự học. Nói cách khác, dạy học
không chỉ lấy việc thuyết giảng nhằm trang bị kiến thức cho học viên làm nhiệm
vụ cơ bản mà phải tạo cơ hội cho người học chủ động tích cực trong việc tìm kiếm
kiến thức theo những cách thức nhất định (phương pháp học) và vận dụng những
kiến thức đã học được để tiếp tục học.
Học để làm (learning to do) khi người học xác định được việc học là để
trang bị cho mình năng lực làm việc với một nghề nghiệp đã được định hướng
(theo chương trình đào tạo) thì người học sẽ học nhằm có được những kiến thức và
kỹ năng nghề nghiệp cần thiết. Khi xác định được mục tiêu này thì người học sẽ
say sưa học tập, học không vì mục đich đối phó thi cử hay bằng cấp mà học vì mục
đích làm việc trong cả cuôc đời.
Học để chung sống (learning to live together): vì thế giới ngày càng xích lại
gần nhau, mỗi cá nhân là một mắt xích trong xã hội và phụ thuộc lẫn nhau cho nên
bản thân mỗi cá nhân không chỉ học cho riêng mình mà còn học cho cả cộng đồng,
học lẫn nhau, để làm việc với nhau và để chung sống với nhau. Khái niệm học để
chung sống nhấn mạnh vào việc phát triển sự hiểu biết, quan tâm và tôn trọng


người khác, kể cả niềm tin, giá trị và văn hoá riêng của họ. Điều này được coi là sẽ
tạo cơ sở cho việc tránh được xung đột, giải quyết mọ vấn đề không bằng bạo lực

và chung sống hoà bình với nhau.
Học để tồn tại (learning to be): xã hội luôn luôn biến đổi, kiến thức nhân loại
luôn luôn bùng nổ, trong xã hội hiện đại ai muốn tự khảng định mình, muốn tồn tại
được bình đẳng với mọi người thì không thể không học tập. Học tập không ngừng
trong suốt cuộc đời là con đường mà mỗi người phải xây cho mình tồn tại được
trong xã hội học tập ngày nay mà đất nước nào cũng đang xây dựng. Đây cũng
chính là điều mà mỗi sinh viên phải ý thức được để lấy việc học làm động cơ tự
thân cho chính mình, từ đó mới say mê học, học cho chính sự tồn tại của bản thân
mình.
4. Nhân tố ảnh hưởng đến động cơ học tập của sinh viên
Sự tương thích của ngành học với sự đảm bảo mục tiêu cá nhân người học
Sự tương thích ở đây thể hiện ở ngành theo học phù hợp lĩnh vực chuyên
môn yêu thích của người học, phù hợp xu thế chung của xã hội và có thể đảm bảo
đầu ra rộng mở. Để tạo được sự tương thích và sức hấp dẫn của ngành học đối với
người học, chúng ta cần tổ chức các hoạt động tư vấn, hướng nghiệp ở các trường
phổ thông. Công tác này nếu làm tốt sẽ tạo được sự nhận thức đúng đắn cho học
sinh khi lựa chọn ngành dự tuyển và các em sẽ có được những động cơ học tập
đúng đắn phù hợp với nguyện vọng của bản thân khi học tập ở trường đại học.
Chúng ta cũng nên thực hiện các buổi sinh hoạt đầu khóa chuyên ngành để các tân
sinh viên có cơ hội giao lưu với giảng viên Bộ môn, những anh chị đã có việc làm
và các sinh viên khóa trước. Từ đó, các tân sinh viên sẽ hiểu hơn về chương trình
đào tạo, kinh nghiệm học tập, nghề nghiệp tương lai để có tâm thế sẵn sàng và có
kế hoạch học tập phù hợp, hiệu quả. Đặc biệt, rất cần những hội trợ việc làm nơi


giao thoa giữa nhà trường và xã hội mà cụ thể ở đây là các đơn vị tuyển dụng. Khi
làm tốt công tác này, đầu ra sinh viên được đảm bảo, đây sẽ là một động lực học
tập to lớn thúc đẩy quá trình học tập của sinh viên.
Sự tương thích của chương trình đào tạo và năng lực giảng viên
Cần xây dựng chương trình đào tạo với các học phần gắn liền với kiến thức,

kỹ năng thực tế nghề nghiệp; qua đó, sinh viên có thể ứng dụng các kiến thức và kỹ
năng học tập vào thực tiễn công việc, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động du
lịch hiện nay. Giảng viên nên đầu tư xây dựng những giáo trình hoặc bài giảng có
tính thẩm mỹ, sinh động và trực quan cao; bên cạnh đó, các tài liệu cung cấp cho
sinh viên phải đảm bảo sự rõ ràng. Việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực
và đa dạng hóa phương pháp sẽ giúp người học có được sự hứng thú. Do đó, đòi
hỏi giảng viên phải không ngừng tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để có
được những phương pháp dạy học hiệu quả. Ngoài ra, giảng viên cũng nên cải
thiện khả năng diễn đạt để người học có sự tích cực và chủ động hơn trong việc
tiếp nhận kiến thức.
Sự tương thích của môi trường học tập với năng lực người học
Giảng viên nên kết hợp hai hình thức đánh giá. Thứ nhất, dựa vào quá trình
tham dự khóa học, sự tích cực của sinh viên, điểm thi giữa kỳ, cuối kỳ để giảng
viên đánh giá một phần kết quả học tập của sinh viên. Phần còn lại, giảng viên có
thể để sinh viên tự đánh giá lẫn nhau và kết quả học phần là sự kết hợp của hai
hình thức đánh giá. Cần có sự đầu tư nhằm nâng cao số lượng cũng như chất lượng
máy chiếu; khi bố trí các lớp học phần cần xem xét kỹ lưỡng tương quan giữa số
lượng sinh viên và số lượng bàn ghế; nên xem xét đặc tính của học phần mà bố trí
phòng học phù hợp cho việc thực hành, thực tập; thiết kế bàn ghế cơ động sẽ dễ
dàng cho giảng viên tổ chức các hoạt động học tập tích cực cho sinh viên. Đối với


những học phần sinh viên khó tiếp thu, giảng viên nên có phương pháp giảng dạy
nhằm đảm bảo khả năng theo kịp của mọi đối tượng sinh viên; ngoài ra, giảng viên
có thể cung cấp cho sinh viên những tài liệu mà nội dung vừa sức với sinh viên.
Sự tương thích chuẩn đầu ra với nhu cầu xã hội
Ngoài việc xây dựng chương trình đào tạo trong đó nhiều học phần có kiến
thức, kỹ năng quan hệ thiết thân với nghề nghiệp sinh viên; đơn vị đào tạo cũng
nên tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa để sinh viên có cơ hội giao lưu với nhà
tuyển dụng, nhân viên của doanh nghiệp nhằm giúp các em hiểu thêm về đặc điểm

thực tế của ngành nghề mà có sự chuẩn bị khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Giải
quyết việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp cũng là yếu tố quan trọng có tác
dụng kích thích sự năng nổ của sinh viên trong quá trình học tập và điều này chỉ có
thể thực hiện được khi có sự góp sức của các nhà tuyển dụng.
5. Các giải pháp thúc đẩy động cơ học tập
Nâng cao nhận thức của sinh viên về mục tiêu, yêu cầu của ngành học
Việc xác định mục tiêu học tập là một nguồn quan trọng kích thích động cơ
học tập. Mục tiêu là cái mà cá nhân ý thức được nó và đang cố vươn tới, hoàn
thành. Nâng cao nhận thức của sinh viên về mục tiêu, yêu cầu của ngành học giúp
sinh viên thấy được trình độ hiện tại của mình còn thấp so với mục tiêu đề ra, so
với yêu cầu của ngành nghề đào tạo. Từ đó, sinh viên tìm được mục tiêu để nỗ lực,
phấn đấu vươn lên đạt kết quả cao trong học tập. Các biện pháp cụ thể gồm có:
- Phòng Công tác Sinh viên biên soạn thật rõ ràng chi tiết mục tiêu, yêu cầu
ngành học trong cuốn sách “Những điều sinh viên cần biết” để phát cho sinh viên
ngay từ khi sinh viên làm thủ tục nhập học vào trường. Nghiên cứu để thay đổi
hình thức tổ chức phổ biến và hướng dẫn sinh viên về mục tiêu, yêu cầu của ngành


học nhằm làm cho sinh viên nắm thật chắc mục tiêu đào tạo, chương trình đào tạo
của từng ngành học.
- Các Khoa phổ biến mục tiêu, yêu cầu ngành học cho sinh viên ngay từ đầu
khóa học. Việc làm này sẽ giúp cho sinh viên định hướng được tư tưởng khi bước
vào môi trường học tập mới, giúp sinh viên xác định được “cái đích” cần đạt được
sau thời gian học tập, rèn luyện tại trường đại học. Đồng thời việc làm này còn
giúp cho sinh viên xác định được các nhiệm vụ học tập phải hoàn thành để đạt
được mục đích đề ra. Các hình thức tổ chức như: Tổ chức gặp mặt sinh viên theo
từng ngành học để định hướng mục tiêu; giảng viên chủ nhiệm cần thường xuyên
phổ biến và hướng dẫn sinh viên về mục tiêu, yêu cầu ngành học… Tăng cường
các hình thức phổ biến mục tiêu đào tạo, chương trình đào tạo của từng ngành học
cho sinh viên như đưa thông tin lên website của trường, có văn bản, tài liệu ở thư

viện, văn phòng các khoa…
- Các Khoa quy định giảng viên khi giảng dạy phải biên soạn chương trình
chi tiết của từng môn học để phổ biến và hướng dẫn sinh viên thực hiện. Thông
qua chương trình chi tiết của môn học, sinh viên sẽ có được hiểu biết khái quát về
môn học, cách thức để đạt được thành công trong học tập, cách tìm tài liệu tham
khảo, phương thức liên lạc với giảng viên khi cần thiết… Từ đó, sinh viên sẽ xây
dựng kế hoạch học tập phù hợp với bản thân.
Củng cố niềm tin học tập
Việc xây dựng niềm tin vào sự thành công trong học tập sẽ có vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy động cơ học tập của sinh viên và ngược lại. Do đó, giảng
viên cần tập trung xây dựng niềm tin và những kỳ vọng tích cực bằng các biện
pháp như: Làm cho mục tiêu học tập rõ ràng và có thể đạt tới được; hiểu rõ năng
lực của từng sinh viên và chỉ rõ cho họ thấy được thế mạnh của mình để phát triển


cũng như thấy được nhược điểm để khắc phục…Bên cạnh đó, các hình thức khen
thưởng và trách phạt kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ sẽ có tác dụng lớn trong việc
động viên, khuyến khích sinh viên học tập. Nhu cầu được tôn trọng, được thừa
nhận là nhu cầu cơ bản của con người. Và lời khen luôn có giá trị động viên rất
lớn.
Xây dựng bầu không khí tích cực học tập trong tập thể sinh viên
Tập thể sinh viên vừa là môi trường, vừa là phương tiện giáo dục góp phần
hình thành và phát triển toàn diện những phẩm chất, năng lực cho sinh viên. Việc
lĩnh hội tri thức, phát triển trí tuệ, rèn luyện kỹ năng cũng như giáo dục thế giới
quan khoa học, đạo đức, niềm tin, động cơ, tính cách, thói quen và hành vi ứng xử
đúng đắn... có thể được thực hiện trong hoạt động chung và giao tiếp trong tập thể.
Bầu không khí trong tập thể sinh viên là hiện tượng tâm lý phổ biến, nó được hình
thành từ các mối quan hệ qua lại giữa các thành viên trong tập thể. Do đó, các
Khoa, mà trực tiếp là các giảng viên chủ nhiệm, cần quan tâm xây dựng bầu không
khí học tập tích cực, đoàn kết trong tập thể sinh viên, nhằm tạo nên sức mạnh tinh

thần cho sinh viên tự tin ở sức mình, tin ở tập thể đoàn kết, giúp đỡ nhau hoàn
thành tốt nhiệm vụ học tập. Các biện pháp cụ thể là:
- Giảng viên chủ nhiệm phải là cầu nối giữa các thành viên trong lớp: Nhằm
tạo ra môi trường thân thiện, đoàn kết của tập thể, bằng cách nắm chắc tình hình
của lớp, nắm chắc hoàn cảnh gia đình, tính cách của từng sinh viên trong lớp,
thường xuyên hỏi thăm, giúp đỡ tháo gỡ những khó khăn sinh viên gặp phải trong
cuộc sống và trong học tập. Thông qua công tác chủ nhiệm lớp, giảng viên chủ
nhiệm tạo ra nề nếp học tập nghiêm túc, chất lượng, tổ chức các hình thức thi đua
học tập, giúp đỡ nhau học tập trong tập thể sinh viên.


- Xây dựng các “tổ, nhóm học tập” trong lớp: Ngay từ đầu khóa học, giảng
viên chủ nhiệm cần tổ chức họp lớp, tiến hành phân chia các tổ, nhóm học tập, số
lượng sinh viên trong các tổ học tập tùy thuộc vào số lượng sinh viên từng lớp, tuy
nhiên không nên quá đông, khoảng từ 3 – 8 sinh viên là phù hợp. Và phải có tổ
trưởng học tập đểquản lý, điều hành hoạt động học tập của tổ.
- Xây dựng những mối quan hệ đúng đắn trong tập thể: Quan hệ phụ thuộc
(liên đới) trách nhiệm giữa các thành viên trong tập thể; quan hệ đoàn kết, thân ái;
quan hệ riêng tư (cá nhân).
- Tổ chức các hoạt động và giao lưu trong tập thể: Hoạt động chung sôi nổi
có tác dụng lôi cuốn mọi người hòa mình vào tập thể, làm cho tập thể vững mạnh.
Thông qua các hoạt động chung, mỗi sinh viên có điều kiện bộc lộ ưu – nhược
điểm để giảng viên chủ nhiệm có thể uốn nắn, xây dựng các mối quan hệ giao lưu
đúng đắn. Mỗi sinh viên cũng có thể tự điều chỉnh hoạt động để hình thành các mối
quan hệ giao lưu phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội. Trong quá trình hoạt
động cũng sẽ dần dần hình thành cái chung trong nhận thức và đánh giá của sinh
viên.
- Xây dựng truyền thống tập thể: Giảng viên chủ nhiệm phải cùng tập thể
trân trọng, giữ gìn và phát triển những truyền thống tốt đẹp của nhà trường, của tập
thể sinh viên, làm cho mỗi cá nhân tự hào về tập thể của mình, có ý thức vươn lên

để xứng đáng với truyền thống tốt đẹp đó.
Kích thích tinh thần say mê học tập, nghiên cứu khoa học
Động cơ học tập của sinh viên sẽ càng được củng cố hiệu quả nếu sinh viên
cảm thấy thật sự say mê, hứng thú với việc học tập và nhận thức đúng đắn tầm
quan trọng của hoạt động học tập đối với bản thân. Để đạt được điều đó, các Khoa
cần áp dụng một số biện pháp sau:


- Xây dựng môi trường học tập nghiêm túc, chất lượng, không có tiêu cực
trong học tập và thi cử. Mỗi cán bộ, giảng viên trong Khoa phải là một tấm gương
sáng về học tập, nghiên cứu khoa học, giảng dạy và làm việc. Từ đó, sinh viên sẽ
xác định được động cơ học tập đúng đắn, say mê học tập và nghiên cứu khoa học.
- Yêu cầu giảng viên đổi mới phương pháp dạy học theo hướng kích thích
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên. Việc làm này sẽ giúp cho các giờ
học trở nên sinh động, sôi nổi, phát huy vai trò chủ động của sinh viên trong hoạt
động học tập.
- Yêu cầu giảng viên thường xuyên phổ biến cho sinh viên nắm rõ về các
thành tựu mới của khoa học – công nghệ trong các bài giảng, đặc biệt là các môn
học chuyên ngành, nhằm giúp cho sinh viên có được “cái nhìn” khái quát về trình
độ của mình đang ở mức độ nào, từ đó có hướng phấn đấu học tập để đáp ứng
được nhu cầu của thực tiễn.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học trong sinh viên bằng các hình
thức như: Tăng cường sự định hướng, giúp đỡ của giảng viên, sự hỗ trợ về kinh phí
thực hiện đề tài, các hình thức khen thưởng, động viên nhằm khuyến khích sinh
viên tham gia nghiên cứu khoa học, từ đó say mê ngành học của mình.
Giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống
Các hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, ý thức chấp
hành pháp luật, ý thức công dân sẽ góp phần hình thành ở sinh viên những phẩm
chất đạo đức tốt đẹp, góp phần đào tạo những công dân có ích cho xã hội. Qua đó,
sinh viên hình thành được mục đích, động cơ phấn đấu học tập đúng đắn. Tuy

nhiên, khi chuyển đổi sang đào tạo theo học chế tín chỉ, hệ thống tổ chức lớp học
không còn ổn định. Do đó, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống


cho sinh viên sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Để làm tốt công tác này cần tập trung vào
một số công việc sau:
- Đoàn TNCS HCM, Hội Sinh viên thường xuyên tổ chức các hoạt động
giáo dục truyền thống thông qua việc tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm,
các phong trào đền ơn đáp nghĩa, tổ chức cho sinh viên đi tham quan các di tích
lịch sử, văn hóa…
- Đoàn TNCS HCM tiếp tục đẩy mạnh thực hiện việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức của Bác, trong đó, chú trọng đến nội dung “làm theo” tấm
gương đạo đức của Bác bằng nhiều hình thức thiết thực, hiệu quả.
- Phòng Công tác Sinh viên tiếp tục tổ chức “Tuần sinh hoạt công dân
HSSV” vào đầu khóa học, đầu năm học theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
- Đảng ủy và chi bộ sinh viên cần đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên
trong sinh viên: Những sinh viên có chí hướng phấn đấu tốt, có mong muốn,
nguyện vọng đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam, có kết quả học tập,
rèn luyện tốt và tham gia tích cực vào các hoạt động phong trào cần được xem xét
kết nạp vào Đảng.
6. Kết luận
Tóm lại, việc giáo dục mục đích, động cơ học tập đúng đắn cho sinh viên có
vai trò quan trọng đối với sự thành công hay thất bại của hoạt động học tập. Động
cơ nói chung và động cơ học tập nói riêng là yếu tố cốt lõi trong nhân cách của con
người. Việc tìm hiểu các hướng tiếp cận trong nghiên cứu vấn đề động cơ học tập
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xác định rõ bản chất, phân loại, biểu hiện
và các nhân tố tác động đến động cơ hoạt động học tập của người học, từ đó có cơ
sở lí luận vững chắc để lượng hóa được các khía cạnh nội dung (cái mà con người



muốn vươn tới, muốn đạt tới) và khía cạnh lực (phản ánh độ mạnh của động cơ)
trong động cơ học tập của người học.
Để có động cơ tích cực học tập, người học phải tự ý thức được hoặc cần
được giúp đỡ để nhận thức được rằng học trước hết là cho bản thân mình và chính
mình là người phải biết cách biến kiến thức chưa khai phá thành tài sản riêng.
Ngược lại, việc dạy cần hướng vào phát triển cá nhân sao cho cá nhân đó thấy
hứng thú học tập vì biết rằng mình có thể áp dụng những kiến thức thu được ở
trường học vào công việc ngoài đời và trong suốt cả cuộc đời của họ. Đồng thời,
quá trình đào tạo đại học phải giúp sinh viên biết rèn luyện việc tự học và duy trì
việc học suốt đời, chứ không chỉ dừng lại sau khi tốt nghiệp đại học hoặc chỉ học
khi đến trường học.



×