Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung Quốc thập niên đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.85 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

BÙI THỊ THU HÀ

QUAN HỆ CHÍNH TRỊ NHẬT BẢN VỚI
TRUNG QUỐC THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI
Luận văn Thạc sĩ
Chuyên ngành Quan hệ quốc tế

Hà Nội-2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

BÙI THỊ THU HÀ

QUAN HỆ CHÍNH TRỊ NHẬT BẢN VỚI
TRUNG QUỐC THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế
Mã số: 60.31.40

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Hồ Việt
Hạnh


Hà Nội- 2013

2


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan: Luận văn “Quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung
Quốc thập niên đầu thế kỷ XXI” là công trình nghiên cứu riêng của cá nhân
em. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực
và rõ ràng. Các đoạn trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn
nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của em. Em xin
cam đoan những kết quả khoa học trong luận văn chưa từng được công bố ở
bất kỳ tài liệu nào.
Tác giả

Bùi Thị Thu Hà

3


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn “Quan hệ chính trị
Nhật Bản với Trung Quốc thập niên đầu thế kỷ XXI”, em đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, gia đình và bạn bè. Với lòng
kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin được bày tỏ lới cảm ơn chân thành tới:
Ban Giám hiệu trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội cùng Ban Chủ nhiệm Khoa Quốc tế học đã tạo rất nhiều
điều kiện để em học tập và hoàn thành khóa học.
PGS. TS Hồ Việt Hạnh, Phó Giám đốc Học viện Khoa học xã hội,
người thầy đã dành thời gian và tâm huyết hướng dẫn và có những định

hướng, góp ý quý báu giúp em hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên và giúp đỡ trong
quá trình học tập, làm việc và hoàn thành luận văn..
Mặc dù em đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn, nhưng do trình độ
có hạn nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính
mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn.

4


MỤC LỤC
BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT..........................................................................................
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................
Chương 1: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI QUAN HỆ CHÍNH TRỊ NHẬT BẢN

2
3

VỚI

12

TRUNG

QUỐC

THẬP

NIÊN


ĐẦU

THẾ

KỶ

XXI………………………...............................................................................................
1.1
Yếu
tố
quốc
tế
1.2

Yếu

1.3

Vai

trò

tố


quốc
nhân

lãnh


gia
đạo

Chương 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ CHÍNH TRỊ NHẬT BẢN VỚI TRUNG
QUỐC THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI........................................................................
2.1
Giai
đoạn
từ
năm
2001
đến
tháng
9/2006
.............................................................................................................................
2.2
Giai
đoạn
từ
tháng
10/2006
đến
tháng
9/2009
2.3

Giai

đoạn


từ

tháng

10/2009

đến

hết

năm

2010

12
20
26
30
30
44
57

Chương 3: ĐÁNH GIÁ QUAN HỆ CHÍNH TRỊ NHẬT BẢN VỚI TRUNG QUỐC
THẬP

NIÊN

ĐẦU

THẾ


KỶ

70

XXI……………………………………………………………………………………...
3.1 Đặc điểm quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung Quốc thập niên đầu
XXI

70

3.2 Một số dự báo triển vọng quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung Quốc
3.3 Tác động của quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung Quốc tới khu vực

73

thế

kỷ

Đông

Nam

Á

3.4 Tác động của quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung Quốc tới Việt

84


95
Nam…………………………………………………………………………
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................. 107

5


BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADB

Asia Development Bank
Ngân hàng phát triển Châu Á

APEC

Asia- Pacific Economic Cooperation Forum
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương

ARF

ASEAN Regional Forum
Diễn đàn khu vực ASEAN

ASEAN

Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á


APT

ASEAN plus three
ASEAN + 3 (ASEAN và Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung
Quốc)

CEPA

Comprehensive Economic Partnership Agreement
Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện

DPJ

Democractic Party of Japan
Đảng Dân chủ Nhật Bản

EAS

East Asia Summit
Hội nghị thượng đỉnh Đông Á

EU

European Union
Liên minh Châu Âu

FDI

Foreign direct investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài


FTA

Free Trade Agreement
Hiệp định thương mại tự do

LDP

Liberal Democractic Party
Đảng Dân chủ tự do Nhật Bản

ODA

Official development assisstance
Hỗ trợ phát triển chính thức

WTO

World Trade Organisation
Tổ chức Thương mại thế giới

6


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
- Lý do nghiên cứu đề tài.
Trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, những thay đổi nhanh chóng trong
môi trường quốc tế và khu vực đã và đang tác động mạnh mẽ đến quan hệ của
các nước trên thế giới, trong đó phải kể đến Nhật Bản và Trung Quốc, hai

nước lớn có vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế ở khu vực Châu Á nói
riêng và thế giới nói chung.
Quan hệ giữa Nhật Bản với Trung Quốc là một trong những mối quan
hệ song phương phức tạp nhất thế giới. Trong khi giao lưu kinh tế giữa hai
nước ngày càng phát triển với tốc độ nhanh và quy mô lớn thì quan hệ chính
trị Nhật Bản với Trung Quốc luôn có nhiều vướng mắc, thậm chí có lúc thụt
lùi. Bước vào thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, cùng với những thay đổi trong
cục diện quốc tế ở Châu Á- Thái Bình Dương, chính bản thân Nhật Bản và
Trung Quốc cũng đang chứng kiến những bước phát triển mới.
Do thất bại trong chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản kiệt
quệ. Nhật Bản đã chọn con đường phát triển đất nước theo đường lối hoà
bình. Nước Nhật cam kết từ bỏ chiến tranh, không duy trì quân đội, mà chỉ
duy trì lực lượng phòng vệ. Theo đường hướng này, những thập kỷ sau Nhật
Bản đã vươn lên trở thành một cường quốc kinh tế, trở thành một trong ba
trung tâm- tài chính lớn nhất thế giới cùng với Mỹ và Liên minh châu Âu
(EU). Tuy nhiên, có thực tế là từ năm 1945, Nhật Bản hầu như không phải là
một quốc gia độc lập về chính trị và ngoại giao khi phải phụ thuộc Mỹ. Bởi
vậy, từ sau Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản điều chỉnh chính sách đối ngoại theo
hướng tăng cường tính độc lập, chủ động và tích cực hơn tìm kiếm vị thế
chính trị mới tương xứng với tiềm lực kinh tế, phát huy vai trò, và ảnh hưởng
trên thế giới và khu vực. Từ năm 2003, Nhật tích cực vận động để được trở

7


thành uỷ viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Vai trò quốc
tế của Nhật Bản đã được cải thiện hơn; tiếng nói của Nhật Bản ngày càng có
trọng lượng hơn trong một số vấn đề quốc tế và khu vực như WTO, Diễn đàn
Hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương (APEC), ARF, ASEAN+1,
ASEAN+3…

Sau hơn 20 năm cải cách và phát triển, vị thế Trung Quốc trên trường
quốc tế ngày càng được nâng cao, uy tín và ảnh hưởng của Trung Quốc được
tăng cường. Kể từ năm 2001, với tư cách là thành viên của WTO, Trung Quốc
đã chính thức hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới. Trung Quốc là quốc gia
có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới, trung bình đạt 10% mỗi
năm. Từ Quý II/2010, quốc gia có số dân đông nhất thế giới đã vượt qua Nhật
Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai toàn cầu, và có nhiều khả năng trở
thành quốc gia cạnh tranh vị trí siêu cường số 1 thế giới với Mỹ trong tương
lai. Vì vậy, những năm đầu thế kỷ XXI là thời điểm Trung Quốc bắt đầu thúc
đẩy khát vọng đi nhanh trên con đường trở thành siêu cường vào khoảng năm
2050, trở thành một trung tâm quyền lực của thế giới, từng bước thực hiện
chính sách đối ngoại nước lớn, sẵn sàng gánh vác trách nhiệm lớn hơn trong
các vấn đề quốc tế.
Có thể nói, bước vào thế kỷ XXI, quan hệ Nhật- Trung lại đứng trước
một ngã ba mới. Nhật phải quen với thực tế là Trung Quốc đang ngày càng
mạnh hơn, trong khi Trung Quốc phải chấp nhận mong muốn của Nhật được
đối xử như một quốc gia bình thường. Nhìn lại tiến trình quan hệ quốc tế ở
châu Á, đây là lần đầu tiên cả Nhật Bản và Trung Quốc xác lập vị thế nước
lớn trong quan hệ quốc tế. Thực tế này chắc chắn sẽ mang lại những thay đổi
đáng kể cho quan hệ chính trị giữa hai nước.
Đặt trong bối cảnh có sự thay đổi cán cân quyền lực giữa hai nước,
quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc trên lĩnh vực chính trị đã diễn biến ra

8


sao và hứa hẹn vận động theo chiều hướng nào trong thời gian tới? Đông
Nam Á, cụ thể là các nước ASEAN là khu vực chứa đựng những lợi ích chiến
lược của cả Nhật Bản và Trung Quốc. Với tư cách là hai cường quốc châu Á,
mối quan hệ chính trị giữa Nhật Bản với Trung Quốc thập niên đầu thế kỷ

XXI tác động như thế nào tới hòa bình, an ninh và thịnh vượng khu vực này?
Đây là những vấn đề thu hút sự quan tâm của rất nhiều học giả, các chính trị
gia trên thế giới.
Cả Nhật Bản và Trung Quốc đều là những đối tác chính trị, kinh tế đặc
biệt quan trọng và mang tầm chiến lược của Việt Nam. Trong khi, Nhật Bản là
nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất, đồng thời là nước viện trợ ODA lớn nhất tại
Việt Nam thì Trung Quốc là nước láng giềng hữu nghị, có ảnh hưởng lớn về
nhiều mặt đối với Việt Nam. Bên cạnh đó, xét trên khía cạnh địa lý, lịch sử và
văn hoá, Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng với Nhật Bản và Trung
Quốc. Vì vậy, quan hệ chính trị giữa hai nước này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới
Việt Nam. Tuy nhiên, đây là mối quan hệ tương đối phức tạp, đòi hỏi nhiều
cấp, nhiều ngành cùng phân tích để đưa ra những nhận định chính xác. Nhìn
nhận đúng đắn, khách quan về cặp quan hệ này sẽ giúp Việt Nam có đối sách
phù hợp khi xử lý quan hệ với hai cường quốc này. Do đó, việc nghiên cứu và
làm rõ thực trạng quan hệ chính trị 10 năm đầu thế kỷ XXI cũng như triển
vọng của quan hệ chính trị giữa Nhật Bản với Trung Quốc mang tính cấp
thiết, có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn đối với Việt Nam.
Từ việc nhận thức ý nghĩa của quan hệ chính trị giữa Nhật Bản và
Trung Quốc và tính cấp thiết trong việc nghiên cứu mối quan hệ này, em
mạnh dạn phát triển đề tài: “Quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung Quốc thập
niên đầu thế kỷ XXI”.
- Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.
+ Ý nghĩa khoa học

9


Đề tài “Quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung Quốc thập niên đầu thế
kỷ XXI” vừa mang tính khoa học, vừa mang tính thực tiễn trong công tác
nghiên quan hệ quốc tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, đây là một trong những mối

quan hệ phức tạp nhất thế giới, vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu đề tài, luận
văn không có ý định đi sâu vào các vấn đề cơ sở lý luận, mà chỉ đưa ra cái
nhìn tổng quát và hệ thống về “Quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung Quốc
thập niên đầu thế kỷ XXI”. Trên cơ sở những phân tích đó, luận văn sẽ nêu
lên một số dự báo về triển vọng quan hệ chính trị giữa hai cường quốc này.
+ Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung cấp những thông tin hữu ích về quan hệ chính trị của
Nhật Bản với Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI cho những người quan
tâm tới quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực
Đông Á nói riêng.
Ngoài ra, những phân tích mà luận văn nêu lên có thể làm tài liệu tham
khảo cho công tác nghiên cứu giảng dạy về quan hệ quốc tế, đồng thời phục
vụ cho hoạch định chính sách đối ngoại. Luận văn sẽ đưa ra một cái nhìn khái
quát về lợi ích cũng như thách thức đối với Việt Nam mà quan hệ chính trị
Nhật Bản với Trung Quốc đem lại, từ đó, đề xuất một số giải pháp giúp Việt
Nam có thể ứng xử tốt hơn trong quan hệ với hai nước lớn ở khu vực này, tạo
môi trường đối ngoại thuận lợi phục vụ cho sự phát triển bền vững của đất
nước.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhật Bản- Trung Quốc là một trong những cặp quan hệ chính yếu ở
châu Á, chi phối quan hệ song phương cũng như đa phương trong khu vực.
Với vị trí, vai trò quan trọng đó, những vấn đề liên quan tới quan hệ Nhật
Bản- Trung Quốc đã trở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều luận văn tốt
nghiệp, cuốn sách, bài báo và các công trình khoa học khác trong và ngoài

10


nước. Có thể khẳng định rằng nguồn tài liệu tham khảo dành cho luận văn
“Quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung Quốc thập niên đầu thế kỷ XXI”

tương đối phong phú.
Ở Việt Nam, có nhiều học giả quan tâm nghiên cứu về quan hệ giữa
Nhật Bản và Trung Quốc. Tuy nhiên, cho đến nay, ở Việt Nam còn khá ít tài
liệu đề cập một cách toàn diện và hoàn chỉnh quan hệ chính trị Nhật Bản với
Trung Quốc thập niên đầu thế kỷ XXI. Lĩnh vực quan hệ này thường chỉ được
đề cập rải rác trong các công trình khoa học và các bài viết về chính sách đối
ngoại của Nhật Bản cũng như của Trung Quốc với các nước, về quan hệ quốc
tế ở Đông Á và một số vấn đề liên quan. Trong khi đó, có thể nói, số lượng
tác phẩm, công trình nghiên cứu của nước ngoài về các vấn đề liên quan tới
quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung Quốc thập niên đầu thế kỷ XXI là tương
đối nhiều. Song, do các học giả và các nhà hoạch định chính sách nước ngoài
nhìn nhận vấn đề dưới góc độ lợi ích và quan điểm giai cấp của mình nên các
công trình nghiên cứu của họ không tránh khỏi những điểm khác biệt với lập
trường, quan điểm của Việt Nam. Mặc dù vậy, kết quả thu được từ những
công trình này có thể dùng làm tài liệu tham khảo để có cái nhìn toàn diện
hơn về vấn đề.
Có khá nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ chính trị Nhật- Trung
trong các vấn đề lịch sử, nổi bật là vấn đề Yasukuni, như “Japan’s Yasukuni
Shrine: Place of peace or place of conflict?” (Regional of history and memory
in East Asia của Williams Daniel Sturgeon, NXB Dissertation.Com, 2006);
“Yasukuni, the war dead and struggle for Japan’s Past” của John Breen, NXB
Columbia University, 2008); “Class- A war criminals: enshrined at Yasukuni
Shrine” của Viện Lịch sử hiện đại Trung Quốc, NXB China Intercontinel,
2005.

11


Ngoài ra, còn có một số bài đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á
đề cập tới vấn đề này như “Đền Yasukuni và quan hệ Nhật- Trug trong thập

niên đầu thế kỷ XXI” của Đỗ Minh Cao (số 9/2007); “Về vấn đề đền
Yasukuni” của Đức Minh Hoài Phương (số 2/2009) và rất nhiều bài báo, bài
nghiên cứu về quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Bắc Á.
Tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa hai nước được xem xét trong các
tác phẩm sau: "Thoả thuận Nhật Bản- Trung Quốc “cùng khai thác” tại biển
Hoa Đông - một sự lựa chọn thông minh và thực dụng" (Hoa Lý), "JapaneseChinese territorial disputes in the East China Sea- between military
confrontation and economic cooperation" (Reinhard Drifte), "The Diaoyu
Crisis of 2010: Domestic Games and Diplomatic Conflict" (Yves Tiberghien).
Quan hệ Nhật Bản- Trung Quốc trên khía cạnh an ninh cũng là vấn đề
được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Có thể kể đến một
số công trình nghiên cứu sau: "Chính sách an ninh của Nhật Bản đối với
Trung Quốc" (Tạp chí Ngoại giao Trung Quốc), "Strategic “triangularity” in
Northeast Asia: The Sino- Japanese security relationship and US policy"
(Camilla T.N. Soerensen), "Nhật Bản đáp trả sự trỗi dậy của Trung Quốc: Can
dự trong khu vực, kiềm chế trên toàn cầu, những nguy cơ xung đột" (Tài liệu
tham khảo đặc biệt, TTX).
Bên cạnh đó, tác giả cũng tham khảo nhiều bài viết trên tạp chí Nghiên
cứu Đông Bắc Á, Nghiên cứu Đông Nam Á, Tài liệu tham khảo đặc biệt của
Thông tấn xã cùng một số tạp chí khác và tham khảo các trang web chính
thức của Bộ Ngoại giao Nhật Bản và Bộ Ngoại giao Trung Quốc. Trên cơ sở
chọn lọc tư liệu, tham khảo các công trình nghiên cứu nói trên, tác giả đã
hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng mà luận văn hướng tới là quan hệ Nhật Bản với Trung Quốc.

12


Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung làm rõ quan hệ Nhật Bản
với Trung Quốc trong lĩnh vực chính trị, trong đó đi sâu phân tích thực trạng

quan hệ trên các mặt: ngoại giao, vấn đề lịch sử, chủ quyền biển đảo và vấn
đề an ninh.
Giới hạn thời gian: Luận văn tìm hiểu quan hệ chính trị Nhật Bản với
Trung Quốc thập niên đầu thế kỷ XXI với những bước thăng trầm mới của hai
nước. Tuy nhiên, mối quan hệ này ở những giai đoạn trước cũng được xem
xét trong chừng mực làm nổi bật giai đoạn chính mà luận văn đề cập tới.
Để những phân tích về quan hệ chính trị Nhật Bản vớiTrung Quốc thập
niên đầu thế kỷ XXI chặt chẽ và toàn diện hơn, luận văn cũng đề cập mối
quan hệ giữa hai nước trên các lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa v.v. ở một
chừng mực nhất định.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Với đề tài này, người viết không có tham vọng cập nhật diễn biến mới
hay đưa ra hướng giải quyết những vấn đề tranh cãi giữa hai cường quốc châu
Á. Trên cơ sở vận dụng các lý thuyết về chính trị, quan hệ quốc tế và các
phương pháp nghiên cứu, luận văn sẽ hệ thống hóa quan hệ chính trị Nhật
Bản với Trung Quốc thập niên đầu thế kỷ XXI, từ đó, đưa ra một số đánh giá
tổng quát về mối quan hệ này.
Để đạt được mục tiêu tổng quát trên, luận văn cần hoàn thành các mục
tiêu cụ thể sau:
Thứ nhất, trình bày các yếu tố chính tác động tới mối quan hệ Nhật
Bản- Trung Quốc trên lĩnh vực chính trị thập niên đầu thế kỷ XXI.
Thứ hai, dựa vào bức tranh quan hệ chính trị Nhật Bản- Trung Quốc 10
năm đầu thế kỷ XXI, luận văn rút ra một số đặc điểm, đồng thời dự báo triển
vọng quan hệ chính trị giữa hai nước trong thời gian tới.

13


Thứ ba, phân tích tác động của quan hệ chính trị hai cường quốc này
đối với khu vực Đông Nam Á và Việt Nam, từ đó, đề xuất một số khuyến

nghị đối với Việt Nam trong việc ứng xử với cặp quan hệ này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng dựa trên sự vận dụng chủ nghĩa MarxLennin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng ta về chính
sách đối ngoại cũng như chính sách ngoại giao của Nhật Bản và Trung Quốc.
Một số phương pháp nghiên cứu được vận dụng và kết hợp sử dụng
trong luận văn bao gồm: phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế, phương
pháp lịch sử, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp so sánh, phương
pháp tổng hợp, đánh giá, dự báo, và phương pháp hệ thống hóa.
6. Cấu trúc luận văn
Trên cơ sở cách đặt vấn đề như trên, bên cạnh Lời mở đầu, Kết luận, và
danh mục tài liệu tham khảo, cấu trúc luận văn gồm 3 chương, 10 tiết.
Trong Chương 1: Các yếu tố tác động tới quan hệ chính trị Nhật Bản
với Trung Quốc thập niên đầu thế kỷ XXI, luận văn tập trung phân tích các
yếu tố khách quan lẫn chủ quan, yếu tố bất biến và khả biến tác động đến
quan hệ chính trị hai nước trong thập niên đầu thế kỷ XXI.
Chương 2: Thực trạng quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung Quốc thập
niên đầu thế kỷ XXI là phần chính của luận văn. Theo đó, người viết làm sáng
tỏ thực trạng quan hệ chính trị giữa hai nước thập niên đầu thế kỷ XXI trên
các mặt ngoại giao, vấn đề lịch sử, chủ quyền biển đảo và vấn đề an ninh.
Trên cơ sở đối xét chính sách đối ngoại của các các thủ tướng Nhật Bản cũng
như các Đảng cầm quyền Nhật Bản thập niên đầu thế kỷ XXI, luận văn sẽ
tổng hợp, phân tích một số diễn biến chính trong mối quan hệ chính trị này
qua 3 giai đoạn cụ thể: từ năm 2001 đến tháng 9/2006, tháng 10/2006 đến
tháng 9/2009 và từ tháng 10/2009 đến hết năm 2010.

14


Chương 3: Đánh giá quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung Quốc thập
niên đầu thế kỷ XXI. Dựa vào bức tranh quan hệ chính trị Nhật Bản- Trung

Quốc 10 năm đầu thế kỷ XXI, luận văn đưa ra một số đặc điểm và dự báo
triển vọng quan hệ chính trị giữa hai nước trong thời gian tới. Cuối cùng, việc
đề cập tới tác động của quan hệ chính trị hai cường quốc này đối với khu vực
Đông Nam Á và Việt Nam, cũng như việc đề xuất một số khuyến nghị đối với
Việt Nam trong việc ứng xử với cặp quan hệ này là hết sức cần thiết.

15


Chương 1: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI QUAN HỆ CHÍNH TRỊ NHẬT
BẢN VỚI TRUNG QUỐC THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI
1.1 Yếu tố quốc tế
Tình hình thế giới ở ngưỡng cửa giữa hai thiên niên kỷ đã có những
biến đổi lớn cả về kinh tế và chính trị, tác động sâu sắc đến mọi quốc gia. Các
xu hướng hòa dịu trong quan hệ quốc tế đi cùng với môi trường an ninh đầy
bất ổn do cấu trúc quyền lực phức tạp chính là những yếu tố góp phần định
hình quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung Quốc. Trong bối cảnh như vậy,
quan hệ chính trị giữa Nhật Bản với Trung Quốc chịu tác động lớn bởi cả các
yếu tố khách quan lẫn chủ quan, yếu tố bất biến và khả biến. Dựa trên cấp độ
phân tích hệ thống, luận văn sẽ làm rõ các yếu tố quốc tế chi phối cặp quan hệ
này.
a. Xu thế phát triển trong quan hệ quốc tế thập niên đầu thế kỷ XXI
Bước vào thế kỷ XXI, có thể khái quát ba xu thế chủ yếu chi phối đời
sống chính trị thế giới.
* Cách mạng khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ trong đó có công nghệ thông tin tác động tới cách
nhìn thế giới của người dân ở mỗi quốc gia, khu vực, tác động đến các mối
quan hệ cả ở cấp nguyên thủ và quan hệ giữa các tầng lớp dân cư bình thường
ở các quốc gia, các khu vực khác nhau.
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, những hình

thức chuyên môn hoá cao gắn liền với các hình thức hợp tác đa dạng nhiều
tầng nấc đã vượt ra khỏi phạm vi của một nước. Nó tạo ra những động lực
mạnh mẽ thúc đẩy toàn cầu hoá, khu vực hoá phát triển không ngừng và
nhanh chóng. Nó làm cho nền kinh tế của các nước ngày càng thâm nhập và
đan xen nhau, tăng thêm sự phụ thuộc vào nhau điều chỉnh chính sách cải
cách mở cửa đã trở thành ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế

16


xã hội của nhiều quốc gia. Trong điều kiện đó, sự hợp tác giữa các quốc gia
để phát triển là cần thiết đòi hỏi các nước phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề
này.
Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển của khoa học công nghệ và thông
tin thể hiện ở chỗ nó nới rộng hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo.
Thậm chí, một số lực lượng cực đoan lợi dụng thành tựu khoa học công nghệ
để đe dọa an ninh quốc tế, tạo ra thách thức vô cùng to lớn đối với tất cả các
quốc gia.
* Xu thế hòa bình, hợp tác phát triển
Kể từ sau Chiến tranh Lạnh, các quốc gia lớn đều tập trung phát triển
kinh tế, cố gắng kiềm chế, tránh đối đầu nhằm duy trì môi trường quốc tế hòa
bình, ổn định. Lần đầu tiên trong lịch sử sau Chiến tranh lạnh, Đông Á có hoà
bình ổn định tương đối. Các nước trong khu vực đã trở thành các quốc gia độc
lập đều có chung nguyện vọng là cùng tồn tại hoà bình hữu nghị hợp tác để
phát triển. Vì mục đích cùng phồn vinh phát triển họ có lợi ích muốn mở rộng
thị trường phối hợp các nguồn nhân lực, tài lực, kết cấu hạ tầng và các nguồn
tài nguyên trong khả năng sẵn có và điều kiện của từng quốc gia từng vùng
lãnh thổ cho phép. Các nước đều điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế xã
hội và chiến lược đối ngoại của họ cho phù hợp với xu thế lớn đang diễn ra
mạnh mẽ trong khu vực và trên thế giới. Quan hệ các nước lớn trong khu vực

này tuy có nhiều trục trặc song nhìn chung vẫn nằm trong khuôn khổ hợp tác
vừa đấu tranh kiềm chế lẫn nhau, tránh đổ vỡ đi đến đối đầu căng thẳng.
Đáp lại thuyết “mối đe dọa của Trung Quốc” do Mỹ và các nước
phương tây nêu ra, lãnh đạo của Trung Quốc đã công khai trình bày lý luận
mới về “trỗi dậy hòa bình”. Tại Đại học Harvard, Thủ tướng Ôn Gia Bảo nhấn
mạnh “trỗi dậy hòa bình đã được nâng lên thành ý chí của quốc gia, trở thành
sự lựa chọn chiến lược của Trung Quốc”. Bên cạnh đó, Trung Quốc đang thực

17


hiện phương châm ngoại giao “đặt láng giềng hữu nghị lên trên”, tranh thủ
môi trường bên ngoài tốt đẹp cho phát triển kinh tế nên Trung Quốc sẽ không
lựa chọn biện pháp vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Trong xu thế đó, cả Nhật Bản và Trung Quốc đều chia sẻ tư tưởng
“chung sống hoà bình, vĩnh viễn không còn chiến tranh”, vượt qua sự chia rẽ,
hợp tác với nhau và với láng giềng trong hòa bình để ưu tiên cho phát triển
kinh tế. Đây cũng là “công ước” lớn nhất của Nhật nhằm duy trì quan hệ
ngoại giao thân thiện với Trung Quốc. Dù có quan điểm bảo thủ như thế nào,
hai bên Nhật- Trung trên thực tế đều sẽ không sử dụng chiến tranh để giải
quyết xung đột. Nhìn lại lịch sử phát triển kinh tế Nhật Bản- Trung Quốc
trong những thập niên qua, người ta thấy rằng lựa chọn chính sách “cùng có
lợi, cùng thắng, hướng tới tương lai”, tuân thủ nguyên tắc bình đẳng, hợp tác
thân thiện cũng như đối thoại và tham vấn là tối ưu nhất để bảo vệ và phát
triển lợi ích thực tế của nhân dân hai nước Nhật- Trung.
* Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa
Toàn cầu hóa lôi cuốn ngày càng nhiều chủ thể tham gia, thúc đẩy các
quốc gia mở cửa, tiến hành cải cách và hội nhập. Quá trình này sẽ tạo ra các
giá trị chung, thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia, khiến chính phủ và
nhân dân các nước xích lại gần nhau hơn. Với sự phát triển của toàn cầu hóa,

quan hệ thương mại quốc tế không ngừng gia tăng. Toàn cầu hóa sâu rộng làm
gia tăng hơn bao giờ hết không gian và lĩnh vực quan hệ đối ngoại của các
nước, làm cho sự tùy thuộc nhau giữa các quốc gia về an ninh và phát triển
tăng lên rõ rệt. Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hóa làm ra đời và củng cố
mạng lưới dày đặc các thiết chế quốc tế, đặc biệt là các tổ chức quốc tế trong
mọi lĩnh vực. Vai trò ngày càng tăng của các tổ chức quốc tế trong quan hệ
quốc tế góp phần hạn chế và giúp giải quyết xung đột giữa các nước, duy trì
và củng cố hòa bình, an ninh quốc tế.

18


Và sau cùng là sự xuất hiện ngày càng nhiều những vấn đề toàn cầu
đòi hỏi các nước phải tăng cường hợp tác cùng tham gia xử lý. Những vụ tấn
công khủng bố nhằm vào nước Mỹ năm 2001 đã phô bày mặt trái của toàn
cầu hóa- đó là đặc tính dễ tổn thương của một thế giới thiếu vắng biên giới.
Toàn cầu hóa đã làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào hố sâu ngăn
cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước, nguy cơ mất ổn định thị
trường tài chính, kinh tế vĩ mô, nguy cơ bùng phát dịch bệnh….. Toàn cầu hóa
làm cho mọi mặt hoạt động và đời sống của con người kém an toàn hơn (từ
kém an toàn về kinh tế, tài chính đến kém về an toàn chính trị), hoặc tạo ra
nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc và độc lập tự chủ của các quốc gia.
Mặc dù những thách thức do toàn cầu hóa đặt ra tác động tới các quốc
gia ở những mức độ khác nhau nhưng tựu trung lại không một nước nào có
thể một mình giải quyết các vấn đề đó. Có thể nói, những vấn đề nảy sinh từ
quá trình toàn cầu hóa là một trong những yếu tố làm gia tăng nhu cầu hợp tác
quốc tế.
Song song với sự phát triển của toàn cầu hóa, quan hệ quốc tế đang
chịu tác động lớn bởi quá trình khu vực hóa. Xuất phát từ mục đích phát huy
lợi thế so sánh, ngăn chặn ảnh hưởng của các thế lực bên ngoài và cạnh tranh

với các trung tâm kinh tế lớn, xuất phát từ sự hội tụ lợi ích chung và thể chế
hóa, các nước Đông Á đã đẩy mạnh quá trình liên kết khu vực.
Như vậy, hội nhập khu vực và tác động của làn sóng toàn cầu hóa có
thể sẽ là chất xúc tác bên ngoài cần thiết cho tiến triển tích cực trong quan hệ
Nhật- Trung. Cả hai nước có xu hướng hợp tác để thụ hưởng đầy đủ những lợi
ích và hạn chế mặt trái mà toàn cầu hóa, khu vực hóa đem lại, giúp hai nước
giàu có hơn.
b. Môi trường an ninh thế giới và khu vực

19


Môi trường an ninh quốc tế phát triển theo chiều hướng phức tạp, có
nhiều phương trình chiến lược mới đang nổi lên trong cấu trúc an ninh thế
giới nói chung và khu vực châu Á nói riêng. Theo lý luận chủ nghĩa hiện thực
mới, sự thay đổi kết cấu quyền lực trên tầng nấc hệ thống quốc tế sẽ ảnh
hưởng quan trọng tới hành vi của các quốc gia. Môi trường an ninh có các đặc
điểm chính sau:
Thứ nhất, cuộc đấu tranh gay gắt giữa xu hướng đơn vực và đa cực.
Bước vào thế kỷ XXI, vai trò của các nước vừa và nhỏ ngày càng được nâng
cao, góp phần không nhỏ vào việc hình thành trật tự thế giới mới trong thời
kỳ sau chiến tranh lạnh. Mặc dù “ảnh hưởng của Mỹ đang suy giảm”; tuy
nhiên, trong thời gian tới, Mỹ vẫn có một vai trò quan trọng trong việc xác
lập cục diện thế giới mới và chưa có quốc gia nào có đủ tiềm lực về chính trị
và kinh tế để thay thế vai trò độc tôn của Mỹ. Nhìn tổng thể, cấu trúc quyền
lực khu vực Đông Á duy trì được ổn định. Tuy nhiên, với sự trỗi dậy mạnh
mẽ của Trung Quốc, cục diện nhất siêu đa cường đang ngày càng rõ nét. Câu
hỏi đặt ra: liệu các cường quốc trong khu vực có chịu nhìn nhận vai trò ngang
nhau hay không? Các cường quốc có chịu chia sẻ phạm vi ảnh hưởng của khu
vực của mình cho các cường quốc khác, có tự kiềm chế cũng như giữ nguyên

trạng vị trí hiện tại của mình?. Điều này rất khó xảy ra. Thực tế cho thấy bất
kỳ sự thay đổi về sức mạnh kinh tế đều sẽ gây ra xung đột lợi ích, làm tăng
tính phức tạp, bất ổn tiềm tàng lâu dài cho khu vực.
Thứ hai, xu hướng nước lớn vừa đấu tranh vừa hợp tác, kể cả thỏa hiệp
đan xen. Một mặt vì lợi ích dân tộc, quốc gia và giai cấp mà họ đại diện, tìm
cách xoa dịu mâu thuẫn, tìm điểm tương đồng để hợp tác tránh đối đầu. Sự
tập hợp lực lượng này diễn ra ở cả những cấp độ khác nhau: giữa các nước
lớn với nhau, giữa các nước lớn và các nước nhỏ, giữa các nước trong khu
vực và giữa các nước khu vực với các cường quốc bên ngoài khu vực. Mặt

20


khác, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đơn phương, bá quyền cũng gia tăng.
Căng thẳng an ninh đe dọa phá vỡ sự tin cậy lẫn nhau. Thực tế cho thấy,
những nghi kỵ trong quan hệ giữa các nước trong khu vực vẫn còn tồn tại.
Những căng thẳng an ninh đang xảy ra sẽ xói mòn sự tin tưởng giữa các quốc
gia liên quan và do đó sẽ phá hoại sự hợp tác đa phương và sự sống còn của
kiến trúc an ninh trong khu vực.
Thứ ba, tranh chấp lãnh thổ trên biển, đặc biệt ở châu Á, ngày càng gia
tăng, có nguy cơ gây căng thẳng trong mối quan hệ giữa các nước. Đặc biệt,
đối với các cường quốc khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn
Độ, các tranh chấp lãnh thổ, biển đảo thường phức tạp và khó giải quyết hơn
so với những bất đồng tương tự giữa các quốc gia nhỏ hơn. Những căng thẳng
này một phần xuất phát từ tiềm năng kinh tế to lớn của tài nguyên thiên nhiên,
nhưng chủ yếu bị chi phối bởi một yếu tố vô hình quan trọng đó là thanh thế,
ảnh hưởng và chủ nghĩa dân tộc.
Thứ tư, bên cạnh nguy cơ khó xử về an ninh truyền thống, các nước
Đông Á còn phải đối diện với những vấn đề an ninh phi truyền thống. Dưới
tác động của toàn cầu hóa, các nguy cơ khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên

quốc gia, an ninh kinh tế, thiên tai, dịch bệnh, môi trường, di cư, cạn kiệt năng
lượng, biến đổi khí hậu, v.v. trở thành thách thức khó giải quyết và nhanh
chóng lan rộng ra hầu hết các quốc gia trên thế giới, đe dọa lợi ích quốc gia
của tất cả các nước. Việc các chính phủ đối phó như thế nào có liên quan mật
thiết đến hành vi đối ngoại của quốc gia có liên quan, từ đó ảnh hưởng đến
hòa bình, ổn định khu vực. Nếu lĩnh vực an ninh truyền thống đưa tới sự hợp
tác quốc tế có tính chất loại trừ thì cách thách thức an ninh phi truyền thống
có tính dung nạp rộng rãi. Đặc điểm này là do tính chất xuyên quốc gia, tính
đa dạng và phức tạp của những vấn đề an ninh phi truyền thống. Một mặt, các
quốc gia cạnh tranh với nhau để đảm bảo sự an toàn cho mình, một mặt, các

21


quốc gia trong đó có Nhật Bản và Trung Quốc đều nhận thức cần phải cùng
nhau nỗ lực hợp tác để đạt được tiến triển trong việc đối phó với những mối
đe dọa đó để tìm ra giải pháp toàn cầu vì sự sinh tồn và phát triển chung vì
không một nước nào có đủ mọi điều kiện (nguồn lực hạ tầng, tài chính,
chuyên gia, thông tin và kỹ thuật) để hành động độc lập.
c. Yếu tố Mỹ và ASEAN trong quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung
Quốc
* Mỹ
Mỹ tiếp tục là nhân tố quan trọng tác động tới quan hệ chính trị NhậtTrung. Mỹ đóng vai “ngư ông đắc lợi” khi mâu thuẫn giữa Trung Quốc - Nhật
Bản gia tăng. Với tư cách là một quốc gia chủ đạo ở châu Á, xuất phát từ
chiến lược vươn lên trở thành cường quốc chính trị, Nhật Bản bắt đầu có sự lo
ngại với tình hình phát triển và tương lai của thực lực Trung Quốc, cho rằng
Trung Quốc là mối đe dọa đối với vị thế của Nhật Bản, là vật cản đối với nỗ
lực trở thành “nước bình thường” của nước này. Tâm lý bất an của giới chính
trị Nhật Bản trước sự phát triển thần tốc của Trung Quốc, coi sự trỗi dậy của
Trung Quốc là mối đe dọa gây căng thẳng đối với quan hệ chính trị hai nước.

Do vậy, về cơ bản, Nhật Bản sẽ tiếp tục lựa chọn con đường phát triển dưới sự
bảo hộ của Mỹ. Nhìn từ góc độ Trung Quốc, việc Nhật Bản nhấn mạnh quan
hệ liên minh quân sự chiến lược với Mỹ, chính là muốn dựa vào sức mạnh
của Mỹ để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc, thậm chí để bao vây
Trung Quốc. Quan hệ đồng minh Nhật- Mỹ đã trở thành biến số quan trọng,
là một trong những tác nhân gây căng thẳng trong quan hệ Nhật Bản- Trung
Quốc. Nhật Bản và Trung Quốc cũng bị cuốn vào cuộc chạy đua vũ trang
không có hồi kết. Cả hai nền kinh tế lớn thứ hai và thứ ba thế giới đều phải
tiêu hao dự trữ ngoại tệ và các nguồn lực rất lớn khác không phải vào kinh tế
mà vào chạy đua quân bị vô cùng tốn kém. Khiến các đối thủ lao vào một

22


cuộc đấu không có kẻ thắng, cả hai sẽ cùng suy kiệt dần để mình đứng ngoài
thu lợi là một chiến lược cực kỳ thâm sâu. Sứ mệnh chủ yếu của Mỹ trong
tình huống này là thường xuyên thổi bùng ngọn lửa dân tộc chủ nghĩa và nuôi
khí thế tranh đấu của các bên. Tuy nhiên, người Mỹ sẽ không được để nổ ra
xung đột quân sự Nhật- Trung vì chiến tranh sẽ là thảm họa thế giới.
Như vậy, mặc dù “ảnh hưởng của Mỹ đang suy giảm” nhưng trong thời
gian tới, Mỹ vẫn có một vai trò quan trọng trong việc xác lập cục diện thế
giới mới và chưa có quốc gia nào có đủ tiềm lực về chính trị và kinh tế để
thay thế vai trò độc tôn của Mỹ. Để cải thiện mối quan hệ, Nhật Bản và Trung
Quốc cần khéo léo xử lý tầm ảnh hưởng lớn của Mỹ.
* ASEAN
Khu vực Đông Nam Á- ASEAN với mười nước thành viên, tổng dân số
600 triệu người và tổng thu nhập quốc nội 2.310 tỷ đô la, là điểm thu hút sự
quan tâm hàng đầu của các cường quốc cũng như những trung tâm chính trị kinh tế lớn trên thế giới. Vai trò trung tâm của ASEAN đã được ghi nhận qua
một số thành tựu quan trọng trong lĩnh vực kinh tế và an ninh, là một nhân tố
bảo đảm cho hòa bình và đã trở thành một động lực tăng trưởng cho nền kinh

tế thế giới. Một Cộng đồng chung ASEAN được hình thành sẽ tạo "sân chơi"
cho các quốc gia có cam kết chung hướng tới sự phát triển bền vững cũng như
hòa bình, ổn định và thịnh vượng cho khu vực này.
Ngoài ra, ASEAN đã trở thành khu vực quan trọng cho các cường
quốc, trong đó có Nhật Bản và Trung Quốc, tìm kiếm sự ảnh hưởng và chạy
đua thể hiện sức mạnh. ASEAN từng bước hình thành cục diện kiềm chế nhau
giữa các nước lớn Trung Quốc, Nhật Bản. Kiểu cơ cấu quyền lực kiềm chế
lẫn nhau của các nước lớn nói trên đã tạo cơ hội ngoại giao cho ASEAN đóng
vai trò của người phối hợp và cân bằng tương đối trung lập. ASEAN đã nắm

23


lấy cơ hội, đảm nhận vai trò người chủ đạo, tạo bước ngoặt lớn về địa vị của
ASEAN. Các nước lớn tự nguyện chấp nhận cho nhóm nước nhỏ giữ vai trò
chủ đạo. Một lý do sâu xa là một nhóm các nước vừa và nhỏ, liên kết một
cách lỏng lẻo trong một tổ chức khu vực không thể tạo thành bất cứ mối đe
dọa nào đối với vai trò các nước lớn.
Nhận thức được vai trò địa chính trị của ASEAN, Nhật Bản và Trung
Quốc không ngừng cạnh tranh ảnh hưởng tại khu vực này. Nhật Bản là nhà tài
trợ kinh tế chính của các nước Đông Nam Á. Tình hình dần dần thay đổi
trước ảnh hưởng kinh tế-chính trị ngày càng tăng của Trung Quốc ở khu vực.
Trung Quốc nhanh chóng hợp tác với các nước Đông Nam Á, vượt qua Nhật
Bản về kim ngạch thương mại cũng như đầu tư trực tiếp.
Yếu tố cạnh tranh kinh tế giữa Nhật Bản và Trung Quốc trong ASEAN
hiện diện ở nhiều lĩnh vực. Hầu như các đề án của Trung Quốc đều được Nhật
Bản đáp lại bằng dự án của họ. Ví dụ, Trung Quốc gợi ý xây dựng đường cao
tốc từ Bắc xuống Nam – khởi điểm là Côn Minh (Trung Quốc) đến đích ở
Singapore. Ngay lập tức, Nhật Bản đề nghị mở con đường Đông-Tây, từ Đà
Nẵng (Việt Nam) đến Arakan (Myanmar). Đối với Nhật Bản, Đông Nam Á

đang từ một mặt bằng sản xuất chuyển thành bàn đạp đối đầu sự ảnh hưởng
Trung Quốc.
Cạnh tranh hiện hữu cả ở lĩnh vực chính trị-quân sự. Trong các cuộc
xung đột trên biển Đông cũng như biển Hoa Đông, Nhật Bản ngày càng công
khai đối đầu với Trung Quốc. Yếu tố này đem lại trọng lượng chính trị đáng
kể cho Nhật Bản ở Đông Nam Á.
1.2 Yếu tố quốc gia
Cấp độ phân tích quốc gia kiểm chứng hành vi chính sách đối ngoại của
các nhà nước dựa trên các đặc trưng của quốc gia, các tiến trình bên trong như

24


các cơ quan nhà nước, các nhóm lợi ích. Thực tế cho thấy các yếu tố bên
ngoài có tác động không nhỏ tới quan hệ chính trị Nhật Bản với Trung Quốc,
tuy nhiên, những sức ép từ trong nước cũng ảnh hưởng lớn tới quan hệ chính
trị Nhật Bản với Trung Quốc.
a. Tình hình chính trị nội bộ
* Về phía Nhật Bản
Đặc trưng của chính trị Nhật Bản 10 năm đầu thế kỷ XXI là sự xáo trộn
về người đứng đầu nội các: Chỉ trong 4 năm, Nhật Bản đã trải qua 6 đời thủ
tướng. Thực tế này góp phần lý giải cho sự lúng túng về chính sách ngoại giao
của Nhật Bản trong việc xử trí quan hệ với các cường quốc.
Năm 2009, chính trường Nhật Bản chứng kiến sự chuyển giao quyền
lực mới mẻ: lần đầu tiên đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ)- đảng đối lập lên cầm
quyền ở Nhật Bản, chấm dứt sự lãnh đạo đất nước Nhật Bản gần như liên tục
kể từ năm 1955 của đảng Dân chủ tự do (LDP). Hai đảng chính trị này có tư
duy và chính sách đối ngoại tương đối khác nhau.
LDP lấy chủ nghĩa hiện thực làm căn cứ lý luận cho chính sách đối
ngoại với Trung Quốc, coi sự trỗi dậy của Trung Quốc là mối đe dọa lợi ích

và vị thế của Nhật Bản. Một mặt, Nhật Bản thúc đẩy xây dựng mối quan hệ
chiến lược bình đẳng cùng có lợi. Mặt khác, tăng cường hơn nữa liên minh
Nhật- Mỹ và các nước khác để chủ động hạn chế và phòng ngừa đối với “mối
đe dọa tiềm tàng” của một Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh.
Trong khi đó, DPJ đề xướng chính sách đối ngoại dựa trên tư duy chủ
nghĩa tự do. Trong quan hệ với Trung Quốc, DPJ chủ trương xây dựng mối
quan hệ tin cậy, dựa vào nhau mang tính chế độ, chủ trương Cộng đồng Đông
Á, cũng như giải quyết tranh chấp song phương thông qua chế độ đàm phán
hòa bình. Bên cạnh đó, DPJ cũng khởi xướng chủ nghĩa lý tưởng của mối
quan hệ hợp tác và dựa vào nhau cùng tồn tại giữa các quốc gia cũng như xây

25


×