Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Hợp đồng đại lý mua bán hàng hoá theo pháp luật thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
______________________________

VŨ HỒNG NAM

HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ MUA BÁN HÀNG HOÁ
THEO PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
______________________________

VŨ HỒNG NAM

HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ MUA BÁN HÀNG HOÁ
THEO PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. HỒ NGỌC HIỂN

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn trích dẫn rõ ràng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình
nào đã công bố.
Đà Nẵng, tháng 9 năm 2017
Tác giả

Vũ Hồng Nam


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẠI LÝ MUA
BÁN HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ MUA BÁN
HÀNG HÓA ...............................................................................................................6
1.1. Hoạt động đại lý thương mại và vai trò của hoạt động đại lý thương mại ..........6
1.2. Bản chất pháp lí của hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa ...................................14
1.3. Pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa ..................................24
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VỀ
HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ MUA BÁN HÀNG HÓA ...................................................35
2.1. Các quy định về chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa 35
2.2. Giao kết hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa ......................................................38
2.3. Hình thức và nội dung của hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa .........................44
2.4. Hiệu lực pháp lý của hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa ..................................47

2.5. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đại lý mua bán
hàng hóa ....................................................................................................................50
2.6. Chấm dứt hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa và hậu quả chấm dứt hợp đồng
đại lý mua bán hàng hóa............................................................................................60
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VỀ HĐ ĐẠI LÝ MUA BÁN HÀNG HÓA ........66
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa .....66
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật thương mại về hợp đồng đại lý mua bán
hàng hóa ....................................................................................................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1.

Bộ luật Dân sự năm 2015

: BLDS 2015

2.

Bộ luật Thương mại

: BLTM

3.

Đại lý thương mại


: ĐLTM

4.

Hợp đồng

: HĐ

5.

Luật Thương mại năm 1997

: LTM 1997

6.

Luật Thương mại năm 2005

: LTM 2005

7.

Việt Nam

: VN


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thương mại hàng hóa và dịch vụ càng phát triển, vai trò của các hoạt động

trung gian thương mại càng được coi trọng, vì tính ưu việt là nhanh chóng, ít rủi ro,
chi phí thấp và dễ dàng gia nhập hoặc từ bỏ thị trường nên chúng hỗ trợ đắc lực cho
thương nhân. Là một loại hình trung gian thương mại, ĐLTM nói chung, đại lý mua
bán hàng hóa ở VN nói riêng, tuy mới hiện diện trên thị trường và mới được ghi
nhận trong pháp luật thương mại, nhưng ngày càng được các thương nhân ưu tiên
chọn lựa.
Nếu như ở VN, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các hoạt động
thương mại chủ yếu do các cơ sở thương nghiệp nhà nước đảm nhận và được thực
hiện chủ yếu theo phương thức giao dịch trực tiếp, phương thức giao dịch qua trung
gian không được chú trọng. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, cùng với quá
trình thương mại xuyên biên giới, hoạt động trung gian thương mại ngày càng phát
triển tăng nhanh. Trong đó, hoạt động đại lý mua bán hàng hóa có mặt ở cả khu vực
quốc doanh và ngoài quốc doanh, xuất hiện trên toàn quốc từ nông thôn đến thành
thị, từ trung du đến miền núi hoặc những khu vực xa xôi hẻo lánh. Đại lý mua bán
hàng hóa đa dạng về loại hình và tăng trưởng trong hầu hết mọi lĩnh vực và ngành
nghề, cả về doanh số bán hàng và phạm vi cung cấp.
Trên thế giới, pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐLTM đã xuất hiện từ rất sớm
và hiện nay đã đạt tới sự hoàn thiện đáng kể. Tiêu biểu như BLTM Pháp điều chỉnh
từ năm 1807 và BLTM Đức từ năm 1897. Pháp luật điều chỉnh ĐLTM ở nhiều
nước đều tập trung vào một số vấn đề cơ bản để bảo vệ quyền lợi của các bên tham
gia. Tuy nhiên, quan điểm và chính sách điều chỉnh hoạt động này ở mỗi nước
không giống nhau mà phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế, chính trị xã hội và
trình độ lập pháp của từng nước. Như vậy, pháp luật về ĐLTM, mà cụ thể là đại lý
mua bán hàng hóa, trên thế giới rất đa dạng và phong phú và chúng mang đậm bản
sắc của những thể chế kinh tế khác nhau.

1


Ở VN, hoạt động ĐLTM lần đầu được ghi nhận trong LTM 1997, từ điều 111

đến điều 127, quy định về đại lý mua bán hàng hóa. Tiếp đó, LTM 2005, có hiệu
lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006 đã hoàn thiện chế định ĐLTM, từ điều 166 đến
điều 177 bao gồm cả đại lý mua bán hàng hóa và đại lý cung cấp dịch vụ. Bên cạnh
đó, hoạt động đại lý còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác như:
Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật Hàng hải VN, … Những quy định này tạo thành
khung pháp lý cho các chủ thể khi tham gia quan hệ ĐLTM, góp phần bảo vệ một
cách hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp của các thương nhân.
Hoạt động đại lý mua bán hàng hóa được tiến hành trên cơ sở HĐ đại lý giữa
bên giao đại lý và bên đại lý. Những thỏa thuận không trái quy định pháp luật của
các bên trong HĐ chính là quy phạm riêng điều chỉnh thực sự quan hệ đại lý mua
bán hàng hóa cụ thể. Tuy vậy, thực tiễn thực hiện HĐ đại lý mua bán hàng hóa đã
và đang có những vướng mắc, bất cập; trách nhiệm của các bên đối với khách hàng,
đối với hàng hóa chưa thật rõ ràng, …
Trước những yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, hoàn thiện các quy định pháp
luật thương mại mà cụ thể là thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động đại lý mua
bán hàng hóa ở VN, em lựa chọn đề tài: “Hợp đồng đại lý mua bán hàng hoá theo
pháp luật thương mại VN” cho luận văn Thạc sỹ với mong muốn nghiên cứu một
cách toàn diện, đầy đủ các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn nhằm góp phần hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh lĩnh vực HĐ này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những vấn đề pháp lí về hoạt động ĐLTM nói chung, HĐ đại lý mua bán
hàng hóa nói riêng đã được đề cập đến trong một số sách nghiên cứu về các chế
định trung gian thương mại như Giáo trình Luật thương mại của một số cơ sở đào
tạo (Trường đại học Luật Hà Nội, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội v. v…);
PGS.TS Nguyễn Như Phát và TS. Phan Thảo Nguyên Pháp luật thương mại dịch
vụ VN và Hội nhập kinh tế quốc tế; PGS.TS Phạm Duy Nghĩa Chuyên khảo Luật
kinh tế; …

2



Ngoài các sách chuyên khảo, ở phạm vi và mức độ khác nhau có một số công
trình nghiên cứu của các nhà luật học bàn về các khía cạnh pháp luật liên quan,
trong đó đề cập HĐ đại lý mua bán hàng hóa, được công bố qua các đề tài nghiên
cứu, luận án tiến sĩ, tài liệu, báo cáo và tạp chí chuyên ngành như: đề tài nghiên cứu
khoa học của Bộ Thương mại “Cơ sở khoa học cho sự lựa chọn giải pháp và bước
đi nhằm đẩy mạnh tiến trình mở cửa về dịch vụ thương mại” (mã số 2001-78-059,
do GS.TS Nguyễn Thị Mơ, Trường Đại học Ngoại thương làm Chủ nhiệm đề tài;
Luận án tiến sỹ luật học của TS Hồ Ngọc Hiển “Đại diện cho thương nhân theo
pháp luật thương mại VN hiện nay” (đã được bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội
năm 2012); Luận án tiến sỹ luật học của TS Nguyễn Thị Vân Anh “Pháp luật điều
chỉnh các hoạt động trung gian thương mại ở VN” (đã được bảo vệ tại Học viện
Khoa học xã hội năm 2007); “Chế định đại diện thương mại theo quy định của
pháp luật VN, nhìn từ góc độ luật so sánh” của TS. Ngô Huy Cương – Tạp chí nhà
nước và pháp luật (2009); “Tìm hiểu khái niệm ĐLTM” của Nguyễn Thị Vân Anh
– Tạp chí Luật Học (2006)… Nhưng các công trình nghiên cứu này không nghiên
cứu một cách chuyên sâu và toàn diện về HĐ đại lý mua bán hàng hóa, nhất là các
vấn đề đã phát sinh trong thực tiễn ký kết, thực hiện các loại HĐ này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp lý về HĐ đại lý mua bán
hàng hóa, luận văn đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về HĐ đại lý mua bán
hàng hóa, từ đó đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật điều chỉnh HĐ đại lý mua bán hàng hóa ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ bản chất pháp lý của HĐ đại lý mua bán hàng
hóa và pháp luật điều chỉnh loại HĐ này.
- Thứ hai, phân tích thực trạng pháp luật điều chỉnh quan hệ HĐ đại lý mua
bán hàng hóa, từ đó nếu được những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật.


3


- Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật
điều chỉnh HĐ đại lý mua bán hàng hóa, đưa ra một số đề xuất cụ thể để hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh HĐ đại lý mua bán hàng hóa ở VN
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm: các quan điểm pháp lý và pháp
luật thương mại VN điều chỉnh về HĐ đại lý mua bán hàng hóa, pháp luật của một
số quốc gia trên thế giới về HĐ đại lý mua bán hàng hóa, thực tiễn xây dựng và áp
dụng quy định của pháp luật về HĐ đại lý mua bán hàng hóa ở VN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những khía cạnh pháp lý của HĐ đại lý mua
bán hàng hóa trên cơ sở lý luận cũng như các quy định liên quan đến HĐ đại lý mua
bán hàng hóa trong BLDS 2015, LTM 2005 và một số văn bản pháp luật chuyên
ngành khác.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để giải quyết các vấn đề
liên quan đến việc nghiên cứu pháp luật về HĐ đại lý mua bán hàng hóa theo pháp
luật VN để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm vận dụng vào điều kiện thực tế ở VN.
Đồng thời luận văn cũng dựa trên cơ sở các quan điểm đường lối chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội của Đảng Cộng sản VN.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cứu cụ thể. Bao gồm: phương pháp biện chứng khoa học; phân tích, đánh giá;
tổng hợp, so sánh, đối chiếu; khảo sát thực tiễn; thống kê; hệ thống và một số

phương pháp bổ trợ khác… Đồng thời thực hiện việc kết hợp giữa các nhóm
phương pháp để nghiên cứu, giải quyết những yêu cầu mà đề tài đặt ra.

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động đại lý và
HĐ đại lý mua bán hàng hóa, theo đó phân tích kỹ về khái niệm, đặc điểm pháp lý,
luận giải một cách có hệ thống và chiều sâu bản chất pháp lý của HĐ đại lý mua
bán hàng hóa, cho phép phân biệt với một số hoạt động thương mại cận kề khác
như: mua bán hàng hoá, uỷ thác mua bán hàng hóa, nhượng quyền thương mại…
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã chỉ ra những bất cập trong cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với
quan hệ HĐ đại lý mua bán hàng hóa, làm rõ nguyên nhân, từ đó đề xuất các giải
pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật để nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với
HĐ đại lý mua bán hàng hóa. Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể
sử dụng làm tư liệu tham khảo giúp cho việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện chế
định pháp luật về HĐ đại lý mua bán hàng hóa ở VN hiện tại và trong tương lai.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về hoạt động đại lý mua bán hàng hóa và
pháp luật về hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
Chương 2. Thực trạng pháp luật thương mại Việt Nam về hợp đồng đại lý mua
bán hàng hóa
Chương 3. Một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thương
mại về hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa


5


CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẠI LÝ MUA
BÁN HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ
MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1 . Hoạt động đại lý thương mại và vai trò của hoạt động đại lý thương mại
1.1.1 Khái quát về lịch sử hình thành hoạt động đại lý thương mại – Dịch
vụ trung gian thương mại
Quá trình phân công lao động xã hội và trao đổi hàng hóa trên thế giới đã xuất
hiện và phát triển khá sớm trong lịch sử xã hội nhân loại. Thời kỳ đầu, hoạt động
mua bán hàng hoá chủ yếu được diễn ra trực tiếp giữa người sản xuất ra hàng hoá
và người tiêu dùng. Sau này, cùng với sự ra đời của những thương nhân lấy việc
bán hàng làm nghề nghiệp chính cho mình, thì hoạt động mua bán hàng hoá càng
phát triển mạnh mẽ và được tiến hành dưới nhiều hình thức hết sức đa dạng, phong
phú với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau.
Ngày nay, trong cơ chế thị trường cùng với sự phát triển ngày càng đi lên của
xã hội, sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh ngày càng gay gắt dẫn tới vấn đề
tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trở nên có ý nghĩa quan trọng quyết định sự
thành bại của doanh nghiệp. Cùng với đó, hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển
như vũ bão của các ngành thương mại đã thúc đẩy các doanh nghiệp đi vào tập
trung chuyên môn hóa cao. Các doanh nghiệp sản xuất dồn toàn bộ sức lực cho ra
những sản phẩm tốt. Vấn đề tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá dịch vụ cũng là ý nghĩa
quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp chính vì vậy đòi hỏi các doanh
nghiệp cần tìm cho mình sự trợ giúp của các nhà trung gian chuyên nghiệp. Vì vậy
thương nhân sử dụng nhiều phương thức mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đa
dạng, trong đó, phương thức giao dịch qua những nhà trung gian chuyên nghiệp
đang dần bộc lộ nhiều ưu điểm hơn so với phương thức giao dịch trực tiếp.


6


Đối với phương thức giao dịch trực tiếp người sở hữu hàng hóa và khách hàng
tự tìm kiếm cơ hội để giao kết và thực hiện HĐ. Chính vì thế, lợi thế của phương
thức giao dịch trực tiếp là hai bên trong quan hệ mua bán không phải không phải trả
chi phí trung gian; nắm bắt chính xác thông tin đối tác và sản phẩm. Tuy nhiên,
phương thức giao dịch trực tiếp cũng có những hạn chế, nhất là khi hoạt động mua
bán hàng hóa đã phát triển ở quy mô lớn. Theo đó, việc thương nhân và khách hàng
trực tiếp giao dịch với nhau sẽ làm phát sinh chi phí về thời gian và tiền bạc; tiếp
cận thị trường mới, thương nhân phải mất thời gian, chi phí đáng kể cho việc xây
dựng đội ngũ nhân viên và chi nhánh hoạt động.
Đối với phương thức giao dịch qua trung gian là phương thức mà ở đó, thương
nhận hoặc khách hàng thông quan một thương nhân khác, không phải là chủ sở hữu
đối với hàng hóa để giao kết, thực hiện HĐ. Thương nhân kinh doanh dịch vụ trung
gian thương mại là người có hiểu biết về thị trường, có mạng lưới khách hàng và
đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm. Bởi vậy, thông qua thương nhân trung gian, bên
sở hữu hàng hóa sẽ nhanh chóng tiếp cận thị trường mới. Xuất phát từ nhu cầu này
mà nhiều hoạt động trung gian thương mại đã ra đời như: đại diện thương mại, môi
giới, ủy thác và đại lý mua bán hàng hóa. Trong các dịch vụ trung gian thương mại
liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa thì đại lý mua bán hàng hóa là dịch vụ
phổ biến, được ưu chuộng trên thế giới cũng như ở VN.
Dưới phương diện ngôn ngữ, thuật ngữ “đại lý” là một từ Hán – Việt. Theo
đó, “đại” có nghĩa là thay thế, “lý” có nghĩa là quản lý, xử lý, làm. Đại lý là hoạt
động nhận ủy thác của người khác, thay mặt họ tiến hành hoạt động nhất định. Cũng
ghi nhận với nội dung tương tự trong tiếng Việt, thuật ngữ đại lý đa số được hiểu là
một người thay mặt người khác làm một việc [24, tr 186]. Chính vì vậy, thuật ngữ
đại lý và đại diện trong từ điển thường có chung nội hàm. Trong thực tế, có nhiều
loại hoạt động mà có một người được ủy quyền thay mặt người khác để hành động

nhưng với danh nghĩa khác nhau, họ có thể nhân danh người ủy quyền nhưng họ
cũng có thể nhân danh chính mình để hành động.

7


Dưới phương diện lịch sử, hoạt động ĐLTM nói chung và đại lý mua bán
hàng hóa nói riêng ở VN lần đàu tiên được quy định trong bản “Chính sách cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư nhân ở các tỉnh phía Nam”, ban hành
kèm theo Quyết định số 100/CP ngày 12/04/1977 của Hội đồng Chính phủ. Sau đó
dịch vụ đại lý được điều chỉnh bởi Quyết định số 312/HĐCP ngày 01/10/1980 của
Hội đồng Chính phủ về tăng cường quản lý thị trường; Nghị quyết số 188/HĐBT
ngày 23/11/1982 của Hội đồng Bộ trưởng về tăng cường thương nghiệp xã hội chủ
nghĩa và quản lý thị trường. Tuy nhiên, trong các văn bản chưa đề cập đầy đủ nội
hàm của thuật ngữ đại lý hoặc cụ thể hoạt động đại lý là như thế nào. Mặt khác, nhu
cầu điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động đại lý xuất hiện trên thị trường hay một
gia tăng, chính vì vậy, ngày 25/04/1996 Chính phủ đã ban hành Quy chế đại lý mua
bán hàng hóa, trong đó có 06 hình thức đại lý: đại lý mua hàng, đại lý bán hàng, đại
lý hoa hồng, đại lý bao tiêu, đại lý độc quyền và tổng đại lý.
Ngày 10/05/1997, LTM 1997 được thông qua, quy định từ điều 111 đến điều
127 về Đại lý mua bán hàng hóa. Sáu hình thức được ghi nhận trong Quy chế năm
1996 cũng được luật hóa đầy đủ nội dung của Luật. LTM 1997 đã tạo khung pháp
lý tương đối hoàn chỉnh cho các thương nhân khi thực hiện hoạt động tương mại
trên thị trường.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở VN và tiếp tục đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế, với sự kế thừa và khắc phục những hạn chế của LTM
1997, Quốc hội khóa XI đã thông qua LTM 2005. Theo đó, LTM 2005 tạo điều kiện
thuận lợi cho các thương nhân thực hiện hoạt động kinh doanh. Các hoạt động
thương mại nói chung, trong đó có hoạt động đại lý mua bán hàng hóa được điều
chỉnh một các linh hoạt bởi một hành lang pháp lý mềm dẻo. LTM 2005 chỉ quy

định về ba loại hình thức ĐLTM là đại lý bao tiêu, đại lý độc quyền và tổng đại lý
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, ngoài ra, các bên tham gia quan hệ đại lý mua
bán hàng hóa được tự thỏa thuận các hình thức đại lý khác. Quy định này của LTM
2005 tạo điều kiện cho thương nhân tự do lựa chọn hình thức đại lý phù hợp với
nhu cầu kinh doanh của mình.

8


1.1.2 Phân biệt hoạt động đại lý thương mại với một số hoạt động trung
gian thương mại khác
Theo pháp luật Thương mại VN, thì ĐLTM là một trong bốn hình thức của
trung gian thương mại. Mang bản chất của trung gian thương mại nên ĐLTM với
các hình thức trung gian thương mại khác có rất nhiều điểm tương đồng mà có thể
nhận ra ngay ở khái niệm quy định tại khoản 11 điều 3 LTM 2005 “Các hoạt động
trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch
thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động
đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá và
ĐLTM”.
Tuy nhiên, mỗi hình thức hoạt động trung gian thương mại đều mang những
đặc điểm riêng biệt, để phân loại các hình thức này chủ yếu dựa vào vai trò và tư
cách của bên trung gian trong quan hệ với bên thứ ba.
* Đại lý và đại diện
Trong quan hệ với bên thứ ba, bên đại diện nhân danh bên giao đại diện còn
bên đại lý nhân danh chính mình để giao kết và thực hiện HĐ với bên thứ ba. Bên
đại diện chỉ được thực hiện những hoạt động trong phạm vi được ủy quyền, đôi khi
bên thứ ba hiểu nhầm là mình trực tiếp quan hệ với bên đại diện. Còn bên đại lý là
chủ thể trực tiếp giao kết và thực hiện cũng như chịu trách nhiệm với bên thứ ba về
HĐ đã ký kết.
* Đại lý và môi giới

Một là, về chủ thể có sự khác biệt. Bên môi giới bắt buộc phải là thương nhân,
còn các bên được môi giới không nhất thiết phải là thương nhân, song trong quan hệ
đại lý thì cả hai bên giao đại lý và bên đại lý đều phải là thương nhân.
Hai là, bên môi giới chỉ thực hiện các hoạt động tìm kiếm và cung cấp thông
tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới, thu xếp các bên được môi giới tiếp
xúc và trực tiếp giao kết HĐ với nhau. Bên môi giới không ký kết HĐ thay cho bên
được môi giới. Còn đối với hoạt động đại lý, bên đại lý nhân danh chính mình trực
tiếp giao kết và thực hiện HĐ mua bán hàng hóa , cung ứng dịch vụ với bên thứ ba.

9


Ba là, về hình thức của HĐ, LTM 2005 không quy định về hình thức của HĐ
môi giới phải được lập thành văn bản, trong khi hoạt động ĐLTM bắt buộc phải là
văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
* Đại lý và ủy thác
Một là, về chủ thể, quan hệ ủy thác có thể được thiết lập giữa thương nhân với
thương nhân, giữa thương nhân với một hoặc các bên không phải là thương nhân,
trong khi quan hệ đại lý chỉ có thể được thiết lập giữa các thương nhân.
Hai là, phạm vi hoạt động của ĐLTM rộng hơn hoạt động ủy thác. ĐLTM có
thể thực hiện trong nhiều lĩnh vực của hoạt động thương mại như mua bán hàng hóa
và cung ứng dịch vụ, trong khi đó ủy thác hàng hóa chỉ được thực hiện trong lĩnh
vực mua bán hàng hóa như chính tên gọi của nó.
Ba là, bên đại lý được tự do hơn bên nhận ủy thác trong việc lựa chọn bên thứ
ba để giao kết và thực hiện HĐ. Bên nhận ủy thác phải thực hiện theo chỉ dẫn của
bên ủy thác về đối tượng giao kết để phù hợp với những thỏa thuận trong HĐ.
Bốn là, quan hệ ủy thác thường mang tính vụ việc, đơn lẻ còn quan hệ đại lý
thường là quá trình hợp tác lâu dài giữa bên giao đại lý và bên đại lý. Cho nên,
trong quá trình giao kết bên đại lý có sự gắn bó phụ thuộc vào bên giao đại lý, còn
bên giao đại lý có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ đối với hoạt động của bên đại lý

hơn so với quan hệ giữa bên ủy thác và bên nhận ủy thác.
1.1.3 Vai trò của hoạt động đại lý thương mại trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh được bảo
đảm khiến các thương nhân phải không ngừng tìm kiếm một phương thức linh hoạt
và ưu việt để tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh thu về nguồn lợi nhuận tối đa.
Tham gia vào quan hệ ĐLTM là một phương thức kinh doanh được nhiều thương
nhân ưa chuộng, góp phần phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế. Vai trò của hoạt động ĐLTM trong trong nền kinh tế thị trường thể hiện ở những
khía cạnh sau:
Thứ nhất, ĐLTM góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa và từ đó
thúc đẩy kinh tế phát triển nói chung và ngành thương mại dịch vụ nói riêng.

10


Hoạt động ĐLTM phát triển, làm cho khối lượng hàng hóa lưu thông trên thị
trường tăng lên, giao lưu kinh tế giữa các vùng trong nước cũng như các nước trong
khu vực và trên thế giới được đẩy mạnh. Thông qua các nhà ĐLTM mà nhà sản
xuất có thể thiết lập một hệ thống phân phối hàng hóa đa dạng và rộng lớn. Các nhà
đại lý giúp thương nhân nắm bắt những thông tin cần thiết về thị trường một cách
kịp thời. Từ đó, phân tích nhu cầu thị trường và hàng hóa để tiến hành các hoạt
động sản xuất sản phẩm, phân khúc thị trường, phân bổ sản phẩm một cách hiệu quả
cho thị trường cần thiết. Trên cơ sở đó, mà mở rộng sản xuất, đa dạng hóa sản
phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hơn nữa, hoạt động ĐLTM thúc đẩy kinh tế phát triển nói chung và ngành
thương mại dịch vụ nói riêng. Thành tựu mà ĐLTM góp phần tăng các chỉ số của
ngành dịch vụ khẳng định vai trò vĩ mô này. Trong cả thời kỳ 1991 - 2009, có thể
nói dịch vụ là ngành có tốc độ tăng trưởng biến động khá lớn theo chu kì kinh tế.
Giá trị sản xuất của ngành tăng bình quân 12%/năm (1991 - 1995) và ổn định từ

7,7%/năm (2006-2009). Giai đoạn 2011 – 2015, tốc độ tăng trưởng bình quân dịch
vụ đạt 6,31%/năm, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng từ 79,42% năm
2010 lên 82,5% năm 2015; Năm 2016, GDP ước tính tăng 6,21% so với năm 2015,
trong đó, khu vực dịch vụ tiếp tục giữ được đà tăng trưởng với 6,98% [46]
Trong cơ cấu nhóm ngành kinh tế thì dịch vụ vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong khối ba ngành (nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) và tăng lên hiện nay
chiếm 43,99% [47]. Một điểm đáng lưu ý là trong ba ngành thì dịch vụ được coi là
một động lực của tăng trưởng kinh tế, chiếm tỷ trọng đáng kể GDP và hoạt động
ĐLTM cũng đang vươn mình góp phần vào vai trò vĩ mô phát triển nền kinh tế.
Thứ hai, hoạt động ĐLTM mang lại hiệu quả lớn cho thương nhân trong quá
trình phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ ở thị trường trong nước, mở rộng ở thị
trường nước ngoài.

11


Khi gia nhập thị trường mới, thương nhân luôn gặp nhiều khó khăn do sự khác
biệt về văn hoá dẫn đến nhu cầu của khách hàng ở mỗi vùng, miền là khác nhau.
ĐLTM giúp thương nhân khắc phục được khó khăn này, vì:
- Bên ĐLTM thường có mạng lưới phân phối trên thị trường. Với mạng lưới
khách hàng quen thuộc, bên đại lý rất dễ dàng trong việc tiếp thị, mua bán hàng hoá.
- Bên ĐLTM thường có đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp với nhiều kinh
nghiệm, am hiểu thị trường nên dễ dàng nắm được điểm mạnh, điểm yếu của sản
phẩm mà thương nhân giao đại lý cung cấp để giúp thương nhân nâng cao chất
lượng sản phẩm, phù hợp nhu cầu thị trường. Nhờ đó, tăng khả năng thu hút khách
hàng, đảm bảo lợi nhuận kinh doanh cho thương nhân giao đại lý.
- Thông qua bên ĐLTM, thương nhân tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc
cho việc tìm hiểu thị trường mới. Khi gia nhập thị trường mới, thương nhân thường
mất rất nhiều chi phí cho việc xây dựng cơ sở vật chất, thuê mướn lao động, quảng
cáo, tiếp thị sản phẩm…Nhờ có ĐLTM, chi phí mà thương nhân phải bỏ ra sẽ giảm

rất nhiều do bên ĐLTM là thương nhân đã có cơ sở vật chất lẫn lao động trên thị
trường. Nếu hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ do thương nhân cung
cấp không đạt hiệu quả như mong muốn, thương nhân cũng có thể nhanh chóng
thanh lý ĐLTM và rút khỏi thị trường mà không mất thời gian, chi phí cho việc
thanh lý tài sản, giải quyết quyền lợi cho người lao động…
- Nếu thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá qua ĐLTM, thay vì phải xây
dựng mạng lưới phân phối, thương nhân có điều kiện tập trung thực hiện sản xuất,
kinh doanh. Nhờ đó sẽ tăng chất lượng sản phẩm, nâng cao uy tín của thương nhân
trên thị trường.
- Hạn chế rủi ro cho thương nhân khi gia nhập thị trường nước ngoài. Trong
xu thế toàn cầu hoá hiện nay, việc mua bán hàng hoá quốc tế đang ngày càng phát
triển nhưng việc thâm nhập thị trường của một quốc gia khác của thương nhân gặp
rất nhiều khó khăn do sự khác biệt về ngôn ngữ, pháp luật và các yếu tố văn hoá.
ĐLTM rất được các thương nhân ưa chuộng khi gia nhập thị trường nước ngoài vì
sự am hiểu thị trường và pháp luật nước sở tại của bên ĐLTM giúp cho các thương

12


nhân hạn chế được nhiều rủi ro và giúp hàng hoá của họ dễ dàng tiếp cận, thích ứng
với khách hàng địa phương.
Trong xu thế toàn cầu hóa thương mại, hoạt động thương mại dịch vụ phát
triển theo hệ thống trên toàn thế giới. Các thương nhân luôn tìm kiếm thị trường bên
ngoài lãnh thổ, việc mở rộng sản xuất kinh doanh, khẳng định thương hiệu của mình
không những chỉ ở thị trường trong nước mà vươn cả thị trường quốc tế. Khi xuất
khẩu hàng hóa, dịch vụ ra nước ngoài, khi xây dựng thị trường ngoài lãnh thổ, các
thương nhân ngoại quốc sẽ gặp nhiều khó khăn và luôn phải đối mặt với những rủi
ro về các vấn đề lựa chọn đối tác, về thị trường, về tín dụng, về pháp luật nước sở
tại. Để khắc phục các rủi ro, khó khăn này, biệm pháp tối ưu mà các thương nhân
ngoại quốc lựa chọn đó là hợp tác với các trung gian thương mại của nước sở tại,

trong đó ĐLTM là một lựa chọn tối ưu cho việc xây dựng một mang lưới phân phối
hàng hóa, dịch vụ mang những ưu điểm vượt trội như tác giả đã phân tích ở trên.
Trên thực tế thì các nhà sản xuất lớn thường tiêu thụ sản phẩm của mình thông
qua các nhà trung gian thương mại ví dụ hãng General Motors nhà sản xuất ôtô
hàng đầu thế giới bán ô tô của mình thông qua 18 ngàn đại lý độc lập trải khắp thế
giới. Nhận thức được vai trò quan trọng của ngành ĐLTM, việc bắt tay thành lập
nên Liên minh quốc tế của những người đại diện và môi giới thương mại (IUCAB –
Internationally United Commercial Agents and Brokers) khẳng định ảnh hưởng của
ĐLTM trong sự phát triển trong nền kinh tế. Hiện nay, IUCAB đại diện cho gần
470.000 ĐLTM (là thành viên của 20 hiệp hội đại diện thương mại quốc gia) ở một
số nước châu Âu, Bắc và Nam Mỹ [18, tr 49].
Thứ ba, hoạt động ĐLTM tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng, nhất là
người tiêu dùng ở những nơi có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn tiếp cận được với
hàng hoá và dịch vụ một cách tốt nhất.
Trước khi ĐLTM ra đời, khách hàng muốn mua hàng hoá chính hãng phải đến
đúng địa điểm kinh doanh của thương nhân nên chi phí phải bỏ ra cho hàng hoá
tăng cao. Từ khi ĐLTM xuất hiện, khách hàng có thể dễ dàng tiếp cận với hàng hoá
chính hãng qua mạng lưới đại lý ở tỉnh, địa phương của mình. Khách hàng có cơ hội

13


được sử dụng hàng hoá, dịch vụ chất lượng chính hãng với giá cả và hậu mãi tốt từ
các đại lý.
1.2 . Bản chất pháp lí của hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
Hoạt động đại lý mua bán hàng hóa được thực hiện trên cơ sở HĐ đại lý mua
bán hàng hóa, hay nói cách khác, HĐ đại lý mua bán hàng hóa là công cụ pháp lý để
thực hiện hoạt động đại lý mua bán hàng hóa. LTM 2005 không đưa ra khái niệm
đại lý mua bán hàng hóa, cũng như khái niệm HĐ đại lý mua bán hàng hóa mà chỉ

quy định khái niệm ĐLTM nói chung tại Điều 166: “ĐLTM là hoạt động thương
mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh
chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên
giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao”. Theo quy định tại Điều 385 BLDS
2015 thì HĐ là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự. Từ các định nghĩa trên có thể đưa ra khái niệm HĐ đại lý
mua bán hàng hóa như sau:
“HĐ đại lý mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên, trong đó một
bên (bên đại lý) nhân danh chính mình để thực hiện việc mua, bán hàng hóa cho
bên kia (bên giao đại lý) để hưởng thù lao”
HĐ đại lý mua bán hàng hóa có các đặc điểm pháp lý sau:
Thứ nhất, Chủ thể của HĐ đại lý mua bán hàng hóa phải là các thương nhân.
Điều 167, LTM 2005 quy định: “Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng
hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua. Bên đại lý là thương
nhân nhận hàng hoá để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lý mua”.
Như vậy, trong quan hệ đại lý mua bán hàng hóa, bên đại lý và bên giao đại lý đều
phải là thương nhân. Bên giao đại lý là thương nhân chuyên kinh doanh hoạt động
mua, bán hàng hóa, giao hàng hóa cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý
mua. Bên đại lý cũng phải là thương nhân có ngành nghề kinh doanh phù hợp với
loại hàng hóa nhận đại lý

14


Thứ hai, bên đại lý phải dùng chính danh nghĩa của mình để thực hiện việc
mua bán hàng hóa cho bên giao đại lý. Đây là một đặc điểm quan trọng của HĐ đại
lý, cho phép phân biệt HĐ đại lý với HĐ đại diện cho thương nhân.
Bên đại lý tham gia vào quan hệ mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có
quyền tự do lựa chọn bên thứ ba để giao kết HĐ nhưng không vì lợi ích bản thân
mình mà vì lợi ích của bên giao đại lý. Mục đích mà họ nhằm tới là khoản thù lao

họ nhận được từ bên thuê dịch vụ khi họ hoàn tất công việc của mình. Nghĩa vụ trả
thù lao của bên thuê dịch vụ và quyền được hưởng thù lao của bên thực hiện dịch vụ
là một trong những đặc trưng cơ bản của hoạt động ĐLTM so với giao dịch dân sự
và các giao dịch thương mại khác.
Thứ ba, trong quan hệ HĐ đại lý, bên đại lý không phải là chủ sở hữu đối với
hàng hóa mà chỉ là người được bên giao đại lý ủy thác việc định đoạt hàng hóa mà
thôi. Bên giao đại lý hoàn toàn không chuyển quyền sở hữu hàng hóa (trong trường
hợp đại lý bán) hoặc tiền (trong trường hợp đại lý mua). Cơ sở để bên đại lý bán
hoặc mua hàng hóa cho bên giao đại lý là sự ủy nhiệm quyền mua, bán hàng hóa
của bên giao đại lý. Đặc điểm này làm co HĐ đại lý mua bán hàng hóa hoàn toàn
khác HĐ mua bán hàng hóa, nhất là các HĐ “mua sỉ” để bán lẻ. Đặc trưng nổi bật
nhất của HĐ mua bán hàng hóa là có sự chuyển quyền sở hữu hàng hóa từ người
bán sang cho người mua và kể từ thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hóa, thì rủi
ro xảy ra đối với hàng hóa cũng được chuyển giao từ người bán sang cho người
mua, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Thứ tư, để thực hiện HĐ đại lý, bên đại lý vừa phải thực hiện các hành vi pháp
lý (Giao kết HĐ với khách hàng), vừa phải thực hiện các hành vi thực tế (nhận hàng
hóa từ bên giao đại lý để giao cho người mua trong trường hợp đại lý bán, hoặc
nhận tiền từ bên giao đại lý để thanh toán cho khách hàng; nhận hàng từ khách hàng
để giao cho bên đại lý trong trường hợp đại lý mua bàng). Đặc điểm này giúp phân
biệt HĐ đại lý với HĐ ủy thác mua bán hàng hóa, trong đó, bên được ủy thác chủ
yếu thực hiện các hành vi pháp lý (bên được ủy thác chỉ sử dụng danh nghĩa của

15


mình ký HĐ với khách hàng; còn việc giao hàng, thanh toán có thể được thực hiện
trực tiếp giữa bên ủy thác với khách hàng).
Thứ năm, HĐ đại lý là một dạng HĐ dịch vụ; bên đại lý bán hàng hoặc mua
hàng cho bên giao đại lý để nhận thù lao. Trong quan hệ HĐ đại lý, lợi ích bên đại

lý được hưởng chính là thù lao đại lý mà xét dưới khía cạnh pháp lý thì khoản tiền
này chính là thù lao dịch vụ mà bên giao đại lý phải thanh toán cho bên đại lý do sử
dụng dịch vụ mua bán hàng hóa của bên đại lý.
Những đặc điểm pháp lý được đề cập ở trên có thể cho phép phân biệt HĐ đại
lý mua bán hàng hóa với những HĐ có nội dung tiệm cận, đơn cử HĐ phân phối
hàng hóa. Trong thực tiễn kinh doanh, HĐ đại lý mua bán hàng hóa thường bị nhầm
lẫn với HĐ phân phối hàng hóa (distribution agreements). Rất nhiều trường hợp,
các bên ký kết HĐ với tên gọi là HĐ đại lý mua bán hàng hóa và tự nhận mình là
bên giao đại lý, bên đại lý trong quan hệ với khách hàng, nhưng toàn bộ nội dung lại
là một HĐ phân phối hàng hóa với các quyền và nghĩa vụ của bên giao hàng, bên
phân phối khác hẳn với quyền và nghĩa vụ của bên đại lý và bên giao đại lý. Sự
nhầm lẫn giữa HĐ đại lý mua bán hàng hóa với HĐ phân phối hàng hóa dẫn đến
nhiều vấn đề phức tạp xung quanh việc bảo vệ quyền lợi của chính các bên tham gia
giao kết HĐ. Ví dụ: Vụ việc các Nhà phân phối (Head) của Honda bán sản phẩm
của Honda với giá cao hơn giá công bố của Honda. Khi sản phẩm xe máy của
Honda được các Nhà phân phối đưa ra thị trường với mức giá cao hơn mức giá
Honda khuyến nghị, người tiêu dùng đã có phản ứng gay gắt. Vì người tiêu dùng tin
chắc các Head của Honda chính là các đại lý và họ có trách nhiệm phải bán theo
đúng giá mà hãng Honda công bố. Tuy nhiên, trong HĐ giữa Honda và Head, mặc
dù Honda có đưa ra mức giá nhưng họ quy định đó chỉ là mức giá khuyến nghị - các
Head có thể áp dụng hoặc không áp dụng. Điều đó dẫn tới, khi giải quyết đảm bảo
quyền lợi người tiêu dùng, các cơ quan chức năng đã khó khăn do HĐ giữa Head và
Honda không rõ ràng là HĐ đại lý mua bán hàng hóa hay HĐ phân phối [45]
Nhìn chung, HĐ phân phối hàng hóa được pháp luật rất nhiều quốc gia quy
định với ý nghĩa là một dạng HĐ mua sỉ, bán lẻ nhưng không được đề cập đến trong

16


LTM 2005. HĐ phân phối được hiểu là sự thỏa thuận giữa nhà sản xuất hoặc nhà

cung cấp hàng hóa, theo đó nhà phân phối nhân danh chính mình mua hàng hóa của
người cung cấp để bán lại. Nhà cung cấp hàng hóa có thể chấp thuận chỉ giao hàng
hóa cho duy nhất một nhà phân phối trong một khu vực đại lý xác định. HĐ phân
phối hàng hóa có thể được thực hiện dưới hình thức lời nói hoặc bằng văn bản [41,
pg. 166].
Trong quan hệ HĐ đại lý mua bán hàng hóa, các quyền và nghĩa giữa bên giao
đại lý, bên đại lý với nhau cũng như với khách hàng có sự khác biệt rõ nét với HĐ
phân phối hàng hóa. Việc phân biệt HĐ đại lý mua bán hàng hóa với HĐ phân phối
hàng hóa có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp giữa các bên tham
gia quan hệ HĐ và bảo vệ quyền lợi khách hàng.
Thứ nhất, trong quan hệ đại lý mua bán hàng hóa, bên giao đại lý chỉ giao
hàng hóa cho bên đại lý bán hàng mà không chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên
đại lý (thực chất bên giao đại lý chuyển quyền chiếm hữu hàng hóa cho bên đại lý).
Khi kết giao HĐ với khách hàng, bên đại lý là cầu nối giữa khách hàng với bên giao
đại lý trong việc chuyển quyền sở hữu hàng hóa. Nghĩa là hàng hóa vẫn thuộc sở
hữu của bên giao đại lý, nhưng thay vì trực tiếp quyền sở hữu được chuyển giao tới
bên mua, thì bên đại lý thực hiện việc chuyển giao đó. Xuất phát từ tư cách chủ sở
hữu với hàng hóa vẫn là bên giao đại lý, nên mọi quyền năng của chủ sở hữu và
những rủi ro đối với hàng hóa đều thuộc trách nhiệm của bên giao đại lý (trừ trường
hợp hàng hóa hư hỏng do lỗi của bên đại lý).
Ngược lại, trong quan hệ HĐ phân phối hàng hóa, nhà sản xuất, cung ứng
hàng hóa có trách nhiệm chuyển quyền sở hữu hàng hóa của mình cho nhà phân
phối để nhận tiền. Nhà phân phối hàng hóa mua hàng hóa với tư cách là khách hàng
để bán lại cho người tiêu dùng. Sau khi thực hiện việc mua bán, số hàng hóa đó sẽ
thuộc quyền sở hữu của nhà phân phối và được toàn quyền định đoạt số phân của
hàng hóa cũng như gánh chịu mọi rủi ro và trách nhiệm với người tiêu dùng.
Thứ hai, trong quan hệ đại lý mua bán hàng hóa, bên giao đại lý có quyền ấn
định giá bán hàng hóa và bên đại lý bán hàng hóa có nghĩa vụ phải bán hàng theo

17



đúng giá mà bên giao đại lý đã ấn định. Nhưng trong quan hệ HĐ phân phối hàng
hóa, thì nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa không được quyền ấn định giá bán. Nhà
phân phối là chủ sở hữu hàng hóa, có quyền bán lại hàng hóa cho khách hàng với
mức giá không thuộc ý chí của nhà sản xuất.
Thứ ba, quan hệ phân phối hàng hóa với tính chất là một quan hệ “mua đứt,
bán đoạn”, nhà phân phối không có trách nhiệm phải tuân thủ những chỉ dẫn của
nhà cung cấp liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa cho khách hàng của mình.
Nhưng trong quan hệ đại lý mua bán hàng hóa, bên đại lý có trách nhiệm phải tuân
thủ những chỉ dẫn của bên giao đại lý khi thực hiện hoạt động đại lý.
1.2.2 Một số nguyên tắc cơ bản của hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
HĐ đại lý mua bán hàng hóa về bản chất cũng là một HĐ dân sự, chính vì vậy,
những nguyên tắc của HĐ dân sự cũng mang tính chỉ đạo đối với HĐ đại lý mua
bán hàng hóa.
Thứ nhất, Nguyên tắc tự do, tự nguyện và bình đẳng, không vi phạm điều cấm
của luật, không vi phạm trật tự công cộng, không trái đạo đức xã hội
Nguyên tắc tự do, tự nguyện và bình đẳng mà đặc biệt là nguyên tắc tự do HĐ
được coi là những tư tưởng chủ đạo có tính bắt buộc chung đối với các chủ thể tham
gia quan hệ HĐ. Mỗi nguyên tắc đều có giá trị riêng song chúng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Ví dụ để xem xét, nhận định quan hệ HĐ có tuân thủ nguyên tắc
tự do HĐ hay không thì trước hết ta phải nhận biết trong quan hệ đó các chủ thể có
sự phân biệt đối xử, có sử dụng hành vi đe dọa khi giao kết HĐ hay không (nguyên
tắc bình đẳng). Hay khi tiến hành giao kết HĐ, các bên có thông báo cho nhau biết
về thực trạng của đối tượng giao kết hay không (nguyên tắc thiện chí, trung thực).
Ngược lại, để xác định nguyên tắc thiện chí trung thực thì ta phải xem xét khi tiến
hành giao kết HĐ, các bên có hoàn toàn tự do về ý chí và bày tỏ ý chí hay không.
Có thể nói nguyên tắc tự do HĐ là tiền đề cho việc thực hiện các nguyên tắc khác.
Nội dung của nhóm nguyên tắc đầu tiên này thể hiện ở HĐ đại lý mua bán hàng hóa
là sự tự do ý chí trong đàm phán HĐ, tự do trong lựa chọn đôi tác, tự do trong việc

thỏa thuận giữa các bên về nội dung của HĐ về công việc mua bán hàng hóa, cung

18


ứng dịch vụ được ủy quyền, tự do thỏa thuận để thay đổi, đình chỉ hay hủy bỏ HĐ
trong quá trình thực hiện HĐ.
Mặt khác, không vi phạm điều cấm của luật, không vi phạm trật tự công cộng,
không trái đạo đức xã hội là nội dung của nguyên tắc bao gồm các quyền tự do như:
tự do quyết định có tham gia hay không tham gia giao kết hợp đồng, tự do lựa chọn
loại hợp đồng sẽ giao kết (dù cho pháp luật có quy định loại hợp đồng này hay
không), tự do lựa chọn đối tác giao kết của mình nhưng phải tuân thủ quy định của
pháp luật (có một số hợp đồng bị hạn chế đối tác giao kết), tự do ấn định và thỏa
thuận nội dung cũng như các điều kiện của hợp đồng với điều kiện là hợp đồng
không tồn tại một phần hay toàn bộ nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm
của luật và đạo đức xã hội, tự do lựa chọn hình thức giao kết hợp đồng (bằng lời
nói, bằng văn bản hay hành vi, tuy nhiên có một số loại hợp đồng bắt buộc phải
được lập thành văn bản theo quy định của pháp luật).
Thứ hai, Nguyên tắc thiện chí, trung thực
Nội dung của nguyên tắc thể hiện việc giao kết và thực hiện HĐ trên tinh thần
hợp tác, tương trợ, hướng tới sự cùng tồn tại, cùng phát triển. Không thể có sự thiện
chí, trung thực khi có dấu hiệu lừa dối ở bất kỳ giai đoạn nào của HĐ.
Thứ ba, Nguyên tắc đảm bảo cam kết
Nội dung của các thỏa thuận trong HĐ đại lý mua bán hàng hóa là kết quả của
sự tự do, tự nguyện và bình đẳng giữa các bên. Các điều khoản trong HĐ là kết quả
cuối cùng của sự độc lập về ý chí. Các bên tự đảm bảo rằng lựa chọn đó được quyết
định trong hoàn cảnh mà sự tự do ý chí được thể hiện đầy đủ. Các bên tự chịu trách
nhiệm về sự lựa chọn đó. Khi các bên đã thống nhất các điều khoản trong HĐ, thì
nó có giá trị ràng buộc các bên. Cam kết HĐ cần được tôn trọng nhằm tránh thiệt
hại cho các bên khi thực hiện thỏa thuận đó.

Thứ tư, Nguyên tắc không xâm phạm đến lợi ích hợp pháp khác
Đây là nguyên tắc quan trọng nhằm bảo vệ các lợi ích công cộng khi các bên
giao kết và thực hiện HĐ. HĐ là kết quả cuối cùng của tự do ý chí, tuy nhiên trong
mối liên hệ xã hội, không có hoạt động nào mà không có ảnh hưởng nhất định tới

19


các mối quan hệ xã hội khác theo các trực tiếp hoặc gián tiếp. Do đó, việc giao kết
HĐ và thực hiện HĐ của các bên không được xâm phạm đến lợi ích của cá nhân, lợi
ích của xã hội và lợi ích Nhà nước.
Thứ tư, Nguyên tắc tôn trọng tập quán trong lĩnh vực đại lý mua bán hàng hóa.
Tập quán là một loại quy phạm xã hội tồn tại song hành cùng nhiều loại quy
phạm xã hội khác như pháp luật, đạo đức, tín điều tôn giáo… nhằm điều chỉnh hành
vi ứng xử của con người trong các quan hệ xã hội. Với tư cách là một loại quy phạm
xã hội, tập quán luôn đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ dân
sự nói chung và quan hệ thương mại nói riêng. Trong LTM 2005 cũng đã ghi nhận
khái niệm về Tập quán thương mại. Theo đó, tập quán thương mại là thói quen
được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một
lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền
và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Như vậy, khi tham gia quan
hệ đại lý mua bán hàng hóa, là một hoạt động thương mại, các thương nhân không
chỉ dựa vào nguồn pháp luật thành văn, mà còn phải chú trọng đến các tập quán
thương mại để hoạt động đại lý mua bán hàng hóa phù hợp với yêu cầu ở từng khu
vực địa lý khác nhau.
1.2.3 Phân loại hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
HĐ đại lý mua bán hàng hóa rất phong phú, đa dạng trong thực tế. Về mặt
khoa học, người ta có thể chia HĐ đại lý thành những loại khác nhau, dựa trên
những tiêu chí khác nhau như:
 Căn cứ vào nội dung HĐ mà bên giao đại lý giao cho bên đại lý thực hiện

mà chia thành đại lý mua hàng và đại lý bán hàng.
Đại lý mua hàng là hình thức đại lý trong đó bên đại lý nhận tiền của bên giao
đại lý để mua hàng cho bên giao đại lý. Đại lý bán hàng là hình thức đại lý trong đó
bên đại lý nhận hàng của bên giao đại lý để bán.
 Căn cứ vào phương pháp quy định giá mua, giá bán hàng hóa đại lý và cách
tính thù lao đại lý mà chi thành đại lý hoa hồng và đại lý bao tiêu.

20


×