VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THANH TÂM
NGHĨA VỤ THU THẬP, CUNG CẤP, GIAO NỘP
CHÚNG CỨ CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO BỘ LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2017
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Đình Hảo
Phản biện 1: TS. Đặng Vũ Huân
Phản biện 2: TS. Lê Đình Nghị
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam 10 giờ 00 ngày 13
tháng 10 năm 2017
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tranh chấp dân sự là những tranh chấp xảy ra giữa các chủ
thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự về các quan hệ nhân thân
và tài sản được pháp luật bảo vệ. Các tranh chấp dân sự không thể
hòa giải, thương lượng được với nhau sẽ dẫn đến việc yêu cầu tòa án
giải quyết theo thủ tục TTDS. Khi tranh chấp được giải quyết bằng
con đường tranh tụng tại Tòa án, đòi hỏi các bên đương sự phải bảo
vệ quan điểm, lập luận của mình bằng các biện pháp được pháp luật
thừa nhận, trong đó việc đưa ra chứng cứ nhằm chứng minh yêu cầu
của mình là hợp pháp là một vấn đề rất quan trọng.
Ngày 25 tháng 11 năm 2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Bộ luật tố
tụng dân sự 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Bộ luật có
phạm vi điều chỉnh rất rộng, bao gồm nhiều quan hệ pháp luật tố tụng
thuộc nhiều lĩnh vực như dân sự, hôn nhân, kinh tế, lao động và thi
hành án. Từ khi Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực, mặc dù đã
kế thừa và phát triển các quy định về nghĩa vụ của đương sự về thu
thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ cho Tòa án để phù hợp với mô
hình tố tụng tranh tụng hiện nay, nâng cao vai trò tham gia của các
đương sự trong việc giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, một số điểm dù đã
được quy định song vẫn còn chưa cụ thể, gây khó khăn cho việc áp
dụng trên thực tế và cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn để đảm
bảo tính khả thi của điều luật.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả đã chọn đề tài
“Nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự theo
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” làm đề tài nghiên cứu thạc sĩ với
1
mong muốn góp phần hoàn thiện các vấn đề về lý luận và thực tiễn
đối với vấn đề quan trọng này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp
chứng cứ của đương sự đã được nhiều chuyên gia pháp luật, những
người làm thực tiễn nghiên cứu. Một số bài viết nổi bật như Luận án
“Chế định chứng minh trong TTDS Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Minh Hằng (Luận án tiến sĩ luật học, bảo vệ tại trường Đại học Luật
Hà Nội năm 2007), Luận văn “Nguyên tắc tranh tụng trong TTDS
Việt Nam” của tác giả Trịnh Văn Chung (Luận văn thạc sĩ luật học,
bảo vệ tại Đại học quốc gia Hà Nội năm 2016), Bài viết “Thời hạn
cung cấp chứng cứ của đương sự” của tác giả Bùi Thị Huyền, tạp chí
Luật học số 01/2002, Bài viết “Tập quán – Nguồn luật hay nguồn
chứng cứ” của tác giả Nguyễn Minh Hằng, tạp chí TAND số 9/52004, Bài viết “Một số vấn đề xung quanh vấn đề chứng cứ” của tác
giả Nguyễn Văn Khuê, tạp chí Kiểm sát số 10/2014. Đây là những
bài viết mà các tác giả phân tích về nghĩa vụ thu thập và giao nộp
chứng cứ trong TTDS.
Tuy nhiên, từ sau khi BLTTDS 2015 ra đời, chưa có một
công trình nào nghiên cứu về đề tài nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao
nộp chứng cứ của đương sự một cách toàn diện.
Do vậy, tác giả nghiên cứu đề tài: “Nghĩa vụ thu thập, cung
cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015” là phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay có có ý nghĩa
quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
2
Nghiên cứu đề tài với mục đích làm rõ những vấn đề lý luận
cơ bản về chứng cứ, thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của
đương sự theo BLTTDS 2015 dưới các góc độ:
- Phân tích lý luận nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp
chứng cứ của đương sự trên cơ sở phân tích, so sánh với BLTTDS
2004 (sửa đổi, bổ sung 2011).
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật TTDS 2015 về
nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự.
- Đưa ra những kiến nghị nhằm phát huy hiệu quả áp dụng
nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự, mục
đích hoàn thiện các quy định của BLTTDS về nghĩa vụ thu thập,
cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ những mục đích nêu tại mục 3, nhiệm vụ của luận văn:
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá các quy định của
BLTTDS 2015 nhằm đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản nhất về
nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài được xác định cụ thể là:
- Những quy định của BLTTDS, BLHS, Luật hôn nhân và
gia đình, Luật đất đai…;
- Các quá trình cung cấp, thu thập, giao nộp chứng cứ của
đương sự trong một số vụ án tranh chấp dân sự theo BLTTDS 2015.
Đề tài được thực hiện trong phạm vi chuyên ngành luật kinh tế
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở:
3
- Chương 1: Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin,
quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật khi đưa ra quan điểm về lý luận.
- Chương 2 và Chương 3: Phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; Tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật trong việc phân tích
quy định của pháp luật và đưa ra ý kiến đánh giá.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực, là cơ sở để có cái
nhìn toàn diện hơn, thống nhất hơn về hệ thống pháp luật và thực trạng
pháp luật Việt Nam hiện hành quy định về về nghĩa vụ thu thập, cung
cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự, qua đó phát hiện những vướng
mắc bất cập, sai sót trong quá trình áp dụng pháp luật về về nghĩa vụ thu
thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự vào thực tiễn xét xử
các vụ án tranh chấp về dân sự nói chung, trên cơ sở đó đề cập những
kiến nghị hoàn thiện pháp luật về về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao
nộp chứng cứ của đương sự để có thể đảm bảo tối đa nhất quyền và lợi
ích của các bên đương sự, đảm bảo vụ án được giải quyết công bằng,
khách quan và đúng pháp luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nghĩa vụ thu thập,
cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự trong pháp luật TTDS.
Chương 2: Thực trạng về nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao
nộp chứng cứ của đương sự theo Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam
2015.
4
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp
chứng cứ của đương sự theo tố tụng dân sự Việt Nam 2015.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHĨA VỤ
THU THẬP, CUNG CẤP, GIAO NỘP CHỨNG CỨ CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Tổng quan về chứng cứ trong pháp luật Tố tụng dân sự
1.1.1.
Khái niệm chứng cứ trong pháp luật TTDS
Chứng cứ có thể hiểu là những gì phản ánh sự thật khách
quan, được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho
Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định. Trong một vụ việc dân sự thường có rất nhiều tình tiết,
sự kiện mà quan hệ pháp luật giữa các bên đương sự phụ thuộc vào
nó. Những tình tiết, sự kiện đó bao gồm các tin tức, dấu vết được thể
hiện dưới những hình thức nhất định do Tòa án sử dụng làm cơ sở để
giải quyết vụ việc dân sự được gọi là chứng cứ.
Bộ luật Tố tụng Dân sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27/5/2004 tại Điều 81 đã
đưa ra quy phạm định nghĩa về khái niệm chứng cứ như sau: “Chứng
cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu
thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án
dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự
là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác
cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
5
Và theo Điều 93 Bộ luật TTDS 2015, chứng cứ trong vụ
việc dân sự là những gì có thật được đương sự các cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập
được trong quá trình tố tụng, từ đó xác định yêu cầu hay phản đối của
đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không.
Như vậy, tác giả đưa ra nhận định chứng cứ trong vụ việc dân
sự là những gì có thật được thu thập theo trình tự do pháp luật tố tụng
dân sự quy định mà TA dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
1.1.2. Đặc điểm chứng cứ trong pháp luật TTDS
Dưới góc độ của Tố tụng dân sự, chứng cứ có ba thuộc tính
cơ bản: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp.
Tính khách quan,
Tính liên quan,
Tính hợp pháp.
1.1.3.
Nguồn chứng cứ trong pháp luật TTDS
Nguồn của chứng cứ được hiểu là nơi chứa đựng chứng cứ.
Theo BLTTDS 2015 hiện hành thì nguồn của chứng cứ bao gồm: tài
liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; vật chứng; lời
khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; kết luận giám định;
biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; kết quả định giá tài sản, thẩm
định giá tài sản; văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người
có chức năng lập; văn bản công chứng, chứng thực; các nguồn khác
do pháp luật quy định.
1.1.4. Phân loại chứng cứ trong pháp luật TTDS
Chứng cứ có thể được phân chia thành nhiều loại dựa trên
nhiều tiêu chí và cách tiếp cận khác nhau. Điều đó có ý nghĩa quan
6
trọng trong việc nghiên cứu, đánh giá độ tin cậy của chứng cứ cũng
như trong việc sử dụng chứng cứ.
+ Dựa vào nguồn chứng cứ được phân loại thành chứng cứ
theo vật và chứng cứ theo người.
+ Dựa vào mức độ liên quan cử chứng cứ với các tình tiết, sự
kiện cần chứng minh trong vụ việc dân sự, chứng cứ được chia thành
chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp.
+ Dựa vào cách thức tạo thành chứng cứ, chứng cứ được chia
thành chứng cứ gốc và chứng cứ sao lại, thuật lại.
+ Dựa vào hình thức thể hiện của chứng cứ, chứng cứ được
chia thành chứng cứ viết và chứng cứ miệng.
1.1.5. Nguyên tắc xác định chứng cứ trong pháp luật Tố
tụng dân sự
Là việc Tòa án công nhận và sử dụng những thông tin, tài
liệu làm căn cứ để giải quyết các vụ việc dân sự. Các thông tin, tình
tiết, sự kiện chỉ được công nhận là chứng cứ khi được cơ quan tiến
hành tố tụng kiểm tra, đánh giá và sử dụng dựa trên quy định tại Điều
95 Bộ luật TTDS 2015 và các văn bản pháp luật khác [13-tr20]
1.1.6. Bảo quản chứng cứ trong pháp luật TTDS
Bảo quản chứng cứ là giữ gìn giá trị chứng minh của chứng
cứ. Việc bảo quản chứng cứ trong tố tụng dân sự được thực hiện theo
Điều 107 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
1.1.7. Bảo vệ chứng cứ trong pháp luật TTDS
Bảo vệ chứng cứ là chống lại các hành vi xâm phạm chứng cứ
để giữ gìn giá trị chứng minh của chứng cứ. Việc bảo vệ chứng cứ được
thực hiện trong trường hợp có hành vi tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy
hoặc sau này khó có thể thu thập được. Tòa án ra quyết định bảo vệ
7
chứng cứ theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết. Trong
trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau
này khó có thể thu thập được thì đương sự có quyền làm đơn đề nghị
Tòa án quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ.
Trong trường hợp người làm chứng bị đe dọa, bị khống chế hoặc bị mua
chuộc để không cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật
thì Tòa án ra quyết định bảo vệc chứng cứ.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao
nộp chứng cứ của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự:
1.2.1. Khái niệm đương sự trong pháp luật TTDS:
Đã có nhiều khái niệm về đương sự được đưa ra như theo
Đại từ điển Tiếng Việt thì “Đương sự là người, là đối tượng trực tiếp
của một việc đang giải quyết”, từ điển từ và ngữ Hán Việt định nghĩa
“đương sự là người có liên quan trực tiếp đến một việc”. Trong khoa
học pháp lý thì đương sự được hiểu “là người có quyền, nghĩa vụ
được giải quyết trong một việc khiếu nại hoặc một vụ án”. Trong lĩnh
vực tố tụng dân sự, “Đương sự trong vụ án dân sự là người tham gia
tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi
ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách”
và được liệt kê cụ thể tại khoản 1, Điều 68 - BLTTDS 2015 “Đương
sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.
1.2.2. Khái niệm thu thập chứng cứ trong pháp luật Tố tụng
dân sự
Về nguyên tắc, khi tham gia tố tụng các đương sự phải có
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là
có căn cứ và hợp pháp, do vậy các đương sự phải có nghĩa vụ thu
8
thập chứng cứ để cung cấp cho Tòa án, Tòa án có trách nhiệm xem
xét các tình tiết của vụ án, căn cứ vào các quy định của pháp luật để
giải quyết theo yêu cầu của đương sự.
Trong nghiên cứu khoa học pháp lý, nhiều tác giả đã đưa ra
khái niệm khác nhau về thu thập chứng cứ nói chung và của đương
sự nói riêng. Theo tác giả Tưởng Duy Lượng thì thu thập chứng cứ là
một hành vi tố tụng của cả đương sự, Viện kiểm sát và Tòa án trong
việc tiếp nhận các tài liệu, chứng cứ do đương sự, cá nhân, cơ quan,
tổ chức cung cấp "Một vài suy nghĩ về vấn đề chứng cứ và chứng minh
được quy định trong BLTTDS" [20].
Khái niệm cung cấp chứng cứ trong pháp luật TTDS
Cung cấp chứng cứ hoạt động tố tụng của các chủ thể tố
tụng trong việc đưa ra cho Tòa án, Viện kiểm sát các chứng cứ của
vụ việc dân sự. Trong tố tụng dân sự, các đương sự, các nhân, cơ
quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có nghĩa vụ cung cấp
cho Tòa án. Ngoài ra, họ cũng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho
Viện kiểm sát khi Viện kiểm sát yêu cầu. Việc cung cấp chứng cứ
được tiến hành ngay từ khi khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự nếu thấy chứng cứ chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ việc
dân sự thì tòa án yêu cầu đương sự cung cấp bổ sung. Tuy pháp luật
không quy định cụ thể thời gian cung cấp chứng cứ nhưng để bảo
đảm giải quyết vụ việc dân sự đúng thời hạn, tòa án vẫn có quyền ấn
định cho đương sự một thời hạn để họ cung cấp chứng cứ.
1.2.3. Khái niệm giao nộp chứng cứ trong pháp luật TTDS
Là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng trong việc đưa
lại cho Tòa án, Viện kiểm sát các chứng cứ của vụ việc dân sự. Trong
tố tụng dân sự, các đương sự, cá nhân, cơ quan tổ chức đang quản lý,
9
lưu giữ chứng cứ có nghĩa vụ giao nộp cho tòa án các chứng cứ.
Ngoài ra họ cũng có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Viện kiểm sát
khi Viện kiểm sát yêu cầu. Việc giao nộp chứng cứ có thể được tiến
hành ngay cả khi khởi kiện và trong cả quá trình Tòa án giải quyết vụ
việc dân sự.
1.2.4. Khái niệm về nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp
chứng cứ của nguyên đơn trong pháp luật TTDS:
Nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương
sự nhằm mục đích chứng minh cho lập luận, yêu cầu của đương sự có
hợp pháp hay không, ngược lại việc chứng minh không được thực
hiện đồng nghĩa với những chứng cứ đương sự đưa ra chưa đầy đủ
hoặc không chính xác. Thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của
đương sự là hoạt dộng của đương sự trong việc tiến hành các biện
pháp pháp lý theo quy định của pháp luật nhằm tập hợp các chứng cứ
liên quan đến vụ việc dân sự, tạo tiền đề cho Tòa án nghiên cứu,
đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ việc dân sự.
Thứ nhất, Thu thập chứng cứ.
Thứ hai, Cung cấp chứng cứ.
Thứ ba, Giao nộp chứng cứ.
1.2.5. Vai trò, ý nghĩa của nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao
nộp chứng cứ của nguyên đơn trong pháp luật TTDS:
Nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của nguyên
đơn có vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng quyết định việc tìm ra sự
thật khách quan của vụ án dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự. Tòa án thông qua việc thu thập các tài liệu, chứng cứ
của đương sự sẽ hiểu rõ được bản chất của sự việc dân sự.
10
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ NGHĨA VỤ THU THẬP, CUNG
CẤP, GIAO NỘP CHỨNG CỨ CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO BỘ
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2015
2.1. Quá trình thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của
đương sự trong pháp luật tố tụng Dân sự Việt Nam qua các thời kì
lịch sử
2.1.1.Các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về
nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự
Quá trình thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của
đương sự nhằm chứng minh yêu cầu của mình là hợp pháp. Bằng
cách đi sâu vào phân tích các điều khoản BLTTDS 2015 quy định về
chứng cứ và chứng minh, tác giả sẽ làm sáng tỏ quy định về nghĩa vụ
cung cấp, thu thập, giao nộp chứng cứ của đương sự.
2.1.2. Nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của
đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình và đương sự phản đối yếu cầu của người khác đối với mình
* Nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của
đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình
* Nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của
đương sự phản đối yếu cầu của người khác đối với mình
* Đánh giá: Như vậy có thể thấy, Điều 91 BLTTDS đã có
những bước tiến vợt trội so với các quy định trước đây về nghĩa vụ
chứng minh, theo hướng ngày càng hội nhập sâu vào sự phát triển
chung của luật TTDS quốc tế.
11
Tuy nhiên, việc quy định “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao
nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là
có căn cứ và hợp pháp” (Khoản 1 Điều 91 BLTTDS 2015) chưa thể
hiện hết đầy đủ nghĩa vụ và quyền của đương sự, mặc dù như Khoản
4 Điều 91 BLTTDS 2015 quy định rằng “ Đương sự có nghĩa vụ đưa
ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc
không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo
những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”, bởi lẽ,
chứng minh là một quy trình trọn vẹn được quy định từ Điều 92 đến
điều 110 BLTTDS 2015.
2.1.3. Các tình tiết, sự kiện mà đương sự không cần thu
thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ
Về nguyên tắc, căn cứ Điều 91 BLTTDS 2015 đã quy định,
các đương sự muốn chứng minh cho yêu cầu của mình thì đều phía
chứng minh và muốn chứng minh cho yêu cầu đó thì phải thu thập,
cung cấp, giao nộp các chứng cứ để Tòa án xem xét đưa ra bản án,
quyết định. Tuy nhiên BLTTDS 2015 cũng như BLDS trước đây có
quy định về những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, nghĩa là
đương sự không cần thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ, được ghi
nhận tại Điều 92 BLTTDS 2015.
2.1.4. Nguồn chứng cứ do đương sự thu thập, cung cấp,
giao nộp và cách xác định chứng cứ
Ngoài 8 nguồn chứng cứ quy định tại Điều 82 BLTTDS sửa
đổi năm 2011, BLTTDS 2015 bổ sung thêm các nguồn sau: Dữ liệu
điện tử, Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức
năng lập; Văn bản công chứng, chứng thực.
12
Nguồn của chứng cứ: được BLTTDS 2015 quy định tại Điều 94:
“Điều 94. Nguồn chứng cứ
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
4. Lời khai của người làm chứng.
5. Kết luận giám định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
7. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
8. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức
năng lập.
9. Văn bản công chứng, chứng thực.
10. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định”
Trên cơ sở Điều 82 BLTTDS 2004, sửa đổi 2011, Điều 94
BLTTDS 2015 đã bổ sung khoản 1, khoản 8 và khoản 9.
2.1.5. Cách xác định chứng cứ của đương sự Luật TTDS
cũng quy định một cách rõ ràng về cách xác định chứng cứ tại
Điều 95 BLTTDS 2015
“Điều 95. Xác định chứng cứ
1. Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là
bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc
do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
2. Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu
được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó
về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có
xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của
13
tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình
đó.
3. Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức
trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện
báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật
về giao dịch điện tử.
4. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến
vụ việc.
5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được
coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm,
băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh
theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
6. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám
định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
7. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng
cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật
quy định.
8. Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản
được coi là chứng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành
theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
9. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có
chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi
nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do
pháp luật quy định.
10. Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ
nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục
do pháp luật quy định.
14
11. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định
là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.”
2.1.6. Giao nộp tài liệu, chứng cứ
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự của tòa án, đương sự
có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho tòa án. Cụ thể:
Thứ nhất, Xuất phát từ nguyên tắc “Quyền quyết định và tự
định đoạt của đương sự” (Điều 5 BLTTDS 2015), quyền và nghĩa vụ
(Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” (Điều 6
BLTTDS 2015), Điều 95 BLTTDS 2015 quy định về “Giao nộp tài
liệu, chứng cứ” với mục đích giúp Tòa án thu thập đầy đủ các tài liệu
chứng cứ của các đương dự để xem xét và giải quyết đúng đắn vụ án.
Thứ hai, Đương sự thực hiện nghĩa vụ thu thập, cung cấp,
giao nộp chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, “chứng cứ đã được giao
nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu
cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ”.
Thứ ba, Một bổ sung so với BLTTDS 2004 “hoặc giao nộp
không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do
chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã
giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật
này để giải quyết vụ việc dân sự, đây là một bổ sung có ý nghĩa rất
lớn, bởi trong nhiều trường hợp đương sự không thể giao nộp được
chứng cứ cho Tòa án do không nắm giữ chứng cứ, trong trường hợp
này đương sự có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài
liệu, chứng cứ và yêu cầu Tòa án thu thập theo các quy định của Điều
106, BLTTDS 2015.
Thứ tư, phương thức giao nộp chứng cứ, Chứ được giao nộp
dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp, cách thức giao nộp chứng cứ
15
phải được tuân thủ theo đúng quy định của BLTTDS 2015 để đảm
bảo tính chính xác, trung thực, khách quan, bảo vệ chứng cứ. So với
BLTTD 2004, quy định về cách thức giao nộp tài liệu không có gì
khác. Tuy nhiên có những trường hợp việc giao nộp chứng cứ được
thực hiện dưới hình thức gián tiếp (ví dụ gửi qua đường bưu điện),
mặc dù điều luật không quy định nhưng cách thức giao nộp vẫn tuân
thủ quy trình trên và được chấp nhận là giao nộp chứng cứ hợp pháp.
Thứ năm, Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ và trách
nhiệm của đương sự phải sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự
khác khi giao nộp tài liệu chứng cứ cho tòa án được quy định tại
Khoản 4 và khoản 5 Điều 96 BLTTDS 2015 là hai khoản mới. Thời
hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ cho thẩm phán được phân công giải
quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị
xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự
theo quy định của BLTTDS 2015. Nếu sau khi quyết định đưa vụ án
ra xét xử cấp sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết vụ việc
dân sự, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa
án yêu cầu giao nộp trước đó mà đương sự không giao nộp được vì
có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc
chậm nộp tài liệu, chứng cứ đó.
Thứ sáu, Nhằm đảm bảo cho các đương sự có cơ hội ngang
nhau tiếp cận tất cả các tài liệu, chứng cứ do các bên và những người
tham gia tố tụng khác nhau cung cấp, BLTTDS 2015 quy định, khi
đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho tòa án thì họ phải sao gửi
tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp
pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ có liên quan đến
bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục dân tộc, bí mật gia đình, bí mật
16
nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân hoặc tài liệu, chứng
cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho
đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác
“Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao
gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp
pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại
khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể
sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác
hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác.” (Khoản 5 Điều
96 BLTTDS 2015)
2.1.7. Xác minh, thu thập chứng cứ
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 mở rộng thêm về chủ thể
xác minh, thu thập chứng cứ cũng từ đó là các nguồn chứng cứ khác
nhau, tạo tiền đề Tòa án xem xét vụ việc một cách toàn diện. Khoản
1, Điều 97 xác minh, thu thập chứng cứ:
“Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình thu thập tài
liệu, chứng cứ bằng những biện pháp sau đây:
a) Thu thập tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; thông
điệp dữ liệu điện tử;
b) Thu thập vật chứng;
c) Xác định người làm chứng và lấy xác nhận của người làm chứng;
d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc
cung cấp những tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ việc mà
cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý;
đ) Yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực chữ ký của người
làm chứng;
17
e) Yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự
không thể thu thập tài liệu, chứng cứ;
g) Yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định, định giá
tài sản;
h) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện công việc
khác theo quy định của pháp luật.”
2.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự 2015 về nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ
của đương sự
2.2.1.Những kết quả đạt được trong việc thực hiện nghĩa
vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự
Nguyên tắc chứng minh trong TTDS là nguyên tắc xuyên
suốt, bao trùm quá trình TTDS. Nếu Bộ luật dân sự là luật nội dung,
quy định những quyền và nghĩa vụ của con người trong lĩnh vực dân
sự, thì BLTTDS là luật hình thức điều chỉnh tranh chấp phát sinh liên
quan đến nội dung. Trong đó tầm quan trọng của nguyên tắc chứng
minh là vô cùng quan trọng và nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp
chứng cứ của đương sự là một nghĩa vụ có tầm ảnh hưởng lớn đến cả
quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Theo Báo cáo tổng kết của TAND tối cáo năm 2015, TAND
các cấp thụ lý 333.159 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 308.585 vụ việc,
đạt 92,6% (so với cùng kỳ năm trước số thụ lý tăng 12.172 vụ, giải
quyết tang 14.123 vụ). Trong đó, giải quyết, xét xử thủ tục sơ thẩm
294.555 vụ việc; theo thủ tục phúc thẩm 13.203 vụ việc và theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm 827 vụ việc. tỷ lệ các bản án, quyết định bị
hủy là 0,83% (do nguyên nhân chủ quan 0,71% và do nguyên nhân
khách quan là 0,12%), bị sửa là 1,4% (do nguyên nhân chủ quan là
18
0,9% và do nguyên nhân khách quan là 0,5%). Tỷ lệ các bản án, quyết
định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là 4,68% (giảm
0,32%); tỷ lệ kháng nghị giám đốc thẩm là 0,28% (giảm 0,12%), tỷ lệ
các bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ quan giảm 0,19% và bị sửa do
lỗi chủ quan giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong công tác giải
quyết, xét xử các VVDS, các TAND đã quan tâm khắc phục có hiệu
quả việc để các VVDS quá thời hạn giải quyết theo quy định của pháp
luật (chỉ còn 116 vụ quá hạn do lỗi chủ quan, chiếm tỷ lệ 0,03%, giảm
0,01% so với cùng kỳ năm 2014) [2-tr5].
2.2.2. Những hạn chế, tồn tại khi thực hiện nghĩa vụ thu
thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự và nguyên nhân
của những hạn chế
Trong quá trình giải quyết các vụ án, nhiều vụ án bị tạm đình
chỉ vì gặp khó khan trong hoạt động chứng minh mà chủ yếu là do
thu thập chứng cứ. Nhiều bản án bị kháng cáo, bị sửa, bị hủy án do
đương sự xuất trình chính cứ mới chiếm số lượng khác lớn. Trong
công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án dân sự, một số vụ án bị
kéo dài do các cơ quan, tổ chức chưa phối hợp chặt chẽ với Tòa án,
thậm chí chưa làm hết trách nhiệm của mình theo quy định của
pháp luật tong việc cung cấp dầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng cứ
theo yêu cầu của Tòa án, giám định, tham gia định giá tài sản, thực
hiện ủy thác tư pháp.
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ THU
THẬP, CUNG CẤP, GIAO NỘP CHỨNG CỨ CỦA ĐƯƠNG SỰ
THEO TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 2015
19
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ
thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự theo Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015
3.1.1. Sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
Thứ nhất, Khái niệm chứng cứ tại Điều 93 BLTTDS 2015:
Việc quy định khái niệm chứng cứ trong BLTTDS hiện nay
vẫn còn gây tranh cãi. Cụm từ “những gì có thật” quá trừu tượng, khó
xác định nghĩa, bởi vậy nên có quy định rõ ràng, chi tiết bằng cách
giải thích bằng cụm từ cụ thể trong điều luật hoặc giải thích bởi các
văn bản dưới luật
Thứ hai, Phân biệt tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi
ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm với tài liệu, chứng cứ
hiện có thể chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện
bị xâm phạm.
Thứ ba, Sửa đổi điều 93 BLTTDS 2015 về nguồn của chứng cứ:
Thứ tư, Bổ sung quy định về hậu quả pháp lý đối với việc
đương sự vi phạm nghĩa vụ gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác.
Khoản 3 Điều 197 BLTTDS 2015 quy định: “Trường hợp
nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án hỗ trợ trong việc gửi tài liệu,
chứng cứ thì kèm theo thông báo về việc thụ lý vụ án. Toà án gửi cho
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bản sao tài liệu,
chứng cứ do nguyên đơn cung cấp”. Điều ngày đồng nghĩa với việc
nguyên đơn không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ gửi tài liệu, chứng
cứ cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, mà nguyên
nhân có thể dẫn tới tình trạng này rất nhiều, trong đó nguyên nhân sự
trốn tránh của đương sự được nhận tài liệu, chứng cứ, mà nguyên
nhân này cũng có thể dẫn tới việc dù Tòa án hỗ trợ việc gửi tài liệu,
20
chứng cứ nhưng cũng không thể gửi được tới đương sự khác hay
nguyên đơn không thể gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác và
cũng không yêu cầu Tòa án hỗ trợ thì liệu tài liệu, chứng cứ đó có giá
trị sử dụng tại phiên hòa giải, kiểm tra, giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ không?
Kiến nghị: Nên đưa ra hướng dẫn đặt trách nhiệm đối với
việc không thể gửi tài liệu, chứng cứ. Nhưng trách nhiệm này không
thể là việc phủ định sự tồn tại hay giá trị của tài liệu, chứng cứ đó:
Trường hợp không gửi được tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác là
vì lí do khách quan thì đương sự không phải chịu bất cứ trách nhiệm
nào; Trường hợp không gửi được tài liệu, chứng cứ cho đương sự là
do vì lí do chủ quan từ phía đương sự cung cấp tài liệu, chưng cứ cho
đương sự đó phải chiu một khoản tiền phạt nhất định cho bên đương
sự còn lại. Ngoài ra, nếu nguyên đơn khi khởi kiện không gửi tài liệu,
chứng cứ cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của vụ án có quyền
không thực hiện nghĩa vụ sao gửi tài liệu, chứng cứ của mình đã cung
cấp cho Tòa án tới nguyên đơn đó.
Ngoài ra, nên ấn định hình thức gửi tài liệu, chứng cứ giữa
các đương sự. BLTTDS 2015 quy định việc sao gửi tài liệu, chứng cứ
giữa các đương sự. Tuy nhiên, quy định này mới ở mức sơ khai, chưa
cụ thể. So sánh BLTTDS 2015 của Việt Nam thì quy định về thông
báo các tài liệu, chứng cứ giữa các đương sự còn chưa chặt chẽ trong
khi đó quy định về hoạt động cung cấp chứng cứ để thực hiện nguyên
tắc chứng minh tại BLTTDS Cộng hòa Pháp quy định một cách rõ
ràng mà không mất tính linh hoạt: “Thẩm phán ấn định thời hạn và
21
nếu cần, thì ấn định cả thể thức trao đổi giấy tờ, tài liệu;trường hợp
vi phạm có thể bị phạt tiền để cưỡng chế” (Điều 134).
BLTTDS Cộng hòa Pháp đã đưa ra một loạt các quy định về
việc trao đổi giấy tờ, tài liệu giữa các bên đương sự, trong đó: “Bên
đương sự đưa ra một giấy tờ tài liệu nào đó làm căn cứ có nghĩa vụ
phải trao đổi giấy tờ, tài liệu đó cho các bên khác trong cùng vụ kiện.
Việc trao đổi giấy tờ, tài liệu phải được tiến hành ngay…”(Điều 132);
và đối với việc một bên đương sự chưa được cung cấp tài liệu, chứng
cứ mà bên kia thu thập thì “Thẩm phán chuyển hoặt tống đạt cho bị
đơn bản sao đơn khởi kiện và những tài liệu kèm theo làm cơ sở cho
yêu cầu của nguyên đơn…” (khoản 2 Điều 150).
3.1.2. Ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ luật tố
tụng dân sự 2015 về nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng
cứ của đương sự
Thứ nhất, Ban hành văn bản quy định về chế tài cụ thể đối
với việc không cung cấp tài liệu, chứng cứ được lưu giữ bởi bên bị
kiện hoặc các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác
Thông thường, khi xảy ra các vấn đề về việc thực hiện
nguyên tắc chứng minh của đương sự trong hoạt động thu thập tài
liệu, chứng cứ tự bản thân được, với sự tư vấn của người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và hướng dẫn của Tòa án,
đương sự chỉ cần chứng minh được mình đã gửi “yêu cầu” tới địa
chỉ bên lưu giữ tài liệu, chứng cứ cung cấp, nhưng không có người
nhận, hoặc có người nhận nhưng không có văn bản trả lời kể từ thời
điểm yêu cầu tới thời điểm đương sự yêu cầu Tòa thu thập chứng cứ.
Nhưng nếu Tòa án cũng không thể thu thập được, vì dù không thực
hiện đúng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ tài liệu chủ thể lưu giữ chúng
22
cứ sẽ phải “chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Nhưng pháp luật
không hề quy định, họ phải chịu trách nhiệm gì, như thế nào, mức độ
trách nhiệm ra sao, chế tài là gì. Nên chẳng lí do gì, các cá nhân, cơ
quan, tổ chức phải chấp hành nếu việc cung cấp thông tin của vụ án
có thể lộ những thông tin mà phía họ muốn “giữ bí mật” mà việc
không cung cấp cũng không đặt họ trước một hậu quả pháp lý mà họ
cần lo sợ.
Thứ hai, Bổ sung quy định cụ thể hướng dẫn việc thực hiện
nguyên tắc chứng minh đối với trường hợp tòa án không được từ chối
giải quyết vụ án vì lí do không có điều luật để áp dụng.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của
đương sự
Một là, tăng cường công tác giải thích và áp dụng thống nhất
pháp luật, cần tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về các quy
định của Nhà nước, nâng cao dân trí nói chung, nâng cao ý thức pháp
luật nói riêng là định hướng phát triển chiến lược của Đảng và Nhà
nước ta, nhất là trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay.
Hai là, quán triệt nhận thức về ý nghĩa và yêu cầu về nghĩa vụ
thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự thông qua các hình
thức tuyên truyền luật pháp, Việc tổ chức công khai xét xử sẽ giúp cho
người dân nắm thêm về kiến thức pháp luật TTDS nói chung, thực hiện
nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ nói riêng
Ba là, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ
hệ thống Tòa án:
Bốn là, nâng cao chính sách đãi ngộ đối với thẩm phán và
cán bộ Tòa án và xây dựng hệ thống cơ sở vật chất hệ thống Tòa án
23