KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HẢO
ĐỊA ĐIỂM KHẢO CÔ HỌC ĐẦU RẰM
TRONG CÁC MỐI QUAN HỆ VỚI CÁC DI TÍCH
THỜI ĐẠI KIM KHI VÙNG DUYÊN HẢI ĐÔNG BẮC
Chuyên ngành: Khảo cô học
Mã số: 60 22 03 17
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHẢO CÔ HỌC
NGƯỜI HƯƠNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI VĂN LIÊM
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả, số liệu nghiên cứu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố. Các thông tin, tài liệu trình bày trong Luận văn đều được ghi rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày
tháng
Tác giả
Nguyễn Thị Hảo
năm 2017
LỜI CẢM ƠN
Đê hoàn thành Luận văn này, ngoài những nỗ lực của bản thân, tôi đa nhận
được sự giúp đơ nhiệt tình của rất nhiều cá nhân, cơ quan, đoàn thê.
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn be và đồng nghiệp - những
người luôn ơ bên, đông viên và giúp đơ về tư liệu cũng như đông viên tinh thần tôi
trong suốt chặng đường qua.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Lanh đạo Viện Khảo cổ học, Lanh đạo Phòng
Nghiên cứu Khảo cổ học Tiền sử nơi tôi công tác vì đa khuyến khích, đông viên và
tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất đê tôi có thê học tập và hoàn thành khóa học.
Tôi xin cảm ơn Học viện Khoa học xa hôi, Khoa Khảo cổ học, nơi tôi đa học
tập suốt hai năm qua. Các thầy cô đa luôn ủng hô, đông viên và truyền cho tôi
không chi kiến thức mà còn cả kinh nghiệm thực tiễn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tới Sơ Văn hóa – Thê thao và Du lịch tinh
Quảng Ninh, UBND và bà con thôn 3, xa Hoàng Tân, huyện Yên Hưng (nay là xa
Hoàng Tân, Thị xa Quảng Yên), tỉnh Quảng Ninh vì đa tạo điều kiện đê tôi tham gia
khai quật, nghiên cứu tại địa điểm Đầu Rằm.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc tới PGS.TS. Bùi Văn Liêm, người thầy
đa hướng dẫn, động viên, khuyến khích đê tôi có đông lực hoàn thành những nghiên
cứu của mình, trong đó có Luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn,/.
Hà Nội, ngày
tháng
Tác giả
Nguyễn Thị Hảo
năm 2017
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. TÔNG QUAN VỀ DI TICH ĐẦU RĂM..............................................7
1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................................7
1.2. Lịch sử nghiên cứu.........................................................................................10
Chương 2. ĐẶC TRƯNG DI TICH VÀ DI VẬT CỦA DI TICH ĐẦU RẰM ..17
2.1. Đặc trưng di tích.............................................................................................17
2.2. Đặc trưng di vật..............................................................................................23
Chương 3. VỊ TRI ĐẦU RĂM TRONG CÁC MỐI QUAN HỆ ........................59
3.1. Đặc điểm di tích Đầu Rằm .............................................................................59
3.2. Di tích Đầu Rằm trong các mối quan hệ ........................................................70
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................81
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC BẢN VẼ ...................................................................................................1
PHỤ LỤC ẢNH .......................................................................................................46
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1.
Ba
Bản ảnh
2.
Bd
Bản dập
3.
Bv
Bản vẽ
4.
BP
Before present (Cách ngày nay)
5.
CN
Công nguyên
6.
Đk
Đường kính
7.
H
Hố
8.
KCH
Khảo cổ học
9.
KHXH
Khoa học xa hôi
10.
L
Lớp
11.
NPHMVKCH
Những phát hiện mới về Khảo cổ học
12.
Nxb
Nhà xuất bản
13.
Tr.
Trang
14.
VKCH
Viện Khảo cổ học
15.
UBND
Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tàí
Đông Bắc Việt Nam là khu vực có vị thế trọng yếu về chính trị, kinh tế, văn hóa
xa hội và an ninh quốc phòng. Về phương diện lịch sử - văn hóa, khu vực này cũng giữ
một vai trò quan trọng, đóng góp vào diễn trình phát triển chung của lịch sử dân tộc
với không gian rộng, thời gian dài và những đặc trưng cơ bản, rất điển hình về lịch
sử - văn hóa. Vì những lý do đó nên nghiên cứu về khu vực Đông Bắc Việt Nam
luôn là đối tượng - một phần không thê thiếu trong các nghiên cứu của khoa học cơ
bản.
Di tích khảo cổ học Đầu Rằm phân bố trên đảo/bán đảo Hoàng Tân, thuộc xa
Hoàng Tân, thị xa Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Từ những phát hiện, nghiên cứu bước
đầu giúp chúng ta nhận diện Đầu Rằm là di tích rất quan trọng thời đại Kim khí trong
buổi đầu dựng nước ơ vùng duyên hải Đông Bắc. Tuy nhiên, khi nhắc đến thời kỳ
Tiền -sơ sử ơ khu vực này, các nhà nghiên cứu thường hay nhấn mạnh tới văn hóa
Hạ Long, một nền văn hóa khảo cổ nổi tiếng thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá mới, mà
ít có những nghiên cứu chuyên sâu về giai đoạn sơ kỳ Kim khí. Nghiên cứu di tích
Đầu Rằm sẽ cho chúng ta thấy, đó là minh chứng rõ ràng cho sự tồn tại và phát triển
của các nhóm cư dân cổ vùng duyên hải Đông Bắc Việt Nam, có các mối quan hệ
đồng đại cũng như lịch đại với hàng loạt các di tích khác ơ vùng Quảng Ninh, Hải
Phòng và các vùng phụ cận, tạo nên một nét văn hóa đặc trưng xung quanh khu vực
vịnh Hạ Long giai đoạn từ Hậu kỳ Đá mới sang Sơ kỳ Kim khí đến Kim khí.
Từ khi di tích Đầu Rằm đa được phát hiện và khai quật nhiều lần, có nhiều ý
kiến
về các vấn đề xung quanh di tích nhưng chưa có một chuyên khảo nào tổng hợp, tổng
kết
những kết quả đó. Hơn nữa, hiện còn nhiều ý kiến khác nhau thậm chí trái chiều nhau
về
di tích Đầu Rằm, rằng di tích (lớp sớm) thuộc văn hóa Phùng Nguyên, chính là phần
lan
tỏa của văn hóa Phùng Nguyên ra biển, song có người lại cho rằng Đầu Rằm cùng với
Tràng Kênh và Hang Bồ Chuyến là một hệ thống khác, ngoài Phùng Nguyên. Vì
thế, nghiên cứu chuyên sâu về di tích này không chi cho chúng ta hình dung ra bức
tranh tổng thê về đời sống kinh tế vật chất, văn hóa tinh thần và các mối quan hệ của
nó trong, ngoài
1
khu vực của cư dân cổ nơi đây, giúp chúng ta đánh giá khách quan, khoa học hơn về
thời
tiền - sơ sử ơ khu vực Đông Bắc Việt Nam.
Hiện tại, di tích Đầu Rằm đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại nghiêm trọng
trọng, do các hoạt động khai thác đá núi làm vật liệu xây dựng và các hình thức mưu
sinh
khác của dân cư địa phương như trồng trọt, xây dựng, giao thông nhỏ... trên di
tích. Chúng ta rất cần những công trình nghiên cứu khoa học đánh giá đúng giá trị
của di tích Đầu Rằm góp phần tuyên truyền bảo vệ di tích đê có thê phát huy giá trị
của di tích Đầu Rằm, góp phần phát triển đồng bô kinh tế, văn hóa, du lịch và quốc
phòng an ninh trong khu vực.
Đó là những lý do tôi chọn đề tài "Địa điểm khảo cổ học Đầu Rằm trong
các mối quan hệ với các di tích thời đại Kim khí vùng duyên hải Đông Bắc" cho
Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Công trình nghiên cứu ngoài nước về địa điểm Đầu Rằm
Từ trước tới nay, chưa có công trình nghiên cứu nào của các học giả nước
ngoài về địa điểm này.
Thành tựu trong phát hiện, nghiên cứu di tích Đầu Rằm thuộc về các nhà khảo
cổ học, sử học và văn hóa học Việt Nam.
2.2. Công trình nghiên cứu trong nước về địa điểm Đầu Rằm:
Cho đến nay, di tích Đầu Rằm đa có khá nhiều người quan tâm và nghiên
cứu, với nhiều công trình có giá trị.
Di tích Đầu Rằm được phát hiện lần đầu vào năm 1970, do người dân địa
phương tìm được một số rìu bôn bằng đá và hiện vật đồ đồng, đồ gốm. Năm 1988,
nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hảo đa khảo sát và cho nhận định “Di chi Hoàng
Tân (Đầu Rằm) thuộc văn hóa Hạ Long” [17, tr.30 - 31]. Năm 1997, Bảo tàng tỉnh
Quảng Ninh và Viện Khảo cổ học đa điều tra, khảo sát khu vực này và cho rằng, có
dấu tích cư trú của cư dân thời đại Kim khí giai đoạn sớm ơ đây [11, tr. 250 - 252].
Cũng trong năm đó, Viện Khảo cổ học và Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh khảo sát tiếp di
tích này và phát hiện vết cư trú trên vùng trũng yên ngựa trên núi Đầu Rằm nho và
cho rằng, có thê có hai lớp cư trú sớm
2
muộn ơ đây. Đến đầu năm 1998, di tích lại được khảo sát một lần nữa và xác nhận có
sự
tồn tại của “loại hình biển của văn hóa Đông Sơn nổi tiếng” [29,tr. 182 - 184].
Di tích Đầu Rằm được khai quật ba lần (5/1998; 9/2005 và 9/2009) do Viện
Khảo
cổ học phối hợp với Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh và Sơ Văn hóa, Thê thao và Du lịch tỉnh
Quảng Ninh thực hiện.
Các kết quả khảo sát, thăm dò, khai quật ơ di tích này đều được công bố trên Tạp
chí “Khảo cổ học” và “Những phát hiện mới về khảo cổ học” các năm và các báo cáo
khai quật. Báo cáo khai quật năm 2009 về di tích Đầu Rằm được coi là khá toàn diện,
tuy
nhiên, chưa có một công trình nào tổng hợp các nghiên cứu đó và có những đánh giá
toàn diện về di tích.
Hơn nữa, các công trình mới chi dừng lại ơ các yếu tố truyền thống, còn thiếu hụt
những cập nhật mới, như những biến đổi của môi trường ảnh hưởng lên cuộc sống
của cư dân cổ, giải thích các hiện tượng về di tích, di vật hay nghiên cứu
cụ thể về vị trí của di tích Đầu Rằm trong bối cảnh thời đại Kim khí ơ khu vực duyên
hải
Đông
Bắc
Việt
Nam…
Vì
vậy, giải quyết
“khoảng trống” nêu trên là nhiệm vụ đặt ra đối với Luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: có cái nhìn tổng thê về di tích Đầu Rằm qua các
cuộc khảo sát và khai quật khảo cổ học, tìm ra nét đặc trưng của di tích và vị trí của
nó với các di tích trong và ngoài khu vực.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tập hợp tài liệu, hệ thống lại các di tích, di vật của di tích Đầu Rằm đa
được phát hiện qua các giai đoạn.
- Phân tích, đánh giá các di tích, di vật đê chi ra đặc trưng của di tích.
- So sánh di tích Đầu Rằm với các di tích thời đại Kim khí ơ vùng duyên
hải Đông Bắc Việt Nam đê tìm hiểu các mối quan hệ văn hóa của chúng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu 4.1. Đối tượng nghiên
cứu
3
Đối tượng chính của đề tài Luận văn này là di tích Đầu Rằm qua các cuộc khảo
sát và khai quật.
Khách thê nghiên cứu của Luận văn là các di tích và di vật ơ dịa điểm Đầu Rằm,
trong đó một số đối tượng được quan tâm đặc biệt như địa tầng, mô táng, đồ đá, đồ
đồng,
đồ gốm…
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian nghiên cứu: Luận văn sẽ nghiên cứu khu vực địa điểm
Đầu
Rằm, xa Hoàng Tân, thị xa Quảng Yên là chính. Từ đó phân tích, so sánh với các di
tích
thời đại Kim khí khác ơ duyên hải Đông Bắc Việt Nam, cụ thê là vùng duyên hải thuộc
địa phận tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung chủ yếu vào thời đại Kim
khí,
có so sánh với một số giai đoạn khác đê tìm hiểu vấn đề lịch đại liên quan đến di tích.
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Đề tài Luận văn tập trung vào các di tích, di vật
của di tích Đầu Rằm và các mối quan hệ của di tích với các di tích thời đại Kim khí
khác
ơ vùng duyên hải Đông Bắc.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
trong nghiên cứu khảo cổ học, đê luận giải các vấn đề về biến đổi kinh tế, xa hội, các
mối giao lưu và hội nhập văn hóa của con người trong tiến trình phát triển của lịch
sử trong phạm vi liên quan đến đề tài.
Dựa vào lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi nghiên cứu về di tích Đầu
Rằm, tác giả coi đây là một thành tố khả biến, tức phải đặt trong bối cảnh lịch sử, có sự
hình thành, phát triển và biến đổi, từ đó làm cơ sơ đê giải thích về những biến đổi,
những
hiện tượng tìm thấy ơ các di tích, di vật dưới tác động của các yếu tố khác nhau.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đê thực hiện đề tài này, tác giả đa sử dụng các phương pháp sau:
4
- Phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khảo cổ học: điền da, khai quật,
thống kê, mô tả, phân loại, so sánh… Đây là phương pháp chính đê tác giả tiếp cận
nghiên cứu di tích.
- Phương pháp nghiên cứu đa ngành, liên ngành: bên cạnh việc điền da thu thập
thông tin, hiện vật từ các địa điểm khảo cổ học, tác giả sẽ sử dụng những nghiên cứu
của các ngành khác như Địa chất, Địa lý - Nhân văn, Dân tộc học, Văn hóa học, Xa
hội học tại địa phương, thu thập những tài liệu, thông tin khác bổ trợ cho việc
nghiên cứu Khảo cổ học.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tác giả sẽ tập hợp những công trình
nghiên cứu về di tích Đầu Rằm từ các nguồn khác nhau như sách, chuyên khảo,
Kỷ yếu Hội nghị... Những nội dung liên quan đến di tích này sẽ là nguồn tài liệu
chính. Ngoài ra, các tài liệu thứ cấp như những nghiên cứu về địa chất, môi trường
hay các địa điểm có mối quan hệ với di tích Đầu Rằm cũng được phân tích làm cơ sơ
đê nghiên cứu, so sánh các di tích trong bối cảnh đồng đại hoặc lịch đại của chúng.
- Một số khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài Luận văn:
+ Tư liệu vật thật (di vật) hiện lưu giữ ơ Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh không đầy
đủ. Bảo tàng hiện chi lưu giữ những hiện vật đặc biệt, như đồ đá, đồ đồng, đồ sắt…
và chi một số ít mảnh gốm. Vì thế, khi tác giả quay trơ lại Bảo tàng đê nghiên cứu thì
không có cơ hội được tiếp cận những di vật đa bị bo đi, đặc biệt là đồ gốm.
+ Một số cuộc khai quật chưa có báo cáo đầy đủ (tiêu biểu là cuộc khai quật
năm 2005). Thông tin về cuộc khai quật này mới chi có ơ một số bài thông báo ngắn
gọn, tản mát. Chưa có những thống kê rõ ràng hay rất ít hình ảnh được công bố. Vì
vậy, những hình ảnh, bản vẽ, bản dập tác giả sử dụng trong Luận văn chủ yếu từ hai
cuộc khai quật năm 1998 và 2009.
+ Hiện trạng di tích đang dần bị phá hủy, xâm hại do dân địa phương khai
thác đá làm vật liệu xây dựng, ảnh hưởng đến cảnh quan di tích hiện tại cũng như có
một số khó khăn nhất định khi tác giả muốn quay lại nghiên cứu thêm.
+ Dù đa được khảo sát, khai quật nhiều lần nhưng cho đến nay, chưa có một
mẫu than, mẫu đất, mẫu đá, đồng,… nào được phân tích đê xác định niên đại tuyệt
đối, hay
5
cho những bằng chứng về môi trường, kỹ thuật, tư liệu bào tử phấn hoa ơ di tích Đầu
Rằm. Tất cả những đánh giá về di tích này phần lớn dựa vào những so sánh, phân tích,
phân loại loại hình học là chủ yếu .
Tác giả đa cố gắng thu thập tư liệu từ các nguồn khác nhau, tuy nhiên, do những
khó khăn nêu trên Luận văn vẫn còn thiếu nhiều thông tin đê phân tích, so sánh,
đối chiếu, đánh giá một cách toàn diện về di tích Đầu Rằm. Tác giả sẽ cố gắng
hoàn thiện trong những nghiên cứu tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn đóng góp những tư liệu quan trọng về mặt khoa học
về hệ thống di tích, di vật ơ Đầu Rằm, từng bước phục dựng lại đời sống của cư dân cổ
xưa, góp phần bổ sung tư liệu mới cho ngành Khảo cổ học/Văn hóa/Lịch sử.
- Ý nghĩa thực tiễn: hệ thống lại các di tích, di vật đa thu được trong các đợt
điều tra, thám sát, khai quật, đưa ra những đặc trưng của các di tích, di vật đó, xác
định niên đại và thử tìm hiểu các mối quan hệ văn hóa của di tích Đầu Rằm với các
di tích thời đại Kim khí ơ vùng duyên hải Đông Bắc Việt Nam.
Bên cạnh đó, Luận văn cũng là cơ sơ khoa học cho việc định hướng bảo tồn
di tích, phát huy giá trị di sản văn hóa/lịch sử của di tích, làm phong phú thêm cho
lịch sử địa phương, góp phần thúc đẩy việc thu hút du lịch ơ vùng Vịnh Hạ Long.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mơ đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn gồm 3
chương:
Chương 1. Tổng quan về di tích Đầu Rằm
Chương 2. Đặc trưng di tích và di vật của di tích Đầu Rằm
Chương 3. Vị trí Đầu Rằm trong các mối quan hệ
6
Chương 1
TÔNG QUAN VỀ DI TICH ĐẦU RẰM
1.1. Điều kiện tự nhiên
Di tích Đầu Rằm là tên gọi của môt địa điêm khảo cổ học, dựa theo tên gọi
của dãy núi Đầu Rằm, thuôc thôn 3, xa đảo Hoàng Tân, huyện Yên Hưng, tinh
Quảng Ninh (nay thuộc xa Hoàng Tân, thị xa Quảng Yên, tinh Quảng Ninh). Núi
Đầu Rằm vốn là hai ngọn núi thấp, nằm hơi chếch nhau, tạo thành hình cánh cung
nằm ven biên ơ phía tây nam của đảo Hoàng Tân. Phía Nam của dãy núi là vùng
đầm nuôi tôm, phía bắc là vùng đầm và ruông lúa, phía đông là thôn 2 và phía tây là
vùng đầm nuôi tôm nhìn về các xa Tân An, Tiền An và Hà An của thị xa Quảng
Yên. Bao quanh khu di tích là sông Hàm Rồng ơ phía bắc và sông Bến Giang ơ phía
tây nam.
Di tích Đầu Rằm trên đảo Hoàng Tân nằm trong khu vực các đảo ven bờ
thuôc vùng biên Đông Bắc Việt Nam, môt khu vực được cấu trúc chủ yếu là các
rặng núi đá vôi thấp trung bình 100m - 150m. Đảo Hoàng Tân là một trong hàng
ngàn hòn đảo lớn nho tạo nên môt phong cảnh rất đẹp ơ Vịnh Bắc Bô và Vịnh Hạ
Long. Địa thế vùng bờ biên kéo dài từ Móng Cái đến quá Hải Phòng, cùng với sự
phân bố dày đặc của các hòn đảo lớn nho ấy đa tạo thành môt vòng cung đặc sắc
nằm ơ địa đầu vịnh Bắc Bô. Với vị thế quan trọng ấy, vùng Đông Bắc nói chung và
vùng duyên hải Đông Bắc nói riêng được coi là môt trong những vùng lanh thổ
“mở” nhất ơ Việt Nam, do là con đường đi lại thường xuyên của các thương nhân
trên con đường thương mại từ cổ đại tới nay, hay cũng chính là con đường đi chủ
yếu của các cánh quân xâm lược phương Bắc trong lịch sử và cùng với đó là những
“chiến khu” của ta [49,tr 374]. Do vậy, đảo Hoàng Tân cũng như khu vực cửa ngõ
địa đầu tổ quốc này rất dễ dàng đón nhận những dòng chảy của sự giao lưu văn hóa.
Là môt trong hơn 2000 hòn đảo lớn nho của tinh Quảng Ninh, đảo Hoàng
Tân nằm vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm đặc trưng cho các tinh miền Bắc nhưng lại
có nét riêng của vùng núi ven biên, có môt mùa hạ nóng ẩm mưa nhiều, môt mùa
7
đông lạnh, khô và ít mưa. Ngoài ra, do tác đông của biên, nên khí hậu của khu vực
này nhìn chung mát mẻ, ấm áp, thuận lợi đối với phát triên nông nghiệp, lâm
nghiệp và nhiều hoạt đông kinh tế khác [4]. Với những điều kiện về tự nhiên như
trên, cư dân trên đảo Hoàng Tân hiện tại chủ yếu làm nông nghiệp, ngư nghiệp và
nuôi trồng thủy hải sản. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung của tỉnh Quảng Ninh,
đời sống của cư dân trên đảo Hoàng Tân vẫn còn khá thấp.
Khi nghiên cứu về môi trường sống của con người thời tiền- sơ sử ơ Việt
Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung, các nhà khảo cổ học và các nhà địa chất
đặc biệt quan tâm đến các pha dao đông mực nước biên trong quá khứ. Sự dao đông
của mực nước biên không chi là sự biến đổi về địa chất mà còn là một yếu tố quan
trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống cũng như các phương thức khai thác kinh tế
của cư dân nơi đây. Sự thay đổi địa hình, địa mạo do hoạt động địa chất này là
nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi nơi cư trú của con người và các sinh vật
sinh sống trong khu vực.
Các nghiên cứu về địa chất đa có những kết quả về sự dao đông của mực
nước biên trong thời Holocene ơ khu vực Hạ Long như sau:
Sau đợt biên tiến Pleistocene muôn, nước biên rút ra xa về phía trung tâm
Vịnh Bắc Bô và dừng ơ đường đẳng sâu 60m dưới mực nước biên hiện nay. Khi đó,
Vịnh Hạ Long và Vịnh Bái Tử Long trơ thành vùng lục địa, chịu ảnh hương của quá
trình xâm thực, rửa trôi của các dòng chảy mặt. Kết quả của quá trình này là địa
hình đá vôi rông lớn của khu vực bị chia cắt thành nhiều khối riêng biệt [49, tr.3].
Sang giai đoạn, đầu Holocen sớm (10.000-8000 năm BP), quá trình biên tiến
Flandrian khiến nước dâng cao, thậm chí nước biên bao phủ cả vùng đồng bằng
sông Hồng [67]. Ở thời điêm mực biển cao cực đại ơ vào khoảng 7.000 năm BP, tốc
đô dâng của mực nước biên vào khoảng 2-4 mm/năm và đến cuối Holocen sớm, tốc
đô dâng của mực nước biên chi còn khoảng 1-2 mm/năm và dần tiệm cận tới 0 [27].
Tại thời điểm khoảng 6000 năm BP, đô cao của mực nước biên đạt tới 3-4 m
trên mực biên trung bình hiện tại. Sau thời điêm này, mực nước biên bắt đầu rút
xuống. Vì thế, thời điêm 6.000 năm BP được nhiều học giả coi là ranh giới giữa
8
Holocene sớm và muôn. Riêng các vùng đá vôi Hạ Long, Ninh Bình, dựa trên
những ngấn nước biên còn lại trên đá vôi, các nhà địa chất đa xác định, thời điểm
5.000-6.000 năm BP, mực nước biên cao hơn hiện tại khoảng 5m-5,5m [27, 67].
Sau giai đoạn này là quá trình hạ thấp mực nước biên hay còn gọi là quá
trình biên lùi (thời kỳ Holocen giữa-muôn). Tuy nhiên, quá trình này lại là môt quá
trình dao đông tắt dần theo hình sin [27]. Đến khoàng thời gian 4500 – 3000 năm
BP, đường bờ biên đa lùi xa về phía biên và dừng lại ơ đô sâu 4-6m thấp hơn so với
mực nước biên hiện nay và cùng với nó là quá trình xâm thực phá hủy địa hình.
Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long lại bị lục địa hóa dẫn đến địa hình đảo đá vôi tiếp
tục bị xâm thực, rửa trôi [49, tr. 4-5]. Thời điêm này cũng được cho là mốc đồng
bằng sông Hồng được mơ rông.
Tiếp theo, nước biên lại dâng cao trong giai đoạn 3000 – 2000 năm BP và
khoảng 2000 năm BP, mực nước biên cao hơn 1.5m so với mực nước biên hiện tại
[27, 49]. Từ 2000 – 1000 năm BP, nước biên lại hạ thấp và từ 1000 năm BP, nước
biên dâng lên dần dần, và đến nay vẫn tiếp tục dâng lên [49, tr. 6].
Khi nghiên cứu những ngấn sóng ơ Vịnh Hạ Long và khu vực Ninh Bình,
trầm tích về thực vật ngập mặn ơ Từ Sơn (Bắc Ninh), và từ những di chi khảo cổ
học có tầng văn hoá chứa nhiều vo sò/hến ơ Đa Bút (Thanh Hóa), nhóm nghiên cứu
của Susumu Tanabe và công sự đa có những khái quát ban đầu về sự dao đông của
mực nước biên ơ Bắc Việt Nam. Theo đó, vào khoảng 8,000–7,000 năm BP, mực
nước biên chạm tới mức hiện nay, sau đó dâng lên 2-3m cao hơn hiện nay vào
khoảng 6,000 - 4,000 năm BP, và mực nước giảm dần và đạt mực nước biên hiện
nay. Quá trình này được chia thành 3 pha: pha I (9-6 cal. kyr BP), pha II (6-4 cal.
Kyr BP), và pha III (4-0 cal. kyr BP). Trong pha I, mực nước biên dâng cao từ thấp
hơn 15m đến cao +3m so với mực nước biên hiện tại với tốc đô 6 mm/năm. Trong
pha II, mực nước biên giữ cân bằng, ổn định. Pha III, mực nước biên bắt đầu hạ
thấp từ cao hơn +3m xuống tới bằng với mực nước biên hiện tại với tốc đô trung
bình là 0.6±0.1 mm/năm [67].
9
Bên cạnh sự dao đông của mực nước biên, những biến đông của thiên nhiên,
ngoài những điều kiện thuận lợi còn có không ít thách thức đối với cư dân vùng
duyên hải như thiên tai (mưa rừng, bao bê). Những tác nhân này không chi tác đông
trực tiếp đến sự phân bố của các di tích khảo cổ học qua các thời kỳ, mà còn ảnh
hưởng đến sự định cư, chuyên cư và phương thức sống của cư dân địa phương. Di
tích Đầu Rằm cũng không tránh khoi quy luật đó.
Rất tiếc, cho đến nay, những nghiên cứu về bào tử phấn hoa trong các di tích
thời đại Kim khí ơ khu vực Vịnh Hạ Long nói chung và khu vực Đầu Rằm nói riêng
hầu như chưa có nên chúng ta chưa có nhiều bằng chứng về thảm thực vật ơ khu
vực này.
1.2. Lịch sử nghiên cứu
Những dấu tích đầu tiên của di tích Đầu Rằm được phát hiện lần đầu vào
năm 1970, do người dân địa phương tìm được một số rìu bôn bằng đá và hiện vật đồ
đồng, đồ gốm. Sau đó, hàng loạt cuôc điều tra, khảo sát đa được tiến hành ơ di tích
này và các nhà nghiên cứu đa có những đánh giá ban đầu khác nhau về di tích. Năm
1988, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hảo đa khảo sát và cho nhận định “Di chi
Hoàng Tân (Đầu Rằm) thuôc văn hóa Hạ Long” [17, tr. 30 - 31]. Năm 1997, Bảo
tàng tinh Quảng Ninh và Viện Khảo cổ học đa điều tra, khảo sát khu vực này và cho
rằng, có dấu tích cư trú của cư dân thời đại Kim khí giai đoạn sớm ơ đây [11, tr. 250 –
252]. Cũng trong năm đó, Viện Khảo cổ học và Bảo tàng tinh Quảng Ninh khảo
sát tiếp di tích này và phát hiện vết cư trú trên vùng trũng yên ngựa trên núi Đầu
Rằm nho và cho rằng, có thê có hai lớp cư trú sớm muôn ơ đây. Đến đầu năm 1998, di
tích lại được khảo sát một lần nữa và xác nhận có sự tồn tại của “loại hình biên của
văn hóa Đông Sơn nổi tiếng” [29, tr. 182 - 184].
Di tích Đầu Rằm được khai quật ba lần (5/1998; 9/2005 và 9/2009) do Viện
Khảo cổ học phối hợp với Bảo tàng tinh Quảng Ninh và Sơ Văn hóa, Thê thao và
Du lịch tinh Quảng Ninh thực hiện.
10
Cuộc khai quật lần thứ nhất năm 1998
Tổng diện tích của đợt khai quật này là 120m2 với 4 hố chủ yếu nằm ơ khu
vực núi Đầu Rằm nho: hố H1 50m2 (5m x 10m) được mơ trên núi tại khu vực trũng
yên ngựa. Hố H2 có diện tích 40m2 (5m x 8m) nằm ơ khu vực bai cát chân núi phía
nam. Hố H3 diện tích 18m2 (3m x 6m) ơ phía dưới chân cồn cát và hố H4 có diện
tích 12m2 (3m x 4m) nằm ơ sườn núi phía bắc. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn
mơ môt số hố thám sát nho ơ khu vực bai cát và trong hang ơ khu vực núi Đầu Rằm lớn.
Kết quả của cuôc khai quật này như sau:
Về địa tầng, chi có hố H1 và H2 có tầng văn hóa rõ ràng. Hố H1 ơ trên núi,
có tầng văn hóa dày nhất (từ 130cm - 180cm), gồm hai lớp văn hóa sớm muôn khác
nhau, ngăn cách bơi lớp vô sinh là dải đất màu vàng dày từ 5cm - 10cm. Lớp phía
trên có màu nâu đen, xen lẫn nhiều vo điệp, hà và hiện vật đá, xương, đồ đồng, và
đồ gốm văn hóa Đông Sơn (phong cách Đường Cồ). Lớp phía dưới có màu nâu
vàng, chứa nhiều hiện vật gồm đố đá, đồ gốm mang đặc trưng văn hóa Phùng
Nguyên, Tràng Kênh. Sinh thổ là nền đá ơ nửa phía bắc hố, và lớp cát vàng ơ nửa
phía nam.
Hố H2 có tầng văn hóa được cấu tạo bởi cát phù sa màu nâu sẫm, không có
vo nhuyễn thê. Tầng văn hóa dày trung bình 100cm, chứa hiện vật đá, xương và
gốm, không có hiện vật đồng. sinh thổ là cát màu vàng.
Hố H3 không có dấu tích của tầng văn hóa, chi là lớp cát thuần màu nâu
vàng, có 1 mô cải táng hiện đại ơ phía trên và 1 mô táng giai đoạn Đông Sơn muôn ơ
gần sát sinh thổ. Sinh thổ là cát màu vàng.
Hố H4, không có dấu tích tầng văn hóa, chi có lớp đất màu đen xám lẫn sò
điệp và môt số than tro tập trung theo từng cụm. Có khả năng đây là môt bếp tạm
thời của cư dân cổ Đầu Rằm [34, tr. 5-7].
Về di tích, có hai loại được tìm thấy trong đợt khai quật này là: đống rác
bếp (nằm ơ H1 và H4) và một mô táng giai đoạn Đông Sơn, một mô cải táng
hiện đại ơ hố H3.
11
Về di vât, cuôc khai quật năm 1998 thu được gần 1.000 hiện vật đá, xương,
đồng, đất nung và hơn 100.000 mảnh gốm vơ (chưa kê hàng chục nghìn mành gốm
vơ vụn không phân loại được và hàng trăm phế cụ). Tổng số đồ đá tìm được là 466
tiêu bản, gồm các loại công cụ lao đông (công cụ ghe đẽo, rìu, bôn, búa, đục, dao,
cưa, mũi khoan, bàn mài (bàn mài phẳng và bàn mài ranh), bàn mài trong, chày
nghiền, hòn ghe, hòn kê, bàn nghiền, mũi nhọn, đá ghe tròn), nhóm vũ khí (mũi tên,
mũi lao), và nhóm đồ trang sức (hạt chuỗi, mảnh vòng, mảnh khuyên tai, lõi vòng).
Đồ xương có 145 tiêu bản, là những hiện vật xương do con người chế tạo và sử
dụng từ các hiện vật xương, sừng thú, xương cá đê tạo thành những mũi nhọn (90
tiêu bản từ xương cá, 7 tiêu bản từ sừng thú, xương ống của thú), và đồ trang sức
(hạt chuỗi từ đốt sống cá, đồ trang sức bằng sừng, răng thú) và vũ khí (mũi tên bằng
xương thú). Đồ đồng có 150 hiện vật bao gồm các loại công cụ sản xuất (rìu xòe
cân, rìu xéo, đục vũm, mũi nhọn và lươi câu), vũ khí (mũi tên, mũi giáo và mũi lao),
đồ trang sức (vòng tay, khuyên tai, trâm), nhạc cụ (chuông nho và lục lạc), dụng cụ
(xanh đồng) và các mảnh đồng. Đồ sắt rất ít, chi có 2 hiện vật, gồm 1 cuốc hình chữ
U và 1 mũi nhọn. Đồ chì (?) gồm 3 chiếc khuyên tai. Đồ gốm có 129.157 mảnh,
gồm gốm kiêu Phùng Nguyên (193 mảnh), gốm kiêu Tràng Kênh (7.312 mảnh),
121.619 mảnh gốm kiểu Đường Cồ (văn hóa Đông Sơn), 34 mảnh gốm Hán và 380
mảnh sành sứ niên đại từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVIII. Ngoài ra, đồ đất nung có các
loại như dọi se sợi, chì lưới, quai gốm, bi gốm, cục thổ hoàng, vòng gốm (?), và
mảnh gốm ghe tròn.
Các hiện vật chủ yếu được tìm thấy trong hố H1 trên núi Đầu Rằm nho và hố
H2 ơ khu vực bai cát. Môt số ít hiện vật đá, đồng được tìm thấy trong mô táng ơ hố H3
và hố rác bếp ơ hố H1.
Đánh giá về đợt khai quật này, các nhà nghiên cứu cho rằng, di tích Đầu Rằm
là môt khu di chi cư trú thuôc thời đại Kim khí. Cư dân cổ nơi đây có quá trình tụ
cư khá lâu dài, ơ hai giai đoạn sớm muôn khác nhau: giai đoạn sớm tương đương
với nhóm cư dân Tràng Kênh, hay nói cách khác, có khả năng tương đương với giai
12
đoạn Phùng Nguyên muôn - Đồng Đậu sớm (3.300 - 2.700 BP), giai đoạn muộn
thuôc văn hóa Đông Sơn (2.500 - 2.000 BP) [34].
Cuộc khai quật lần thứ hai năm 2005
Đợt khai quật này, các nhà nghiên cứu đa mơ 2 hố khai quật và 3 hố thám
sát. Hố H1có diện tích 10m2 (5m x 2m) nằm trong khu vườn bạch đàn của người
dân, cách chân núi Đầu Rằm lớn khoảng 35m. Hố H2 nằm ơ khu cồn cát, dưới chân núi
đá vôi, có diện tích 6m2 (3m x 2m) nằm cách hố H1 khoảng 8m về phía tây, thực
chất là hố thám sát 1 (HTS1) mơ rông. Hố thám sát 2 (HTS2) có diện tích 1m2 nằm áp
sát chân phía đông nam của núi Đầu Rằm nho, phía tây nam cách hố H3 (năm
1998) khoảng 30m. Hố thám sát 3 (HTS3) có diện tích 2m 2 ơ trên núi đá vôi, ngay
sát góc đông nam của hố H1 (năm 1998).
Về địa tầng, các nhà nghiên cứu cho rằng, khu vực bai cát phía dưới chân núi
Đầu Rằm, tầng văn hóa khá thuần nhất (dày 20cm - 40cm (H2) và 30cm - 50cm
(H1)). Khu vực trũng yên ngựa ơ núi Đầu Rằm nho tầng văn hóa dày từ 150 cm
-160cm với hai giai đoạn văn hóa sớm muôn. Giai đoạn sớm là lớp đất sẫm nâu dày
20cm - 50cm với các di vật thu được là những mảnh gốm xốp, gốm chắc và rất
nhiều hiện vật đá. Giai đoạn văn hóa muôn dày từ 90cm - 125cm, là lớp đất bơ rời
màu xám đen, đen ken dày đặc đá vụn, mảnh gốm vơ và vo nhuyễn thê. Di vật thu
được là môt số hiện vật đồng, đá và các mảnh gốm mang phong cách Đường Cồ.
Về di tích: xuất lô 1 mô vò Hán có kích thước lớn ơ đô sâu 20 - 25cm đến
160cm, bị vơ, không có di cốt. Đồ tùy táng là 1 chiếc bát sứ Hán, men ngả vàng.
Về di vât: Di vật tìm được khá phong phú, bao gồm đồ đá, đồ đồng và đồ
gốm, trong đó mỗi khu vực lại có sự phân bố hiện vật khác nhau. Khu vực gần chân
núi Đầu Rằm lớn thì sưu tập hiện vật đá là chủ yếu, bao gồm khá nhiều mảnh cưa
đá, bàn mài, đồ trang sức (vòng hình chữ T, hình chữ nhật, hạt chuỗi), đá nguyên
liệu nephrit có dấu cưa, lõi vòng. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy 9
mảnh đồng và 4550 mảnh gốm xốp, với khá nhiều mảnh miệng mái. Cũng trong
khu vực này, khá nhiều mảnh gốm Hán văn in ô vuông hoặc những mảnh bán sứ đã
được tìm thấy.
13
Trong khi đó, khu vực phía chân núi Đầu Rằm nho có các hiện vật đá và
gốm. Đồ đá bao gồm mũi tên đá, bàn mài, lưỡi cưa, lõi vòng… Đồ gốm có 243
mảnh gốm xốp Đầu Rằm và môt số mảnh gốm Hán và sành vỡ.
Khu vực trên đinh núi đá vôi của núi Đầu Rằm nho (khu vực yên ngựa) thu
được nhiều hiện vật nhất, bao gồm: hiện vật đồng (lươi câu, sợi đồng, mũi nhọn,
mũi tên, vòng, mảnh đồng dẹt có lỗ và các mảnh đồng nho), hiện vật đá (bàn mài,
rìu, đục, cưa, mũi khoan, phác vật mũi khoan, đá nguyên liệu nephrit có dấu cưa,
dấu mài, bàn mài, mảnh tước…) Đồ gốm gồm môt số ít gốm Phùng Nguyên, gốm
xốp và đại đa số là gốm Đường Cồ. Đồ xương có 6kg, và 27,5kg nhuyễn thê. Đáng
lưu ý là trong đất sàng lọc ơ hố đào này, có tới 11.318 hiện vật, bao gồm các mảnh
cưa đá, bàn mài, đá nguyên liệu, mảnh vảy tước, mảnh đá có dấu cưa, bàn mài các
loại, mảnh khuyên tai, phác vật mũi khoan, đá có lỗ khoan, lõi vòng, mảnh đồng,
dây đồng và công cụ xương.
Nhận xét về đợt khai quật này, các nhà nghiên cứu cho rằng, di tích Đầu Rằm
đa tồn tại hai giai đoạn văn hóa: giai đoạn sớm có rất nhiều mảnh gốm xốp, chắc và
hiện vật đá. Đây là đặc trưng của môt di chi - xương, và không khác gì di chi Tràng
Kênh (Hải Phòng). Giai đoạn muôn gồm các mảnh đồng, đá và các mảnh gốm
phong cách Đường Cồ đại diện cho giai đoạn Đông Sơn, mang dáng dấp môt xưởng
quy mô nho đê chế tạo lưỡi câu đồng [8, tr. 152-155].
Cuộc khai quật lần thứ ba năm 2009
Cuôc khai quật này được thực hiện vào tháng 9/2009 do Viện Khảo cổ học
phối hợp với Sơ Văn hoá, Thê thao và Du lịch Quảng Ninh tiến hành. Diện tích
thăm dò, khai quật là 100m2 bao gồm 6 hố: hố H1 20m2 (2m x 10m); hố H2 20m2
(2m x 10m), hố H3 16m2 (2m x 8m), hố H4 40m2 (8m x 5m), hố H5 2m2 (2m x 1m)
và hố H6 2m2 (2m x 1m). Trong đó, hố H1 và H2 nằm ơ khu vực bai cát dưới chân
núi Đầu Rằm nho (nằm ơ rìa ngoài bai cát - nay là nghĩa trang hiện đại); hố H3 nằm ơ
rìa ngoài của bai cát và sát đường liên thôn; hố H4 nằm trong khu vực bai cát và ơ
góc tây bắc núi Đầu Rằm nho (cuối dãy núi Đầu Rằm nho); hố H5 và hố H6 nằm
trong vườn bạch đàn gia đình nhà ông Thìn [19, 54].
Về địa tầng: Lớp mặt: là lớp đất pha cát mịn, cát chiếm tỷ lệ lớn có màu nâu
tối, nâu, nâu sẫm, màu vàng hơi đo. Tầng văn hoá gồm hai giai đoạn sớm, muôn.
14
Giai đoạn sớm: Đất pha cát mịn, cát chiếm tỷ lệ lớn. Đất màu nâu tối, nâu, nâu sẫm,
nâu hơi đo, nâu hơi đo tối, đo hơi vàng, nâu vàng và màu nâu hơi vàng tối. Ngoại
trừ địa tầng hố H1 dày trung bình từ 30cm - 80cm là ken dày mảnh vo nhuyễn thể.
Trong tầng văn hoá ken dày di vật khảo cổ học (đồ đá, đồ gốm, đồ đồng, xương và
di tích mô táng...). Giai đoạn muôn: Cát màu nâu hơi đo tối và màu đo hơi vàng; đất
pha cát mịn màu nâu tối, cát chiếm tỷ lệ lớn. Trong tầng văn hóa ken dày di vật gồm
các loại như đồ đá, đồ gốm, đồ đồng và di tích mô táng. Sinh thổ là lớp cát mịn màu
vàng hơi đo, đo hơi vàng, vàng và màu nâu xám.
Về di tích: cuôc khai quật này đa tìm thấy tổng số 16 mô táng, trong đó có 1
mô thuôc giai đoạn sớm và 15 mô thuôc giai đoạn muôn. Điều đặc biệt là ngôi mô
duy nhất ơ giai đoạn sớm còn di cốt, trong khi những ngôi mô thuôc giai đoạn muôn
được chôn vào tầng văn hóa của giai đoạn sớm và tất cả không còn dấu tích di cốt.
Về di vât: Di vật tìm được trong đợt khai quật này khá nhiều, được chia
thành hai giai đoạn sớm – muôn. Giai đoạn sớm gồm có công cụ đá đá (rìu, bôn,
đục, bàn mài, lươi cưa, chày nghiền, hòn nghiền, hòn ghe, hòn kê, đá có lỗ vũm,
hòn nghiền/đá có lỗ vũm, hòn kê/đá có lỗ vũm, đá ghe tròn, chì lưới…), đồ trang sức
đá (vòng, hạt chuỗi, phác vật vòng, lõi vòng/lõi khuyên tai/nhẫn), đá nguyên liệu
(dùng đê chế tác mũi khoan, mảnh lưỡi, đốc rìu bôn…), đồ gốm (môt số ít mảnh
gốm kiêu Phùng Nguyên, Mán Bạc còn đại đa số là gốm xốp), bi gốm và vo nhuyễn
thê (tàn tích thức ăn). Giai đoạn muộn có các hiện vật gồm: đồ đồng (rìu, lưỡi
câu, mảnh thạp, mảnh chân bình), vũ khí đồng (giáo, lao, hô tâm phiến), trang sức
đồng (vòng tay); đồ sắt (mai); đồ gốm gồm 10 mảnh gốm phong cách Đường Cồ.
Hầu hết di vật ơ giai đoạn muôn đều là đồ tùy táng được tìm thấy trong những mô
táng giai đoạn muộn được chôn vào tầng văn hóa của giai đoạn sớm [19; 20].
Đánh giá về di tích Đầu Rằm, các nhà khai quật cho rằng, đa bắt đầu tìm thấy
dấu hiệu nguồn gốc của Đầu Rằm qua văn hóa Hạ Long thông qua loại gốm miệng
mái sơ khai, miệng đứng, miệng khum gay, miệng loe... ơ văn hóa Hạ Long và có
khả năng nhóm di tích Tràng Kênh - Đầu Rằm và môt số di tích khác (hang Bồ
Chuyến, Núi Châm Chót, Mả Chuông, Hang Song) có nguồn gốc từ văn hóa Hạ
Long bản địa. Các nhà nghiên cứu cũng cho rằng “giai đoạn sớm di tích Tràng
Kênh, Đầu Rằm, núi Châm Chót, Hang Song, Mả Chuông và hang Bồ Chuyến
15