Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Thủ tục hòa giải tranh chấp kinh tế thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.84 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ ÁNH HỒNG

THỦ TỤC HÒA GIẢI TRANH CHẤP KINH TẾ THƢƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN NHƢ PHÁT

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật – Học viện Khoa học xã hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Thị Ánh Hồng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CĂN BẢN VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH TẾ THƢƠNG MẠI ............................................................ 5
1.1 Khái quát chung về tranh chấp kinh tế thƣơng mại và các phƣơng thức giải
quyết tranh chấp kinh tế thƣơng mại ........................................................................ 5
1.2. Thủ tục hòa giải tranh chấp kinh tế thƣơng mại ............................................... 21
Chƣơng 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC HÒA GIẢI TRANH
CHẤP KINH TẾ THƢƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DẬN SỰ VIỆT
NAM HIỆN NAY VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT ............................ 36
2.1. Quy định về thủ tục hòa giải tranh chấp KTTM trong tố tụng ......................... 36
2.2. Quy định về thủ tục hòa giải tranh chấp KTTM ngoài tố tụng ......................... 54
Chƣơng 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THỦ TỤC HÒA GIẢI TRANH CHẤP KTTM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................................... 63
3.1. Sự cần thiết xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thƣơng mại
bằng hòa giải ............................................................................................................ 63
3.2. Định hƣớng xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thƣơng mại
bằng hòa giải ............................................................................................................ 64
3.3. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục tranh chấp kinh tế
thƣơng mại ............................................................................................................... 67
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 74



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng Dân sự

LCT

Luật Công ty

LDN

Luật Doanh nghiệp

LDNTN

Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân

LĐT

Luật Đầu tƣ

LTM


Luật Thƣơng mại

LTTTM

Luật Trọng tài Thƣơng mại

KTTM

Kinh tế thƣơng mại

PLTTGQCVADS

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án Dân sự

PLTTGQCVAKT

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án Kinh tế

PLTTTM

Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại

VIAC

Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam

WTO

Tổ chức Thƣơng mại Thế giới



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trƣờng, các nhà kinh doanh có nhiều mối quan hệ kinh
tế, thƣơng mại với nhau đều mong muốn xây dựng lòng tin, duy trì mối quan hệ
kinh tế với các đối tác một cách lâu dài để bảo đảm cho hoạt động kinh tế, thƣơng
mại đƣợc ổn định và phát triển.
Tuy vậy, đôi khi vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, các mối quan hệ kinh
tế thƣơng mại giữa các nhà kinh doanh cũng có những bất đồng và mâu thuẫn dẫn
đến các tranh chấp trong việc thực hiện các cam kết về quyền lợi và tranh chấp về
kinh tế, thƣơng mại. Để giải quyết tranh chấp trong kinh tế thƣơng mại các bên cần
phải lựa chọn một phƣơng thức giải quyết tranh chấp phù hợp dựa trên các yếu tố
nhƣ mục tiêu đạt đƣợc, mối quan hệ giữa các bên, thời gian và chi phí…
Vì vậy, xuất phát từ thực tiễn đã hình thành nhiều phƣơng thức giải quyết
tranh chấp kinh tế, thƣơng mại, nhƣ: thƣơng lƣợng, hòa giải, giải quyết theo thủ tục
trọng tài, giải quyết theo thủ tục tƣ pháp. Trong đó, việc giải quyết tranh chấp theo
phƣơng thức hòa giải (hòa giải ngoài tố tụng cũng nhƣ hòa giải trong tố tụng) có
nhiều ƣu điểm và đƣợc áp dụng phổ biến trên thế giới, đặc biệt đƣợc ƣa chuộng tại
các quốc gia có nền kinh tế phát triển.
Do đó để thúc đẩy sự phát triển và áp dụng rộng rãi của phƣơng thức giải
quyết tranh chấp kinh tế thƣơng mại bằng con đƣờng hòa giải, cần phải có những
công trình nghiên cứu chỉ ra những ƣu điểm, khuyết điểm của pháp luật hiện hành
cũng nhƣ thực tiễn liên quan đến hòa giải tại Việt Nam trên cơ sở đối chiếu và so
sánh, để tăng thêm sự hiểu biết xã hội và chấp nhận rộng rãi phƣơng thức này. Với
lý do nhƣ vậy, tôi chọn đề tài “Thủ tục hòa giải tranh chấp kinh tế1 thƣơng mại
theo pháp luật tố tụng dân sự việt nam hiện nay”.

1


Thực ra theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, tranh chấp diễn ra trong đời sống kinh tế đƣợc gọi là
“tranh chấp về kinh doanh, thƣơng mại” (Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự 2015). Vì vậy, Luận văn này sẽ tiếp
cận khái niệm “tranh chấp kinh tế, thƣơng mại” theo cách hiểu của Điều 30 Bộ luật dân sự.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giải quyết tranh chấp kinh tế thƣơng mại bằng hòa giải đang là vấn đề không
chỉ nhận đƣợc sự quan tâm của các nhà kinh tế mà còn là vấn đề quan tâm của các
nhà khoa học pháp lý nhằm tạo dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơg mại
hiệu quả, góp phần tạo ra một môi trƣờng thuận lợi, thúc đẩy cho hoạt động thƣơng
mại phát triển. Chính vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác
nhau về những vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng hòa
giải. Một số công trình có đề cập đến chế định hòa giải giải quyết tranh chấp thƣơng
mại nhƣ:
Một số công trình nghiên cứu có đề cập chế định hòa giải trong giải quyết
tranh chấp kinh tế thƣơng mại là: “Hòa giải, thương lượng trong việc giải quyết
tranh chấp kinh tế tại Tòa án ở Việt Nam”, TS Trần Đình Hảo, năm 2000;“Hòa
giải thương mại và xu hướng phát triển tại Việt Nam”, TS. Nguyễn Thị Minh, Phó
vụ trƣởng Vụ Bổ trợ Tƣ pháp, Bộ Tƣ pháp, năm 2011; “Hoàn thiện cơ chế hòa giải
ở Việt Nam – Bài học từ kinh nghiệm các nước”, ThS. Lê Thị Hoàng Thanh, năm
2012;“Về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”
của TS Phạm Hữu Nghị. Và nhiều các công trình nghiên cứu Luận án tiến sĩ, Luận
văn thạc sĩ khác nghiên cứu các đề tài liên quan đến vấn đề này.
Tuy vậy, tất cả những công trình nêu trên chủ yếu tiếp cận phƣơng thức hòa
giải tranh chấp kinh tế thƣơng mại từ góc độ luật thực định, đa phần nghiên cứu về
hòa giải trong tố tụng chƣa nghiên cứu chế định này một cách toàn diện, đầy đủ và
có hệ thống cả trong tố tụng và ngoài tố tụng. Ngoài ra nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn về hòa giải tranh chấp kinh tế thƣơng mại đang tiếp tục đƣợc đặt ra và có nhu

cầu giải quyết hoặc chƣa đƣợc cập nhật trong pháp luật hiện hành cụ thể theo Bộ
luật tố tụng dân sự 2015. Đây là vấn đề cấp thiết đặt ra trong tiến trình hoàn thiện hệ
thống pháp luật nói chung, hệ thống pháp luật thƣơng mại nói riêng ở Việt Nam.

2


3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là thông qua việc nghiên cứu, phân tích
một cách có hệ thống các quy định về thủ tục hòa giải trong giải quyết tranh chấp
kinh tế thƣơng mại cũng nhƣ thực tiễn áp dụng các quy định này, làm rõ bản chất
thủ tục hòa giải trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh tế thƣơng mại, luận
giải những cơ sở lý luận và thực thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế thƣơng mại ở nƣớc ta.
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu khái quát vấn đề lý luận về tranh chấp kinh tế thƣơng mại, trên
cơ sở đó làm rõ các vấn đề lý luận mới, các yêu cầu mới liên quan đến giải quyết
tranh chấp kinh tế thƣơng mại bằng hòa giải.
- Nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật hiện hành và
các phƣơng thức giải quyết tranh chấp kinh tế thƣơng mại đặc biệt là phƣơng thức
hòa giải từ đó làm rõ những mặt đƣợc, mặt còn hạn chế, bất hợp lý, bất cập trong
pháp luật cũng nhƣ thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp kinh tế thƣơng mại
bằng hòa giải
- Đƣa ra một số kiến nghị và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp kinh tế thƣơng mại bằng hòa giải phù hợp với tình hình mới, bảo
đảm hiệu lực, hiệu quả đáp ứng đƣợc các yêu cầu mới trong nền kinh tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Việt Nam
về giải quyết tranh chấp kinh tế thƣơng mại bằng hòa giải trong tố tụng và ngoài
tố tụng.

Phạm vi nghiên cứu: Các quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh
chấp kinh tế thƣơng mại bằng hòa giải đƣợc quy định trong BLDS 2015, BLTTDS
2015, LTTTM 2010, các đạo luật có liên quan nhƣ LTM 2005, LDN 2014, LĐT
2014..., các luật có liên quan, các văn bản hƣớng dẫn và các điều ƣớc quốc tế mà

3


Việt Nam tham gia về phƣơng thức giải quyết tranh chấp kinh tế thƣơng mại bằng
hòa giải trong kinh tế thƣơng mại.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành các mục tiêu của đề tài, trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu,
vận dụng luận văn đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ:
- Phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –

Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
- Phƣơng pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, tƣ duy logic...để tìm hiểu, nghiên

cứu tìm ra các giải pháp có tính thiết thực trên cơ sở các chính sách, số liệu, tƣ liệu
sẵn có.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa khoa học: Luận văn góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận và

thực tiễn về thủ tục hòa giải tranh chấp kinh tế thƣơng mại theo pháp luật hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đề xuất những kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

những quy định của pháp luật về thủ tục hòa giải tranh chấp kinh tế thƣơng mại.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì luận văn gồm có ba chƣơng.
Chƣơng 1: Những vấn đề pháp lý cơ bản về thủ tục hòa giải tranh chấp kinh

tế thƣơng mại.
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật về thủ tục hòa giải tranh chấp kinh tế
thƣơng mại theo Bộ luật tố tụng dân sự hiện nay và thực tiễn thi hành pháp luật.
Chƣơng 3: Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục hòa
giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế thƣơng mại ở Việt Nam.

4


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CĂN BẢN VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH TẾ THƢƠNG MẠI
1.1

Khái quát chung về tranh chấp kinh tế thƣơng mại và các phƣơng

thức giải quyết tranh chấp kinh tế thƣơng mại
1.1.1. Khái quát chung về tranh chấp kinh tế thương mại (KTTM)
1.1.1.1. Khái niệm về tranh chấp KTTM
Tranh chấp là một hiện tƣợng khách quan trong xã hội. Từ khi hàng hóa xuất
hiện thì cũng diễn ra các hoạt động thƣơng mại, con ngƣời bắt đầu tiến hành các
trao đổi hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu của mình. Những mâu thuẫn xuất phát từ
việc sản xuất, trao đổi và thông thƣơng hàng hóa cũng bắt đầu xuất hiện, đó là tranh
chấp thƣơng mại. Trong nền kinh tế thị trƣờng các quan hệ kinh tế càng phát triển,
tranh chấp càng trở nên đa dạng và phức tạp. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
dƣới sự tác động của quy luật cạnh tranh, những bất đồng, xung đột xảy ra giữa các
chủ thể kinh doanh là điều khó tránh khỏi, tranh chấp đã trở thành một hiện tƣợng
bình thƣờng đối với mọi nền kinh tế. Giải quyết đƣợc các mâu thuẫn, tranh chấp
này sẽ góp phần thúc đẩy các quan hệ kinh tế phát triển.
Khái niệm “Tranh chấp kinh tế” là một khái niệm có nội hàm rộng, bao gồm

tất cả các tranh chấp có nội dung kinh tế. Trong các văn bản Pháp lý trƣớc đây nhƣ
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 và theo Nghị định số
116/CP ngày 5/9/1994 của Chính phủ về trọng tài kinh tế cũng đã liệt kê các tranh
chấp đƣợc coi là tranh chấp kinh tế, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án kinh
tế, bao gồm: Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân,
giữa pháp nhân với cá nhân có đăng kí kinh doanh; Các tranh chấp giữa công ty với
các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến
việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; Các tranh chấp liên quan đến việc mua
bán cổ phiếu; Các tranh chấp khác theo quy định pháp luật. Với một khái niệm có
nội hàm rộng và việc pháp luật chúng ta gắn cho các tranh chấp điển hình có nội
dung kinh tế trên đã tạo ra sự không tƣơng thích và không phù hợp với các hoạt
động thƣơng mại nữa.

5


Ở Việt Nam, khái niệm tranh chấp thƣơng mại lần đầu tiên đƣợc đề cập tại
điều 238, Luật thƣơng mại 1997 là: “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát
sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động
thương mại”.
Đặc biệt sau khi Việt Nam kí kết hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ
ngày 13/7/2000 và đƣợc Quốc hội phê chuẩn ngày 28/11/2001, quan niệm về
thƣơng mại và tranh chấp thƣơng mại của chúng ta đã đƣợc mở rộng và mang bản
chất của thƣơng mại. Các quan niệm về thƣơng mại nhƣ trong Hiệp định Việt Nam
- Hoa Kỳ tiếp tục đƣợc thể hiện trong Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại năm 2003, Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2004 và Luật thƣơng mại năm 2005. Luật thƣơng mại năm
2005 cũng không đƣa ra khái niệm tranh chấp thƣơng mại mà theo khoản 1, điều 3
đƣa ra khái niệm: Hoạt động thƣơng mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, xúc tiến thƣơng mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác.

Từ những văn bản pháp lý trên và các nội dung đƣợc xem xét Giáo trình Luật
Thƣơng mại tập 2 của trƣờng Đại học Luật Hà Nội có đƣa ra quan điểm về tranh
chấp thƣơng mại: “Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung
đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các họat động
thương mại”.
Hiện nay, khái niệm tranh chấp thƣơng mại vẫn chƣa đƣợc đƣa ra một cách
thống nhất, đặc biệt là chƣa có văn bản pháp lý nào quy định mà nó mới chỉ dừng
lại ở vấn đề quan điểm của một số tác giả trên cơ sở tiếp cận nó thông qua luật nội
dung và luật tố tụng.
Theo David Foskett “Một tranh chấp tất nhiên không thể xuất hiện, trừ khi một
trái ngược được được khẳng định bởi một bên mà lại bị một bên khác chống lại”.
Còn theo nhƣ Deluxe Black’s Law Dictionary “Tranh chấp trong lĩnh vực
pháp lý được hiểu là các xung đột hay trái ngược liên quan tới các quyền, sự đòi
hỏi hay yêu cầu của một bên đối với bên kia, hoặc sự khẳng định về quyền, sự
đòi hỏi hay yêu cầu của một bên bị đáp lại bởi yêu cầu hay sự viện dẫn trái
ngược của bên kia”.

6


Tại Việt Nam ngoài Giáo trình Luật Thƣơng mại tập 2 của trƣờng Đại học
Luật Hà Nội có đƣa ra quan điểm về tranh chấp thƣơng mại nhƣ ở trên thì còn có
một số quan điểm khác theo nhƣ trong cuốn Kỹ năng hành nghề luật sƣ- Tập IIIHợp đồng và tƣ vấn hợp đồng của Học viện tƣ pháp thì “Tranh chấp hợp đồng là
sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng liên
quan tới việc thực hiện (hoặc không thực hiện) các quyền và nghĩa vụ theo hợp
đồng”. Với Tiến sĩ luật học Phan Chí Hiếu có nhận định trong Kỷ yếu hội thảo
giải quyết tranh chấp kinh doanh và phá sản doanh nghiệp thì “Tranh chấp kinh
tế được hiểu là những mâu thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa vụ, lợi ích kinh
tế giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ kinh tế”; còn Tiến sĩ Luật học Phạm
Hữu Nghị lại cho rằng “Tranh chấp trong kinh doanh là mâu thuẫn hay xung đột

về quyền và nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, các doanh nghiệp với tư cách là chủ
thế kinh doanh”.
Nhƣ vậy, có thể hiểu tranh chấp KTTM là những mâu thuẫn, bất đồng giữa
các chủ thể phát sinh trong việc thực hiện các hoạt động có liên quan đến lĩnh
vực kinh tế, thƣơng mại và đầu tƣ. Và có thể định nghĩa tranh chấp KTTM nhƣ
sau: “Tranh chấp KTTM là những mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền
lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động
KTTM”.
1.1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp KTTM
Từ những định nghĩa về tranh chấp KTTM nêu trên, rút ra đƣợc những đặc
điểm cơ bản của tranh chấp KTTM nhƣ sau:
Thứ nhất: chủ thể của tranh chấp KTTM chủ yếu là thƣơng nhân, bởi
thƣơng nhân là những ngƣời hoạt động thƣơng mại, có đăng ký kinh doanh.
Ngoài thƣơng

7


nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp thƣơng mại, trong những trƣờng hợp nhất
định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thƣơng nhân) cũng có thể là chủ thể
của tranh chấp thƣơng mại khi trong các giao dịch bên không có mục đích sinh lợi
chọn áp dụng luật thƣơng mại. Mỗi chủ thể đều có mục đích tối đa hóa lợi ích khi
tham gia vào quan hệ kinh doanh và nghĩa vụ của chủ thể này tƣơng ứng với quyền
của chủ thể kia. Do đó khi tranh chấp xảy ra sẽ ảnh hƣởng xấu đến mục đích và hiệu
quả của các bên phụ thuộc.
Thứ hai: khách thể của tranh chấp KTTM là các quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể trong quan hệ KTTM (theo hợp đồng hoặc không theo hợp đồng) xảy ra
trƣớc, trong hay sau thỏa thuận của các bên. Đối tƣợng của tranh chấp là lợi ích
kinh tế. Những xung đột lợi ích kinh tế, thua thiệt với giá trị lớn ảnh hƣởng đến sự
sống còn trên thị trƣờng của các chủ thể và lợi ích của nhiều đối tƣợng đòi hỏi các

bên phải cân nhắc kỹ những đƣợc, mất, thiệt, hơn khi lựa chọn phƣơng án tối ƣu để
giải quyết xung đột, tranh chấp kinh tế.
Thứ ba: nội dung của tranh chấp là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và
nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, xúc tiến thƣơng mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác.
1.1.1.3. Nguyên nhân hình thành tranh chấp KTTM
Trong nền kinh tế thị trƣờng các chủ thể đƣợc làm tất cả những gì mà pháp
luật không cấm, dựa vào đó các chủ thể kinh doanh tự do thỏa thuận trên cơ sở mục
đích và lợi ích đạt đƣợc. Tuy nhiên, có thỏa thuận thì cũng có thể phát sinh vi phạm
thỏa thuận và sự vi phạm này có thể từ nguyên nhân bất khả kháng không có sự chủ
định của một bên, cũng có thể do lỗi của một hoặc các bên nhƣng có chủ định trƣớc.
Chính vì thế, việc phát sinh tranh chấp trong hoạt động kinh doanh là điều tất yếu.
Một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất: do lợi nhuận: Mục đích cuối cùng của hoạt động kinh doanh là lợi

8


nhuận. Chính vì lợi nhuận mà có những chủ thể đã chấp nhận phá vỡ hợp đồng, vi
phạm hợp đồng và phát sinh tranh chấp.
Thứ hai: do hạn chế kiến thức pháp luật: Không phải bất kỳ nhà đầu tƣ nào
cũng nắm rõ quy định pháp luật, điều này dẫn đến có những thỏa thuận vƣợt quá
quy định của pháp luật.
Thứ ba: do thiếu vắng các quy định của pháp luật: Pháp luật không thể dự trù
tất cả các mâu thuẫn trong quan hệ thƣơng mại có thể xảy ra do hoạt động kinh
doanh hiện nay đa dạng, phức tạp.
1.1.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp KTTM
1.1.2.1. Các phương thức giải quyết tranh chấp KTTM phổ biến của các quốc gia
Hiện nay, cũng nhƣ trên thế giới Việt Nam tồn tại bốn phƣơng thức giải quyết

tranh chấp thƣơng mại cơ bản, bao gồm: Thƣơng lƣợng; hòa giải; trọng tài thƣơng
mại và tòa án.
a) Thƣơng lƣợng
Thƣơng lƣợng là phƣơng thức giải quyết tranh chấp trong chấp trong KTTM
mà không cần đến vai trò của ngƣời thứ ba. Đặc điểm cơ bản của phƣơng thức
thƣơng lƣợng là các bên cùng nhau trình bày quan điểm, chính kiến, tìm các biện
pháp thích hợp và đi đến thống nhất thoả thuận để tự giải quyết các bất đồng.
Phƣơng thức này đã đƣợc giới thƣơng nhân ƣa chuộng từ lâu vì nó đơn giản
lại không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý phiền phức, ít tốn kém hơn và điều
quan trọng, nó không làm phƣơng hại đến quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên
trong kinh doanh cũng nhƣ giữ đƣợc bí mật kinh doanh của các bên.
Bản chất của thương lượng được thể hiện qua các nội dung sau:
Thứ nhất: phƣơng thức thƣơng lƣợng đƣợc thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết
thông qua việc các bên tranh chấp tự gặp nhau bàn bạc, thoả thuận để tự giải quyết
những bất đồng phát sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba để trợ giúp
hay ra phán quyết.
Thứ hai: quá trình thƣơng lƣợng của các bên cũng không chịu sự ràng buộc
của bất kỳ nguyên tắc pháp lý hay những quy định mang tính khuôn mẫu nào của
pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp. Pháp luật Việt Nam mới chỉ dừng lại ở

9


việc ghi nhận là một phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại mà không có
bất kỳ quy định nào chi phối giải quyết tranh chấp KTTM bằng phƣơng thức
thƣơng lƣợng.
Thứ ba: việc thực thi kết quả thƣơng lƣợng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự
nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm việc
thực thi đối với thoả thuận của các bên trong quá trình thƣơng lƣợng.
Thƣơng lƣợng đòi hỏi trƣớc hết các bên phải có thiện chí, trung thực, hợp tác

và phải có đầy đủ những kiến thức, am hiểu về chuyên môn và pháp lý. Thƣơng
lƣợng thật sự đã trở thành quá trình trao đổi, bày tỏ ý chí giữa các bên để tìm giải
pháp thích hợp nhất.
Do vậy, trong thƣơng lƣợng, các bên tiến hành bàn bạc, trao đổi ý kiến, thoả
thuận thông qua “hành vi giao dịch” cần phải đảm bảo các điều kiện pháp lý đặt ra:
chế định đại diện, chế định uỷ quyền, giao dịch dân sự, năng lực hành vi.
Giải quyết tranh chấp bằng thƣơng lƣợng thực chất đƣợc thực hiện bởi cơ chế
nội bộ (cơ chế tự giải quyết) và hoàn toàn xuất phát từ cơ chế tự giải quyết của các
bên tranh chấp mà không có sự can thiệp củ bất kỳ cơ quan nhà nƣớc hoặc của bất
kỳ ngƣời thứ ba nào. Giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng phƣơng thức thƣơng
lƣợng là sự thể hiện quyền tự do thoả thuận, tự do định đoạt của các bên tranh chấp.
Các bên tự đề xuất các giải pháp và thỏa hiệp với nhau theo trình tự thủ tục tự chọn
để giải quyết các bất đồng phát sinh mà không bắt buộc phải tuân theo một thủ tục
pháp lý nào.
Ƣu điểm nổi bật của phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng thƣơng lƣợng là
thuận tiện, đơn giản, nhanh chóng, tính linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Mặt khác
giải quyết tranh chấp KTTM bằng thƣơng lƣợng còn bảo vệ đƣợc uy tín của các bên
tranh chấp cũng nhƣ bí mật trong kinh doanh của các nhà kinh doanh. Nếu thƣơng
lƣợng thành công không những các bên đã loại bỏ đƣợc bất đồng phát sinh mà mức
độ phƣơng hại đến mối quan hệ kinh doanh giữa các bên cũng thấp, tă cƣơng sự
hiểu biết và hợp tác lẫn nhau trong tƣơng lai.
Bên cạnh nhƣng ƣu điểm thì phƣơng thức giải quyết tranh chấp KTTM bằng
thƣơng lƣợng cũng có những hạn chế nhất định. Thƣơng lƣợng thành công hay

10


không thành công tuỳ thuộc và sự hiểu biết và thái độ thiện chí của các bên tranh
chấp. Khi mà các bên thiếu sự hiểu biết về lĩnh vƣc đang tranh chấp, không nhận
thức đƣợc vị thế của mình về khả năng thắng thua, thiếu sự thiện chí trung thực

trong quá trình thƣơng lƣợng thì khả năng thành công là rất mong manh, kết quả
thƣơng lƣợng thƣờng bế tắc. Ngoài ra, kết quả thƣơng lƣợng không đƣợc đảm bảo
bằng cơ chế pháp lý mang tính bắt buộc. Kết quả thƣơng lƣợng phụ thuộc vào sự tự
nguyện của các bên phải thi hành. Nếu một bên không tự nguyện thi hành thì kết
quả thƣơng lƣợng cũng chỉ tồn tại trên giấy mà không có cơ chế trực tiếp nào bắt
buộc thi hành. Nhƣ vậy, hạn chế này dễ bị lạm dụng trong thực tiễn giải quyết tranh
chấp KTTM và nhiều trƣờng hợp do thiếu sự thiện chí mà đã tìm mọi cách trì hoãn
kéo dài vụ tranh chấp, nhất là khi thời hiệu khởi kiện không còn nhiều.
b) Hoà giải
Hoà giải là phƣơng thức giải quyết tranh chấp KTTM mà trong đó các bên
trong đó các bên trong quá trình thƣơng lƣợng với nhau có sự tham gia của các bên
thứ ba độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ
trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung
đột bất đồng để chấm dứt các tranh chấp phát sinh giữa các bên tham gia quan hệ.
Hoà giải là giải pháp mang tính tự nguyện, tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của các
bên. Đặc biệt là bên thứ ba với tính chất trung gian hoà giải phải có vị trí độc lập
đối với các bên. Điều đó thể hiện rõ bên thứ ba không ở vị trí xung đột lợi ích với
các bên hoặc không có những lợi ích gắn liền với lợi ích của một trong các bên
trong các vụ việc đang có tranh chấp. Bên thứ ba tham gia làm trung gian hoà giải
thƣờng là những cá nhân, tổ chức có trình độ chuyên môn cao và có kinh nghiệm về
những vụ việc có liên quan đến các vụ việc phát sinh. Công việc của bên thứ ba là;
xem xét, phân tích, đánh giá và dƣa ra những ý kiến, nhận định , bình luận về
chguyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ để các bên tham khảo lựa chọn và quyết định.
Bản chất của hoà giải được thể hiện qua những đặc trưng sau đây:
Thứ nhất: việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong KTTM bằng phƣơng pháp
hoà giải đã có sự hiện diện của bên thứ ba (do các bên lựa chọn) làm trung gian để
trợ giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối ƣu nhằm giải quyết tranh chấp.

11



Điểm khác biệt cơ bản giữa hoà giải và thƣơng lƣợng là trong hoà giải luôn có
sự xuất hiện của ngƣời thứ ba tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp còn
thƣơng lƣợng là sự tự giải quyết tranh chấp giữa các bên mà không có sự hiện diện
của ngƣời thứ ba.
Tuy nhiên, bên thứ ba làm trung gian hoà giải không có quyền quyết định hay
áp đặt bất cứ vấn đề gì nhằm ràng buộc các bên tranh chấp. Quyết định cuối cùng vẫn
thuộc về các bên tranh chấp khi họ thống nhất đƣợc ý chí với nhau về giải quyết vụ
tranh chấp trên cơ sở hƣớng dẫn, trợ giúp của ngƣời thứ ba làm trung gian hoà giải.
Thứ hai: quá trình hoà giải các bên tranh chấp cũng không chịu sự chi phối bởi
các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục hoà giải.
Cũng giống nhƣ thƣơng lƣợng, pháp luật hiện hành của Việt Nam, không có
quy định nào ràng buộc, chi phối đến cơ chế hoà giải ngoài các quy định có tính
chất ghi nhận thƣơng lƣợng, hoà giải là những phƣơng thức giải quyết tranh chấp
đƣợc các bên ƣu tiên lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh.
Thứ ba: kết quả hoà giải thành đƣợc thực thi cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sự
tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm
thi hành những cam kết của các bên trong quá trình hoà giải.
Cũng giống nhƣ thƣơng lƣợng giải quyết tranh chấp bằng hoà giải thực chất
vẫn đƣợc thƣc hiện bởi cơ chế tự giải quyết và hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện
của các bên tranh chấp.
Ƣu điểm của giải quyết tranh chấp KTTM bằng hoà giải là tính đơn giản thuận
tiện, nhanh chóng, sự linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Bên cạnh đó thì hoà giải còn
có ƣu điểm vƣợt trội đƣợc mang lại bởi có sự tham gia của ngƣời thứ ba trong quá
trình giải quyết tranh chấp. Ngƣời thứ ba thƣờng là ngƣời có trình độ chuyên môn,
có kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực và vấn đề đang tranh chấp. Khi hiểu rõ đƣợc
nguyên nhân, hoàn cảnh phát sinh mâu thuẫn cũng nhƣ quan điểm nhận thức của
các bên, họ sẽ biết cách làm cho ý chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm
phán để lọai trừ tranh chấp. Ngoài ra, kết quả hoà giải đƣợc ghi nhận và chứng kiến
của bên thứ ba. Nên mức độ tự nguyện thực hiện của các bên cũng cao hơn so với

phƣơng thức thƣơng lƣợng.

12


Bên cạnh đó thì hoà giải cũng có những hạn chế bởi nền tảng của hoà giải vẫn
đƣợc quyết định trên cơ sở tự nguyện thi hành của các bên. Bởi vậy, dù có sự trợ giúp
của ngƣời thứ ba làm trung gian hoà giải mà một bên không trung thực, thiếu thiện
chí, hợp tác trong quá trình đàm phán thì hoà giải cũng khó đạt đƣợc kết quả cao. Bên
cạnh đó, thì trong quá trình hoà giải các bên phải trao đổi, cung cấp thông tin cho
ngƣời thứ ba về hoạt động kinh doanh của mỗi bên liên quan đến vụ tranh chấp nên
uy tín cũng nhƣ bí mật kinh doanh của mỗi bên dễ bị ảnh hƣởng. Cũng nhƣ chi phí bỏ
ra cho khoản dịch vụ phí cho ngƣời thứ ba làm trung gian hoà giải.
c) Trọng tài thƣơng mại
Trọng tài thƣơng mại tồn tại dƣới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc và
trọng tài thƣờng trực.
 Trọng tài vụ việc: là phƣơng thức trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận
thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấm dứt tồn
tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp
Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện qua đặc trưng sau đây:
Thứ nhất: trọng tài vụ việc chỉ đƣợc thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự
chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp.
Thứ hai: trọng tài vụ việc không có trụ sở thƣờng trực, không có bộ máy điều
hành và không có danh sách trọng tài viên riêng.
Thứ ba: trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.
So với trọng tài thƣờng trực thì trọng tài vụ việc có một số ƣu thế sau:
-

Có thể giải quyết một cách nhanh chóng vụ tranh chấp và ít tốn kém, bởi xét


cho cùng trọng tài vụ việc vẫn yếu phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp;
-

Quyền lựa chọn trọng tài viên của các bên đƣơng sự không bị giới hạn bởi

danh sách trọng tài viên sẵn có nhƣ hình thức trọng tài thƣờng trực mà có thể lựa
chọn bất kỳ trọng tài viên nào trong và ngoài danh sách trọng tài viên của bất kỳ
trung tâm trọng tài nào;
-

Các bên tranh chấp có quyền rộng rãi trong việc xác định quy tắc tố tụng để

giải quyết tranh chấp giữa các bên.


Trọng tài thường trực: Theo pháp luật Việt Nam trọng tài thƣờng trực dƣới

13


dạng các trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tƣ
cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định.
Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong
hệ thống cơ quan nhà nƣớc.
Các trung tâm trọng tài đƣợc thành lập theo sáng kiến của các trọng tài viên sau
khi đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cho phép, chứ không phải đƣợc thành lập
bởi nhà nƣớc. Hoạt động của trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải. Chứ không đƣợc
cấp kinh phí từ ngân sách nhà nƣớc. Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài
không nhân danh quyền lực mà nhân danh ngƣời thứ ba độc lập phán quyết.

Là tổ chức phi chính phủ nhƣng các trung tâm trọng tài vẫn luôn đặt dƣới sự
quản lý của nhà. Nhà nƣớc quản lý đối với các trung tâm trọng tài thông qua việc
ban hành các văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của
các trung tâm trọng tài. Việc quản lý của nhà nƣớc còn đƣợc thực hiện thông qua
hoạt động quản lý của hệ thống các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền trong việc
cấp,thay đổi, bổ sung, hay thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của
các trung tâm trọng tài.
Trong quá trình hoạt động các trung tâm trọng tài cũng cần có sự hỗ trợ của
nhà nƣớc trên nhiều phƣơng diện, nhƣ: hỗ trợ chỉ định, thay đổi trọng tài viên, hỗ
trợ trong việc xem xét lại quyết định của trọng tài, hỗ trợ trong việc quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, hỗ trợ trong việc huỷ hay không huỷ quyết định
trọng tài, hỗ trợ trong việc cƣỡng chế thi hành quyết định trọng tài.
Thứ hai: các trung tâm trọng tài có tƣ cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau.
Trung tâm trọng tài là tổ chức thoả mãn các điều kiện của pháp nhân, bao gồm:
- Đƣợc thành lập hợp pháp;
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài

sản đó;
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.

Mỗi trung tâm trọng tài là một pháp nhân, tồn tại độc lập và bình đẳng với các

14


trung tâm trọng tài khác. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ
thuộc cấp trên, cấp dƣới nhƣ hệ thống cơ quan tài phán. Nên đặc thù của tố tụng
trọng tài là áp dụng nguyên tắc xét xử một lần.
Thứ ba: tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ

cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm.
Thứ tư: mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy
tắc tố tụng riêng.
Thứ năm: hoạt động xét xử của trọng tài đƣợc tiến hành bởi các trọng tài viên
của trung tâm
d) Tòa án
Tòa án là phƣơng thức giải quyết tranh chấp KTTM tại cơ quan xét xử nhân
danh quyền lực nhà nƣớc, đƣợc tiến hành theo trình tự thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ
và bản án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện
tuân thủ sẽ đƣợc đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cƣỡng chế của nhà nƣớc.
1.1.2.1. Các phương thức giải quyết tranh chấp KTTM quốc tế và khu vực
Giải quyết tranh chấp KTTM luôn là quan tâm hàng đầu của các nhà kinh
doanh. Bởi vậy việc lựa chọn một phƣơng thức giải quyết tranh chấp hiệu quả luôn
là ƣu tiên hàng đầu. Ngoài pháp luật quốc gia có những cơ chế giải quyết tranh chấp
thƣơng mại của mình thì các tổ chức trên thế giới cũng có những cơ chế giải quyết
tranh chấp riêng và đƣợc các quốc gia thành viên sử dụng để giải quyết tranh chấp.
Một số cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại trên thế giới nhƣ[39]:
a) Cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại của Tổ chức Thƣơng mại Thế
giới (WTO).
WTO là một tổ chức có quy mô lớn nhất trên thế giới trong lĩnh vực thƣơng
mại, là nền tảng của quá trình phát triển các quan hệ thƣơng mại giữa các nƣớc
thông qua các cuộc thảo luận, thƣơng lƣợng và phán xét có tính chất tập thể. WTO
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các thành viên WTO nhƣ thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của tòa án. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đƣợc xây
dựng trên bốn nguyên tắc: công bằng, nhanh chóng, hiệu quả và chấp nhận đƣợc
đối với các bên tranh chấp. Đƣợc hình thành và phát triển trên nền tảng các quy

15



định về giải quyết các tranh chấp của GATT (Hiệp định chung về thuế quan và
thƣơng mại), cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã có những thay đổi tích cực
góp phần nâng cao hiệu lực và tác dụng của cơ chế này với mục đích giải quyết
các tranh chấp thƣơng mại quốc tế, duy trì ổn định và phát triển hệ thống thƣơng
mại đa phƣơng theo Hiệp định WTO. WTO đã thành công trong việc thiết lập một
cơ chế pháp lý đầy đủ, chi tiết trong một văn bản là Thỏa thuận về các Quy tắc và
Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU - Dispute Settlement
Understanding).
Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là bắt buộc đối với tất cả các quốc
gia thành viên theo đó mỗi thành viên có khiếu nại, tranh chấp với thành viên khác
buộc phải đƣa tranh chấp ra giải quyết bằng cơ chế này. Quốc gia thành viên bị
khiếu nại không có cơ hội lựa chọn nào khác là chấp nhận tham gia giải quyết tranh
chấp theo các thủ tục của cơ chế này. Đây chính là điểm tạo nên sự khác biệt cũng
nhƣ hiệu quả hoạt động của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO so với các cơ
chế giải quyết các tranh chấp quốc tế đang tồn tại (thẩm quyền giải quyết của các cơ
chế truyền thống không có tính bắt buộc mà phụ thuộc vào sự chấp thuận của các
quốc gia liên quan).
Tranh chấp thuộc đối tƣợng điều chỉnh của cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO xuất hiện, khi một nƣớc thành viên WTO cho rằng một nƣớc thành viên khác
đã vi phạm các quy định khác của WTO, làm ảnh hƣởng đến lợi ích của họ hoặc
ảnh hƣởng đến việc thực hiện các mục tiêu của cam kết WTO. Hành vi vi phạm của
một nƣớc thành viên có thể là việc không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết, hoặc việc
áp dụng bất kỳ biện pháp nào bất kể biện pháp đó có vi phạm quy định của Hiệp
định hay không, hoặc việc tồn tại của bất kì tình huống nào khác gây ra hậu quả nêu
trên. Do vậy, khi một nƣớc thành viên cho rằng nƣớc thành viên khác không thực
hiện nghĩa vụ hoặc cam kết theo Hiệp định thì có thể áp dụng DSU để giải quyết.
Ngoài ra, tranh chấp có thể phát sinh từ một “tình huống” khác hoặc khi một biện
pháp thƣơng mại do một quốc gia thành viên ban hành tuy không vi phạm quy định
của WTO nhƣng gây thiệt hại cho một hoặc nhiều quốc gia thành viên khác.
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp của WTO bao gồm: Hội đồng


16


giải quyết tranh chấp bao gồm đại diện của tất cả các quốc gia thành viên (Viết tắt
là DSB - Dispute Settlement Body), Các ban hội thẩm (Panel), Cơ quan phúc thẩm
thƣờng trực (SAB), Ban thƣ kí WTO, các trọng tài, các chuyên gia độc lập và một
số tổ chức chuyên môn. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thƣờng gồm ba bƣớc
chính: tham vấn giữa các bên (Consultation), quá trình xét xử của ban hội thẩm, cơ
quan phúc thẩm và thực thi các phán quyết, bao gồm áp dụng biện pháp trả đũa
trong trƣờng hợp bên thua kiện không thực thi phán quyết.
b) Cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại của ASEAN.
Cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại của ASEAN là tổng thể thống nhất
các cơ quan giải quyết tranh chấp, cách thức, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp
và việc thi hành phán quyết giải quyết tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp
thƣơng mại của ASEAN đƣợc thực hiện bằng biện pháp hòa bình, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau trên cơ sở hợp tác hiệu quả giữa các bên, tôn trọng
nguyên tắc thỏa thuận, kiềm chế không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi
có tranh chấp.
Về biện pháp giải quyết tranh chấp, nhìn chung các văn kiện của ASEAN đều
ghi nhận và khuyến khích các bên quyết tâm và có thiện ý ngăn ngừa không để nảy
sinh ra các tranh chấp. Cụ thể:
Trong Hiệp ước Bali I năm 1976 (TAC), khi có tranh chấp phát sinh, TAC
khuyến khích các bên giải quyết tranh chấp thông qua thƣơng lƣợng trƣớc khi lựa
chọn biện pháp khác.
Trong Nghị định thư năm 1996 (DSM): Cấu trúc pháp lý của Nghị định thƣ
năm 1996 gồm hai phần: phần giải quyết tranh chấp theo kênh tài phán và phần giải
quyết tranh chấp theo kênh ngoài tài phán. Các biện pháp giải quyết tranh chấp theo
kênh ngoài tài phán chủ yếu là thƣơng lƣợng, trung gian, hòa giải đƣợc thống nhất
đƣa vào Nghị định thƣ năm 1996 để áp dụng chung.

Trong Hiến chương ASEAN, các biện pháp giải quyết tranh chấp khá đa dạng.
Các bên tranh chấp có thể sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp khác nhau
nhƣ đề nghị bên thứ ba, hòa giải, trung gian hoặc trọng tài. Việc lựa chọn một
phƣơng thức giải quyết tranh chấp nào đó tùy thuộc vào ý chí của các bên tranh

17


chấp. Ngoài ra các bên có thể viện dẫn các hình thức giải quyết tranh chấp đƣợc quy
định tại điều 33 của Hiến chƣơng Liên hợp quốc hoặc các văn bản luật quốc tế khác
mà các quốc gia thành viên ASEAN là bên tranh chấp tham gia miễn là các phƣơng
thức giải quyết tranh chấp này đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của ASEAN là giải quyết
bằng hình thức “hòa bình”.
Điều 33 của Hiến chƣơng Liên hợp quốc quy định các biện pháp giải quyết
tranh chấp mà các bên có thể lựa chọn, gồm:
- Đàm phán trực tiếp;
- Các biện pháp giải quyết mang tính thƣơng lƣợng thông qua bên thứ ba nhƣ

môi giới, điều tra, trung gian, hòa giải;
- Các biện pháp giải quyết mang tình tài phán nhƣ giải quyết bằng trọng tài

hoặc tòa án quốc tế.
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thƣơng mại của ASEAN:
ASEAN không thành lập cơ quan chuyên trách để giải quyết các tranh chấp thƣơng
mại phát sinh mà quy định cho một số cơ quan trong bộ máy của mình kiêm nhiệm
thêm chức năng giải quyết tranh chấp, đó là Hội nghị Bộ trƣởng Kinh tế AEM
(ASEAN Economic Ministers), Hội nghị Quan chức Kinh tế Cao cấp SEOM (Senior
Economic Officials Meetings) và Ban Thƣ ký. Trong trƣờng hợp cần thiết, ASEAN
sẽ thành lập một cơ quan giúp việc có tính chất adhoc là Ban Hội thẩm Panel.
Cơ chế giải quyết thƣơng mại của ASEAN mang tính chính trị, thƣơng thuyết

nên số vụ tranh chấp đƣa ra giải quyết theo cơ chế DSM của ASEAN là rất ít.
c) Cơ chể giải quyết tranh chấp đầu tư ICSID
ICSID là trung tâm quốc tế về giải quyết tranh chấp đầu tƣ đƣợc thành lập trên
cơ sở Công ƣớc về giải quyết tranh chấp đầu tƣ giữa các quốc gia và công dân của
các quốc gia khác năm 1965.
Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tƣ ICSID thuộc Nhóm Ngân hàng thế
giới với tƣ cách là một diễn đàn giải quyết tranh chấp đầu tƣ giữa các nhà đầu tƣ và
nƣớc chủ nhà. Trung tâm ra đời là kết quả của gần 2 thập kỷ đàm phán nhằm thiết
lập một tổ chức đầu tƣ trong khuôn khổ Ngân hàng thế giới. Điều đó có ý nghĩa
quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp đầu tƣ vì hầu hết trong các Hiiệp định

18


đầu tƣ song phƣơng đều quy định đây là tổ chức trọng tài giải quyết tranh chấp hoặc
áp dụng quy tắc của tổ chức này cho các trọng tài ad-hoc. Trung tâm có nhiệm vụ
hỗ trợ cho việc giải quyết tranh chấp bằng thƣơng lƣợng và trọng tài với ba điều
kiện là: Các bên nhất trí đƣa tranh chấp đến giải quyết tại ICSID; Tranh chấp phải là
tranh chấp giữa nhà nƣớc là thành viên của Công ƣớc ICSID với công dân của nƣớc
thành viên khác; Tranh chấp đó phải là tranh chấp phát sinh trực tiếp từ hợp đồng
đầu tƣ. Trọng tài ICSID mang tính chất phi biên giới và phán quyết của trọng tài
không bị xem xét bởi bất cứ Tòa án quốc gia nào trừ ủy ban ad-hoc của ICSID.
ICSID cũng cung cấp dịch vụ bổ sung đối với một bên không phải là thành viên của
Công ƣớc nhƣng vấn đề đặt ra là hiệu lực của phán quyết trọng tài đối với các quốc
gia này. ICSID đƣợc chấp nhận rộng rãi, đây là một tổ chức quan trọng đã xây dựng
đƣợc một cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tƣ khách quan mà các nƣớc kí kết và
công dân của các nƣớc kí kết khác có thể đƣa các tranh chấp của họ ra để giải quyết
nếu nhƣ họ muốn.
1.1.3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh tế thương mại
Nguyên tắc, theo Từ điển Tiếng Việt (1992) của Viện Khoa học xã hội Việt

Nam, là điều cơ bản định ra nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm.
Nguyên tắc của một phƣơng thức giải quyết tranh chấp là những yêu cầu, định
hƣớng cơ bản chi phối toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp mà tất cả các chủ thể
tham gia vào quá trình đó đều phải tuân thủ và tôn trọng nhằm đạt đƣợc mục đích
của việc giải quyết tranh chấp. Các yêu cầu đó phải đƣợc Nhà nƣớc "luật hóa" hoặc
phải đƣợc thừa nhận chung trong giới kinh doanh nhƣ những thông lệ, tập quán.
Dựa trên cơ sở tự do và tự chủ trong kinh doanh, bình đẳng trƣớc pháp luật,
việc giải quyết tranh chấp phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Một là: Nguyên tắc tự định đoạt. Theo nguyên tắc này thể hiện trƣớc hết là ở
chỗ các bên có quyền thoả thuận phƣơng thức giải quyết tranh chấp có lợi nhật có thể
là tự thƣơng lƣợng, hoặc thông qua trung gian hoà giải, hoặc thông qua một hình thức
tài phán. Sau đó các bên có thể không nhất thiết phải tham gia tố tụng mà có thể uỷ
quyền cho ngƣời khác tham gia tố tụng, có quyền nhờ luật sƣ hoặc ngƣời khác bảo vệ

19


quyền và lợi ích của mình. Cuối cùng khi đã đƣa tranh chấp ra trọng tài hoặc toà án
các bên có quyền hoà giải hoặc thay đổi nội dung đơn kiện hoặc rút đơn kiện.
Hai là: Nguyên tắc bình đẳng trƣớc pháp luật. Pháp luật bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của các bên không phân biệt thành phần kinh tế, số vốn, tài sản.
Ba là: Nguyên tắc cố gắng hàn gắn mối quan hệ giữa các bên tranh chấp.
Trong tranh chấp tƣ việc hàn gắn mối quan hệ giữa các bên là một yếu tố quan
trọng. Bởi ngay từ khi bắt đầu quan hệ hợp tác kinh doanh, các bên đã xây dựng
đƣợc mối quan hệ tốt đẹp trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, nhƣng trong quá trình thực
hiện lại xảy ra những tranh chấp không đáng có ảnh hƣởng đến mối quan hệ giữa
các bên. Bởi vậy, dù bất kỳ phƣơng thức giải quyết tranh chấp nào cũng phải hàn
gắn lại mối quan hệ này, tạo môi trƣờng, niềm tin để các bên có thể tiếp tục hợp tác.
Bốn là: Nguyên tắc giải quyết tranh chấp nhanh chóng và kịp thời, đảm bảo
hạn chế gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động kinh doanh đƣợc thực

hiện theo chu trình sản xuất khép kín, vì vậy ở bất kỳ một công đoạn nào xảy ra trục
trặc đều dẫn đến ảnh hƣởng toàn bộ quá trình kinh doanh. Giải quyết tranh chấp
không đƣợc tiến hành một cách nhanh chóng kịp thời sẽ ảnh hƣởng tới sự tồn tại và
phát triển vững mạnh của chủ thể kinh doanh. Nhanh chóng, kịp thời nhƣng phải
dứt điểm, đạt hiệu quả thi hành cao nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên.
Ngoài ra, xuất phát từ mức độ lợi ích của doanh nghiệp, việc giải quyết tranh
chấp phải quan tâm đến một số yêu cầu sau:
Thứ nhất: là giải quyết đƣớc tranh chấp với chi phí thấp nhất về tiền bạc và
thời gian chi phí để bỏ ra giải quyết tranh chấp cũng là chi phí kinh doanh, vì vậy
khi phát sinh tranh chấp là nảy sinh thêm chi phí. Đặt ra yêu cầu phải hạn chế ở
mức thấp nhất các chi phí không mang lại hiệu quả kinh doanh này. Các bên nên lựa
chọn giải quyếy chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp KTTM đƣợc xây dựng
và trải qua một quá trình phát triển từ chƣa có đến có, từ chƣa cụ thể đến cụ thể và

34


ngày càng hoàn thiện, đầy đủ hơn.
Kết luận Chƣơng 1
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trƣờng, hoạt động kinh doanh, thƣơng mại
ngày càng đa dạng và không ngừng phát triển trong tất cả mọi lĩnh vực sản xuất,
thƣơng mại, dịch vụ, đầu tƣ… Vấn đề lựa chọn phƣơng thức giải quyết tranh chấp
trong kinh doanh, thƣơng mại phải đƣợc các bên cân nhắc, lựa chọn phù hợp dựa trên
các yếu tố nhƣ mục tiêu đạt đƣợc, bản chất của tranh chấp, mối quan hệ làm ăn giữa
các bên, thời gian và chi phí dành cho việc giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, khi lựa
chọn phƣơng thức giải quyết tranh chấp, các bên cần hiểu rõ bản chất và cân nhắc các
ƣu điểm, nhƣợc điểm của một phƣơng thức để có quyết định hợp lý.

35



×