Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

NỢ CÔNG VÀ TÌNH HÌNH NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.51 MB, 41 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ ĐỒNG NAI

NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH

TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
ĐỀ TÀI:
NỢ CÔNG VÀ TÌNH HÌNH NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM

GVHD: Phạm Thị Mộng Hằng
Người thực hiên: Trần Nam Sơn

Đồng Nai, Tháng 9 năm 2016


MỤC LỤC

TỪ VIẾT TẮT .............................................................................................. 1
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 2

CHƯƠNG 1: NỢ CÔNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ......... 4
1. Tổng Quan Chung ..........................................................................................................................4
1.1. Khái niệm nợ công ....................................................................................................... 4
1.2. Đặc điểm chung của nợ công ....................................................................................... 5
1.3. Phân loại nợ công ......................................................................................................... 8
1.4. Các hình thức vay nợ của chính phủ .......................................................................... 10
1.5. Các vấn đề gặp phải khi thanh toán nợ công. ............................................................. 10
1.6. Tác động của nợ công đến việt Nam ......................................................................... 11

CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM ..................... 13
2.1 Thực trạng nợ công và quản lý nợ công ..............................................................................13


2.1.1 Thực trạng nợ công giai đoạn 2010 – 2015 .............................................................. 13
2.1.2 Thực trạng quản lý nợ công giai đoạn 2010 – 2015 ................................................. 19
2.2. Đánh giá hiệu quả quản lý nợ công......................................................................................22
2.2.1 Những thành công trong công tác quản lý nợ công.................................................. 22
2.2.2. Một số vấn đề trong công tác quản lý nợ công........................................................ 24

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ NỢ CÔNG .................. 30
3.1 Giải pháp cho nợ công Việt Nam ..........................................................................................30
3.2 Một giải pháp cụ thể Chính phủ đã đề ra.............................................................................34


KẾT LUẬN ................................................................................................ 36
TÀI LIÊU THAM KHẢO ............................................................................ 37


TỪ VIẾT TẮT
-

Vốn vay
+ OCR: vốn vay thương mại.
+ODA: nguồn vốn hổ trợ .

-

Các tổ chức nước ngoài:
+IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế.
+WB: Ngân hàng thế giới.
+TBRD: Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển.
+ASEAN: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á.
+ABD: Ngân hàng Phát triển châu Á.


-

Các tổ chức trong nước:
+SOEs: doanh nghiêp nhà nước.
+NHNN: Ngân hàng nhà nước.

+NHTM: Ngần hàng thương mại.
+UBGS&KSNC: Ủy ban giám sát và kiểm soát nợ công.
+KH&ĐT: Bộ kế hoạch và đầu tư
+DATC: Công ty trach nhiệm hữu hạn Mua bán nợ Việt Nam
+SCIC: Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
-

Các loại tiền:
+USD: Đô la Mỹ
+JPY: Yên Nhật
+SDR: Quyền rút vốn đặc biệt
+EUR: Euro

-

Khác:
+NSNN: Ngân sách nhà nước
+HĐQT: Hội đồng quản trị

1


LỜI MỞ ĐẦU


Nửa đầu năm 2016, Chính phủ Việt Nam đang phải đối mặt với một vấn đề rất lớn và
nan giải. Nếu vấn đề này không được giải quyết kịp thời thì có thể trong tương lai sẽ ảnh
hưởng trược tiếp đến thể chế chính trị, nền kinh tế, doanh nghiêp và đời sống của người dân
cả nước. Vấn đề đó chính là tình hình nợ công của Việt Nam trong bối cảnh hiện tại. Theo các
chuyên gia việc vay nợ để phát triển đối với một quốc gia không phải là xấu. Đó là một cách
huy động vốn để phát triển quen thuộc của thế giới. Cũng giống như trong kinh doanh, không
ở đâu có thể phát triển mà không có vay mượn. Các số liệu thông kê cho thấy những nền kinh
tế phát triển nhất trên thế giới như: Anh, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc… cũng chính là những
con nợ kếch xù. Nợ công, dùng để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và đầu tư của Chính phủ
nhằm phát triển đất nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, công tác quản lý nợ công của ta còn
nhiều yếu kém dẫn đế việc vay nợ và sử dụng môt cách lãng phí, dàn trải, thiếu hiệu quả của
Chính phủ đang khiến cho chúng ta hiện nay rơi vào tình trang nợ công tăng cao, theo dự báo
của bộ tài chính thì rất có thể cuối năm nay chúng ta sẽ tiến sát trần Quốc hội cho phép là
65% GDP. Vấn đề này hiện nay đang nhận được rất nhiều sự quan tâm từ phía người dân cũng
như dư luân trong nước và cả các tổ chức nước ngoài.
Trong một báo cáo mới nhất gửi đến các Quốc hội, Chính phủ không giấu nổi lỗi lo về
thu chi ngân sách. Báo cáo của Chính phủ thừa nhận: “Tổng thu ngân sách nhà nước không
đủ bảo đảm nguồn chi thường xuyên và trả nợ. Toàn bộ chi đầu tư đều phải dựa vào nguồn
vay nợ của Chính phủ. Nợ công tăng, áp lực trả nợ lớn”.
Trước thực trạng thu không đủ chi sẽ dẩn tới thâm hụt ngân sách, từ đó Nhà nước sẽ
nghĩ ra mọi cách để tận thu, lúc đó sẽ làm cho doanh nghiệp suy kiêt, bào mòn sức chịu đựng
người dân, từ đó làm suy yếu nền kinh tế. Từ những vấn đề trên ta có thể thấy đươc tầm quan
trọng của nợ công đối với một Quốc gia.
Nhận thức được tần quan trọng ấy chính là lý do đã thôi thúc em tìm hiểu chọn đề tài “
NỢ CÔNG VÀ TÌNH HÌNH NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM.”

2



Đề tài sẽ cho ta thấy một rõ về thực trạng nợ công của Việt Nam trong giai đoạn 20102015, những bất cập và yếu kém trong công tác quản lý, cùng với đó là những giải pháp cải
thiện nợ công mà Chính phủ đã đề ra trong giai đoạn 2010-2015 và định hướng cho giai đoạn
2016-2012.
Với thời gian và kiến thức còn hạn hẹp của mình, chắc chắn không tránh khỏi những
thiếu sót về mặt nội dung lẫn hình thức, vì vậy em rất mong sẽ nhận đươc những ý kiến và
nhận xét khách quan của cô để có thể rút kinh nghiệm và hoàn thiện hơn cho những bài làm
về sau của mình một cách tốt nhất.
Xin trân thành cảm ơn cô!

3


CHƯƠNG 1: NỢ CÔNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
1. Tổng Quan Chung
1.1. Khái niệm nợ công
Khái niệm nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Hầu hết những cách tiếp cận
hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà chính phủ của một quốc gia phải chịu trách

nhiệm trong việc chi trả các khoản nợ đã vay trước đó cho các tổ chức, chính phủ, quốc gia
khác. Chính vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử dụng cùng nghĩa với các thuật ngữ như
nợ quốc gia hay nợ Chính phủ. Tuy nhiên, nợ công lại hoàn toàn khác với nợ quốc gia. Nợ
quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm hai bộ phận là nợ của Nhà
nước và nợ của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân). Như vậy, nợ công chỉ là một bộ
phận của nợ quốc gia.
Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới, nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của bốn
nhóm chủ thể bao gồm:
- Nợ của Chính phủ trung ương và các Bộ, ban, ngành trung ương.
- Nợ của các cấp chính quyền địa phương.
- Nợ của Ngân hàng trung ương.
-Nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc quyết lập

ngân sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ hoặc Chính phủ là người chịu trách nhiệm
trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ.
Còn theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được hiểu bao gồm ba nhóm là nợ
Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương.
- Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được
ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ
Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ Chính phủ
4


không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính
sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng
vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
- Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.


Một cách khái quát nhất, có thể hiểu Nợ công là nợ của chính quyền các cấp từ trung

ương đến địa phương. Có thể là nợ nội địa từ các nhà đầu tư trong nước, có thể là nợ ngoại
khi vay mượn từ nước ngoài nhằm bù đắp cho các khoản thâm hụt ngân sách.

1.2. Đặc điểm chung của nợ công
Tuy có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về nợ công, nhưng về cơ bản, nợ công
có những đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước. Khác với
các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước (bao gồm
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của
Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trả nợ trực tiếp và trả nợ gián tiếp.

- Trả nợ trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do
đó, cơ quan nhà nước sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay.

- Trả nợ gián tiếp là trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để
một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả được nợ thì trách nhiệm
trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh (ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam vay vốn nước ngoài).
Thứ hai, nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
- Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích:
5


+Một là: đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm
bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia.
+ Hai là: đề đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản
lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị xã hội. Nguyên tắc
quản lý nợ công Việt Nam là Nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy
động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản trên.
+Thứ ba: mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh

tế - xã hội vì lợi ích cộng đồng. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn
những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của cộng đồng. Ở
Việt Nam, xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã
hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết
định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, cụ thể là đề phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và
phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất.
Nói riêng về bản chất kinh tế của nợ công: Thì theo các chuyên gia nghiên cứu làm rõ
bản chất kinh tế của nợ công và quan điểm của kinh tế học về nợ công sẽ giúp các nhà làm
luật xây dựng các quy định pháp luật phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội nhằm đạt được

hiệu quả trong sử dụng nợ công ở Việt Nam. Xét về bản chất kinh tế, khi Nhà nước mong
muốn hoặc bắt buộc phải chi tiêu vượt quá khả năng thu của mình (khoản thuế, phí, lệ phí và
các khoản thu khác) thì phải vay vốn và điều đó làm phát sinh nợ công. Như vậy, nợ công là
hệ quả của việc Nhà nước tiến hành vay vốn và Nhà nước phải có trách nhiệm hoàn trả. Do

đó, nghiên cứu về nợ công phải bắt nguồn từ quan niệm về việc Nhà nước đi vay là như thế
nào.

Trong lĩnh vực tài chính công, một nguyên tắc quan trọng của ngân sách nhà nước được các
nhà kinh tế học cổ điển hết sức coi trọng và hiện nay vẫn được ghi nhận trong pháp luật ở hầu
hết các quốc gia, đó là nguyên tắc ngân sách thăng bằng. Theo nghĩa cổ điển, ngân sách thăng
bằng được hiểu là một ngân sách mà ở đó, số chi bằng với số thu. Về ý nghĩa kinh tế, điều này
6


giúp Nhà nước tiết kiệm chi tiêu hoang phí, còn về ý nghĩa chính trị, nguyên tắc này sẽ giúp
hạn chế tình trạng Chính phủ lạm thu thông qua việc quyết định các khoản thuế.

Các nhà kinh tế học cổ điển như A.Smith, D.Ricardo, J.B.Say là những người khởi xướng và
ủng hộ triệt để nguyên tắc này trong quản lý tài chính công. Và chính vì thế, các nhà kinh tế
học cổ điển không đồng tình với việc Nhà nước có thể vay nợ để chi tiêu.

Ngược lại với các nhà kinh tế học cổ điển, một nhà kinh tế học được đánh giá là có ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất ở nửa đầu thế kỷ XX là John M.Keynes (1883-1946) và những người ủng hộ
mình (gọi là trường phái Keynes) lại cho rằng, trong nhiều trường hợp, đặc biệt là khi nền
kinh tế suy thoái dẫn đến việc đầu tư của tư nhân giảm thấp, thì Nhà nước cần ổn định đầu tư
bằng cách vay tiền (tức là cố ý tạo ra thâm hụt ngân sách) và tham gia vào các dự án đầu tư
công cộng như đường xá, cầu cống và trường học, cho đến khi nền kinh tế có mức đầu tư tốt
trở lại. Học thuyết của Keynes (cùng với sự chỉnh sửa nhất định từ những đóng góp cũng như
phản đối của một số nhà kinh tế học sau này là Milton Friedman và Paul Samuelson) được

hầu hết các Chính phủ áp dụng để vượt qua khủng hoảng và tình trạng trì trệ của nền kinh tế.

Ngược lại với Keynes, Milton Friedman cho rằng, việc sử dụng chính sách tài khóa nhằm tăng
chi tiêu và việc làm sẽ không có hiệu quả và dễ dẫn đến lạm phát trong thời suy thoái vì người
dân thường chi tiêu dựa trên kỳ vọng về thu nhập thường xuyên chứ không phải thu nhập hiện

tại và mọi chính sách đều có độ trễ nhất định. Thay vì thực hiện chính sách tài khóa thiếu hụt,
Nhà nước nên thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả. Còn Paul Samuelson, một nhà kinh tế học
theo trường phái Keynes, đã có những bổ sung quan trọng trong quan niệm về chính sách tài
khóa của Keynes. Ông cho rằng, để kích thích nền kinh tế vượt qua sự trì trệ, cần thiết phải
thực hiện cả chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ linh hoạt. Hiện nay trên thế
giới, mặc dù tài chính công vẫn dựa trên nguyên tắc ngân sách thăng bằng, nhưng khái niệm
thăng bằng không còn được hiểu một cách cứng nhắc như quan niệm của các nhà kinh tế học
7


cổ điển, mà đã có sự uyển chuyển hơn. Ví dụ, theo quy định của pháp luật Việt Nam, các
khoản chi thường xuyên không được vượt quá các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí; nguồn thu
từ vay nợ chỉ để dành cho các mục tiêu phát triển.



Hầu hết các quốc gia thực hiện nền kinh tế thị trường đều có hoạt động vay nợ. Việc

vay nợ của Nhà nước thường được thực hiện dựa trên quan điểm của Keynes, nhưng có hai
điều chỉnh quan trọng: một là, việc cố ý thâm hụt ngân sách và bù đắp bằng các khoản vay

không được thực hiện vĩnh viễn, bởi lẽ xét về lý thuyết thì những tác động từ các khoản vay
chỉ có ích trong ngắn hạn còn về dài hạn lại có ảnh hưởng tiêu cực và do đó Nhà nước cần
phải có giới hạn về mặt thời gian trong việc sử dụng các khoản vay và hai là, các khoản nợ

công phải được kiểm soát kỹ lưỡng nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng, đồng thời hạn chế những
tác động không mong muốn từ việc sử dụng các khoản vay. Việc quản lý nợ công hiệu quả sẽ
giúp mục đích vay vốn đạt được với chi phí thấp nhất, đồng thời đảm bảo khả năng trả nợ.

1.3. Phân loại nợ công
Phân loại nợ công Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa
khác nhau trong việc quản lý và sử dụng nợ công.
- Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay thì nợ công gồm có hai loại: nợ trong nước
và nợ nước ngoài.
+ Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt Nam.
+ Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ
chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, nợ nước ngoài không được hiểu là nợ mà bên cho
vay là nước ngoài, mà là toàn bộ các khoản nợ công không phải là nợ trong nước. Việc phân
loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ. Việc phân loại
8


này về mặt thông tin sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Và
ở một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ của Nhà
nước Việt Nam, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc
các phương tiện thanh toán quốc tế khác.
- Theo phương thức huy động vốn, thì nợ công có hai loại là nợ công từ thỏa thuận trực
tiếp và nợ công từ công cụ nợ.
+ Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa thuận vay

trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức cho vay. Phương thức huy
động vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở tầm quốc gia là các hiệp định, thỏa
thuận giữa Nhà nước Việt Nam với bên nước ngoài.
+ Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước có thẩm

quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời hạn ngắn hoặc dài,
thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính.
- Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công thì nợ công có ba loại là nợ
công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương mại thông thường.
+ Vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi là nguồn vốn từ các tổ chức nước ngoài hỗ trợ cho
các nước đang và kém phát triển, hoặc các nước đang gặp khó khăn về tài chính nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của các nước này.
- Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công phải trả và
nợ công bảo lãnh.

+ Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương có nghĩa vụ
trả nợ.
+ Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho người vay
nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
- Theo cấp quản lý nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công của trung ương và nợ
công của chính quyền địa phương.
+ Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do Chính phủ bảo lãnh.
9


+ Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương là bên vay nợ
và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 thì
những khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân sách và được
đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phương được Chính phủ đảm bảo chi trả
thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương.

1.4. Các hình thức vay nợ của chính phủ
Có hai hình thức vay nợ phổ biến hiện nay là phát hành trái phiếu chính phủ và vay tiền
trực tiếp từ ngân hàng thương mại, các thể chế siêu quốc gia (ví dụ như Quỹ tiền tệ Quốc tế).
- Phát hành trái phiếu chính phủ là: Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ để

vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có
rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế, thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn
lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có

cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không
có đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra còn có rủi ro về tỷ giá hối đoái.
- Vay trực tiếp là: Chính phủ vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế
siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB)...) Hình thức này
thường được Chính phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng
vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ không cao.

1.5. Các vấn đề gặp phải khi thanh toán nợ công.
Lạm phát:
+ Chi tiêu thâm hụt ngân sách khi tính toán thường không điều chỉnh ảnh hưởng của lạm
phát vì trong tính toán chi tiêu của chính phủ, quy định tính toán các khoản trả lãi vay theo lãi
suất danh nghĩa trong khi đáng lẽ chỉ tiêu này chỉ tính theo lãi suất thực tế. Do lãi suất danh
10


nghĩa bằng với lãi suất thực tế công với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã bị phóng
đại. Trong những thời kỳ lạm phát ở mức cao và nợ chính phủ lớn thì ảnh hưởng ở yếu tố này
là rất lớn.
Tài sản đầu tư:
+ Nhiều nhà kinh tế học cho rằng tính toán nợ chính phủ cần phải trừ đi tổng giá trị tài
sản của chính phủ. Điều này cũng đơng giản như khi sử lý tài sản cá nhân, khi một vá nhân

vay tiền để mua nhà thì không thể tính anh ta đã thâm hụt ngân sách bằng số tiền đã vay mà
phải trừ đi giá trị của căn nhà. Tuy nhiên khi tính toán theo phương pháp này lại gặp phải vấn
đề những gì nên coi là tài sản của chính phủ và tính toán giá trị của chúng như thế nào, ví dụ:
đường quốc lộ, kho vũ khí hay chi tiêu cho giáo dục…

Các khoản nợ tiềm tàng:
+ Nhiều nhà kinh tế học lập luân rằng tính toán nợ chính phủ đã bỏ qua các khoản nợ
tiềm tàng như tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội mà chính phủ sẽ phải chi trả cho
người lao đông hay các khoản mà chính phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo đảm cho các khoản
vay của người có thu nhập thấp mà trong tương lai họ không có khả năng thanh toán…
1.6. Tác động của nợ công đến việt Nam
Tác đông tích cực:
- Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vố để phát triển
cơ sở hạ tầng và tăng khả đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Việt Nam đang trong giai đoạn phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa , trong đó cơ sở hạ tầng là yếu
tố có tính chất quyết định. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là một
trong những yếu tố quan trọng nhất. Với những chính sách huy động nợ công hợp lý, nhu cầu
về vốn sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất
cho nền kinh tế.

11


- Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư. Một
bô phận trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà nước vay nợ mà những khoản
tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu
vực tư.
- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế. Tài
trợ quốc tế là những hoạt động kinh tế- ngoại giao quan trọng của các nước phát triển muốn
gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương. Nếu
Việt Nam biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để đầu
tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích nước bạn, đồng thời giữ vững độc lập,
chủ quyền và chính thức nhất quán của đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những tác đông tích cực nêu trên, cũng gây ra những tác đông tiêu cực nhất
định như:

- Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản tài trợ ngoài

nước. Nếu như kỷ luật tài chính của nước ta lỏng lẻo, thiếu sự giám sát chặt chẽ trong việc sử
dụng và quản lý, nợ công sẽ tỏ ra kém hiệu quả cùng với đó là tình trạng tham nhũng, lãng phí
gây hậu quả nghiêm trong cho nhà nước. ngoài ra Nợ công trong nước tăng cao có thể dẫn tới
hiện tượng thoái lui đầu tư tư nhân. Giảm tốc độ tăng trưởng trong dài hạn do trong tương lai
chính phủ sẽ phải tăng thuế để trả nợ.Tạo áp lực lạm phát dẫn đế chi tiêu nhà nước và lãi suất
tăng gây áp lực cho nền kinh tế. Mọi vấn đề trên sẽ dẫn tới hệ quả nghiên trọng, đó là sẽ làm
tăng sự lệ thuộc về chính trị cũng như nền kinh tế.


Nợ công rất quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào vì nó nguồn tài chính quan trọng

cho sự phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng sẽ xem xét đến nợ công khi quyết
định đầu tư vốn.

12


CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trạng nợ công và quản lý nợ công
2.1.1 Thực trạng nợ công giai đoạn 2010 – 2015
Theo báo cáo từ Bộ Tài Chính Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam có đang xu hướng tăng
liên tục với tốc độ khá nhanh, từ mức 51,7% năm 2010 lên mức (62,2%) năm 2015 và ước
tính nợ công có thể đạt mức 64,4% GDP vào cuối năm 2016 ( gần áp sát mức trần 65% mà
Quốc hội cho phép). Đặc biệt giai đoạn 2013-2014, việc phát hành khối lượng lớn trái phiếu
Chính phủ đã khiến nợ công tăng mạnh. Bên cạnh đó, điểm cần lưu ý là tỷ lệ này được tính
trên GDP danh nghĩa, do vậy trong những năm có lạm phát cao (giai đoạn trước 2012), GDP
danh nghĩa tăng nhanh là một yếu tố giúp cho tỷ lệ nợ công/GDP ở mức thấp tương đối. Tuy
nhiên trong 3 năm trở lại đây, bên cạnh nguyên nhân chính xuất phát từ việc gia tăng phát

hành trái phiếu chính phủ, GDP danh nghĩa tăng chậm lại cũng là một yếu tố khiến tỷ lệ nợ
công có xu hướng tăng tốc. Với tốc độ tăng trưởng GDP thực tế hàng năm dự báo là 6,5% và
đặt kịch bản tỷ lệ nợ công/GDP vào cuối năm 2016 có thể thấp hơn con số dự báo ở trên nếu
tăng trưởng được cải thiện, nhưng áp lực gia tăng bội chi ngân sách trên thực tế sẽ là thách
thức lớn nhất đối với Chính phủ trong quản trị nợ công. Theo thông báo kết quả phiên họp
thường kỳ của Chính phủ vào tháng 7/2016, tăng trưởng GDP có thể đạt 6,3% đến 6,5% trong
năm 2016. Nếu ước tính này thành hiện thực, tỷ lệ nợ công/GDP có thể thấp hơn, bằng 64,1%
(với tăng trưởng 6,3%) hoặc 63,9% (với tăng trưởng 6,5%) vào cuối năm 2016

13


Hình 1: Tỷ lệ nợ công và nợ chính phủ/GDP
Theo đó trong cơ cấu nợ công, nợ của Chính phủ (bao gồm các loại trái phiếu, tín phiếu,
vay ODA, vay thương mại từ các đối tác song phương và đa phương) chiếm tới 80%; còn lại
20% là nợ do Chính phủ bảo lãnh (các loại trái phiếu do Ngân hàng Phát triển Việt Nam
(VDB) và Ngân hàng Chính sách Xã hội phát hành) và nợ chính quyền địa phương.
- Về phân bổ, sử dụng vốn vay:
Thứ nhất, chúng ta dùng vốn vay để bù đắp thâm hụt ngân sách. Tỷ lệ bình quân bội chi
nhân sách qua qua các năm trung bình ở mức là 5%
Thứ hai,vốn vay để đầu tư cơ sở hạ tầng như y tế, giáo dục, giao thông, thủy lợi…
Thứ ba, vay để cho vay lại, chủ yếu là các công trình trọng điểm quốc gia đang càn huy
đông vốn, trong đó các nguồn vay này chủ yếu từ vốn ODA
Về tình hình sử dụng vốn ODA của Việt Nam theo thông tin tại báo cáo mới nhất của
Bộ tài chính về tình hình ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 2010-2015 của Chính phủ.
9 tháng đầu năm 2015, tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài ký kết
đạt khoảng 2.729 triệu USD, trong đó vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài đạt khoảng
14



2.698 triệu USD, vốn ODA đạt khoảng 31,91 triệu USD. Thực hiện cả năm 2015 ký kết đạt
khoảng 3.500 triệu USD.
Về cơ cấu vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài theo ngành và lĩnh
vực, báo cáo nêu, các lĩnh vực giao thông vận tải, môi trường (cấp, thoát nước, đối phó với
biến đổi khí hậu…) và phát triển đô thị, năng lượng và công nghiệp là những ngành có tỷ trọng
vốn ODA và vốn vay ưu đãi tương đối cao. Còn ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn
kết hợp với xóa đói giảm nghèo, y tế, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ, tăng
cường năng lực thể chế,... chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn.
- Cụ thể sẽ có 8 ngành yêu tiên sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi giai đoạn 20102015:
 Hỗ trợ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, quy mô lốn và hiện đại.
 Hỗ trợ kết cấu hạ tầng xã hội.
 Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển
khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức.
 Phát triển công nghiêp và nông nghiệp.
 Hỗ trợ xây dựng hệ thống luật pháp và thể chế đồng bộ của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Hỗ trợ bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ứng phó biến đổi
khí hậu và tăng trưởng xanh.
 Hỗ trợ thúc đẩy đầu tư, thương mại và một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh.
 Hổ trợ theo địa bàn lãnh thổ.

15


Về thực hiên nghĩa vụ trả nợ công giai đoạn 2010-2015 con số theo Đại diện Ngân hàng
thế giới (World Bank) khẳng định mức nợ công chiếm 62,2% GDP trong năm 2015 vẫn an
toàn và Chính phủ Việt Nam vẫn có khả năng trả 100% các khoản nợ đến hạn.
Trong một báo cáo mới đây của Bộ Tài chính trước Quốc hội, nợ công của Việt Nam
tính đến 31/12/2015 đã lên mức 62,2% GDP. Theo Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) của Việt Nam năm 2015 đạt 4.192.900 tỷ đồng. Như vậy, nợ công của Việt Nam

tương đương mức 2.607.900 tỷ (115,7 tỷ USD).Với dân số khoảng 91,7 triệu người, hiện mỗi
người dân Việt Nam đang phải gánh khoản nợ khoảng 28,4 triệu đồng. Đây là con số nợ công
kỷ lục của Việt Nam.
Đóng góp lớn nhất vào khoản nợ công này là nợ của Chính phủ, đạt mức 50,3% GDP cả
nước. Nợ Chính phủ đã chính thức vượt qua giới hạn an toàn 0,3%. Nợ nước ngoài của quốc
gia ở mức 43,1% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ chiếm 16,1% tổng thu ngân
sách nhà nước.
Trên thực tế, nợ công của Việt Nam tăng nhanh qua các năm. Từ năm 2010 -2015, nợ
công đã tăng từ mức 51,7% GDP lên 62,2% GDP. Trong khi thâm hụt ngân sách nhiều năm
vượt quá mức an toàn là 5%, năm 2015 con số này lên tới 6,5% GDP, trước đó năm 20132014 cũng ở mức cao lần lượt là 7,4% và 6,2%.

16


Hình 2: Tình trạng bội chi ngân sách và tỷ lệ nợ công trên GDP trong 10 năm qua
Ở Việt Nam, theo bộ tài chính cơ cấu nợ công tính đến cuối năm 2015 bao gồm nợ Chính
phủ chiếm 80,8%, nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 17,8% và nợ chính quyền địa phương
chiếm 1,4%.
Trong cơ cấu nợ Chính phủ, tỷ trọng nợ trong nước đang có xu hướng tăng từ 39% năm
2011 lên 57% năm 2015 và tỷ trọng nợ nước ngoài giảm tương ứng từ 61% năm 2011 xuống
còn 43% năm 2015, như vậy là phù hợp với Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc
gia giai đoạn 2011-2020 tầm nhìn đến 2030.

17


Cơ cấu nợ công
1.4

17.8


80.8

Nợ Chính phủ

Nợ Chính phủ bảo lãnh

Nợ chính quyền địa phương

Hình 3: Cơ cấu nợ công
Nguồn: Cục quản lý nợ công và tài chính – Bộ tài chính

Nếu cơ cấu nợ công chia theo chủ nợ, thì nợ công của chúng ta chủ yếu đươc vay bằng
VND, USD, JPY, SDR và EUR điều này đồng nghĩa với việc rủi ro về tỷ giá, lãi suất. Cụ thể
là khi đồng nội tệ mất giá, nợ nước ngoài tính bằng nội tệ sẽ tăng lên, khiến cho việc thanh
toán nợ của chính phủ sẽ trở nên khó khăn
Báo cáo kinh tế Vĩ mô năm 2014 mới đây của Ủy ban Kinh tế Quốc hội đã đưa ra số liệu
cụ thể về cơ cấu nợ công và các chủ nợ nước ngoài chính của Việt Nam.
Về cơ cấu nợ công, khoảng 50% là nợ nước ngoài. 50% còn lại là khoản vay trong nước
thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Do vậy, áp lực về vay mới để trả các khoản vay cũ
trong nước là tương đối lớn.

18


Hình 4: Cơ cấu chủ nợ nước ngoài của Việt Nam năm 2012
Nguồn: Bộ Tài chính, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội.
Theo đó, các chủ nợ lớn nhất của Việt Nam năm 2012 là Nhật Bản (34,5% tổng nợ), WB
(28,8%) hay ABD (15,5%) và Đức (9,8%). Như vậy, phần lớn nợ nước ngoài của Việt Nam
chủ yếu định giá bằng các động tiền mạnh như JPY, SDR, USD và EUR.

Điều đáng ngại là việc phụ thuộc lớn vào USD, trong khi thương mại và vay nợ phụ
thuộc vào đồng tiền các nước khác với tỷ trọng cao hơn khiến cho tỷ giá song phương giữa
Việt Nam và các nước bạn hàng lớn bị ảnh hưởng trong quan hệ thương mại và đầu tư, không
phản ánh được đúng tương quan kinh tế giữa Việt Nam và các nước bạn hàng.

2.1.2 Thực trạng quản lý nợ công giai đoạn 2010 – 2015
Thứ nhất, các ràng buộc ngân sách của Việt Nam quá lỏng lẻo, điều đó cũng là biểu hiện
của tình trạnh quản lý nợ công kém hiệu quả. Chính điều này đã làm cho các quyết định chi
tiêu hay vay nợ trở nên dễ dàng bị sử dụng tùy tiện và lạm dụng. Điều này trước hết biểu hiện
ở con số quyết toán chi ngân sách hàng năm luôn cao hơn nhiều so với dự toán đề ra, và tình
trạng này kéo dài trong rất nhiều năm. Thậm chí số chi trả nợ thực tế còn lớn hơn nhiều so với
19


số dự toán, và điều này không những không có dấu hiệu cải thiện mà còn nặng nề hơn trong
những năm gần đây. Điều này cũng cho thấy rằng công tác quản lý nợ đến hạn của Việt Nam
đang có vấn đề. Thực trạng này đặt ra mối nghi ngại rằng Bộ Tài chính đã không thể quản lý,
kiểm soát và thống kê đầy đủ, kịp thời các khoản nợ hiện đang nằm rãi rác ở nhiều bộ ngành,
địa phương, SOEs... cũng như chưa có sẵn một kế hoạch hợp nhất các lịch biểu trả nợ làm cơ
sở cân đối nguồn lực thanh toán cũng như lập dự toán ngân sách nhà nước hàng năm. Việc
quản lý nợ như vậy là hết sức rủi ro, vì nó khó có thể cân đối được nhu cầu nắm giữ tài sản

thanh khoản với khả năng thanh toán nợ tức thời một khi có yêu cầu. Trong trường hợp này
có vẻ như “két tiền” dùng để trả nợ đã bị trộn lẫn và như vậy việc quản lý nợ đã vi phạm
nguyên tắc minh bạch và rõ ràng. Tức là, khi có một khoản nợ đến hạn, cơ quan chịu trách
nhiệm chi trả nợ chỉ việc rút từ trong két ra một khoản tiền để trả mà không cần biết việc này
có thể ảnh hưởng đến khả năng trả các khoản nợ tiếp theo như thế nào. Khó khăn thanh khoản
chỉ đến khi két tiền bắt đầu cạn trong khi vẫn còn nhiều khoản nợ đang chờ xếp hàng thanh
toán. Một khi két tiền không còn thì khả năng “mượn” tạm ở đâu đó rất dễ xảy ra, hoặc có thể
sử dụng điều khoản buộc NHNN phải có nghĩa vụ “tạm ứng” cho NSNN theo yêu cầu của

Thủ tướng như trong quy định của Luật Ngân sách Nhà nước 2002 (Điều 23) cũng như Luật
NHNN 2010 (Điều 26).
Thứ hai, hàng năm Chính phủ chi cho đầu tư rất lớn, không chỉ từ ngân sách mà còn từ
trái phiếu Chính phủ, vốn tín dụng nhà nước, và cả đầu tư của SOEs, nhưng tình trạng quản
lý nợ công yếu kém nên dẫn tới hiệu quả đầu tư công rất thấp do lãng phí, thất thoát, thậm chí

là còn tham nhũng đối với đầu tư công của chính phủ, đây là những vấn đề đã tồn tại dai dẳng
trong một số bộ phận cán bộ quản lý nhà nước, dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng cho
chính phủ, nền kinh tế cũng như xã hội:
- Cụ thể như vụ vỡ đường ống dẫn nước sông đà, do Tổng Công ty Vinaconex làm chủ
đầu tư, tổng mức đầu tư khoảng 1.450 tỷ đồng, sau 5 năm thi công thì đến năm 2009 đã được
đưa vào sử dụng. Tuy nhiên, từ tháng 2/2012 đến tháng 9/2015, tuyến ống nước sạch Sông Đà
20


– Hà Nội bị vỡ 14 lần, gây hâu quả nghiêm trọng cho chính phủ cũng như ảnh hưởng đến đời
sống sinh hoạt của người dân.
- Một vụ việc khác cũng đang được dư luận rất quan tâm trong thời gian qua đó là: vi
phạm ở Tổng công ty Cổ phần Xây lắp dầu khí (PVC) với thua lỗ 3.300 tỷ cùng nhiều vi phạm
khác trong giai đoạn 2011 - 2013, do Trinh Xuân Thanh làm Chủ tịch HĐQT, đã gây thất
thoát của chính phủ hàng ngàn tỷ.

Từ đó có thể thấy thực trạng quản lý nợ công của chính phủ trong giai đoạn 2010-2015
còn nhiều bất cập và yếu kém.
Song song với tình hình quản lý yếu kém thì việc công khai thông tin tài chính của chính
phủ cũng còn rất mù mờ và mơ hồ. Công khai thông tin tình hình tài chính là một nguyên tắc
căn bản hàng đầu và phổ biấn trên thế giới trong quản trị tài khóa và đặc biệt là trong quản trị
nợ công. Theo hướng dẫn quản lý nợ công của MIF (2003) cũng như cẩm nang tính minh bạch
tài khóa (2007). Tuy nhiên trên thực tế công tác này lại chưa đạt được yêu cầu.
-Thứ nhất, việc xác đinh rõ vai trò và trách nhiệm tài khóa của các cơ quan chính phủ

vẫn còn nhiều tiêu chí chứa rõ ràng, tuy nhiên đây lai là yếu tố quan trọng để đảm bảo trách
nhiệm giải trình trong việc hoạch định và thực thi chích sách.
-Thứ hai, khu vực chính phủ chưa được tách bạch rõ ràng ra khỏi phần còn lại của khu
vực công và phần còn lại của nền kinh tế, dẫn đến chính sách và vai trò quản lý của khu vực
công chưa rõ ràng và công bố công khai.
-Thứ ba, về quản lý nợ, pháp luật quản lý nợ chưa giao trách nhiệm rõ ràng cho một cơ
quan đứng đầu nào chịu trách nhiêm cụ thể cho việc: lựa chọn các công cụ cần thiết cho việc
vay nợ, xây dựng chiến lược quản lý nợ, xác định giới hạn nợ luật không quy đinh rõ ràng.
Về các thủ tục hành chính, việc cải cách hành chính nhà nước chứa thưc sự hiệu quả,
việc thực hiên cách chính sách chưa thực sự đồng bộ trên tất cả các nội dung, thể chế, bộ máy
21


nhà nước, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức… Trong đó, chưa có
đủ cơ chế giám sát của nhân dân đối với các hoạt đông của cơ quan nhà nước, chưa làm rõ
thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan hành chính nào trong giải quyết khiếu nại của
người dân trong việc tố cáo hoặc phát hiện sai phạm về sử dụng và quản lý nợ công, chứa thực
sự làm tốt việc tiếp nhận ý kiến và phản hồi của người dân. Bên cạch đó thủ tục hành chính
còn phức tạp, chưa được đơn giản hóa và thông tin công bố trên cổng thông tin của bộ, địa
phương cũng chưa thực sự cụ thể, đầy đủ, minh bạch.
Về hiệu quả hoạt động kiểm toán của nhà nước, còn nhiều bất cập chưa mang tính chất
độc lập và đáng tin cậy, nhiều hoạt đông chưa được đưa cụ thể vào chỉ tiêu quan trọng trong
các hoạt đông quản lý nợ hàng năm, cùng với đó thì cũng chưa thực hiên tốt các tiêu chuẩn
hóa cán bộ tin dùng và kiên quyết loai bỏ các thành phần cán bộ yếu kém về tư tưởng đạo đức,
năng lực, phẩm chất cá nhân.
2.2. Đánh giá hiệu quả quản lý nợ công
2.2.1 Những thành công trong công tác quản lý nợ công
Bên cạnh một số yếu kém thi chúng ta cũng đã đạt được một số thành quả nhất định
trong quản lý nợ và cùng với đó là những cam kết của chính phủ về đẩy mạnh việc cải thiện
các chính sách quản lý, giám sát nợ.

- Một số thành tựu như việc ban hành Luật Quản lý nợ công đã tạo môi trường pháp lý
đồng bộ, đầy đủ về lĩnh vực quản lý nợ công của Việt Nam, đồng thời, từng bước công khai,
minh bạch, tạo điều kiện kiểm tra, kiểm soát của toàn xã hội đối với việc vay và trả nợ công.
Luật cũng đã tạo môi trường pháp lý quan trọng cho việc huy động các nguồn vốn trong và
ngoài nước phục vụ đầu tư phát triển kinh tế, xã hội.
- Trong giai đoạn từ 2010 - 2015, tổng huy động nợ công của Việt Nam đạt bình quân
14% GDP, chiếm khoảng 44% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, tốc độ tăng bình quân
hàng năm nhanh (mức 18,6%/năm). Trong đó, nguồn vốn huy động của Chính phủ chiếm
22


×