Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Dấu hiệu ngôn hành của một số hành động cầu khiến tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (954.73 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
ĐẠI HỌC KHOA HỌC
------------------------------------------

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ

DẤU HIỆU NGÔN HÀNH
CỦA MỘT SỐ HÀNH ĐỘNG CẦU KHIẾN
TIẾNG VIỆT

Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Thanh Ngân
Mã số: : B2008-TN08-06

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – 1ĐHTN




Thái Nguyên, tháng 3 năm 2010
DANH SÁCH CÁ NHÂN VÀ ĐƠN VỊ THAM GIA THỰC HIỆN:
1. Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Thanh Ngân
2. Cộng tác viên:
- Ths Bùi Linh Huệ - Khoa Văn- Xã hội- Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
- Ths Nguyễn Thu Trang,- Khoa Văn- Xã hội, Đại học Khoa học- ĐH Thái Nguyên
- Ths Nguyễn Thị Hạnh Phương - Khoa Ngữ văn- ĐH Sư phạm, ĐH Thái Nguyên
3. Đơn vị phối hợp thực hiện
- Khoa Ngữ văn- ĐH Sư phạm Thái Nguyên
- Khoa Ngôn ngữ- ĐHXH & NV- ĐHQG Hà Nội
- Hội ngôn ngữ học Việt Nam



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – 2ĐHTN




MỤC LỤC

QUY ƯỚC VIẾT TẮT:

- HĐNN: Hành động nói năng
- HĐNT: Hành động ngôn từ
- IFIDs: Các dấu hiệu ngôn hành
- Sp1: Người nói
- Sp2: Người nghe
- VTNH (Vp): Vị từ ngôn hành
-Vm: Vị từ tình thái
- Pm: Tiểu từ tình thái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – 3ĐHTN




MỞ ĐẦU ......................................................................................................................................... 5
1. Tính cấp thiết của đề tài:.......................................................................................................... 5
1.1. Về lý luận .......................................................................................................................... 5
1.2. Về thực tiễn:...................................................................................................................... 6
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: .............................................................................................. 7
3. Phương pháp nghiên cứu: ........................................................................................................ 8

4. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài: ............................................................................................... 8
5. Lịch sử vấn đề.......................................................................................................................... 8
6. Bố cục của đề tài:................................................................................................................... 11
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................................. 12
1.1. Hành động ngôn từ ............................................................................................................. 12
1.1.1. Lý thuyết hành động ngôn từ ...................................................................................... 12
1.1.2. Phân loại các HĐNT ................................................................................................... 14
1.2. Câu ngôn hành và dấu hiệu ngôn hành ............................................................................... 17
1.2.1. Câu và phát ngôn......................................................................................................... 17
1.2.2. Câu ngôn hành ............................................................................................................ 18
1.2.3. Dấu hiệu ngôn hành .................................................................................................... 19
1.3. Hành động cầu khiến .......................................................................................................... 26
1.3.1. Hành động cầu khiến và câu cầu khiến ....................................................................... 26
1.3.2. Hành động cầu khiến và vấn đề tình thái .................................................................... 30
CHƯƠNG 2. DẤU HIỆU NGÔN HÀNHCỦA NHÓM HÀNH ĐỘNG CẦU KHIẾN TIẾNG VIỆT ...............32
2.1. Dấu hiệu ngôn hành của toàn nhóm hành động cầu khiến ................................................. 32
2.1.1. Các vị từ ngôn hành..................................................................................................... 32
2.1.2. Các từ ngữ (tổ hợp) chuyên dụng ................................................................................ 36
2.1.3. Các kiểu kết cấu ........................................................................................................... 42
2.2. Dấu hiệu ngôn hành của các tiểu nhóm thuộc nhóm hành động cầu khiến. .......................................... 46
2.2.1. Tiểu nhóm 1. Các hành động cầu khiến thuần lý trí ................................................... 47
2.2.2. Tiểu nhóm 2. Các hành động cầu khiến thuần tình cảm ............................................. 49
2.2.3. Tiểu nhóm 3. Các hành động vừa lý trí, vừa tình cảm ............................................... 52
Chương 3. DẤU HIỆU NGÔN HÀNH CỦA MỘT SỐ HÀNH ĐỘNG CẦU KHIẾN CỤ THỂ .... 54
3.1. Tiểu nhóm 1- Hành động cầu khiến thuần lý trí ................................................................. 54
3.1.1. Lệnh ............................................................................................................................. 54
3.1.2. Yêu cầu ........................................................................................................................ 58
3.1.3. Cấm.............................................................................................................................. 61
3.2. Tiểu nhóm 2. Nhóm hành động cầu khiến thuần tình cảm ................................................. 64
3.2.1. Cầu nguyện .................................................................................................................. 64

3.2.2. Nhờ .............................................................................................................................. 65
3.3. Tiểu nhóm 3. Hành động cầu khiến vừa lý trí, vừa tình cảm ............................................. 68
3.3.1. Khuyên ......................................................................................................................... 68
3.3.2. Khuyến cáo .................................................................................................................. 70
3.4. Một số hành động đặc biệt .................................................................................................. 71
3.4.1. Hỏi ............................................................................................................................... 71
3.4.2. Mời............................................................................................................................... 75
KẾT LUẬN ................................................................................................................................... 79

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – 4ĐHTN




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
1.1. Về lý luận
Dụng học là chuyên ngành rất trẻ của ngôn ngữ học. Được đặt tên từ những
năm 30 của thế kỷ trước- trong mô hình tam phân kết học- nghĩa học- dụng học của
Ch. Moris, nhưng đến những năm 50, với công trình “How to do things with
words” của J. Austin, chuyên ngành này mới thực sự có được nền tảng lí luận cho
lĩnh vực rất quan trọng của nó là lí thuyết hành động ngôn từ. Dụng học nghiên cứu
việc sử dụng ngôn ngữ, cũng là nghiên cứu những vấn đề liên quan đến nói năng.
Cũng như các hành động vật lý khác, nói năng được thực hiện theo một đích nhất
định, bằng một công cụ nhất định, nhằm tác động đến một đối tượng nào đó. Duy
chỉ có điều, phương tiện của hành động này là ngôn ngữ, thông qua đó, nó tác động
làm thay đổi trạng thái tinh thần hay vật lý của người nghe. Trong các hành động
nói năng, nhóm cầu khiến thể hiện bản chất hành động tương tác rõ hơn các hành
động khác, vì nó thể hiện quan hệ trực tiếp, tức thời giữa người nói và người nghe,
trong một thoại trường nhất định.

Là một trong năm nhóm hành động lớn theo sự phân loại của Austin và
Searle, nhóm cầu khiến có bản chất hết sức phức tạp, bởi bản thân nó gồm nhiều
hành động cụ thể, mà mỗi hành động lại có bản chất cũng như các hình thức nhận
biết riêng. Số lượng hành động đến nay chưa được thống kê chính xác, mà số lượng
các tiểu nhóm hành động cũng là vấn đề khiến nhiều nhà nghiên cứu chưa thống
nhất. Không ít người e ngại khi đề cập đến những vùng biên, những ranh giới mong
manh, những khoảng giao nhau giữa hành động này với hành động khác. Không ít
người né tránh việc định nghĩa và nêu lên bản chất từng hành động... Phức tạp là
vậy, nhưng không ai có thể phủ nhận một điều: việc phân loại các hành động cầu
khiến không những giúp các nhà dụng học Việt ngữ đong đếm được số lượng “tài
sản ngôn ngữ” mà tiếng Việt đang sở hữu, giúp các nhà ngôn ngữ học đối chiếu
giải thích được những nét tương đồng, dị biệt trong các hành động cầu khiến giữa
tiếng Việt với các cộng đồng ngôn ngữ khác mà còn giúp những người tâm huyết
với lí thuyết hành động ngôn ngữ có cơ sở tìm hiểu sâu về từng hành động cụ thể,
từ đó sẽ có những đóng góp vào kho tàng lí luận chung về lí thuyết hành động ngôn từ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – 5ĐHTN




Một điểm đáng lưu ý nữa là, khi xem xét, phân loại các hành động, người ta
không thể bỏ qua các dấu hiệu nhận biết. Vì mang bản chất tín hiệu, mỗi nhóm
hành động hay mỗi hành động cụ thể cũng mang tính hai mặt: cái biểu đạt- CBĐ
(hình thức) và cái được biểu đạt- CĐBĐ (nội dung- khái niệm). CBĐ chỉ có giá trị
khi phản ánh CĐBĐ, và CĐBĐ chỉ có thể thể hiện thông qua CBĐ. Từ những dấu
hiệu hình thức có tính quy luật, có thể tìm ra bản chất của hành động, hay nói khác
đi, chỉ có thể nhận diện và phân loại các hành động dựa vào các dấu hiệu hình thức
của hành động hay dấu hiệu ngôn hành. Cho nên, nghiên cứu dấu hiệu ngôn hành
của các hành động thuộc nhóm cầu khiến có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy, những công trình khoa học nghiên cứu vấn đề này chưa nhiều. Hầu hết

các tác giả chỉ nêu ra những dấu hiệu ngôn hành với tư cách những minh chứng
nhất định khi miêu tả các hành động cụ thể, chưa lấy đó làm cơ sở để xác lập các
hành động ngôn từ (HĐNT).
1.2. Về thực tiễn:
Cầu khiến là nhóm hành động quan yếu trong đời sống. Sống giữa môi
trường giao tiếp, không ai không có lúc nhờ vả, mời mọc, yêu cầu hay khuyên
bảo... Song, do nhiều lý do, mà quan trọng nhất là vì không nắm rõ bản chất hành
động, người nói (Sp1) có thể có sự nhầm lẫn nhất định, khiến người nghe (Sp2)
hiểu nhầm, phật ý. Cho nên, việc phân loại các hành động cầu khiến là việc làm cần
thiết, giúp người sử dụng nắm được bản chất của từng hành động, có thể ứng dụng
những kiến thức về chúng khi nói năng, từ đó dễ dàng đạt được hiệu quả giao tiếp.
Điều này đặc biệt hữu ích cho những người đang và sẽ học tiếng Việt như một
ngoại ngữ.
Việc xác lập các hành động nhóm này còn là cơ sở để nghiên cứu sâu hơn
phép lịch sự và chiến lược lịch sự trong giao tiếp. Như đã nói ở trên, đây là nhóm
thể hiện mạnh nhất cái bản chất hành động của ngôn ngữ: khi cầu khiến, Sp1 muốn
Sp2 thực hiện / không thực hiện một việc gì đó trong tương lai (thường là tương lai
gần). Nói khác đi, Sp1 bằng lời cầu khiến, tác động vào Sp2, khiến Sp2 phải thay
đổi trạng thái vật lý, dẫn đến phản ứng tức thời là Sp2 phải hành động theo những
gì Sp1 muốn (hoặc phải có lời nói từ chối), đi kèm với tâm trạng khác hẳn khi lời
cầu khiến chưa phát ra. Do vậy, cầu khiến được liệt vào nhóm hành động có nguy
cơ “đe doạ thể diện ( face threatening acts- FTA)” cao nhất. Làm thế nào để Sp1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – 6ĐHTN




vừa đạt được đích của hành động, lại đảm bảo giữ thể diện hoặc giảm thiểu tính
chất đe doạ thể diện cho người đối thoại, sao cho cuộc giao tiếp đạt hiệu quả cao
nhất- ấy là điều mà các nhà nghiên cứu sâu về chiến lược lịch sự rất mực quan tâm.

Xem xét ở phạm vi rộng hơn, ngôn ngữ là một phần quan trọng của văn hoá.
Nghiên cứu dấu hiệu nhận biết (đi kèm với những điều kiện thuận ngôn) của các
hành động cầu khiến cũng là nghiên cứu thói quen, nếp sinh hoạt và bản sắc văn
hoá từng dân tộc. Ví dụ: lời mời của người Anh thường được thể hiện bằng các câu
hỏi ướm lời, xem người đối thoại có ưng thuận không, trong khi lời mời của người
Việt thường có dấu hiệu nài ép, khiến người nghe thường vì nể mà nhận lời. Tất cả
xuất phát từ thói quen văn hoá của hai dân tộc: người Anh rất tôn trọng sự tự do và
sở thích cá nhân, không bao giờ can thiệp vào đời tư của người khác, trong khi
người Việt, để tăng sự thân tình, đã vô tình xâm phạm vào đời tư của người đối
thoại... Mối liên hệ ngôn ngữ và văn hoá cho phép sử dụng kết quả nghiên cứu của
ngôn ngữ học làm cơ sở cho văn hoá học và ngược lại.
Thực tế thì, đến thời điểm này, các công trình nghiên cứu về vấn đề này chưa
nhiều, chủ yếu dừng lại ở việc miêu tả, giải thích, nhận xét một số hành động cụ thể
trong nhóm, chưa có cái nhìn có tính khái quát, giúp các nhà nghiên cứu đưa ra
được những ý kiến tổng hợp về ngôn ngữ văn hoá bản ngữ trong quá trình so sánh,
đối chiếu với các dân tộc khác.
Từ những lí do trên, chúng tôi cho rằng đề tài “Dấu hiệu ngôn hành của một
số hành động cầu khiến Tiếng Việt” sẽ nằm trong số những đề tài cấp thiết nhất của
ngữ dụng học trong xu thế hiện nay.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng của đề tài là dấu hiệu ngôn hành của một số hành động cầu khiến
trong tiếng Việt. Mỗi hành động có thể có một hoặc hơn một dấu hiệu ngôn hành,
và càng nhiều dấu hiệu trong một sản phẩm nói năng thì việc nhận biết và phân loại
từng hành động càng thuận tiện hơn.
Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi tiến hành khảo sát, xem xét các hành động
có chứa từ một đến ba dấu hiệu: những kết cấu đặc trưng của câu/ phát ngôn cầu
khiến, những từ ngữ chuyên dùng khi cầu khiến và các vị từ ngôn hành (động từ
ngôn hành, động từ ngữ vi- performative verb) của nhóm cầu khiến. Riêng những
hành động gắn liền với ngữ điệu- đòi hỏi sự dày công nghiên cứu với những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – 7ĐHTN





phương thức công phu, đòi hỏi tiến hành thực nghiệm thì chúng tôi xin dành để
nghiên cứu tiếp trong công trình có phạm vi nghiên cứu rộng hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện nhờ các phương pháp chủ yếu sau:
- phương pháp miêu tả kết hợp giải thích bên ngoài (phân tích ngữ cảnh, thay
thế, cải biến…) và bên trong (phân tích vị từ, tham tố…);
- phương pháp thu thập tư liệu của ngôn ngữ học xã hội (dùng anket- bảng
hỏi có gợi dẫn).
4. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài:
Thứ nhất, khảo sát các hành động cầu khiến trên cứ liệu tiếng Việt.
Thứ hai, tìm ra các dấu hiệu ngôn hành mang tính đặc trưng của toàn nhóm cầu khiến.
Thứ ba, chỉ ra được các dấu hiệu ngôn hành của từng hành động cầu khiến cụ thể.
Thứ tư, trên cơ sở các dấu hiệu ngôn hành, kết hợp với các điều kiện thuận
ngôn của hành động, bước đầu xác lập các hành động cầu khiến tiếng Việt.
5. Lịch sử vấn đề
5.1. Có thể nói, lý thuyết hành động ngôn từ (HĐNT) được đặt nền móng bởi
J. Austin, sau đó được phát triển bởi J. Searle, Anna Wierzbicka, D. Wunderlich, F.
Recanati, K. Bach, R.M. Hanish… Trong đó, công đầu thuộc về hai tác giả: J.
Austin và J. Searle (chúng tôi dành để nói kỹ hơn trong chương 1).
5.2. Trong nước, tình hình nghiên cứu HĐNT diễn ra muộn hơn nhưng rất
sôi nổi. Điển hình là các tác giả sau:
5.2.1. Tác giả Đỗ Hữu Châu, trong giáo trình “Đại cương ngôn ngữ học” đã
dành cả một chương trong tổng số sáu chương cho vấn đề HĐNT (tác giả dùng
thuật ngữ “hành vi ngôn ngữ”). Sau khi định nghĩa HĐNT, tác giả trình bày khá kỹ
lưỡng về “phát ngôn ngữ vi” (câu ngôn hành), biểu thức ngữ vi (ngôn hành), các
động từ ngữ vi (1), về biểu thức ngôn hành nguyên cấp và tường minh, về giả thuyết

ngôn hành cũng như sự thất bại của giả thuyết này. Tác giả cũng đã phân tích khá
kỹ lưỡng các dấu hiệu ngôn hành. Đặc biệt, khi giới thiệu động từ ngữ vi- một dấu
hiệu quan trọng, tác giả đã chia động từ nói năng (ĐTNN) thành 3 loại: ĐTNN vừa
có thể dùng với chức năng ngôn hành vừa có thể dùng với chức năng miêu tả; động
Các tác giả Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân gọi đây là động từ ngữ vi; một số tác giả khác gọi là động từ ngôn
hành. Trong “Lịch sử vấn đề”, chúng tôi dùng nguyên văn thuật ngữ của các tác giả, với ý nghĩa tương đương vị từ
ngôn hành mà không giải thích lại.
(1)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – 8ĐHTN




từ chỉ được dùng với chức năng miêu tả và động từ chỉ được dùng trong hiệu lực
ngôn hành- các động từ cụ thể chỉ được dùng trong chức năng này thật sự ít ỏi.
Về hành động cầu khiến, tác giả giới thiệu với tư cách người truyền tải tư
tưởng của J. Austin và J. Searle thông qua việc trình bày cách phân loại hành động
ngôn từ (HĐNT) của hai tác giả này. Dù ít ỏi, nhưng đó là sự chắt lọc chính xác và
rất hữu ích.
5.2.2.Tác giả Nguyễn Đức Dân, trong [12], ngoài những nội dung giới thiệu
quan điểm của Austin, Searle, có phân tích khá kỹ các động từ ngữ vi, biểu thức
ngữ vi và các dấu hiệu ngữ vi (thuật ngữ của tác giả). Trong đó, các động từ ngữ vi
được giải thích kỹ hơn cả. Ông chỉ ra những hiện tượng mơ hồ giữa động từ ngữ vi
và động từ trần thuật [12; 36-37], giữa câu ngữ vi và câu trần thuật [12; 37] từ đó
đề xuất một số cách phân biệt hai loại câu này.
Về dấu hiệu ngôn hành, tác giả nhấn mạnh: “ngoài động từ ngữ vi còn có
những dấu hiệu ngữ vi khác nữa. Đó là những cấu trúc ngữ pháp và những từ ngữ
có quan hệ logic- ngữ nghĩa nhất định” [12; 49], đồng thời cũng chỉ ra con đường
hình thành của những dấu hiệu này. Theo đó, chúng tồn tại do quan hệ logic, do sự

từ vựng hoá, do quá trình biến chuyển từ hình thức của một hành động gián tiếp tới hành
động ở lời phái sinh và do quy ước.
Trên cơ sở đó, tác giả phân tích một số hành động cầu khiến. Chẳng hạn:
được nhìn nhận dưới góc độ logíc ngữ nghĩa, nên hành động “cấm thực hiện P (P:
nội dung mệnh đề) được tác giả lý giải là “không được thực hiện P”; hành động
“khuyên (thực hiện) P=> nên (thực hiện P; hành động khuyên (không thực hiện
P=> đừng, chớ, không nên (thực hiện) P; bắt buộc, cưỡng bức (thực hiện) P=> phải
(thực hiện) P; yêu cầu (thực hiện P => phải thực hiện P; ra lệnh (thực hiện)P =>
phải (thực hiện P)” . Tác giả lý giải “một từ tình thái phải được dùng để biểu hiện
những hành vi tại lời (HVTL) khác nhau: bắt buộc, cưỡng bức, yêu cầu, ra lệnh.
Nói khác đi, bản chất của các HVTL này giống nhau. Chúng khác nhau không
nhiều về sắc thái nghĩa ” [12;50]
Khi lý giải sự từ vựng hoá hiệu lực tại lời và dấu hiệu ngữ vi, tác giả phân
tích: HVTL “đề nghị”, “mong muốn” ai làm thực hiện P có hiệu lực tại lời là “kêu
gọi thiện chí “ của ai thực hiện P. Ý nghĩa “kêu gọi thiện chí” này được từ vựng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – 9ĐHTN




hoá thành những vị từ như xin, hộ, giúp, làm ơn, nhờ…và các thán từ đứng cuối
nhé, nhá, nha…
Tuy nhiên, ngoài những lời giới thiệu về hành động cầu khiến một vài ví dụ
ít ỏi minh hoạ cho câu ngôn hành, cho dấu hiệu ngôn hành, tác giả chưa đi sâu phân
tích, miêu tả nhóm hành động này.
5.2.3. Tác giả Bùi Mạnh Hùng trong quá trình phân loại câu, có nhắc đến câu
cầu khiến với tư cách là biểu hiện trực tiếp của hành động cầu khiến. Theo tác giả,
về nguyên tắc, câu cầu khiến không cần xác lập thành một kiểu câu riêng, bởi mục
đích có thể đạt được bằng các kiểu câu khác nhau như trần thuật, cảm thán, nghi

vấn. Nhưng một số hành động của nhóm này mang tính thường xuyên và quan
trọng đến mức dường như không cộng đồng ngôn ngữ nào thiếu kiểu câu này. Với
tiếng Việt, dấu hiệu hình thức của câu cầu khiến không được bộc lộ rõ. Tác giả
quan niệm chỉ cần hai tiêu chí sau là có thể phân loại được câu cầu khiến: i. có các
từ cầu khiến như hãy/ đừng/ chớ và chủ thể của hãy/ đừng / chớ bao giờ cũng ở
ngôi thứ hai hoặc ở ngôi thứ nhất số nhiều, dạng ngôi gộp; ii. có khả năng thêm từ
hãy/ đừng/ chớ ở những ngôi đã nêu trên. Tuy vấn đề kiểu câu thuộc lĩnh vực ngữ
pháp nhưng đây là những gợi ý quý báu để tìm hiểu về các dấu hiệu ngôn hành của
nhóm hành động cầu khiến với tư cách là nhóm hành động điển hình của kiểu câu
cầu khiến.
5.2.4. Tác giả Đào Thanh Lan cũng dành nhiều công sức với đề tài câu cầu
khiến. Việc nghiên cứu về các vị từ tình thái (nên, cần, phải; mong muốn…) trong
câu cầu khiến và cách biểu hiện của hành động cầu khiến gián tiếp trong câu hỏicầu khiến tiếng Việt cũng là những minh chứng cụ thể cho điều này. Tuy nhiên, dù
đã gắn câu với hành động ngôn từ và lý giải sự ảnh hưởng của các yếu tố đối với
lực ngôn trung, song tác giả chủ yến vẫn thiên về những miêu tả hình thức như
thường được thấy ở ngữ pháp truyền thống. Do vậy, vẫn còn những độ vênh nhất định
giữa ngữ dụng - ngữ pháp.
5.2.5. Tác giả Nguyễn Văn Độ đã chỉ ra những thói quen thực hiện hành
động và những đặc điểm cơ bản của hành động thỉnh cầu giữa tiếng Anh và tiếng
Việt. Những đặc điểm có được thông qua sự đối chiếu ngôn ngữ này với ngôn ngữ
khác là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu mối liên hệ giữa ngôn ngữ và văn
hoá. Tác giả khẳng định:“…mối liên hệ không thể tách rời giữa ngôn ngữ và văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –10
ĐHTN




hoá, và quan trọng hơn, văn hoá quy định sự phát triển và đồng thời là cội nguồn của các
đặc trưng ngôn ngữ (cả trên hai phương diện: cấu tạo và sử dụng) thông qua hành động thỉnh

cầu”.[15; 120]
5.2.6. Tác giả Nguyễn Đức Hoạt chỉ ra những dấu hiệu lịch sự tiêu biểu trong
câu cầu khiến tiếng Anh và tiếng Việt, dẫn đến nhận định “trong khi người Anh chú
trọng nhiều đến yếu tố khéo léo (tact) mang nặng tính mục đích cá nhân thì người
Việt để đạt được mục đích giao tiếp phải vận dụng cả hai yếu tố: kính trọng và
khéo léo. Yếu tố nghi thức là điều kiện cần và yếu tố khéo léo là điều kiện đủ để đạt
mục tiêu giao tiếp của mình” [32; 22- 23]. Tác giả cho rằng dấu hiệu chỉ phép lịch
sự rất hữu ích trong việc giảng dạy, soạn thảo tài liệu dạy học câu cầu khiến tiếng
Anh và tiếng Việt như một ngoại ngữ.
5.2.7. Tác giả Vũ Thị Thanh Hương [35; 39-48] cho rằng hành động cầu
khiến là “”.loại hành vi ngôn từ được người nói sử dụng nhằm điều khiển người
nghe hành động theo chủ ý của mình Căn cứ vào mức lợi thiệt mà người nói (Sp1)
và người nghe (Sp2) nhận được, có thể chia thành cầu khiến cạnh tranh và cầu
khiến hoà đồng. Từ những phân tích cụ thể, tác giả kết luận: các chiến lược lịch sự
thay đổi mức lợi- thiệt dùng trong lời cầu khiến cạnh tranh là giảm thiệt/tăng lợi
cho Sp2 hoặc giảm lợi/tăng thiệt cho Sp1 và trong lời cầu khiến hoà đồng là giảm
thiệt/ tăng lợi cho H; tăng lợi/ giảm thiệt cho S.
Theo đó, tác giả đưa ra các chiến lược cụ thể mà người Việt thường dùng cho
mỗi cách nêu trên. Đây là những gợi ý rất quý báu cho việc thực hiện đề tài này.
Tóm lại, các tác giả nêu trên đã đề cập tới vấn đề cầu khiến ở các khía cạnh: xác
nhận sự tồn tại của hành động cầu khiến; những dấu hiệu ngôn hành cơ bản để nhận biết
hành động cầu khiến; sự tương đồng và khác biệt giữa hành động cầu khiến trên cứ liệu
tiếng Việt và các ngôn ngữ khác; những chiến lược lịch sự trong lời cầu khiến; câu cầu
khiến và một số dấu hiệu hình thức của câu…. Tuy nhiên, từ những trình bày trên đây,
vẫn thiếu một công trình khái quát để nhận diện một cách có chiều sâu bản chất của
nhóm cầu khiến và đặc biệt là phân biệt được các tiểu nhóm cũng như các hành động cụ
thể trong nhóm này. Và đây cũng là mục đích khoa học mà công trình của chúng tôi
hướng tới.
6. Bố cục của đề tài: Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1- Cơ sở lý luận;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –11
ĐHTN




Chương 2- Dấu hiệu ngôn hành chung của nhóm hành động cầu khiến
Chương 3- Dấu hiệu ngôn hành của các hành động cầu khiến cụ thể
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Hành động ngôn từ
1.1.1. Lý thuyết hành động ngôn từ (Theory of Speech Acts)
J. Austin là người có công đầu trong việc xây dựng lý thuyết HĐNT. Lý
thuyết HĐNT có thể tóm lược thành ba bước cơ bản như sau:
B1. Phân biệt câu nhận định (constative) và câu ngôn hành (performative).
B2. Tiến đến nhận định: mọi phát ngôn đều là ngôn hành, hoặc tường minh
(explicit), hoặc hàm ẩn (implicit).
B3. Công nhận sự thất bại của giả thuyết ngôn hành, chỉ ra ba phạm trù của
hành động ngôn ngữ.
Ban đầu, những ý tưởng đầu tiên về lý thuyết HĐNT bắt nguồn từ việc
Austin chỉ trích Nguỵ thuyết miêu tả và Thẩm định luận bằng cách đưa ra một loạt
câu không thể đánh giá theo tiêu chí đúng/ sai, và nêu rõ những câu đó là câu hành
động (ngôn hành).
Tiếp theo, Austin nhận ra rằng thực chất các phát ngôn nhận định cũng là
một loại hành động. Nếu như các phát ngôn chứa những biểu thức có hiệu lực ở lời
(cụ thể là các vị từ ngôn hành như hứa, cảm ơn, xin lỗi, ra lệnh…) được gọi là
những phát ngôn ngôn hành tường minh, thì các phát ngôn nhận định hoàn toàn có
thể trở thành phát ngôn ngôn hành bằng cách khôi phục cấu trúc ở dạng sâu của nó.
Chẳng hạn:
(1). Hôm nay là thứ hai
(2). Tôi xác nhận hôm nay là thứ hai.

(Dẫn theo ví dụ trong bản dịch của Nguyễn Văn Hiệp, [29, 212]).
Ví dụ (1) vốn là một câu trần thuật. Tuy nhiên, nó có thể là một dạng của
(2), một phát ngôn ngôn hành tường minh với VTNH “xác nhận”. Các phát ngôn
nhận định khác đều có thể khôi phục để trở thành những câu ngôn hành theo cách
tương tự như vậy.
Tuy nhiên, sau này, chính ông thừa nhận có rất nhiều biểu thức ngôn hành
hàm ẩn không thể tường minh hoá bằng các vị từ ngôn hành, bởi HĐNT đó không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –12
ĐHTN




có các vị từ ngôn hành (Vp) tương ứng. Chẳng hạn, các hành động như rủ, sai,
chửi, mắng, cãi...
Chỉ ra sự thất bại của giả thiết ngôn hành, Austin quay lại với nhận định ở
bước 2: Tất cả các phát ngôn đều là ngôn hành. Nghĩa là khi nói một phát ngôn bất
kỳ, ta đã thực hiện một hành động đặc biệt: HĐNT. Hơn nữa, khi thực hiện thứ
hành động đặc biệt này, ta thực hiện không phải một mà là ba hành động đồng thời.
Cụ thể:
Hành động tạo lời là hành động tạo ra lời nói bằng cách vận động các bộ
phận cấu âm (miệng, thanh hầu, vòm họng…) để tạo ra lời nói hoặc các cử động
tay/ chân tạo ra chữ viết.
Hành động mượn lời là hành động mà người nói, người phát dùng ngôn ngữ
nhằm gây một hiệu quả ngoài ngôn ngữ ở người nghe, người nhận. Hiệu quả ngoài
ngôn ngữ có thể là trạng thái tâm lý hoặc trạng thái vật lý, nó khá phân tán nên rất
khó tìm được cơ chế chung.
Hành động tại lời (hành động ở lời) là hành động mà người nói thực hiện
ngay khi nói năng nhằm gây ra những hiệu quả ngôn ngữ, khiến người nghe/ nhận
có phản ứng tức thời. Tương ứng với hành động tại lời là lực ngôn trung

(illocutionary force)- vốn là ý nghĩa thật sự của phát ngôn, thường trùng với ý
muốn của người nói nhưng có trường hợp không hẳn như vậy.
Cùng chung quan điểm với Austin, sau này, J. Searle cũng chỉ ra rằng: khi
thực hiện một HĐNT, người ta thực hiện đồng thời ba hành động: hành động phát
ngôn (utterance act), hành động mệnh đề (propositional act) hành động tại lời
(illocutionary act). Trong đó, hành động phát ngôn tương đương với hành động tạo
lời của Austin- người nói (Sp1) dùng các đơn vị ngôn ngữ để tạo ta lời nói; hành
động mệnh đề là nội dung của lời nói và nội dung này có thể đánh giá theo tiêu chí
chân trị; hành động tại lời là sự bày tỏ chủ ý, ý định của người nói trong câu.
Trở lại với lý thuyết của Austin: ở bước thứ ba, ông đã nhấn mạnh rằng mọi
câu nói đều là hành động, những hành động ngôn từ. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả
giao tiếp, phải tuân thủ những điều kiện căn bản của các hành động ở lời (còn gọi là
điều kiện may mắn, điều kiện thuận ngôn). Điều kiện ấy, theo Austin, gồm ba yếu tố sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –13
ĐHTN




“A- (i) Phải có thủ tục có tính chất quy ước và thủ tục này phải có hiệu quả
cũng có tính quy ước; (ii) Hoàn cảnh và con người phải thích hợp với những điều
quy định trong thủ tục.
B- Thủ tục phải được thực hiện (i) một cách đúng đắn và (ii) đầy đủ.
C- Thông thường thì (i) những người thực hiện hành vi ở lời (hành động ở
lời) phải có ý nghĩ, tình cảm, ý định đúng như đã được đề ra trong thủ tục và (ii) khi
hành động diễn ra thì ý nghĩ, tình cảm, ý định đúng như nó đã có. [7;112]
Austin lấy một loạt ví dụ để chứng minh rằng, nếu Sp1 vi phạm một trong
những điều kiện trên thì hành động sẽ thất bại. Cũng theo hướng nghiên cứu ấy, sau
này, qua phân tích cứ liệu, Searle điều chỉnh lại và khái quát thành bốn điều kiện

may mắn (hay điều kiện thành công) cho các hành động tại lời như sau:
A- Điều kiện nội dung mệnh đề (có thể là một mệnh đề hay hàm mệnh đề).
B- Điều kiện chuẩn bị: gồm những hiểu biết của Sp1 về năng lực, lợi ích, ý định… của Sp2.
C- Điều kiện chân thành: Sp1 phải chân thành, tin tưởng, thực sự mong
muốn… khi thực hiện hành động.
D- Điều kiện căn bản: quy định kiểu trách nhiệm mà Sp1 hoặc Sp2 bị ràng
buộc khi hành động nói được thực hiện.
J. Austin và J. Searle gặp nhau chỗ chỉ ra rằng sự chân thành của người thực
hiện góp phần làm nên thành công của hành động. Chỗ khác nhau cơ bản là Austin
thiên về phân tích lời nói như thủ tục có tính chất lễ nghi, phân tích tính hiện thực
của hành động gắn với hoàn cảnh nói, trong khi Searle gắn nội dung lời nói với các
tố chất, trách nhiệm của người nói và người nghe.
Nhìn chung, lý thuyết hành động ngôn từ được Austin đặt nền móng và được
các học trò của ông sau này kế tục, xây dựng. Chúng tôi trình bày ba giai đoạn
nghiên cứu của Austin với những kết quả nổi bật của từng bước, đồng thời dẫn
thêm quan điểm của các nhà ngữ dụng học khác để bổ sung cho các kết quả đó,
nhằm nhấn mạnh những đóng góp của Austin, đồng thời chỉ ra những điểm nhấn
mà lý thuyết HĐNT đã đạt được ở từng khía cạnh.
1.1.2. Phân loại các HĐNT
1.1.2.1. Phân loại của J. Austin:
Theo J. L Austin, có năm nhóm HĐNT lớn:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –14
ĐHTN




Thứ nhất, nhóm phán xử (verditives) gồm những hành động “đưa ra lời
phán xét về một sự kiện hoặc một giá trị dựa trên những chứng cớ hiển nhiên hoặc

dựa vào những lý lẽ vững chắc như: xử trắng án, xem là, tính toán, miêu tả, phân tích…”
Thứ hai, nhóm hành xử (exercitives) gồm những hành động “đưa ra những
quyết định thuận lợi hay chống lại một chuỗi hành động nào đó: ra lệnh, chỉ huy,
biện hộ, khẩn cầu, giới thiệu...”
Thứ ba, nhóm cam kết (commissives) bao gồm những hành động “ràng buộc
Sp1 vào một chuỗi những hành động nhất định: hứa hẹn, bày tỏ lòng mong muốn,
giao ước, bảo đảm…”
Thứ tư, nhóm trình bày (expositives) bao gồm những hành động “trình bày
quan niệm, lập luận, dẫn dắt, giải thích các từ như khẳng định, phủ định, từ chối,
trả lời, phản bác...”
Thứ năm, nhóm ứng xử (behabitives) bao gồm những hành động “phản ứng
với cách xử sự của người khác, đối với các sự kiện có liên quan, chúng cũng là
cách xử sự của người khác đối với các sự kiện có liên quan, chúng cũng là cách
biểu hiện thái độ đối với hành vi hay số phận của người khác: xin lỗi, cám ơn, khen
ngợi, chào mừng, phê phán, ban phước...”[7, 120]
Việc phân loại này có ý nghĩa nhất định đối với việc nhận diện các HĐNT.
Tuy nhiên, chỗ thiếu sót của Austin là tuy phân loại các HĐNT, nhưng thực chất
việc này được thực hiện trên cơ sở các động từ. Thêm vào đó, Austin không đưa ra
một tiêu chí phân loại nào cụ thể, do vậy, kết quả tuy khá thuyết phục nhưng vẫn
mang màu sắc cảm tính. Ngoài ra, việc xác định phạm vi từng nhóm không rõ ràng,
khiến các hành động bị chồng chéo- vừa ở nhóm này vừa thuộc nhóm khác, hoặc
bỏ sót- nhất là các trường hợp hành động trung gian giữa các nhóm.
1.1.2.2. Phân loại của J. Searle
Khắc phục những thiếu sót của Austin, J. Searle đã đưa ra 12 điểm khác biệt,
có thể quy thành bốn tiêu chí chủ yếu là: đích ở lời (the point of the illocution);
hướng khớp ghép lời với hiện thực (direction of fit); trạng thái tâm lý được thể hiện
(expressed psychological states) và nội dung mệnh đề. Với bốn tiêu chí này, ông đưa
ra bảng xác lập năm nhóm HĐNT lớn như sau:
Nhóm thứ nhất, tái hiện (biểu kiến- representatives) có “đích ở lời là miêu tả
lại một sự tình đang được nói đến. Hướng khớp ghép là lời- hiện thực, trạng thái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –15
ĐHTN




tâm lý là niềm tin vào điều mình xác tín, nội dung mệnh đề là một mệnh đề. Các
mệnh đề này có thể đánh giá theo tiêu chí đúng/ sai logic”.
Nhóm thứ hai, điều khiển hay cầu khiến (directives) có “đích ở lời là đặt Sp2
vào trách nhiệm thực hiện một hành động tương lai; hướng khớp ghép hiện thựclời; trạng thái tâm lý là sự mong muốn của Sp1 và nội dung mệnh đề là hành động
tương lai của Sp2”. Nhóm này bao gồm những hành động tiêu biểu như ra lệnh,
yêu cầu, hỏi, cho phép...
Nhóm thứ ba, cam kết (commissives) có “đích ở lời là trách nhiệm phải thực
hiện hành động tương lai mà Sp1 bị ràng buộc; hướng khớp ghép hiện thực- lời;
trạng thái tâm lý là ý định của Sp1 và nội dung mệnh đề là hành động tương lai
của Sp1”. Các hành động tiêu biểu của nhóm này là cam kết, hứa hẹn, bảo đảm…
Nhóm thứ tư, biểu cảm (expressives) có “đích ở lời là bày tỏ trạng thái tâm
lý phù hợp với hành vi ở lời (vui thích/ khó chịu, mong muốn/ rẫy bỏ…); trạng thái
tâm lý thay đổi tuỳ theo từng loại hành vi; nội dung mệnh đề là một hành động hay
tính chất nào đó của Sp1 hay Sp2”.
Nhóm thứ năm, tuyên bố (declarations) có “đích ở lời là nhằm làm cho có
tác dụng nội dung của hành vi; hướng khớp ghép vừa là lời- hiện thực, vừa là hiện
thực- lời; nội dung mệnh đề là một mệnh đề”. Tiêu biểu cho nhóm này là các hành
động như tuyên bố, buộc tội… [7;126]
Cách phân loại của Searle chiếm được đông đảo sự đồng tình của các nhà
nghiên cứu, bởi các nhóm hành động lớn được phân loại rõ ràng dựa trên những
căn cứ xác đáng, từ đó, việc xác lập các hành động không bị chồng chéo, lẫn lộn.
1.1.2.3. Phân loại của Anna Wiebicka
Ở bình diện ngữ nghĩa, Anna Wierzbicka đã phân loại kèm theo giải nghĩa
270 ĐTNH (speech acts) thông dụng tiếng Anh bằng cách gắn chúng với hành

động. 270 động từ được quy về 37 nhóm, tiêu biểu là : ra lệnh (order), cầu xin
(ask1), hỏi (ask2), mời gọi (call), cấm (forbid), cho phép (permit), tranh cãi (argue)
, trách mắng (reprimand), giễu (mock), phê phán (blame), buộc tội (accuse), công
kích (attack), cảnh báo (warn), khuyến cáo (advise), …). Quan trọng nhất là, trong
quá trình miêu tả và giải thích, Anna Wierzbicka đã bám theo những tiêu chí tạm
gọi là điều kiện thuận ngôn (felicity condition) gồm các yếu tố sau: cương vị của
Sp1 và Sp2; Sp1 dùng chiến lược nào (lý trí hay tình cảm) để hành động ; Sp2 có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –16
ĐHTN




quyền từ chối việc thực hiện hành động được nêu ra trong nội dung mệnh đề hay
không; khi công việc hoàn tất, người hưởng lợi là Sp1 hay Sp2. [74]
Ngoài Searle và Anna Wierzbicka, còn rất nhiều nhà nghiên cứu kế tục cái
công việc phân loại hành động ngôn từ của Austin, theo các tiêu chí phân loại
riêng, chẳng hạn: D. Wunderlich, F. Recanati, K. Bach và R.M. Hanish, K. Allan…
Tuy nhiên, trong phạm vi có hạn, chúng tôi xin phép không bàn sâu đến các căn cứ
cũng như quan điểm cụ thể của từng tác giả.
Có thể nói, các tiêu chí phân loại của Searle và Anna Wierzbicka không quá
khác biệt. Thực chất, chúng hỗ trợ nhau: các tiêu chí của Searle giúp định dạng
nhóm các hành động lớn, các tiêu chí của Anna giúp xác lập các hành động cụ thể
của từng nhóm, dựa trên sự khác biệt cụ thể của các điều kiện thuận ngôn, chẳng
hạn, phân biệt hành động ra lệnh, mời, khuyên, thỉnh cầu…trong nhóm hành động
lớn điều khiển (cầu khiến). Đây là những gợi ý quý báu, giúp những người tâm
huyết với việc phân loại các HĐNT có cơ sở chắc chắn hơn để nghiên cứu và thực
hiện sự phân loại của mình.
1.2. Câu ngôn hành và dấu hiệu ngôn hành
1.2.1. Câu và phát ngôn

1.2.1.1. Các tác giả Uỷ ban Khoa học Xã hội cho rằng: “Câu là đơn vị dùng
từ, hay đúng hơn là dùng ngữ tạo nên trong quá trình tư duy, thông báo; nó có
nghĩa hoàn chỉnh, có cấu tạo ngữ pháp và có tính độc lập” [63; 167].
Định nghĩa này xem xét mặt ngữ nghĩa, cấu tạo ngữ pháp, tính chất của câu.
Song quan trọng nhất là các tác giả chưa gắn câu với hiện thực giao tiếp.
1.2.1.2. Tác giả Cao Xuân Hạo mượn lời của Benveniste để nêu quan điểm:
“Câu là đơn vị cơ bản của lời nói, của ngôn từ, của văn bản (Benveniste, 1961). Nó
là đơn vị nhỏ nhất có thể sử dụng vào việc giao tế. Nói cách khác, câu là ngôn bản
(văn bản) nhỏ nhất.” [21;27]. Xem xét một cách khách quan, định nghĩa này súc
tích hơn cả: thứ nhất, nó không tách rời câu khỏi hệ thống các đơn vị của ngôn ngữ,
đặc biệt, nhấn mạnh ở phương diện ngữ dụng (lời nói, ngôn từ (discours), sử dụng
vào việc giao tế); thứ hai, nó nhấn mạnh “câu” là đơn vị cơ bản của ngôn từ (văn
bản) nên có đầy đủ đặc trưng của văn bản: trọn vẹn về nội dung (phương dịên ngữ
nghĩa), hoàn chỉnh về hình thức (ngữ pháp). Có thể thấy lập trường của Cao Xuân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –17
ĐHTN




Hạo về câu là lập trường chức năng, xem câu là đơn vị của lời nói. Chúng tôi chọn
định nghĩa này làm điểm tựa cho đề tài.
Song song với thuật ngữ “câu”, các nhà ngữ dụng học còn hay dùng thuật
ngữ “phát ngôn”. Đa số tác giả nhận định rằng: câu là đơn vị dùng để nghiên cứu
ngôn ngữ, còn phát ngôn là câu được hiện thực hoá trong giao tiếp. Ở đây, nếu
đứng trên lập trường của ngữ pháp chức năng, xem câu là đơn vị của lời nói thì
chúng tôi coi câu và phát ngôn tương đương nhau. Trong đề tài này, cứ liệu được
trích dẫn và phân tích không phải là đơn vị được mổ xẻ về cấu trúc cú pháp, mà là đơn
vị được xem xét trong hiện thực giao tiếp.

1.2.2. Câu ngôn hành
Trong quá trình nghiên cứu, khi đề cập đến vị từ ngôn hành (Vp), các tác giả
thường nhắc tới câu ngôn hành (câu ngữ vi). Trừ một số ít tác giả chủ trương phân
biệt “phát ngôn ngữ vi” và câu ngữ vi (tiêu biểu là Đỗ Hữu Châu), đại đa số các tác
giả đồng nhất hai thuật ngữ này.
1.2.2.1. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp lấy thí dụ là các câu tiêu biểu như:
(3)- Tôi xin tuyên bố khai mạc Đại hội Đảng bộ trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
(4)- Tôi xin lỗi.
và kết luận: “ Trong những trường hợp như thế nói ra những lời tương ứng
là dẫn dắt sự kiện, nếu không có chúng thì những hành động được biểu thị (tuyên
bố, …, xin lỗi) không thể thực hiện được. Những phát ngôn như thế gọi là phát
ngôn ngôn hành” [20; 39]. Tuy không hiển ngôn, song ý tứ hành động chỉ được
thực hiện bằng những câu ngôn hành bộc lộ khá rõ. Có điều, định nghĩa này quá
chung chung, vì ngoài những ví dụ như tác giả đã dẫn, người ta chưa hình dung
được bản chất của các phát ngôn ngôn hành.
1.2.2.2. Tác giả Nguyễn Đức Dân cho rằng: “trong một câu chứa động từ
ngữ vi giữ chức năng biểu thị một HVNN, khi nói xong động từ ngữ vi là HVNN
thực hiện còn nội dung của hành vi được thể hiện ở phần tiếp theo sau của động từ
đó” [12; 36]. Nhận định này cũng nêu được bản chất của câu ngôn hành, song có
một điều chưa thoả đáng: không phải lúc nào nội dung của hành động cũng được
thể hiện ở phần tiếp sau của vị từ ngôn hành. Nên giải thích như thế nào với những
trường hợp chỉ có vị từ ngôn hành ?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –18
ĐHTN




1.2.2.3. Tác giả Cao Xuân Hạo thì khẳng định: “Một câu ngôn hành … biểu

thị chính cái hành động được thực hiện trong khi nói ra bằng cách nói nó ra” [21].
Định nghĩa nêu khái quát mà chính xác bản chất tự biểu thị hành động của câu
ngôn hành. Sp1 thể hiện ý định của mình bằng cách nói ra, nói xong là làm xong
mà không cần thêm hành động khác hỗ trợ. Chẳng hạn:
(5)- Cảm ơn anh đã giúp đỡ!
(6)- Chúc chị lên đường may mắn!
(7)- Lên xe nào!
(8)- Anh chị cứ yên tâm, em sẽ mang hàng đến tận nhà!....
Các vị từ ngôn hành như cảm ơn, chúc...cho phép nhận ra lực ngôn trung của
hành động cảm ơn, chúc; các kết cấu như S+ nào/ nhé/ đi... cho phép nhận diện
hành động cầu khiến; các từ ngữ chuyên dùng như Sp2 yên tâm....cho phép nhận ra
hành động cam kết... Bằng những câu nói này, Sp1 đã thực hiện xong các HĐNT.
Chính vì thế, trong đề tài này, chúng tôi chọn định nghĩa của tác giả Cao Xuân Hạo
làm điểm tựa.
Những quan niệm về câu ngôn hành nêu trên đã giúp đề tài tự khoanh vùng
phạm vi cứ liệu, từ đó có hướng xem xét các dấu hiệu ngôn hành của các hành
động một cách khoa học, hiệu quả.
1.2.3. Dấu hiệu ngôn hành
Một HĐNT, theo Searle, được nhận diện khi nó chứa một/ một vài dấu hiệu
hình thức (IFIDs-illocutionary force indicating devices) sau đây:
1.2.3.1. Vị từ ngôn hành (perfomative verb- Vp):
Vị từ ngôn hành (VTNH) được coi là một trong những IFIDs đặc biệt, đánh
dấu lực ngôn trung một cách trực tiếp nhất. Về mặt lý thuyết, lớp vị từ này được
định nghĩa như sau:
- “là những động từ mà khi phát âm chúng ra cùng với biểu thức ngữ vi (có
khi không cần có biểu thức ngữ vi đi kèm) là người nói thực hiện luôn cái hành vi ở
lời nói do chúng biểu thị” [7, 97]
- “là vị từ mà khi được dùng trong những điều kiện nhất định thì ngay việc sử
dụng nó cũng chính là cái hành động nó biểu hiện” [21, 224]
Trong những câu chứa VTNH, lực ngôn trung (hiệu lực ngôn hành) được

đánh dấu rõ ràng đến mức người ta chỉ cần căn cứ vào chúng (dĩ nhiên những vị từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –19
ĐHTN




này thoả mãn những điều kiện cụ thể) là có thể gọi tên HĐNT. Nói cách khác, lực
ngôn trung của hành động trùng khít với hình thức ngữ âm của VTNH. Chẳng hạn,
lời của linh mục và quan toà trong hai ví dụ sau:
(9) I now pronounce you husband and wife! ( Tôi nay tuyên bố các người là vợ chồng)
(10)I sentence you to six months in prison. (Tôi tuyên án anh (đương sự)
chịu sáu tháng tù giam) (Dẫn theo ví dụ của G. Yule)
Việc tuyên bố, tuyên án được thực hiện bằng chính câu nói/ phát ngôn có sự
hiện diện của vị từ pronounce, sentence. Các vị từ này đóng vai trò tường minh hoá
lực ngôn trung bằng cách gọi tên chính hành động đó. Điều này rõ ràng đến nỗi
trong một thời gian khá dài, giới nghiên cứu chỉ thừa nhận VTNH với vai trò IFID
duy nhất của câu ngôn hành. Nói cách khác, câu chỉ là câu ngôn hành nếu nó có các
VTNH.
Trên thực tế, với người Việt, các VTNH không được ưa dùng trong các hành
động có tính ép buộc cao như ra lệnh, bắt buộc, ép, hạ lệnh..., nhưng rất được
chuộng khi Sp1 bày tỏ thái độ lịch sự như xin lỗi, cảm ơn, chúc... Trong nhiều
trường hợp, sự xuất hiện của những vị từ này đem lại hiệu quả cao nhất cho câu
nói/ phát ngôn. Chẳng hạn:
(11)- Mời anh lên xe! (hành động mời)
(12)- Đề nghị anh tắt thuốc lá! (hành động đề nghị)
(13)- Yêu cầu anh ra khỏi phòng! (hành động yêu cầu)….
Số lượng các VTNH ở mỗi cộng đồng ngôn ngữ không giống nhau, bởi nó
phụ thuộc vào thói quen sử dụng của người bản ngữ. Tiếng Anh có khoảng 270 từ
(theo Anna Wierzbicka), còn tiếng Việt có khoảng dưới trăm từ (tác giả Cao Xuân

Hạo trích dẫn được 49 từ).
Để thực hiện chức năng ngôn hành, VTNH phải tuân thủ các điều kiện một
cách khắt khe. Các giáo trình ngôn ngữ, theo tinh thần của Austin nêu ba điều kiện
thiết yếu để sử dụng VTNH như sau:
- Chủ thể (Subject): phải là ngôi thứ nhất.
- Vị từ: phải ở thì hiện tại.
- Bổ ngữ chỉ đối tượng tiếp nhận: phải ở ngôi thứ hai.
- Phát ngôn không chứa những biểu thức đóng vai trạng ngữ chỉ nguyên
nhân, mục đích v.v.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –20
ĐHTN




Nếu vi phạm một trong những điều kiện này, VTNH sẽ chỉ là vị từ miêu tả.
Trong đề tài này, nhắc đến VTNH, chúng tôi mặc nhiên coi chúng đã thoả mãn các
điều kiện nêu trên, là vị từ trung tâm của câu ngôn hành tiếng Việt.
1.2.3.2. Các từ ngữ (tổ hợp) chuyên dụng:
Qua khảo sát, có thể thấy một số từ ngữ chuyên dùng tiếng Anh như sau:
i. Trạng từ hereby (nay/ bằng lời nói này) (thật ra, rất khó dịch chuẩn bởi
trong tiếng Việt không có từ nào tương ứng về nghĩa và chức năng với hereby) là
sự hiện thực hoá của đa số các câu ngôn hành tường minh có chứa VTNH. Tác giả
G. Yule, khi phân tích dấu hiệu ngôn hành đã không đề cập đến trạng từ này, nhưng
lại giới thiệu khá kỹ về nó khi phân tích giả thuyết ngôn hành. Theo tác giả, “trạng
từ hereby chỉ ra rằng phát ngôn này dược coi là một hành động bởi bản thân điều
được nói ra. Ví dụ :
(22) Clean up this mess! (Dọn cái đống lộn xộn này đi!)
I hereby order you that you clean up this mess! (Tôi- bằng lời nói này- ra
lệnh cho anh rằng anh dọn cái đống lộn xộn này đi!)

(23) The work was done by Elaine and myself. (Công việc đã được Elaine và
bản thân tôi làm xong).
I hereby tell you that the work was done by Elaine and myself. (Tôi nói với
anh rằng việc đó đã được Elaine và chính tôi làm xong rồi) [75; 57]
Duy chỉ có điều, trạng từ hereby thường xuất hiện bên cạnh các VTNH, và
bổ sung ý nghĩa về thời, thể cho chúng. Đó có thể là lý do khiến hereby không
được tính vào lớp các từ ngữ chuyên dùng đích thực của tiếng Anh.
ii Tiểu từ “please” thay thế VTNH trong câu, thường xuất hiện trong những
câu có cấu trúc ngắn, thường chỉ là “V+ please!”. Chẳng hạn:
(24)- Come in, please!
Tiểu từ này đánh dấu lực ngôn trung mạnh đến nỗi chỉ cần nó xuất hiện,
người ta tin là hành động đã được thực hiện một cách hiển ngôn. Cũng chính vì
điều đó mà người Anh- vốn không muốn xâm phạm đời tư và đe doạ thể diện của
người khác- ít dùng lời cầu khiến, kể cả khi có tiểu từ này. Tác giả Nguyễn Văn Độ
đã rất đúng đắn khi giải thích và đưa ra các cách nói gián tiếp để thay cho hành
động mời ngồi hiển ngôn (please sit!) như sau: “Đối với người Anh, một lời mời
trang trọng, đúng nghi thức thường có dạng câu nghi vấn loại như: “Will you sit
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –21
ĐHTN




down?; Would you like to sit down?; Won’t you sit down?; Sit down, won’t you?”
[15; 44]
iii. Tình thái từ honesly (thú thực/ thực tình/ quả thực) đánh dấu câu bộc lộ.
Bản thân tình thái từ này đã bộc lộ rất rõ tính chủ quan, do vậy, khi được sử dụng,
nó mặc nhiên thể hiện sự đánh giá của Sp1 về một sự tình nào đó. Chẳng hạn:
(25)- Honestly, he’s a scoundrel! (Thực ra, hắn là một tên vô lại) v.v.
Tương tự như thế, trong tiếng Việt, các từ ngữ chuyên dùng đóng một vị trí

khá quan trọng trong việc nhận diện các HĐNT. So với các ngôn ngữ biến hình, số
lượng các từ ngữ chuyên dụng thuộc loại hình đơn lập nhiều hơn hẳn. Số lượng các
từ ngữ này trong mỗi nhóm HĐNT, mỗi HĐNT cụ thể không giống nhau. Tác giả
Đỗ Hữu Châu đã giới thiệu khá đầy đủ về chúng. Theo tác giả, đánh dấu hành động
hỏi là các từ ngữ như: ...có (đã)... không (chưa)? có phải...hay không?; ai, cái gì,
bao giờ, mấy...; à, ư, nhỉ, nhé...chăng? Các từ hãy, đừng, chớ, đi, hãy đi; đừng,
đừng ... nữa; xin, làm ơn, hộ, cảm phiền; nào, thôi (đi nào, đi thôi...)... đánh dấu
hành động cầu khiến. Các từ ngữ nên, không nên đánh dấu hành động khuyên. Các
quán ngữ đi đằng đầu, chết không nhắm mắt..., thì trời tru đất diệt, thì trời đánh
thánh vật...biểu thị hành động cam kết. Những từ ngữ mở đầu như thật là, quả
là...cho thấy lực ngôn trung của hành động đánh giá. Và vô số những lời chửi như:
cha (mẹ)..., tiên sư (nhân)..., những lời rủa xả như đồ (mặt)...; ăn (cái nọ, cái
kia...), chết đi cho rồi...; quỷ tha ma bắt (mày) đi... [7, 93-94] . Thực tế cho thấy,
trên cứ liệu tiếng Việt, các từ ngữ chuyên dùng thường tập trung ở mấy loại như
sau:
- đại từ: gồm các đại từ nghi vấn trong các phát ngôn của hành động hỏi.
- các tổ hợp đóng vai trò vị từ tình thái như:
+ các vị từ tình thái (modal verb): nên, cần, phải...
“+ các vị từ tình thái tính (modality verb) làm chính tố trong ngữ đoạn vị từ:
toan, định, cố, muốn, đành, được, bị, bỏ, hãy, đừng, chớ...
+ các vị từ chỉ thái độ mệnh đề trong cấu trúc chỉ thái độ mệnh đề: tôi e
rằng, tôi sợ rằng, tôi nghĩ rằng....
+ các quán ngữ tình thái: ai bảo, nói gì thì nói, ngó bộ, thảo nào, tội gì,
đằng thằng ra, kể ra, làm như thể...
+ các thán từ: ôi, eo ôi, chao ôi, ồ...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –22
ĐHTN





+ các tiểu từ tình thái cuối câu và tổ hợp đặc ngữ (idiom) tương đương: à, ư,
nhỉ, nhé, thôi, chứ, đi, mất, thật, cũng nên, lại còn, thì chết...
+ các vị từ đánh giá và tổ hợp có tính đánh giá: may (là), may một cái (là) ,
đáng buồn (là), đáng mừng (là), đáng tiếc (là)...là biểu hiện của hành động biểu lộ.
+ các trợ từ: đến, những, mỗi, nào, ngay, cả, chính, đích thị, đã, mới, chỉ...
đánh dấu hành động biểu lộ.
+ ...những đại từ nghi vấn được dùng trong những câu phủ định-bác bỏ (P
làm gì? P thế nào được?), các liên từ dùng trong các câu hỏi (Hay P?, Hay là P?)” [29, 71]
1.2.3.3. Kết cấu chuyên dụng
Như đã nói, biểu hiện cụ thể nhất của hành động nói năng vẫn là câu (phát
ngôn). Mỗi câu/ phát ngôn đều được tạo lập trên cơ sở những kết cấu ngữ pháp khá
cố định, được người bản ngữ chấp nhận. Dựa vào kết cấu ấy, trong không ít trường
hợp, ta có thể nhận diện được bản chất của HĐNT.
Trong tiếng Anh, các kết cấu sau thường được dùng cho các hành động bắt buộc:
Sp2+ have to/ must to/ought to…+ V
Sp2 + must+ V
Can/ Could/ Should+ Sp2+ V?
Would you like + V?
Ví dụ: (25) You have to go out immedietly!
(26) You must go out immedietly!....
Vị từ have to và must to chỉ thực hiện chức năng cầu khiến khi làm vị từ cho
chủ thể là Sp2. (2) Thêm nữa, chúng luôn đòi hỏi sau chúng một mệnh đề P gồm
một vị từ (+chủ ý) ứng với công việc mà Sp1 buộc Sp2 phải làm. Kết cấu câu nghi
vấn dùng các vị từ tình thái can, could, should...cũng được dùng theo nghĩa này,
với mức độ bắt buộc nhẹ hơn.
Ngoài ra, các kết cấu như S1(Sp1) let S2(Sp2) + V; S1 (Sp1) would like/
want/ ask/ order S2(Sp2) + V.... cũng được ưa dùng cho các hành động nhóm cầu
khiến với mức độ ép buộc tăng dần.


(2)

Nếu đi với chủ thể Sp1, have to, must to không mang nghĩa cầu khiến. So sánh: I have to go to sleep now- Tôi

phải đi ngủ ngay thôi (lời bày tỏ) và You have to go to sleep now- Anh phải đi ngủ ngay! (lời yêu cầu)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –23
ĐHTN




Trong tiếng Việt, để thực hiện hành động, Sp1 hoàn toàn có thể lựa chọn một
trong số các kiểu kết cấu đặc trưng. Chẳng hạn, thuộc kết cấu thề nguyền có:
“Sp1+ thề+ P”; “nếu Sp1 không V thì X” (sự tình X mang lại điều rủi ro cho bản
thân, gia đình hay dòng họ của Sp1; “Có Chúa/ Trời Phật/ quỷ thần hai vai chứng
giám/, S+ V ” …. Thuộc kết cấu cảm thán có kết cấu tính ngữ “rất/ vô cùng+ A”
(A- tính từ); “Quả là/ Thật là/ Đúng là/ Rất chi là+ A”…
Nhìn chung, các hành động ngôn từ đều có thể quy về mấy dạng sau:
i.kết cấu câu đơn hai sự tình- một sự tình hiện tại, một sự tình tương lai (VD:
kết cấu cầu khiến; kết cấu cam kết) hoặc một sự tình quá khứ (VD: kết cấu cảm
ơn). Kết cấu này gồm hai dạng nhỏ: có đủ chủ ngữ (S1+ Vp+S2+ V(+chủ ý) và ẩn
chủ ngữ (Vp+ S2+ V). VD: Tôi hứa đến đúng giờ; Nhờ cậu bẩm quan cho tôi vào
hầu….
ii. kết cấu câu đơn một sự tình có chủ ngữ ứng với Sp2, dạng S2+ V. VD:
Cậu hãy mở cửa!
iii. kết cấu câu phức có chủ ngữ ứng với Sp1, vị từ chính là vị từ ngôn hành,
bổ ngữ có cấu trúc tiểu cú: VD: Tôi xin thông báo: chúng ta chuẩn bị được tăng
lương; Tôi tuyên bố hai người là vợ chồng….
iv. kết cấu câu ghép giả định. VD: Nếu Sp1 không V thì X” trong hành động

thề, hứa; Sp2 + V kẻo X trong hành động giục giã; Sp2 mà V thì X (X bất lợi cho S)
trong hành động cảnh báo.
Đi vào chi tiết, mỗi hành động cụ thể trong các nhóm hành động lớn có
những kiểu kết cấu đặc trưng. Có những kiểu kết cấu có vẻ được ưa dùng trong
nhiều hành động (chẳng hạn, kết cấu i.), tuy nhiên, đặt vào từng hành động, cái
khung ấy được biến đổi ít nhiều ở VTNH, ở các phụ ngữ, ở các từ ngữ hay vị từ cụ
thể…Quan trọng là, vai trò của kết cấu trong việc nhận diện HĐNT là điều không
thể phủ nhận.
1.2.3.4. Ngữ điệu:
Ngữ điệu là hiện tượng gắn liền với câu, luôn đi kèm, hỗ trợ các dấu hiệu
ngôn hành khác, có vai trò quan trọng trong việc nhận diện bản chất hành động.
Cùng một tổ chức câu, nếu được thể hiện với ngữ điệu khác nhau sẽ tạo ra lực ngôn
trung khác nhau, và tương ứng là các hành động khác nhau. Chẳng hạn, với tổ chức
“Mở cửa ra!” có thể có các kiểu ngữ điệu sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –24
ĐHTN




- chậm đều, nhấn mạnh ở cả 3 từ: ứng với hành động đe doạ.
- lên giọng (cao cực đại) ở vị từ “mở” và tiểu từ chỉ hướng cuối câu: tương
ứng với hành động ra lệnh.
- lên giọng một chút ở vị từ: tương ứng hành động yêu cầu.
Ngữ điệu vốn “là một hiện tượng ngôn điệu xảy ra ở bậc câu của ngôn ngữ,
được tạo thành từ hoạt động của các đặc trưng như cao độ, cường độ, trường
độ…” [59, 37 ]. Tuy nhiên, các tính chất như trường độ, cường độ, cao độ là những
vấn đề của vật lý, không thể thuần tuý cảm nhận bằng các giác quan, không thể chỉ
dùng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết mà phải có máy móc hiện đại để đo
đạc, phân tích một cách tỉ mỉ, chính xác. Vì vậy, vấn đề này sẽ được tiếp tục nghiên

cứu ở phạm vi rộng hơn”.
1.2.3.5. Mối quan hệ giữa câu và ngữ cảnh
“Ngữ cảnh là những nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp nhưng nằm
ngoài diễn ngôn” [7, 15]. Theo đó, ngữ cảnh bao gồm các nhân vật và hoàn cảnh
giao tiếp. Dựa vào quan hệ giữa câu (chính xác hơn là ngữ nghĩa tạo thành do tổ
hợp vị từ chính và nội dung mệnh đề mang lại) với ngữ cảnh, có thể phân biệt các
hành động với nhau. Chẳng hạn, nội dung lời nói sau của thủ trưởng: “Đề nghị các
thành viên đi họp đúng giờ!” với đa số nhân viên, đây là hành động đề nghị; nhưng
với những nhân viên thường xuyên đi muộn, đây là hành động nhắc nhở mà thủ
trưởng cố ý hướng vào mình.
Mối quan hệ giữa nội dung câu- ngữ cảnh còn được sử dụng và tỏ ra đắc lực
trong các tổ chức, đảng phái ...khi các thành viên lần đầu liên lạc với nhau. Để nhận
ra nhau, người ta dùng mật khẩu. Chẳng hạn, mẩu đối thoại sau đây giữa nhân vật
Mai Lan- một tình báo viên và gã cắt tóc- một hộp thư sống của Nguỵ:
(27) - “Chào ông, tôi có ít thuốc trụ sinh của Nhật Bản muốn bán, ông có mua không?
- Ở đây tôi chỉ cắt tóc thôi, không mua bán gì cả”. (Đặng Thanh)
Người đối thoại hoàn toàn có thể từ chối bằng lời, giống như gã cắt tóc nêu
trên, nhưng không có các hành động và thái độ như diễn biến tiếp theo của câu
chuyện. Gã cắt tóc đã được dặn mật khẩu, do vậy, gã vừa đáp lời, vừa thăm dò thái
độ của Mai Lan, để nhận ra quan hệ cùng hội cùng thuyền giữa hai người. Như vậy,
với người dưng, mật khẩu có thể chỉ là các hành động hỏi hết sức thông thường.
Nhưng với người trong cùng tổ chức, đó là hành động nhận diện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –25
ĐHTN




×