Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

BÀI DỰ THI TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG AN NHÂN DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 81 trang )

Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

2

MỞ ĐẦU
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân,
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng
nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách
mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng
viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân…” 1
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công an nhân dân là một bộ phận trong
toàn bộ những di sản tư tưởng mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho
chúng ta. Đó là sản phẩm của quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng và
tư duy lý luận sáng tạo của Người đã hình thành trong gần suốt chiều dài
của thế kỉ XX trên cơ sở tiếp thu những tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân
loại về những vấn đề cơ bản trong công tác công an mà đặc biệt là vấn đề
xây dựng và đấu tranh bảo vệ nền an ninh-trật tự của đất nước.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta” 2. Kiên định
lập trường cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh; ra


sức bảo vệ tính đúng đắn và sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin của Tư
tưởng Hồ Chí Minh trước mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đang
điên cuồng chống phá cách mạng chính là nhiệm vụ lớn lao, vô cùng khó khăn
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính Trị Quốc Gia, trang 20.
Trích báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
1
2


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

3

phức tạp, đầy thử thách nhưng không kém phần vinh dự và tự hào của nhân dân
cả nước nói chung và lực lượng công an nhân dân nói riêng. Điều đó đòi hỏi bản
thân mỗi cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng công an nhân dân phải thấm nhuần Tư
tưởng Hồ Chí Minh; lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình.
Bản thân là một chiến sỹ an ninh, tôi luôn nhận thức được vị trí và tầm
quan trọng của hệ thống Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và hệ thống Tư tưởng
Hồ Chí Minh về công an nhân dân nói riêng trong mọi hoạt động của đời sống,
đặc biệt là trong hoạt động nghiệp vụ của mình. Cuộc thi “Tìm hiểu Tư tưởng
Hồ Chí Minh về công an nhân dân” là cơ hội để bản thân có thể tìm hiểu đầy
đủ hơn, sâu sắc hơn và hệ thống hơn về quan điểm Tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với lực lượng công an nhân dân. Những gì được nghiên cứu, tích lũy qua cuộc
thi này sẽ trang bị cho bản thân tôi hành trang học tập, rèn luyện, phấn đấu, tu
dưỡng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần hoàn thành nhiệm vụ của chiến sỹ
an ninh nhân dân trong hoạt động xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội

chủ nghĩa. Cuộc thi cũng là dịp để tôi trình bày, thể hiện những kiến thức, hiểu
biết về cuộc đời hoạt động cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh và những quan
điểm, tư tưởng của Người về con đường cách mạng của nước ta nói chung và về
công tác công an, lực lượng công an nhân dân anh hùng nói riêng.
Trong phạm vi bài viết tham dự cuộc thi: “ Tìm hiểu Tư tưởng Hồ
Chí Minh về công an nhân dân” bản thân chắc chắn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót, hạn chế nhất định do khả năng nghiên cứu, kiến thức còn hạn
chế. Rất mong sự đóng góp, phê bình thẳng thắn trên tinh thần xây dựng đối
với bài viết để bản thân hoàn thiện hơn về nhận thức, có thêm nhiều kiến thức
về Tư tưởng Hồ Chí Minh phục vụ tốt hơn cho công tác của bản thân.
Xin chân thành cám ơn và chúc cuộc thi thành công tốt đẹp!


4

Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU

Trang:

Câu 01:

Trang:

Đồng chí hãy: Nêu nội dung cơ bản quan điểm của
chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh trật tự? Theo
đồng chí nội dung nào quan trọng nhất? Vì sao?

Câu 02:

Trang:

Đồng chí hãy nêu nội dung cơ bản quan điểm của
chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng công an
nhân dân. Trong tình hình hiện nay, để xây dựng lực
lượng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại theo đồng chí phải tập trung
vào vấn đề gì?
Câu 03:

Trang:

“ Công an có bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn hay năm
bảy vạn di nữa thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng
nhân dân. Năm vạn người thì chỉ có năm vạn cặp mắt, năm vạn đôi
bàn tay. Phải làm sao có được hàng chục triệu đôi bàn tay, hàng
chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được. Muốn vậy, phải dựa vào
dân, không dược xa rời dân. Nếu không thì sẽ thất bại. Khi nhân
dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành
công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”
Bác Hồ nói câu đó ở đâu? Vào thời gian nào?
Từ lời dạy của Bác Hồ đồng chí rút ra bào học gì cho bản
thân?
Câu 04:
Tại Hội nghị công an toàn quốc năm 1950, để động viên phong
trào thi đua “rèn cán lập công” Bác Hồ đã tặng tấm ảnh chân dung của
Người để làm giải thưởng thi đua cho những đơn vị lập được nhiều
thành tích xuất sắc nhất.. Đồng chí hãy cho biết:

- Bác Hồ đã ghi nội dung gì trên bức ảnh đó?
- Đơn vị công an nào đã vinh dự nhận được giải thưởng này?

Trang:


5

Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

Câu 05:

Trang:

Cảm nhận của đồng chí về sáu điều Bác Hồ dạy công an
nhân dân?
Hãy viết về gương cá nhân hoặc tập thể thực hiện 5 điều Bác
Hồ dạy công an nhân dân mà đồng chí có ấn tượng sâu sắc nhất.
KẾT LUẬN

Trang:

TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI
CUỘC THI
“TÌMHIỂUTƯTƯỞNGHỒCHÍMINH
VỀCÔNGANNHÂNDÂN”

ChủtịchHồChíMinh
Ngườisánglập,

rènluyệnlựclượng
Côngannhândân

CÂU 1
Đồng chí hãy:


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

6

Nêu nội dung cơ bản quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo
vệ an ninh trật tự?
Theo đồng chí nội dung nào quan trọng nhất? Vì sao?


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

7

TRẢ LỜI
I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ AN NINH
TRẬT TỰ
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về an ninh - trật tự là hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản để xây dựng và bảo vệ nền an
ninh-trật tự của đất nước, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin về tổ chức và sử dụng bạo lực cách mạng của nhà nước
vô sản vào điều kiện cụ thể của nước ta; kế thừa và phát huy giá trị truyền

thống đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc ta và tiếp thu những kinh
nghiệm quý báu về đấu tranh bảo vệ an ninh-trật tự của nhân dân tiến bộ trên
thế giới ” 3
Bảo vệ an ninh-trật tự là một bộ phận, một lĩnh vực quan trọng, xuyên
suốt trong hệ thống Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là xây dựng xã hội đi liền với
bảo vệ chế độ xã hội; đồng thời bảo vệ tổ quốc là cơ sở và điều kiện để phát triển
kinh tế-xã hội đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về an ninh-trật tự là sản phẩm
của quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng và tư duy lý luận sáng tạo của
Người đã hình thành trong gần suốt chiều dài của thế kỷ XX trên cơ sở tiếp thu
những tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại về những vấn đề xây dựng và đấu
tranh bảo vệ nền an ninh-trật tự của đất nước.
Nổi bật và xuyên suốt trong hệ thống Tư tưởng Hồ Chí Minh về an
ninh-trật tự là luôn toát lên tính nhân văn cao cả. Bảo vệ an ninh-trật tự là an
ninh cho nhân dân, cho đồng bào mình trên quan niệm an ninh-trật tự là sự
bền vững của dân tộc, sự ổn định của chế độ và sự phát triển của đất nước.
Bác đã cho chúng ta thấy rằng, đỉnh điểm của an ninh-trật tự vẫn là làm sao
để nhân dân thực sự được sống tự do, hạnh phúc trong một xã hội bình yên,
văn minh. Nói cách khác, mục tiêu của bảo vệ an ninh-trật tự là đảm bảo an ninh
cho đất nước và sự bình yên cho cuộc sống của nhân dân. Có thể khái quát Tư
tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh-trật tự là “một bộ phận trong hệ thống Tư
tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm những quan điểm toàn diện và sâu sắc của những
vấn đề cơ bản về mục tiêu, nhiệm vụ, tổ chức lực lượng, phương pháp và nghệ
thuật đấu tranh bảo vệ an ninh-trật tự”.
3

Trung tướng Nguyễn Khánh Toàn; “Góp phần tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về an
ninh-trật tự ”.Đặc san tạp chí CAND tháng 5/2004.


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân

Trang

8

Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh-trật tự là trên cơ
sở thế giới quan Macxit-Lênnit, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, tiếp cận
vấn đề một cách biện chứng và khách quan, toàn diện theo quan điểm lịch sử
phát triển. Đòi hỏi phải gắn liền những tình cảm dân tộc với tính đảng vô sản.
Trên cơ sở đó, bằng phương pháp tiếp cận hệ thống, chúng ta sẽ thấy Tư
tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh-trật tự là một hệ thống, chỉnh thể. Có
thể tiếp cận Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh-trật tự từ 05 nội dung
cơ bản sau:
1. Nhân dân là nền tảng của sự nghiệp bảo vệ an ninh-trật tự.
Trong hệ thống Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và Tư tưởng Hồ Chí
Minh về an ninh - trật tự nói riêng, một vấn đề cốt lõi là Bác luôn xác định rõ
vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng cũng như trong sự nghiệp bảo
vệ an ninh-trật tự. Dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, hết lòng hết
sức phục vụ nhân dân vừa là đường lối, vừa là biện pháp cơ bản, vừa là nhân
cách lẽ sống, là lý tưởng của công an nhân dân. Lấy dân làm gốc, phát động
quần chúng đấu tranh chống bọn phản cách mạng và bọn phạm tội khác chính
là sự uy hiếp mạnh mẽ nhất đối với các loại tội phạm.
Vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh – trật tự có thể
nhìn nhận ở hai khía cạnh sau:
a. Nhân dân là chủ thể của lịch sử:
Điểm trung tâm của Tư tưởng Hồ Chí Minh là con người, là nhân dân
lao động trong nước và thế giới, là dân tộc Việt Nam và cả loài người. Chủ
tịch Hồ Chí Minh dành tất cả tình thương yêu cho con người, dành tất cả ước
mơ, hoài bão cho sự nghiệp giải phóng con người khỏi ách áp bức giai cấp, áp
bức dân tộc; khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, dốt nát, dành niềm khát vọng
cho mọi người được ấm no, tự do, hạnh phúc.

Có thể nói, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn ở giữa lòng nhân dân. Trong
mọi hoàn cảnh, Người tìm mọi cách tiếp xúc thân mật, tự nhiên với các tầng
lớp nhân dân. Cần gặp ai, Người chủ động đến trước với họ, mở rộng cánh tay
và tấm lòng đón mừng bằng cử chỉ tự nhiên khiến cho người được tiếp xúc


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

9

hòa ngay vào không khí thân mật, cởi mở, bị cuốn hút bởi tình cảm tự nhiên,
chân thật, chan hòa.
Chúng ta đều nhớ, khi đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 tại
Quảng trường Ba Đình, Bác thân mật hỏi “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”
Trong khoảnh khắc lịch sử thiêng liêng ấy, Hồ Chí Minh đi ngay vào lòng
người bởi những ấn tượng rất sâu. Hồ Chí Minh luôn hướng về nhân dân và
nhân dân luôn ở trong tâm trí của Người... Chính vì thế, nhân dân luôn rất
mực quý trọng Người và hình ảnh Hồ Chí Minh luôn sống mãi trong lòng các
tầng lớp nhân dân Việt Nam.
Vì tự do và hạnh phúc của nhân dân mà Hồ Chí Minh đấu tranh cho
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ
có giá trị khi thật sự mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh
không nhân danh Tổ quốc hay chủ nghĩa xã hội, hay một lý tưởng trừu tượng
nào đó để coi thường hoặc biện hộ cho sự coi thường lợi ích cụ thể của những
con người cụ thể.
Ở Hồ Chí Minh, lòng yêu Tổ quốc bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ vơí lòng
thương yêu nhân dân. Thông thường Người dùng hai khái niệm ấy trong sự thống
nhất. Làm như vậy, hẳn là do Người luôn nhấn mạnh đến yếu tố nhân dân, con
người. Người từng nói: “nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh

phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lí gì”4.
Nói về chủ nghĩa xã hội, bao giờ Hồ Chí Minh cũng tập trung nhấn
mạnh đến nội dung có liên quan đến nhân dân, Người nói: “Mục đích của chủ
nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động” 5
Là chủ thể sáng tạo của lịch sử, quần chúng nhân dân cũng giữ vai trò
quyết định trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn
xã hội từ trước đến nay cũng như mãi mãi sau này. Kế thừa truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
4
5

Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Sự thật, Hà Nội 1989, t.9, tr.22.


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

10

chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò quyết định của quần chúng nhân dân
trong sự nghiệp cách mạng nói chung và sự nghiệp bảo vệ an ninh-trật tự nói
riêng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như Đảng ta luôn luôn đặc biệt coi trọng
quan điểm “lấy dân làm gốc”. Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an
ninh-trật tự, nhân dân chính là nguồn sức mạnh vô tận cho sự nghiệp dựng
nước và giữ nước, bởi nhân dân chính là chủ thể sáng tạo của lịch sử, là trung
tâm của mọi hoạt động. Người nói: “Quần chúng là những người sáng tạo,

công, nông là những người sáng tạo”.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và đấu tranh bảo vệ an ninh-trật tự. Người
khẳng định nhân dân là lực lượng quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh
chông các bọn phản cách mạng và bọn phạm tội khác nhằm bảo vệ an ninh
quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Người nói: “một vạn công an chỉ có
hai vạn tai, hai vạn mắt, hai vạn tay chân, nhưng nhân dân có hàng triệu tai,
hàng triệu mắt, hàng triệu tay chân, nên chúng ta phải dựa vào dân để hành
động”6.
Đối với lực lượng công an, mặc dù chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định
là lực lượng nòng cốt trong cuộc sự nghiệp bảo vệ an ninh-trật tự, song Người
vẫn luôn khẳng định, lực lượng công an chỉ có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ
của mình khi biết dựa vào nhân dân, tranh thủ, phát huy được vai trò và sức
mạnh to lớn của nhân dân. Bác dạy: “Phải gần gũi với nhân dân, dựa vào lực
lượng của nhân dân, xa rời nhân dân thì tài tình mấy cũng không làm gì
được” 7. “Chống bọn xâm lược, bọn phá hoại là nhiệm vụ của quân đội, của
công an nói riêng và của toàn dân nói chung; là nhiệm vụ mà, quân đội, công
an phải dựa vào nhân dân thf mới hoàn thành được tốt” 8. “Làm công an thì
phải làm cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ. Có dựa vào dân thì công an mới
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình” 9.
Bảo vệ nhân dân trong Tư tưởng Hồ Chí Minh bao giờ cũng gắn liền
với bảo vệ tổ quốc vì “dân là gốc của nước”. Người huấn thị cho lực lượng
công an nhân dân “công an nhân dân phải là người đầy tớ của dân. Đã là đầy
6
7
8
9

Bác Hồ với CAND-CAND với Bác Hồ, NXB CAND, Hà Nội 1990, trang 18.
Bài nói chuyện tại hội nghị công an toàn quốc lần thứ 10, tháng 11 năm 1956.

Bài nói chuyện tại buổi lễ thành lập lực lượng CAND vũ trang, tháng 3 năm 1959.
Bài nói chuyện tại lớp chỉnh huấn khóa II của Bộ Công an, ngày 16/5/1959.


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

11

tớ của dân thìcông an phải ra sức bảo vệ nhân dân, ra sức phục vụ nhân dân”
10

. Người cũng thường xuyên căn dặn công an phải biết “giữ gìn trật tự an

ninh, bảo vệ dân ta an cư lạc nghiệp”. Bảo vệ dân ta an cư lạc nghiệp đó
chính là bảo vệ nhân dân được sống yên ổn, tự do, hạnh phúc; bảo đảm cho
mọi người dân, mọi gia đình và xã hội được sống trong một môi trường an
toàn, yên tâm vui vẻ làm ăn xây dựng cuộc sống mới. Như ước vọng của
Người: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm
ăn áo mặc, ai cũng được học hành” 11.
b. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, qua thực tiễn suốt mấy chục năm bôn
ba khắp thế giới, Hồ Chí Minh càng thấm sâu chân lý: cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, và trong tư tưởng tình cảm và hành động, Người luôn
thể hiện nhất quán chân lý ấy. Quần chúng cách mạng chính là các tầng lớp
nhân dân nước ta mà Hồ Chí Minh đã tìm thấy sức mạnh to lớn ở họ. Cơ
sở của quan điểm tư tưởng ấy là lòng tin vào con người của Hồ Chí Minh.
Người cho rằng nhân dân rất thông minh, sáng tạo, nhân dân là lực lượng
đông đảo của toàn xã hội, nhân dân là người hiểu biết tất cả, nhân dân là

nguồn sức mạnh vô tận ở mọi lúc, mọi nơi. Chính vì thế, Người cho rằng
nhân, nghĩa là nhân dân và trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng
của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân được hình thành
trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam
và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải
phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Những thành công hay thất bại của các
phong trào ấy đều được Người nghiên cứu rút ra những bài học cần thiết cho
việc hình thành tư tưởng về sức mạnh của nhân dân.

10

Trích lời của chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về dự khai giảng lớp Công an trung cấp
khóa 1, năm 1950 tại trường Công an Trung ương.
11
Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính tri Quốc gia, Hà Nội, tập 4, trang 61.


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

12

Trung thành với tư tưởng của chủ nghĩa yêu nước truyền thống về vai
trò của con người trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc và với quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử, trong
khi khẳng định mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người, mang lại tự
do, hạnh phúc cho con người, Hồ Chí Minh cũng đồng thời khẳng định giải
phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc cũng chính là sự nghiệp của chính bản thân con
người.

Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng chính sự bốc lột của đế quốc, thực dân sẽ
thúc đẩy và buộc nhân dân Việt Nam nổi dậy đòi quyền sống. Sự đầu độc về tinh
thần không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng của họ.
Không dừng lại ở cái đã thành, cái đã bộc lộ rõ ràng Hồ Chí Minh còn phát hiện ra
cái đang tiềm tàng, ẩn dấu trong hiện thực xã hội Việt Nam những năm 30 của thế kỷ
XX. Từ rất sớm Người đã thấy ở nhân dân bị áp bức bốc lột gầy còm xơ xác, cái sức
mạnh dời non lấp biển, đã thấy trong mỗi con người ấy cái trí tuệ lớn lao. Người đã


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

13

chỉ ra rằng: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì
đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”12.
Người đã tổng kết rằng một dân tộc nhỏ bé không bị một dân tộc lớn gấp
nghìn lần thôn tính và đồng hóa sau một nghìn năm đô hộ, một dân tộc đã lần lượt
đánh thắng tất cả các đế quốc xâm lược to lớn, là do dân tộc ấy phát huy được sức
mạnh to lớn của con người, của các phẩm chất tinh thần tư tưởng, văn hóa. Đối
với dân tộc Việt Nam, vấn đề con người làm ra lịch sử, là chân lý cụ thể, sinh
động đã được chứng minh qua mấy nghìn năm tồn tại và phát triển. Quan niệm
truyền thống về con người được Tư tưởng Hồ Chí Minh củng cố và nâng cao là
quan điểm triết học nhân sinh thực tiễn. Quan điểm này vốn là tư duy truyền
thống của dân tộc ta, sức mạnh vĩ đại của nhân dân được Đảng và Nhà nước ta,
mà chủ tịch Hồ Chí Minh là người đứng đầu, tổ chức và lãnh đạo đã phát huy và
đã được chứng minh hùng hồn trong lịch sử hiện tại của dân tộc. Tựu chung lại,
thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ an ninh-trật tự ngày nay được xây dựng vững chắc
trên cơ sở lòng tin ở con người, ở dân tộc, ở nhân dân kết hợp với một cách nhìn,
một phương pháp tư duy khoa học.

Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, nhưng
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân đông đảo. Người nhắc nhở,
công tác của lực lượng công an nhân dân phải tìm mọi cách giải thích cho
từng người dân hiểu rõ, việc mình làm là vì lợi ích của chính họ, nên họ phải
hăng hái làm cho kỳ được. Người cũng chỉ rõ làm bất cứ việc gì cũng phải
bàn với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của nhân dân, cùng với dân đặt kế
hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn
dân thi hành. Đảng phải lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải
phóng và xây dựng chế độ xã hội mới do chính mình làm chủ. Sự nghiệp ấy
chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh của nhân dân. Nhân dân mới chính
là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ thể của lịch sử, là người làm nên lịch sử.
Người nhấn mạnh, cá nhân dù tài giỏi đến mấy cũng không thay thế được
nhân dân.
Tiếp thu tư tưởng Mác-Lênin “Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”, Người đánh giá rất cao sức mạnh của quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp bảo vệ an ninh-trật tự. Vì vậy chủ tịch Hồ Chí Minh không những coi
12

Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, tập 1, trang 28.


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

14

nhân dân là đối tượng cần được bảo vệ tuyệt đối mà còn là một lực lượng to
lớn quyết định sự thành bại của sự nghiệp bảo vệ an ninh-trật tự . Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “dân nghe mình là mình mạnh”; “mất dân là mất tất cả
”… Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ vị trí, vai trò chủ thể của quần chúng nhân

dân, chủ thể hành động, chủ thể sáng tạo xây dựng và bảo vệ an ninh-trật tự
chứ không phải là một công cụ, phương tiện để sử dụng. Trong cuộc đấu tranh
bảo vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội, lực lượng công an
nhất thiết phải biết sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân để
chống lại bạo lực phản cách mạng và mọi hoạt động chống phá của các thế
lực thù địch phản cách mạng.
Về phương pháp tổ chức và xây dựng nền an ninh trật tự Người đã chỉ
cho chúng ta rằng phải bắt đầu từ quần chúng và lại trở lại nơi quần chúng. Đó
là phương pháp đúng đắn nhất. Biểu hiện sinh động của phương pháp đó chính
là các phong trào cách mạng vừa mang tính quần chúng thực tiễn sinh động mà
rất chuyên sâu, đã được vận dụng trong các cuộc kháng chiến như phong trào
“ba không”, “ngũ gia liên chi bảo”, phong trào “ba xây, ba chống”. Những
cách thức và biện pháp đó đòi hỏi phải gắn bó với dân, sâu sát với quần chúng,
phả được dân yêu, dân mến. Người dạy: “Thật sự dân chủ với nhân dân, phải
đi đúng đường lối quần chúng thì nhân dân mới tin yêu, giúp công an và công
an mới thành công được”13. Đối với mặt trận bảo vệ an ninh trật tự, Người đã
khái quát: nếu nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì
thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn. Bác đã nhiều lần
nhắc nhở chúng ta phải phân biệt các chế độ chính trị xã hội khác nhau, từ đó
giúp chúng ta thấy rõ mục đích của công an cách mạng cũng như đường lối,
phương pháp công tác công an cách mạng rõ ràng phải khác với công an của
các chế độ tư bản, đế quốc, phong kiến.
2. Đại đoàn kết toàn dân là sức mạnh để bảo vệ an ninh-trật tự.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, giữ gìn đoàn kết trong Đảng, trong nội bộ
chính quyền là vấn đề cốt tử của an ninh chính trị; đoàn kết giữa công an nhân
dân và quân đội nhân dân, đoàn kết đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, đoàn kết
quốc tế trong sự nghiệp bảo vệ an ninh-trật tự. Đặc biệt chú ý đoàn kết những
13

Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, tập 4, trang 231



Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

15

người có đạo và không có đạo, giữa những người có đạo khác nhau, đoàn kết
hết thảy các dân tộc anh em để bảo vệ an ninh-trật tự của đất nước.
Hồ Chí Minh đã đánh giá một cách chính xác trên cơ sở khoa học các
yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong
tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các
nhà cách mạng lớn trên thế giới, những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc
cách mạng các nước, từ đó hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng của Người về
đại đoàn kết dân tộc.
a. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc được hình thành
trên những cơ sở tư tưởng-lý luận và thực tiễn rất phong phú.
- Trước hết, đó là tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức
cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc đã được hình thành và được củng cố trong hàng
nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cả dân tộc Việt Nam, tạo
thành một truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của
mỗi con người Việt Nam. Hồ Chí Minh đã sớm hấp thu được truyền thống yêu
nước-nhân nghĩa-đoàn kết của dân tộc. Người đã khẳng định: “từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sống
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Hơn nữa còn phải phát huy truyền thống đó
trong giai đoạn cách mạng mới của dân tộc: “Phải ra sức giải thích, tuyên truyền,
tổ chức lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực
hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến” 14.

- Cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin:
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp
vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây
dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế,
“Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”, “ Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức
đoàn kết lại”. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là vì chủ nghĩa Mác-Lênin đã
chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng, đã chỉ ra sự cần thiết và con
14

Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, tập 6, trang 172.


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

16

đường tập hợp, đoàn kết lực lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và trên thế giới
để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân.

- Về mặt thực tiễn, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của chủ tịch Hồ Chí
Minh được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách
mạng Việt Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những thành công hay thất bại của
phong trào ấy đều được Người nghiên cứu để rút ra những bài học cần thiết cho
việc hình thành tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc. Phong trào yêu nước ở Việt Nam
đã diễn ra rất mạnh mẽ từ khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, các thế hệ
người Việt Nam yêu nước đã nối tiếp nhau vùng dậy chống ngoại xâm , thế nhưng
tất cả đều thất bại. Thực tiễn hào hùng, bi tráng của dân tộc đã chứng tỏ rằng, bước

vào thời đại mới, chỉ có tinh thần yêu nước thì không thể đánh bại được các thế lực
đế quốc xâm lược. Vận mệnh của dân tộc đòi hỏi phải có một lực lượng đủ sức quy
tụ được cả dân tộc vào cuộc đấu tranh, xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân
tộc bền vững thì mới giành được thắng lợi. Trong quá trình đi tìm đường cứu nước,
khi tổng kết thực tiễn đấu tranh của các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh thấy rõ sức


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

17

mạnh tiềm ẩn to lớn của họ và cũng chỉ rõ những hạn chế: các dân tộc thuộc địa
chưa có được sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết lại, chưa có tổ chức và chưa
biết biết tổ chức.
b. Quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh bảo vệ
an ninh-trật tự được biểu hiện ở những quan điểm cơ bản sau:
- Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết
định thành công của sự nghiệp bảo vệ an ninh-trật tự:
Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa
chiến lược, nó là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt trong tiến trình
cách mạng Việt Nam cũng như trong sự nghiệp bảo vệ an ninh-trật tự hiện nay.
Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành
sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù
địch và bọn tội phạm khác để bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn
xã hội.
Trong từng thời kì, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải
điều chỉnh và sách lược khác nhau cho phù hợp với từng đối tượng, nhưng đại
đoàn kết toàn dân tộc phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của sự

nghiệp cách mạng nói chung và sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự nói riêng.
Đoàn kết làm ra sức mạnh; “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”15;
“Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi” 16; “Đoàn kết là sức mạnh, là then
chốt của thành công” 17; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công” 18.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết là một chính sách lớn đối với
toàn dân tộc, đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc,
đoàn kết để xây dựng nước nhà, đoàn kết để bảo vệ thành quả cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu yêu cầu của đoàn kết là phải đoàn kết rộng rãi và
chặt chẽ. Đoàn kết giữa chính phủ và nhân dân. Đoàn kết giữa các tầng lớp
nhân dân với nhau. Người khẳng định: “Đoàn kết chặt chẽ thành một khối
15
16
17
18

Hồ
Hồ
Hồ
Hồ

Chí
Chí
Chí
Chí

Minh
Minh
Minh
Minh


toàn
toàn
toàn
toàn

tập,
tập,
tập,
tập,

NXB
NXB
NXB
NXB

CTQG,
CTQG,
CTQG,
CTQG,

tập
tập
tập
tập

7, trang 392.
11, trang 22, .
11, trang 154.
10, trang 607.



Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

18

thống nhất. Phải đoàn kết giữa lương và giáo, giữa quân và dân, giữa bắc và
nam”.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, giúp dân tộc ta thành công, đại thành công trong sự
nghiệp dựng nước, giữ nước và trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự hiện
nay. Trong lời kêu gọi nhân dịp kỉ niệm cách mạng Tháng Tám và ngày Quốc
khánh năm 1951, Người nhấn mạnh: “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của
nhân dân ta là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực
lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững
quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta cách mạng thành công,
giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà kháng chiến của ta ngày càng
mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nổi khó
khăn thiếu thốn, đói khổ quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước. Nhờ
lực lượng ấy mà với gậy tầm vông và súng hỏa mai lúc đầu, chúng ta liên tiếp
đánh thắng địch”. Trong bài nói tại Hội những người An nghiên cứu các vấn
đề quốc tế, ngày 7-2-1958, chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nhờ đại đoàn kết
mà trong bao nhiêu thế kỷ, nhân dân Việt Nam đã bảo vệ được độc lập, tự do
của mình. Nhờ đại đoàn kết mà nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa
thực dân, làm cách mạng Tháng Tám thành công và đã kháng chiến đến
thắng lợi. Nhờ đại đoàn kết toàn dân mà nước Việt Nam chúng tôi nhất định
sẽ thống nhất”.
Nhờ có chiến lược đại đoàn kết đúng đắn của Đảng và chủ tịch Hồ
Chí Minh, cách mạng nước ta hơn bảy mươi năm qua đã giành được hết

thắng lợi này đến thắng lợi khác, phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc
đánh thắng được hai đế quốc to lớn là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cả nước
hòa bình, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ nền an ninh trật tự của Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh trật tự vào thời điểm hiện nay,
chúng ta phải luôn thấy rằng: đại đoàn kết toàn dân tộc là một vấn đề có ý
nghĩa chiến lược, nó quyết định thành công của sự nghiệp bảo vệ an ninh trật
tự. Một khi nhân dân cả nước đoàn kết thống nhất, đứng dưới sự lãnh đạo của
Đảng và ngành công an, đồng lòng chung sức cùng lực lượng công an nhân


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

19

dân kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với bọn phản cách mạng và
bọn phạm tội khác bảo vệ nền an ninh trật tự của Tổ quốc thì nhất định sẽ
thành công, nhất định sẽ thắng lợi.
- Đại đoàn kết toàn dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu
của sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự.
Tư tưởng về đại đoàn kết toàn dân tộc phải được quán triệt trong mọi
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và biện pháp công tác của lực
lượng công an nhân dân. Người khẳng định: “ Mục đích của Đảng Lao động
Việt Nam có thể gồm trong tám chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ
quốc”19. Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã hội chủ
nghĩa, Người chỉ rõ: “ Trước cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến, thì
nhiệm vụ của tuyên huấn là làm sao cho đồng bào dân tộc hiểu được mấy
việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay là làm kháng chiến để đòi

độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích của tuyên truyền huấn luyện
là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thông
nhất nước nhà”20.
Muốn thực hiện được khối đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa
truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng
khoan dung, độ lượng với con người. Trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự,
xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh cho rằng ngay đối với những người đã từng
lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tôc,
về khối đại đoàn kết toàn dân, mà hoàn toàn không định kiến, khoét sâu cách
biệt. Thậm chí đối với những đối tượng trước đây đã từng tham gia ngụy
quân, ngụy quyền, đảng phải phản động cũ… chống chúng ta, nhưng nay đã
hối cải không chống đối nữa, khối đại đoàn kết toàn dân vẫn mở rộng cửa tiếp
đón họ. Người đã nhiều lần nhắc nhở: “Bất kì ai mà thật thà tán thành hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống
chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ” 21. Với tấm lòng độ
lượng, bao dung, Người tha thiết kêu gọi tất cả những người thật thà yêu
nước, không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng, tôn giáo nào, chính kiến nào
và trước đây đứng về phe nào; chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nước.
19
20
21

Lời kết thúc của Đảng Lao động Việt Nam, ngày 3-3-1951.
Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, tập 11, trang 130.
Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, tập 7, trang 438.


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang


20

Để thực hiện được đoàn kết, Người còn căn dặn: Cần xóa bỏ hết thành kiến,
cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ
nhân dân.
Ngày nay, trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh-trật tự chúng ta luôn phải
đối mặt với các luận điệu xuyên tạc nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc
của các thế lực thù địch. Để phá vỡ chế độ chủ nghĩa xã hội, bọn chúng trước tiên
phải chia rẽ, gây mâu thuẫn trong nội bộ ta và trong quần chúng nhân dân, phá vỡ
khối đại đoàn kết toàn dân. Điều đó đòi hỏi lực lượng công an nhân dân phải luôn
thấm nhuần Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc trong đấu tranh
bảo vệ an ninh-trật tự. Bảo vệ vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức
mạnh của toàn thể nhân dân, đập tan mọi âm mưu, hoạt động chống phá cách
mạng. Phải làm cho mọi người dân thấy rằng lợi ích tối cao của dân tộc là Tổ quốc
độc lập và thống nhất, xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để có thể
xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải làm cho mọi người thuộc bất cứ
giai tầng nào cũng đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết và trước hết. Bởi lẽ lợi
ích tối cao của dân tộc có được đảm bảo thì lợi ích của mỗi bộ phận, mỗi người mới
được thực hiện.
Đại đoàn kết toàn dân tộc không phải chỉ là mục tiêu, mục đích, nhiệm
vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của
toàn thể dân tộc. Như vậy đại đoàn kết toàn dân tộc chính là đòi hỏi khách
quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự bảo vệ
mình, bảo vệ chế độ, là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần
chúng. Đảng và lực lượng công an nhân dân có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành
những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch
trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh trật tự, vì tự do cho nhân dân, vì hạnh
phúc cho con người.
- Đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự là đại đoàn

kết toàn dân, đoàn kết rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân.


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

21

Nói đến đại đoàn kết toàn dân nghĩa là phải tập hợp được mọi người
dân vào một khối trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhiều lần nêu rõ: “ Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc
lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có
đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết
với họ”22. Ta ở đây vừa là Đảng, là công an, là quân đội vừa là mọi người dân
của Tổ quốc Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, với tinh thần đoàn kết
rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho
việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng và
xuyên suốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn kết một cách rộng
rãi như trên là vì Người luôn có lòng tin ở nhân dân, tin rằng trong mỗi người,
ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu
nước ấy có khi bụi bặm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh long tri con người thì
lòng yêu nước lại bộc lộ. Vì vậy mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối
đại đoàn kết toàn dân nhằm bảo vệ an ninh trật tự chính là nền độc lập và
thống nhất của Tổ quốc, là cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân cần
phải xây dựng và bảo vệ từ hôm nay cho đến mai sau.
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân rộng lớn như vậy, thì
phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và
những lực lượng nào tạo nên nền tảng đó. Về điều này Người đã chỉ rõ:
“Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại

đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà,
cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các
tầng lớp nhân dân khác”23. Người còn phân tích sâu hơn, đâu là những lực
lượng nồng cốt tạo nên cái nền tảng ấy, hay cũng có thể nói đâu là nền
tảng của cái nền tảng ấy: “lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc
là công nông,…”24. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại
đoàn kết toàn dân tộc càng có thể mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực
22
23
24

Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, tập 7, trang 438.
Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, tập 7, trang 439.
Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, tập 10, trang 18.


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

22

thù địch phản cách mạng nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn
dân tộc đó.

Trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Hà Tây ngày 10-2-1967,
Người nhắc nhở cán bộ “từ tỉnh đến huyện, đến xã phải đoàn kết, đoàn kết
thực sự, làm sao tự mình nêu gương và giáo dục cho Đảng viên, đoàn viên,
cán bộ giữ gìn, phát triển đạo đức cách mạng, làm sao cho nhân dân biết
hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám

làm”. Người giải thích: “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí
và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là phải vừa đoàn
kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của
nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”. Về mối quan hệ
giữa phê bình, tự phê bình và đoàn kết, Người giải thích: Phê bình, tự phê
bình tốt nghĩa là xuất phát từ đoàn kết mà phê bình và tự phê bình; phê
bình và tự phê bình để đi đến đoàn kết hơn nữa. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh ý nghĩa, tác dụng to lớn của đoàn kết. Người đã từng khẳng


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

23

định: “Đoàn kết là lực lượng mạnh nhất của chúng ta”, “Đoàn kết là một
lực lượng tất thắng”. Chúng ta thấy rằng đấy là một chân lý vô cùng giản
dị và sáng tỏ.
3. Tư tưởng nhân đạo, nhân văn của Hồ Chí Minh trong đấu tranh bảo
vệ an ninh-trật tự.
Nói đến tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là nói đến toàn bộ suy nghĩ
và tình cảm đã chi phối suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, một
cuộc đời đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập của dân tộc, cho tự do và hạnh
phúc của nhân dân, cho sự giải phóng của cả nhân loại và của mỗi con người.
Tư tưởng nhân văn của Người được hình thành từ hoàn cảnh sống và
chiến đấu của bản thân và cũng từ sự kế thừa một cách sáng tạo những truyền
thống nhân văn của dân tộc và nhân loại.
Nói đến tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong bảo vệ an ninh-trật tự
phải nói đến vấn đề con người. Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, không có con
người trừu tượng. Người viết: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ

hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn là cả loài người”25.
Như vậy Hồ Chí Minh xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội của nó.
Con người với những đặc điểm nói trên là cốt lõi của tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh và thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, sự cảm nhận, cảm thông hết sức sâu sắc mọi niềm đau nỗi
khổ của con người. Có thể thấy rõ điều này qua các bài viết của Người tố cáo tội
ác của chủ nghĩa đế quốc, chủ thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chế độ
tư bản chủ nghĩa gây ra cho con người.
Thứ hai, quyết tâm hy sinh chiến đấu để giải phóng con người và
đem lại tự do hạnh phúc cho con người. Người viết: “Tôi chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn tòan tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”26.
Thứ ba, là tin tưởng tuyệt đối ở khả năng tự giải phóng và khả năng
tự bảo vệ của con người và không ngừng tự rèn luyện, phát huy khả năng ấy.
25
26

Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG,Hà Nội 2000, tập 5, trang 644.
Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG,Hà Nội 2000, tập 4, trang 161.


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

24

Trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự, theo chủ nghĩa nhân văn của
chủ tịch Hồ Chí Minh, nối tiếp truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam,
cách mạng Việt Nam nói chung và sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự nói riêng

luôn luôn bảo vệ con người, hạn chế đến mức thấp nhất sự hy sinh xương máu
của nhân dân. Trong chiến tranh, những chủ trương sơ tán, tản cư được tổ
chức một cách có kế hoạch chính là để bảo vệ nhân dân. Trong thời kì xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc việc tuyên truyền, giáo dục quần chúng chính là để
nhân dân tự bảo vệ mình. Đối với quân đội, chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi
phải đánh thắng trận đầu và thực hiện phương châm đánh chắc thắng chắc.
Đối với lực lượng công an, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu phải làm tốt
công tác phòng ngừa, phát hiện sớm những âm mưu, ý đồ của các thế lực chống
phá cách mạng và bọn tội phạm khác. Tất cả những việc làm ấy đều nhằm mục đích
là bảo vệ tuyệt đối cho nhân dân.
Tư tưởng nhân đạo, nhân văn của Người trong đấu tranh bảo vệ an
ninh trật tự có thể nhìn nhận ở các khía cạnh sau:
a. Yêu thương và tin tưởng con người, phải suốt đời phấn đấu cho
con người, vì con người.
Dân tộc Việt Nam vốn giàu lòng nhân ái. Con người Việt Nam truyền
thống gắn bó chặt chẽ với cộng đồng gia tộc, xóm làng và dân tộc theo tinh
thần “thương người như thể thương thân, một con ngựa đau cả tàu bỏ co”…
Truyền thống nhân ái của dân tộc đã nảy sinh và được bồi đắp trong lịch sử
đất nước chẳng những thường xuyên bị thiên tai tàn phá, mà còn từng bị
phương Bắc đô hộ hàng ngàn năm hết sức tàn khốc, tiếp đó lại bị bọn thực
dân và các thế lực đế quốc xâm lược nhiều lần. Lòng từ bi của Phật giáo, đạo
nhân nghĩa của Nho giáo và tinh thần bác ái của Công giáo cũng đã góp phần
ít nhiều, khác nhau vào truyền thống nhân ái của dân tộc. Suốt mấy ngàn năm
qua, vấn đề con người luôn luôn gắn liền với vấn đề dân tộc. Những khi bị đô
hộ hay bị xâm lược thì vấn đề con người hoà vào vấn đề dân tộc. Vào những
thời điểm ấy niềm đau, nỗi khổ lớn nhất của con người là mất tự do, độc lập.
Khát vọng lớn nhất của con người là khát vọng giải phóng và bảo vệ Tổ quốc.
Dân tộc Việt Nam, với nhu cầu tìm ra một hệ tư tưởng mới, đủ sức giải quyết



Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

25

cả vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Truyền thống nhân ái dứng trước yêu cầu phải được nâng lên một trình độ cao
hơn dưới ánh sáng của hệ tư tưởng mới. Tìm ra hệ tư tưởng này chính là sứ
mệnh lịch sử đã được đặt lên vai Hồ Chí Minh.
Giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc là cuộc đấu tranh một mất
một còn với chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động quốc tế. Bởi vậy, khó có thể tránh khỏi con đường bạo lực vũ trang,
Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn bị cho khả năng ấy. Nhưng, không tuyệt
đối hóa bạo lực, Người còn chủ động chuẩn bị cho nhiều khả năng phát
triển của cách mạng và tranh thủ khả năng phát triển hòa bình để đỡ tốn
xương máu cho nhân dân ta và cho cả nhân dân các nước đế quốc xâm
lược. Đây cũng là một biểu hiện cho thấy lòng nhân ái bao la của Người.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã sử dụng sức mạnh chính trị của nhân
dân là chính. Trong lịch sử nhân loại, đây là một cuộc cách mạng ít đổ máu
nhất, nhưng có sức mạnh và uy lực to lớn. Bảo vệ con người, tiết kiệm sức
người, sức của của nhân dân là một trong những nội dung quan trọng nhất
và thường xuyên nhất trong tư tưởng nhân văn và hoạt động thực tiễn của
Hồ Chí Minh.
Lúc sinh thời Người đã từng nói: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết
sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân thì
dân mới yêu ta, kính ta” 27.
Vì lòng yêu thương vô hạn đối với con người, Hồ Chí Minh coi hòa
bình trong độc lập tự do là một nguyện vọng sâu xa, còn chiến tranh, bạo lực
chỉ là bắt buộc. Con người là sức mạnh đầu tiên và cũng là mục tiêu cuối cùng
của cách mạng, bởi vậy phải hết sức bảo vệ con người như bảo vệ sinh mệnh

của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tình yêu thương vĩ đại của Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ suốt đời đấu
tranh cho tự do và hạnh phúc của mọi người, còn đối với bản thân mình thì
sống vô cùng giản dị, thanh đạm. Sở dĩ như vậy là vì lẽ sống của Người là: Lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
Hồ Chí Minh chăm lo cho tất cả, chỉ quên có riêng mình. Hồ Chí
Minh trong tư tưởng cũng như trong hành động, từ tuổi trẻ ra đi tìm đường
27

Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1995, tập 4, trang 55,56.


Cuộc thi tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
Trang

26

cứu nước cho đến khi tạ thế, không đứng trên cao, không ở bên ngoài, mà
đứng ngay trong niềm đau, nỗi khổ, trong chủ nghĩa anh hùng cách mạng của
nhân dân và trong sự thanh cao, tinh khiết của tâm hồn, trong tầm cao trí tuệ
để nhận thức và giải quyết vấn đề con người. Hồ Chí Minh không đứng trên
cao nhìn xuống ban ơn, không đứng bên ngoài thông cảm, mà đứng ở trong
lòng nhân dân, đập cùng một nhịp tim, chia cùng một sức sống, mang cùng
một khát vọng… với nhân dân. Hồ Chí Minh gắn bó với dân tộc, với nhân
dân và với con người từ trong con tim và khối óc, trọn vẹn suốt cả cuộc đời.
Trong tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh trật tự
luôn thể hiện tình thương yêu vô hạn của Hồ Chí Minh đối với con người. Hồ
Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở
miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, là trai hay gái… không phân biệt
một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chổ trong

tấm lòng nhân ái của Người. Và tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh
còn được dành cho mọi con người trên khắp hành tinh này. Cho chính cả
những người lính của các thế lực thực dân, đế quốc, phản cách mạng đã chết
oan uổng trong cuộc chiến tranh, xâm lược, phá hoại của chúng. Người viết:
“Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu,
người Việt hay người Pháp cũng đều là người” 28, “Tôi vô cùng căm phẫn
trước những tổn thất và tàn phá do quân Mỹ gây ra cho nhân dân và đất
nước chúng tôi, tôi cũng rất xúc động thấy ngày càng có nhiều thanh niên Mỹ
chết vô ích ở Việt Nam” 29, “Những dòng máu đó chúng tôi đều quý như nhau”
30

.
b. Lòng tin tưởng vào con người trong đấu tranh bảo vệ an ninh

trật tự.
Đây cũng là một vấn đề cốt lõi trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
về bảo vệ an ninh trật tự. Lòng tin của Hồ Chí Minh đối với nhân dân vừa bắt
rễ sâu và vững chắc trong truyền thống yêu nước của dân tộc lại vừa được đặt
trên tầm cao của sự phát hiện và khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân. Chính nhờ vậy mà Hồ Chí Minh tin tưởng một cách có cơ sở khoa học
28
29
30

Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1995, tập 4, trang 457.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1995, tập 12, trang 488.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1995, tập 5, trang 19.



×