VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ NGỌC DIỆN
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BẮT
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ NGỌC DIỆN
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BẮT
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH
Chun ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
:
60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ MAI
2
HÀ NỘI, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu nêu trong Luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu
trong Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Ngọc Diện
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BẮT ............................................................ 7
1.1. Một số khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền con người của người
bị bắt .................................................................................................................. 7
1.2. Bảo đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp luật Tố tụng
hình sự Việt Nam ............................................................................................ 16
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA
NGƯỜI BỊ BẮT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ........................ 41
2.1. Tổng quan thực trạng bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong
tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ................................................. 41
2.2. Thực trạng các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền con người của người
bị bắt trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ................................................................ 44
2.3. Những kết quả, vi phạm, sai lầm và nguyên nhân ................................... 47
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA NGƯỜI BỊ BẮT ................................................................................... 64
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự về bảo đảm quyền con
người đối với người bị bắt ............................................................................... 64
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật tố tụng hình sự vềbảo
đảm quyền con người của người bị bắt ........................................................... 70
3.3. Một số giải pháp khác .............................................................................. 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
BPNC
: Biện pháp ngăn chặn
CQĐT
: Cơ quan điều tra
CQTHTT
: Cơ quan tiến hành tố tụng
NTHTT
: Người tiến hành tố tụng
QCN
: Quyền con người
THA
: Thi hành án
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TTHS
: Tố tụng hình sự
VKS/VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
bảng
2.1:
2.2:
Bảng thống kê các trường hợp bắt và tạm giữ từ năm
2012 – 2016
Bảng thống kê các trường hợp bắt và tạm giam từ năm
2012 – 2016
Trang
51
54
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ quyền con người là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền
vững của một quốc gia. Mỗi quốc gia đều xây dựng một hệ thống pháp luật
riêng cho quốc gia của mình dựa trên các điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội và
các giá trị truyền thống văn hóa của quốc gia để bảo đảm các quyền con người
được thực hiện một cách tốt nhất và đầy đủ nhất. Trong q trình xây dựng và
hồn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước ta đã không ngừng thể chế hóa nội
dung quyền con người trong các quy định của pháp luật, đã tham gia ký kết, gia
nhập nhiều điều ước quốc tế về bảo đảm quyền con người. Các cơ quan, cá nhân
bảo vệ pháp luật không ngừng tạo cho mọi người có mơi trường tự do, bình
đẳng để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, đồng thời bảo vệ con người khỏi
các hành vi xâm hại. Bảo đảm quyền con người không chỉ dừng lại ở việc ghi
nhận nó mà cịn phải thực thi nhiều biện pháp đồng bộ, được mọi cấp, mọi
ngành, mọi người tham gia.
Hoạt động áp dụng BPNC bắt người là hoạt động phức tạp, nhạy cảm, là
hoạt động mà quyền con người dễ bị xâm phạm nhất. Bắt người là một chế định
pháp lý trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Đây thực chất là các biện pháp
ngăn chặn nhằm hạn chế một số quyền của công dân, quyền của con người. Mục
đích của các BPNC là để đảm bảo cho các CQTHTT thực hiện được tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình trong cơng tác đấu tranh chống và phịng ngừa tội
phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các biện pháp
ngăn chặn này cũng nhằm bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Nhưng mặt khác, những BPNC cũng như các hoạt động của
các CQTHTT, NTHTT cũng rất dễ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của cơng
dân, đến quyền con người. Cho nên vấn đề đặt ra là CQTHTT, NTHTT cần có
nhận thức đầy đủ về quyền con người và tầm quan trọng của việc bảo đảm nó.
1
Đồng thời cần phải hiểu rõ các quy định pháp luật về việc đảm bảo quyền con
người, bên cạnh nó cần nắm bắt trình tự thủ tục cũng như điều kiện áp dụng
BPNC bắt người. Đây vấn đề rất quan trọng để các chủ thể thực thi pháp luật
tránh những vi phạm về quyền con người, các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân mà Hiến pháp đã quy định. Ngồi ra cịn nâng cao nhận thức của cơng
dân tự bảo vệ những quyền cơ bản của mình trong hồn cảnh bị áp dụng BPNC
bắt người, từ đó có những phản hồi tích cực giúp cơ quan tiến hành tố tụng đảm
bảm quyền con người hơn nữa trong hoạt động tố tụng của mình. Thực tiễn tại
tỉnh Quảng Bình trong những năm qua cho thấy có nhiều trường hợp vi phạm
QCN đối với người bị bắt trong quá trình tiến hành tố tụng. Những vi phạm đó
xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những bất cập, hạn chế của pháp
luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng, các quy định về chế
độ trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng đối với người bị bắt. Vì vậy
trên cơ sở thực tiễn, những quy định của pháp luật tố tụng về việc áp dụng
BPNC bắt người cũng như việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động này,
nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết và vô cùng quan trọng cho sự phát triển bền
vững. Đặc biệt trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
thì đây là yếu tố cần được chú ý quan tâm hơn nữa. Với lý do nêu trên tác giả
chọn nghiên cứu đề tài: “Bảo đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” làm luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý nước ta vấn đề quyền con người và bảo đảm
quyền con người trong hoạt động tư pháp nói chung và trong hoạt động tố tụng
nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các mức độ và góc độ khác nhau.
Đối với người bị buộc tội nói chung, người bị bắt trong tố tụng hình sự nói riêng
cũng có nhiều cơng trình đã đề cập nghiên cứu.
Ở phạm vi nghiên cứu về quyền con người và bảo đảm quyền con
2
người nói chung trong tố tụng hình sự, cụ thể có nhiều cơng trình đã cơng bố
như: Sách chun khảo: “Quyền con người”, năm 2015 do GS,TS Võ Khánh
Vinh chủ biên, NXB Khoa học xã hội. Sách chuyên khảo: “Cơ chế bảo đảm và
bảo vệ quyền con người”, năm 2011 do GS, TSVõ Khánh Vinh chủ biên, Nxb
Khoa học xã hội. Sách:“Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt
Nam”, năm 2010, NXB Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh. Sách: “Bảo vệ quyền
con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Trần
Quang Tiệp (2004), NXB chính trị quốc gia Hà Nội. Sách: “Một số vấn đề về
bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Vũ Văn
Nhiêm (2010), NXB Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh. Ngồi ra cịn có các
cơng trình tiêu biểu khác như: Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Đặng Cơng
Cường (2013), “Vai trị của Tịa án trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt
Nam hiện nay”,của tác giả Lại Văn Trình (2011), Bảo đảm quyền của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. Ở cấp độ các bài báo,
tạp chí khoa học có thể kể đến: Bài viết của tác giả Nguyễn Tiến Đạt (2006),
Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, Tạp chí khoa học
pháp lý số 3 (34); Bài viết của tác giả Đắc Minh (2014), Cơng dân có quyền im
lặng khi bị bắt, TANDTC - Công lý số 86, thứ 6 ngày 24/10; Bài viết của tác giả
Bình Sơn (2014), Sơi động về quyền im lặng, Tạp chí dân chủ và pháp luật-BTP,
số 11 (272);
Các cơng trình trên các tác giả đã nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền con
người trong tư pháp hình sự nói chung và trong tố tụng hình sự nói riêng. Bước đầu
đã đặt nền móng cho việc đặt quyền con người lên hàng đầu. Tuy nhiên, đến nay
chưa có cơng trình khoa học nào tiếp cận một cách trọn v n, toàn diện, hệ thống,
đồng bộ về vấn đề bảo đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp luật tố
tụng hình sự từ thực tiễn một địa bàn nghiên cứu, cụ thể là tại tỉnh Quảng Bình.
Trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận nền tảng, cũng như các công trình
nghiên cứu mà mình tiếp cận được, tác giả vận dụng đi sâu nghiên cứu về việc
3
bảo đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghi n c u
Mục đích của luận văn là nhằm đưa ra những giải pháp tăng cường bảo
đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghi n c u
Một là làm sáng tỏ một số cơ sở lý luận quy định về bảo đảm quyền con
người trong hoạt động tố tụng nói chung và trong việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn bắt người nói riêng.
Hai là đánh giá thực tiễn bảo đảm quyền con người trong hoạt động áp
dụng biện pháp ngăn chặn bắt người của cơ quan tiến hành tố tụng tại tỉnh
Quảng Bình qua đó chỉ ra những điểm cịn thiếu sót, chưa hợp lý trong quy định
của pháp luật áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người với việc bảo đảm quyền
con người.
Ba là đề xuất những giải pháp hồn thiện các quy định của bộ luật tố tụng
hình sự và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người
trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người.
4. Đối t
ng và ph m vi nghiên cứu
4.1. ối tư ng nghi n c u
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bảo đảm quyền con người của người bị
bắt theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.
4.2. hạm vi nghi n c u
Đề tài mà tác giả chọn để nghiên cứu được bao quát trong phạm vi liên
quan đến vấn đề bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tại tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016. Do giới hạn của
4
luận văn chỉ nghiên cứu bảo đảm quyền của người bị bắt theo quy định của
BLTTHS nên tác giả chỉ nghiên cứu bảo đảm quyền của người bị bắt gồm:
Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, quả tang, truy nã, bắt bị can, bị cáo để
tạm giam và bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
5. Ph
ng ph p uận và ph
ng ph p nghiên cứu
5.1. hương pháp luận
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận, thế giới quan của Chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật.
5.2. hương pháp nghi n c u
Các phương pháp cụ thể được s dụng trong quá trình nghiên cứu kết hợp
việc s dụng các phương pháp như phương pháp lý luận, phân tích, so sánh,
chứng minh được s dụng để làm rõ những vẫn đề lý luận chung về bảo đảm
quyền con người của người bị bắt.
Phương pháp nghiên cứu, lý luận, phân tích, hệ thống, đối chiếu, suy luận,
logic
được s dụng để làm rõ các vấn đề thực trạng về quyền con người của
người bị bắt từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phân tích, suy luận logic được s
dụng để kiến nghị hoàn thiện các giải pháp bảo đảm quyền con người của người
bị bắt.
6. Ý ngh a
uận và thực tiễn của uận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã góp phần làm rõ thêm nhiều vấn đề lý luận về quyền con
người và bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong pháp luật tố tụng hình
sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã phân tích các quy định của pháp luật và đánh giá khách quan
thực tiễn bảo đảm quyền con người trong hoạt động áp dụng biện pháp ngăn
chặn bắt người, từ đó đã chỉ ra những bất cập, hạn chế trong hoạt động trên.
5
Đồng thời đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự quy định về áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt
người và tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong luật tố
tụng hình sự Việt nam.
7. C cấu của uận văn
Ngoài lời cam đoan, bảng chữ viết tắt, phần mở đầu, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo, Luận văn gồm ba chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người của người
bị bắt.
- Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người của người bị bắt trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình.
- Chương 3: Các giải pháp bảo đảm quyền con người của người bị bắt
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BẮT
1.1. Một số kh i niệm iên quan đến bảo đảm quyền con ng ời của
ng ời bị bắt
1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người là một phạm trù đa diện, rất rộng, đa dạng, có thể được
hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau (như: lịch s , văn hóa, xã hội học, chính trị
học, triết học, luật học, quan hệ quốc tế....), do đó có nhiều định nghĩa khác
nhau. Từ trước đến nay có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được
công bố [40, tr.4]. Tuy nhiên mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất
định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng khơng định nghĩa nào bao hàm
được tất cả các thuộc tính của quyền con người.
Theo Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc thì: Quyền con người là những
bảo đảm pháp lý phổ quát (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các
cá nhân và nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc
(omissions) làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và
tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người [20 tr.21], [39].
Với khái niệm trên đã chỉ ra quyền con người là những quy định của pháp
luật nhằm bảo đảm nhân phẩm, tự do cơ bản của con người khơng bị xâm phạm.
quan điểm này cịn mang tính chung chung chưa cụ thể, chưa bộc lộ được hết
những thuộc tính của quyền con người. Bên cạnh đó, quyền con người cịn được
định nghĩa một cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người
mà nếu khơng được hưởng thì chúng ta sẽ khơng thể sống như một con người
[20, tr.21].
7
Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh thì quyền con người gắn chặt với hoạt động
xã hội, các mối quan hệ xã hội và các phương thức sống của cá nhân. Quyền con
người là biểu hiện tiêu chí tác động qua lại, củng cố các mối liên hệ, phối hợp
hành động và hoạt động giữa con người và con người, ngăn ngừa các mâu thuẫn
đối đầu và xung đột giữa họ trên cơ sở kết hợp tự do cá nhân với tự do của
những người khác, với hoạt động bình thường của nhà nước và xã hội. Những
quyền như quyền được sống, quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm, quyền
được bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được tự do ngơn luận, tự do chính
kiến, tự do tín ngưỡng, được tham gia vào các q trình chính trị là những điều
kiện cần thiết để con người tổ chức đời sống trong xã hội văn minh và cần phải
được nhà nước thừa nhận và bảo vệ một cách vô điều kiện [48, tr.13].
Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng
được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và
tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân
loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực
này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và
mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một
con người.
Từ việc đánh giá làm rõ khái niệm về quyền con người tác giả luận văn xây
dựng khái niệm quyền con người như sau: Quyền con người là những nhu cầu, l i
ích vốn có, tự nhi n. ư c áp dụng cho tất cả mọi cá nhân, không thể bị tước bỏ
hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất c chủ thể nào. Mọi quyền con người đều
có tầm quan trọng như nhau, việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc
một phần, nằm trong mối li n hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau.
ư c ghi
nhận trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
1.1.1.2. Khái niệm bảo đảm quyền con người
Có thể thấy quyền con người chỉ có giá trị khi nó được bảo đảm. Và vì
vậy, khái niệm bảo đảm quyền con người là khái niệm luôn gắn với khái niệm
8
quyền con người.
Bảo đảm quyền con người xét cho cùng chính là việc ghi nhận và thực
hiện những cam kết trong pháp luật quốc tế về các quyền con người vào trong
pháp luật mỗi quốc gia. Không thể bảo đảm quyền con người nếu chỉ dựa vào
quyền tự nhiên của con người, bởi tự thân những quyền tự nhiên không thể tự
mình vận hành trong một xã hội rộng lớn ở phạm vi quốc tế và phạm vi quốc
gia. Phải thơng qua Nhà nước, thì những cam kết quốc tế về quyền con người
mới hình thành nên những địa vị pháp lý của con người, đồng thời quyền con
người chỉ được bảo đảm khi được quy định bằng pháp luật và có cơ chế bảo
đảm, vận hành bởi pháp luật. Do đó, bảo đảm quyền con người là sự kết hợp địa
vị pháp lý và địa vị thực tế của con người trong xã hội, là một trong những biểu
hiện tự do xã hội, trách nhiệm và tính tích cực cơng dân. Các quyền kinh tế,
chính trị, xã hội chưa phải là cơ sở để thực hiện quyền và tự do của con người.
Chúng chỉ trở thành những bảo đảm quyền con người qua hình thức pháp lý và
những nỗ lực tổ chức bảo đảm thực hiện của Nhà nước. Bảo đảm quyền con
người của người bị buộc tội là đảm bảo cho những người đó có địa vị pháp lý
phù hợp để bảo vệ mình trước việc bị nghi thực hiện tội phạm, bị buộc tội và
những điều kiện pháp lý cũng như thực tế để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ tố
tụng được quy định.
Tuy nhiên, bảo đảm QCN trong TTHS không chỉ là sự ghi nhận về mặt
pháp lý các QCN trong TTHS, bảo vệ và bảo đảm thực thi các quyền đó trong
q trình giải quyết các vụ án hình sự. Bảo đảm quyền con người của người phải
là sự bảo đảm cho các chủ thể mang quyền được thực hiện đầy đủ và hợp pháp
các quyền được đề cập trong các quy định của pháp luật [32].
Tác giả Vũ Văn Nhiêm cho rằng: Bảo đảm quyền con người bằng pháp
luật được coi là biện pháp cơ bản, có hiệu lực và hiệu quả nhất. Bởi lẽ bảo vệ
quyền con người ở nước ta hiện nay gắn liền với bản chất nhà nước xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân và chỉ có thể được thực hiện
9
thông qua biện pháp pháp luật. “Đảng ta đã nhiều lần khẳng định mục tiêu và
động lực chính của sự phát triển là do con người và vì con người. Do vậy việc
hướng đến mục tiêu giải phóng con người, tơn trọng và bảo vệ quyền con người
chính là mục đích nội tại của Đảng và Nhà nước ta” [30, tr.163].
Qua nghiên cứu khái niệm bảo đảm quyền con người mà các nhà khoa
học đã đưa ra thì ta có thể nhận thấy việc bảo đảm quyền con người nói chung
và trong tố tụng hình sự nói riêng bao hàm các đặc điểm: Đó là sự điều chỉnh về
mặt lập pháp, sự thực thi về mặt hành pháp, và sự đảm bảo tối đa về mặt tư pháp,
nhằm mục đích làm cho quy định của pháp luật các quốc gia phù hợp với các
nguyên tắc, các quy phạm pháp luật quốc tế, làm cho các quy định pháp luật này
được tuân thủ, chấp hành và áp dụng nghiêm chỉnh, thống nhất và triệt để, tạo
lịng tin ở cơng dân. Cho nên việc bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực này
không thể chỉ quy định chung chung mà cần phải rõ ràng, cụ thể. Hơn nữa trong
lĩnh vực tố tụng hình sự thì vấn đề bảo đảm quyền con người càng quan trọng hơn
nữa. Bởi lẽ hoạt động tố tụng là hoạt động linh hoạt, nhạy cảm, áp dụng quy phạm
pháp luật cho nên quyền con người dễ bị vi phạm hơn hết vậy nên bảo đảm quyền
con người trong tố tụng hình sự là nhiêm vụ hàng đầu và vơ cùng quan trọng.
Vì vậy, theo tác giả, bảo đảm quyền con người là sự ghi nhận, thực hiện
và bảo vệ quyền con người, để quyền con người đư c tơn trọng và thực thi trên
thực tế, mặt khác có những biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn những nguy cơ,
hành vi có thể xâm phạm đến quyền con người. B n cạnh đó bảo đảm cũng có
thể hiểu là phải chắc chắn và luôn đư c thực hiện.
Việc bảo đảm tốt các quyền con người sẽ giúp giảm thiểu, ngăn ngừa
những mâu thuẫn xã hội, củng cố sự đoàn kết nhất trí, thúc đẩy sự phát triển về
mọi mặt của một đất nước, qua đó góp phần bảo đảm an ninh quốc gia.
1.1.2. Khái niệm người bị bắt, phân loại người bị bắt
Hoạt động bắt người luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị, xã
hội vì bắt người đúng hay không đúng các quy định của pháp luật có liên quan
10
và ảnh hưởng đến các quyền cơ bản của công dân: Quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, quyền được bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của
cơng dân, liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Do đó, vấn đề bắt người quy định trong Tố tụng hình sự ln địi hỏi phải
đảm bảo tính chặt chẽ, mang lại hiệu quả, để góp phần hồn thiện pháp luật. Mặt
khác, bắt người là biện pháp ngăn chặn cần phải được đánh giá hiệu quả thực
tiễn của nó trong phịng ngừa, đấu tranh phịng chống tội phạm nhằm phát huy
tác dụng tích cực, khắc phục những hạn chế.
Theo Điều 79 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã đưa ra khái niệm về
bắt người như sau: “ ể kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn c ch ng
tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp
tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có
thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng các biện pháp ngăn
chặn” trong đó có biện pháp bắt
BLTTHS 2015 khoản 1 Điều 109: “ ể kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc
khi có căn c ch ng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có
thể áp dụng”...trong đó có biện pháp ngăn chặn bắt [3].
Theo tác giả, khái niệm người bị bắt được phát biểu như sau: “Người bị
bắt là người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, bao gồm bị
can, bị cáo, người đang bị truy nã, người đang bị dẫn độ hoặc thậm chí là người
chưa bị khởi tố về hình sự có thể bị áp dụng trong những trường h p khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang, nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ,
ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật tạo điều kiện thuận l i cho việc điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự.”
Theo quy định tại khoản 2 Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
11
quy định: “Các trường h p bắt người gồm bắt người bị tạm giữ trong trường
h p khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị
can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị y u cầu dẫn độ”.
Như vậy, người bị bắt được phân loại trong các trường hợp sau đây:
1.1.2.1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc
người đã bị Tịa án quyết định đưa ra xét x để tạm giam nhằm ngăn chặn bị
can, bị cáo tiếp tục phạm tội, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra,
truy tố, xét x và thi hành án hình sự.
Đối tượng của việc bắt người để tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo.
Những người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc người chưa bị Tịa án quyết định
đưa ra xét x không phải là đối tượng bắt tạm giam.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, bắt bị can, bị cáo để tạm giam không phải
là biện pháp ngăn chặn duy nhất, vì thế khơng phải mọi bị can, bị cáo đều bị bắt
để tạm giam. Việc quyết định bắt bị can bị cáo để tạm giam không phải căn cứ
vào tính chất của tội phạm đã xảy ra, nhân thân người phạm tội và thái độ của
người phạm tội sau khi thực hiện tội phạm. Điều đó có nghĩa là chỉ được bắt để
tạm giam đối với một người khi có đủ căn cứ để xác định người đó đã thực hiện
hành vi phạm tội mà xét thấy đáng bắt để tạo điều kiện cho việc điều tra x lý
tội phạm. Người phạm tội nhưng không đáng bắt thì kiên quyết khơng bắt.Đối
với họ có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Ví dụ: bị can, bị cáo phạm tội
lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng hoặc phạm tội do vơ ý, khơng có hành động
cản trở việc điều tra, truy tố, xét x thì khơng cần bắt tạm giam. Đối với những
bị can, bị cáo phạm tội có tính chất nghiêm trọng như phạm các tội đặc biệt
nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, giết người, cướp tài sản
hoặc phạm
các tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ để
cho rằng họ sẽ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc có hành động cản trở việc điều tra,
xét x thì cần kiên quyết bắt để tạm giam.
12
1.1.2.2. Bắt người trong trường h p khẩn cấp
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn
bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhằm
ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội
phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.
Điều 81 BLTTHS năm 2003 quy định chỉ được bắt khẩn cấp khi có một
trong các căn cứ (trường hợp) sau đây:
Trường hợp khẩn cấp thứ nhất: Khi có căn cứ cho rằng người đó đang
chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã có q trình theo dõi, kiểm
tra, xác minh các tin tức thu thập chứng cứ và có đủ cơ sở để khẳng định một
người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm nghiêm trọng nên cần bắt ngay, để ngăn
chặn kịp thời việc người đó gây thiệt hại cho xã hội.
Trường hợp khẩn cấp thứ hai: Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi
xảy ra tội phạm chính mắt trơng thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội
phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Đây là trường hợp hành vi phạm tội đã được thực hiện, người phạm tội
khơng bị bắt ngay lúc đó, nhưng người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội
phạm tận mắt chứng kiến hành vi phạm tội và trực tiếp xác định đúng là người đã
thực hiện tội phạm, xét thấy cần phải ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Trường hợp khẩn cấp thứ ba: Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người
hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn
ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
Trong trường hợp này, cơ quan điều tra chưa có đủ tài liệu, chứng cứ xác
định một người phạm tội, mới phát hiện được những dấu vết của tội phạm ở
người hoặc tại chỗ ở của người đó và từ những dấu vết ấy mà người đó bị nghi
thực hiện một tội phạm. Nếu xét thấy cần bắt ngay để ngăn chặn việc họ trốn
13
hoặc tiêu hủy chứng cứ, thì phải ra lệnh bắt khẩn cấp.
1.1.2.3. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội
phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc đuổi bắt. Phạm
tội quả tang có đặc điểm là hành vi phạm tội cụ thể, rõ ràng không cần phải điều
tra, xác minh.
Trường hợp thứ nhất: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
Đang thực hiện tội phạm là trường hợp phạm tội quả tang thường gặp trong thực
tế. Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi phạm tội
được quy định trong bộ luật hình sự nhưng chưa hồn thành tội phạm hoặc chưa
kết thúc việc phạm tội thì bị phát hiện.
Trường hợp thứ hai: Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Đây
là trường hợp kẻ phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong chưa kịp chạy trốn hoặc
đang cất giấu cơng cụ, phương tiện, đang xóa những dấu vết của tội phạm trước
khi chạy trốn thì bị phát hiện.
Trường hợp thứ ba: Đang bị đuổi bắt. Trong trường hợp phạm tội quả
tang này, người phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong hoặc đang thực hiện tội
phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt.
Bắt người đang bị truy nã không nằm trong các trường hợp bắt người
phạm tội quả tang, vì hành vi của người đang bị truy nã là hành vi bỏ trốn sau khi
đã thực hiện tội phạm. Tuy vậy, trong thực tế việc ngăn chặn ngay người đang bị
truy nã trốn tránh pháp luật cũng mang tính chất cấp bách như đối với việc ngăn
chặn người phạm tội quả tang nên BLTTHS quy định thẩm quyền, thủ tục bắt
người đang bị truy nã cũng được áp dụng như bắt người phạm tội quả tang.
1.1.2.4. Bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
Theo quy định Luật tương trợ tư pháp thì dẫn độ là một hình thức hợp tác
tương trợ tư pháp giữa các nước. Theo đó nước được yêu cầu sẽ bắt giữ và
chuyển giao người đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc người đã bị Tòa án của
14
nước yêu cầu kết án bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật cho nước yêu cầu để
nước này truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt [24].
Dẫn độ tội phạm được hiểu là việc một quốc gia chuyển giao cho quốc gia
khác người có hành vi phạm tội đang có mặt trên lãnh thổ của quốc gia mình để
quốc gia được chuyển giao tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) hoặc
thi hành bản án (THA) đã có hiệu lực pháp luật đối với người đó.
Tại Điều 503 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì việc bắt tạm giam
người bị yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành quyết định dẫn độ được thực hiện theo
quy định như đối với bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 113 của BLTTHS
2015). Thời hạn tạm giam để xem xét yêu cầu dẫn độ không quá thời hạn trong
lệnh bắt giam của cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu dẫn độ hoặc thời
hạn phải thi hành hoặc cịn phải thi hành hình phạt tù trong bản án, quyết định
hình sự của Tịa án nước yêu cầu dẫn độ. Trường hợp cần thiết, Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp cao có thể g i văn bản yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền của nước yêu cầu dẫn độ ra lệnh, quyết định tạm giam hoặc gia hạn tạm
giam người bị yêu cầu dẫn độ để bảo đảm việc xem xét yêu cầu dẫn độ; văn bản
yêu cầu được g i thông qua Bộ Công an.
Nguyên tắc của dẫn độ tội phạm là người bị yêu cầu dẫn độ có thể là cơng
dân của nước u cầu, người nước ngồi hoặc người không quốc tịch. Công dân
của nước được yêu cầu cũng có thể là đối tượng bị dẫn độ nếu pháp luật quốc
gia và Điều ước quốc tế (ĐƯQT) về dẫn độ mà nước được yêu cầu là thành viên
cho phép dẫn độ cơng dân cho nước ngồi. Người phạm tội chỉ có thể bị dẫn độ
nếu yêu cầu dẫn độ đáp ứng các điều kiện về tội phạm, hình phạt và các quy
định khác theo quy định của ĐƯQT và pháp luật về dẫn độ của nước yêu cầu và
nước được yêu cầu dẫn độ.
1.1.3. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người bắt
Việc bắt người đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cơng
cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm
15
tội cũng như hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn trong việc giải quyết vụ
án của người phạm tội, đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét x và thi hành án
được thuận lợi. Trái lại, việc bắt người không đúng pháp luật sẽ gây tác hại
nhiều mặt như xâm phạm quyền tự do thân thể của cơng dân, làm giảm uy tín
của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận.
Chính vì vậy, việc bắt người trong TTHS có ý nghĩa và tầm quan trọng rất lớn.
Việc bắt người ln là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội,
bắt người đúng hay không đúng quy định của pháp luật, bắt oan sai có ảnh
hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân, liên quan đến đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Việc bắt một số “đối tượng đặc
biệt” về chính trị ở trong nước và các đối tượng là người nước ngồi cịn ảnh
hưởng đến chính sách đối nội và quan hệ đối ngoại của Nhà nước ta.Vì vậy, việc
hoàn thiện quy định về biện pháp bắt người trong TTHS là vấn đề cấp thiết trong
công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
Thơng qua những phân tích trên thì theo tác giả, bảo đảm quyền con
người của người bị bắt theo pháp luật tố tụng hình sự như sau:
“Bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong tố tụng hình sự là việc
các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật nhằm bảo đảm cho một người trước và sau khi bị bắt đư c thực hiện
tr n thực tế các quyền con người một cách đầy đủ và h p pháp.
1.2. Bảo đảm quyền con ng ời của ng ời bị bắt theo ph p uật Tố
tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Các quyền con người của người bị bắt theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam
1.2.1.1. Các quyền con người, quyền công dân của người bị bắt
Theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành (BLTTHS 2003) người bị bắt
có những quyền con người và quyền cơng dân sau đây:
- Quyền được tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều
16
4), quy định rõ các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng “trong
phạm vi trách nhiệm của mình cần phải tơn trọng và bảo vệ các quyền và l i ích
h p pháp của cơng dân, thường xuy n kiểm tra tính h p pháp và sự cần thiết
của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện
pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc khơng cịn cần thiết nữa”.
- Quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 5), BLTTHS quy định trong “tố
tụng hình sự tiến hành theo nguy n tắc mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp
luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần xã hội,
địa vị xã hội; bất c người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật”.
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 6), đây là một quyền rất
quan trọng được pháp luật ghi nhận ”Không ai bị bắt, nếu khơng có quyết định
của Tồ án, quyết định hoặc ph chuẩn của VKS, trừ trường h p phạm tội quả
tang. Việc bắt và giam giữ người phải theo quy định của Bộ luật TTHS. Nghi m
cấm mọi hình th c truy b c, nhục hình”.
- Quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
(Điều 7), ghi nhận “cơng dân có quyền đư c pháp luật bảo hộ về tính mạng, s c
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, s c khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật”. Cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm áp dụng những biện pháp cần thiết, kịp
thời để bảo vệ người tham gia tố tụng và người thân thích của người bị bắt khi bị
đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản theo
quy định của pháp luật.
- Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an tồn và bí mật thư tín, điện thoại,
điện tín (Điều 8), theo đó “khơng ai đư c xâm phạm chỗ ở, an tồn và bí mật
thư tín, điện thoại, điện tín của cơng dân. Việc khám xét chỗ ở, khám xét, tạm
giữ và thu giữ thư tín, điện tín phải theo đúng quy định của Bộ luật TTHS”.
- Quyền được suy đốn vơ tội (Điều 9) ghi nhận “khơng ai bị coi là có
tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực
17
pháp luật”. Khi chưa có bản án kết tội của Tịa án thì người bị nghi thực hiện tội
phạm vẫn được bảo đảm các quyền về con người.
- Quyền được bào chữa (Điều 11), theo đó người bị bắt có quyền tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. CQĐT, VKS, Tồ án có nhiệm vụ bảo đảm
cho người bị bắt thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của BLTTHS.
- Quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự quyền lợi khi bị
oan, sai (Điều 29, 30), theo đó khi bị thiệt hại, bị oan do cơ quan hoặc người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường
thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. “Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự,
quyền l i cho người bị oan; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hồn cho
cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật”.
- Quyền được khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự (Điều 31), “cơng
dân, cơ quan, tổ ch c có quyền khiếu nại, cơng dân có quyền tố cáo những việc
làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan và người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc bất c cá nhân nào thuộc các cơ
quan đó. Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời,
đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết
cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục. Trình tự, thủ tục,
thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo do BLTTHS quy định”.
Ngồi ra, BLTTHS năm 2015 cịn qui định bổ sung các quyền con người,
quyền công dân mà người bị bắt được hưởng gồm:
- Quyền được tôn trọng và bảo vệ quyền con người và lợi ích hợp pháp
(Điều 8) “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, quyền và l i ích h p pháp của cá nhân; thường xuy n kiểm tra tính
h p pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc
thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc khơng cịn
18
cần thiết”.
- Quyền được Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí
mật cá nhân, bí mật gia đình (Điều 12), theo đó khơng ai được xâm phạm trái
pháp luật chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an tồn và bí
mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thơng tin riêng tư khác
của cá nhân.Việc khám xét chỗ ở; khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện
thoại, điện tín, dữ liệu điện t và các hình thức trao đổi thơng tin riêng tư khác
phải được thực hiện theo quy định của BLTTHS.
- Bên cạnh đó BLTTHS 2015 cịn quy định về quyền im lặng, chi tiết cụ
thể tại các Điều 58 khoản 1 điểm d, Điều 59 khoản 2 điểm c, Điều 60 khoản 1
điểm d, Điều 61 khoản 2 điểm h. Theo đó, các điều khoản này lần lượt ghi nhận:
người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị can và bị cáo đều có
quyền trình bày ý kiến, trình bày lời khai, khơng buộc phải đưa ra lời khai chống
lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.
Như vậy, có thể hiểu người bị bắt có quyền tự chủ về việc khai báo.
Những gì bất lợi, họ có thể khơng buộc phải khai báo cũng như khơng buộc phải
nhận mình có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Trong các điều khoản
trên, tuy không trực tiếp ghi nhận quyền im lặng cho người bị bắt khẩn cấp,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nhưng trong thực tế khi làm việc với các cơ
quan tố tụng, họ có thể khơng trả lời một số câu hỏi mà họ cho là chống lại họ
và họ cũng khơng buộc phải khai nhận mình có tội. Đây có thể được coi là một
nội dung của quyền im lặng, quy định này nhằm bảo đảm tính minh bạch của
pháp luật, tạo sự nhận thức thống nhất trong quá trình lấy lời khai và hỏi cung.
Trên thực tế cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng luôn mong đợi
sự hợp tác của người bị bắt, nhưng nếu khơng nhận được sự hợp tác tích cực của
người bị bắt thì cũng khơng thể coi đó là tình tiết tăng nặng để sau này áp dụng
x lý đối với họ được.
Tuy nhiên, người bị bắt có quyền khai báo sau khi được giải thích về
19