Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.77 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN HIỆP

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Khoa học Xã hội

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
GS.TS. NGUYỄN NGỌC ANH

Phản biện 1: .............................................................
Phản biện 2: ..............................................................

Luận văn sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ họp tại Học viện khoa học xã hội ....... giờ ......
ngày ...... tháng ..... năm 2017.


Có thể tìm hiểu luận văn tại
Thư viện Học viện Khoa học Xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn
Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền
quan trọng, thân thiết nhất của con người và luôn chiếm được sự
quan tâm đặc biệt của các nhà lập pháp của bất kỳ quốc gia nào.
Trong các hình thái xã hội khác nhau, Nhà nước đều sử dụng các
biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của con người và
hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của con người đều bị áp dụng
những hình thức trách nhiệm pháp lý nhất định như: trách nhiệm bồi
thường, trách nhiệm hoàn trả vật, tài sản trong pháp luật dân sự hay
điều tra, truy tố xét xử một người khi họ có hành vi xâm hại đến
quyền sở hữu ở mức độ nghiêm trọng. Thông qua việc đánh giá coi
hành vi xâm phạm quyền sở hữu của con người là tội phạm và áp
dụng đối với người phạm tội một hình phạt, Nhà nước luôn thể hiện
thái độ đấu tranh không khoan nhượng đối với loại hành vi này.
Những năm gần đây nền kinh tế nước ta nói chung, tỉnh Quảng
Nam nói riêng phát triển nhanh và mạnh, kéo theo sự thay đổi về mọi
mặt trong đời sống xã hội, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng về kinh tế, từ đó tạo ra vị thế ổn định và phát triển đi lên. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế thị trường đã
có những tác động tiêu cực đến đời sống xã hội như sự tha hoá trong
lối sống, tiêu cực, tệ nạn xã hội và đặc biệt tội phạm có điều kiện
phát sinh, tồn tại. Trong đó, có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đây là
một trong những tội xâm phạm sở hữu có diễn biến phức tạp, xảy ra
thường xuyên và ngày càng gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo
quyệt, từ chủ thể thực hiện tội phạm đến các đối tượng bị xâm hại

đều rất đa dạng, tài sản bị chiếm đoạt có giá trị rất lớn, có những vụ
lên đến hàng chục tỷ đồng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát
triển kinh tế - xã hội, an ninh trật tự của đất nước nhưng các cơ quan
1


chức năng của tỉnh Quảng Nam chưa có tổng kết để rút kinh nghiêm.
Trước tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tác động
tiêu cực trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,...
cũng như trước sự đòi hỏi mới của cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm. Việc nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới một góc
nhìn từ thực tiễn tại một địa phương cụ thể không chỉ có ý nghĩa
quan trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa trong thực tiễn áp dụng
của công tác định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện việc áp dụng tội này trong
BLHS Việt Nam. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Quảng nam" để làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Với cách tiếp cận riêng của mình, với phạm vi khối lượng cho
phép của luận văn tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những nội dung lý
luận của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ,hoạt động định tội danh và đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng loại tội phạm này trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam(từ năm 2012 đến 2017), nhằm tiếp tục góp
phần giúp các cơ quan tố tụng thực thi pháp luật hình sự, cơ quan
quản lý nhà nước tại địa phương có được bức tranh toàn cảnh về hoạt
động định tội danh và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng đối với
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của BLHS Việt Nam tại
tỉnh Quảng Nam. Do đó, việc lựa chọn đề tài mà tác giả nghiên cứu
hoàn toàn mới, không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu

nào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam, nêu và phân tích những
vấn đề chung về định tội danh về mặt lý luận cũng như đánh giá hoạt
2


động định tội danh, từ đó rút ra được những hạn chế và nguyên nhân
của những hạn chế và đề ra một số giải pháp khắc phục trong hoạt
động định tội danh và hiệu quả áp dụng tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản tại tỉnh Quảng Nam trong 5 năm qua (từ năm 2012 đến năm
2016), góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội
phạm này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Để đạt được những mục đích nêu
trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
Nêu và phân tích rõ khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam; các dấu
hiệu định khung tăng nặng; phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
với một số tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác; nêu
và phân tích lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm pháp
luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trình bày những vấn đề lý luận về định tội danh và đánh giá
hoạt động định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực
tiễn tỉnh Quảng Nam trong 5 năm qua (từ năm 2012 đến năm 2016).
Phân tích những tồn tại hạn chế trong việc áp dụng tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tội
này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu. Là những vấn đề lý luận và thực
tiễn định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam; từ đó chỉ ra được các hạn chế cũng như đề xuất các
biện pháp khắc phục trong việc áp dụng Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu. Luận văn nghiên cứu tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản dưới góc độ pháp luật hình sự và hoạt động định
tội danh cũng như đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
áp dụng đối với loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
3


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận. Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, cũng như
của các cấp chính quyền tỉnh Quảng Nam về hoạt động phòng, chống
tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình viết luận văn,
tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu của khoa học luật
hình sự, như phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê so sánh,
phương pháp lịch sử và hệ thống, phương pháp phân tích...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn thạc sĩ là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu
một cách toàn diện, có hệ thống dưới góc độ pháp lý hình sự về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở một địa bàn cấp tỉnh cụ thể nên vừa có ý
nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam, theo đó luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn là:
6.1. Về mặt lý luận. Luận văn có thể được dùng làm tài liệu

tham khảo trong quá trình học tập và nghiên cứu của học viên.
6.2. Về mặt thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp
phần nâng cao hiệu quả, chất lượng các vụ án về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn có bố cục gồm ba chương:
Chương 1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình
sự Việt Nam
Chương 2. Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực
tiến tỉnh Quảng Nam từ năm 2012 đến 2016
Chương 3. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ
4


luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
CHƢƠNG 1
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰVIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nằm trong nhóm tội phạm này.
Vì vậy, khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn khái
niệm chung của các tội xâm phạm sở hữu đồng thời phải thỏa mãn
các dấu hiệu đặc thù riêng.
1.1.2. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.

Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng tương tự
như các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân
thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu.
1.1.3. Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài của tội
phạm, hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất.
Mặt khách quan được quy định trong Luật hình sự có những
nội dung sau:
- Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội;
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả
nguy hiểm cho xã hội;
- Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội
5


(công cụ, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội,...).
Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có các dấu
hiệu đặc trưng sau:
1.1.3.1. Dấu hiệu hành vi
1.1.3.2. Dấu hiệu hậu quả
1.1.3.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của
tội phạm
1.1.4. Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đọat tài sản là người từ đủ 14
tuổi trở lên, có năng lực TNHS và đã thực hiện hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139 BLHS năm 1999.
1.1.5. Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đựơc thực

hiện do lỗi cố ý, mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm
đoạt được tài sản.
- Dấu hiệu lỗi trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội trong tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản
1.2. Các dấu hiệu định khung tăng nặng
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS năm 1999),
quy định bốn khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội và
được sắp xếp theo trình tự tăng dần về độ nghiêm khắc, đó là khung
hình phạt cơ bản, khung tăng nặng thứ nhất (khoản 2), khung tăng
nặng thứ hai (khoản 3) và khung tăng nặng thứ ba (khoản 4). Trước
khi tìm hiểu về ba khung tăng nặng trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, chúng ta tìm hiểu về khung hình phạt cơ bản được quy định tại
khoản 1 của điều luật.
1.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác
1.3.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội trộm
6


cắp tài sản
1.3.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.3.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội cướp
giật tài sản
Cướp giật tài sản là nhanh chóng giật lấy tài sản của người
khác một cách công khai rồi tìm cách tẩu thoát.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội cướp giật giống nhau về
lỗi của người phạm tội, cả hai tội đều có lỗi cố ý trực tiếp.
Điểm khác nhau giữa hai tội này, trước hết là về mặt khách thể

của tội phạm - Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ
sở hữu tài sản còn khách thể của tội cướp giật tài sản là quan hệ sở hữu
tài sản và quan hệ nhân thân. Ở hai tội còn khác nhau về mặt khách
quan: hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi
gian dối chiếm đoạt tài sản còn ở tội cướp giật tài sản là hành vi công
khai, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác rồi nhanh chóng
tẩu thoát.
1.3.4. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội sử
dụng mạng vi tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị
số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội sửu dụng mạng vi tính,
mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản giống nhau về mục đích của hành vi là nhằm
chiếm đoạt tài sản, tội phạm đều do chủ thể thường, có năng lực
TNHS và đạt độ tuổi luật định thực hiện.
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm
pháp luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Để tìm hiểu kỹ hơn về lịch sử hình thành và phát triển của các
quy phạm pháp luật hinh sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản theo 02 giai đoạn như sau:
7


1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1999
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1999 (BLHS 1999 có hiệu lực) đến
nay
CHƢƠNG 2
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ
THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM TỪ 2012-2016
2.1. Những vấn đề chung về định tội danh

2.1.1. Khái niệm và các đặc điểm về định tội danh
2.1.1.1 Khái niệm về định tội danh
Định tội danh là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự
và cá thể hoá hình phạt một cách công minh, chính xác, đồng thời
làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xác định thẩm
quyền điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng...
góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ pháp luật,
bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi
công dân.
2.1.1.2 Các đặc điểm về định tội danh
- Định tội danh là một quá trình nhận thức có tính logic giữa lý
luận và thực tiễn.
- Quá trình hoạt động định tội danh phải tuân thủ nghiêm
chỉnh các quy phạm pháp luật của luật nội dung là BLHS cũng như
các quy phạm pháp luật của luật hình thức là BLTTHS.
- Định tội danh là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà
án) để cụ thể hoá các QPPLHS trừu tượng vào đời sống thực tế. Trên
cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết của hành vi phạm tội đã
thực hiện và sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn nội dung của các
QPPLHS.
8


2.1.2. Phân loại định tội danh
Căn cứ vào chủ thể thực hiện việc định tội danh và hậu quả của
việc định tội danh, khoa học luật hình sự chia định tội danh thành 2
nhóm: định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức.
* Định tội danh chính thức

* Định tội danh không chính thức
2.1.3. Các yếu tố làm căn cứ trong hoạt động định tội danh
Định tội danh được thực hiện theo các yếu tố sau đây:
- Định tội danh theo các yếu tố của cấu thành tội phạm
- Định tội danh đối với hành vi phạm tội chưa hoàn thành
- Định tội danh trong trường hợp đồng phạm
- Định tội danh dựa trên sự cạnh tranh quy phạm pháp luật
hình sự và định tội danh
: do tính đa dạng của các nguyên nhân mang tính lịch sử của
- Định tội danh trong trường hợp có nhiều tội
2.1.4. Ý nghĩa của hoạt động định tội danh
Định tội danh là một gai đoạn cơ bản của việc áp dụng các quy
phạm pháp luật hình sự. Định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị, xã
hội, đạo đức vào pháp luật lớn và ngược lại.
Hoạt động định tội danh của các chủ thể có thể theo 2 xu
hướng: định tội danh đúng và định tội danh sai.
- Định tội danh đúng: định tội danh là sự thể hiện việc đánh
giá chính trị, xã hội và pháp lý đối với những hành vi nhất định.
- Định tội danh sai: là việc định tội không đúng với hành vi
của người phạm tội đã thực hiện. Đây là trường hợp một người thực
hiện một tội phạm nhất định nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng lại
cho rằng hành vi mà người đó thực hiện phù hợp với cấu thành của
một tội phạm khác.
Từ những phân tích các vấn đề chung về định tội danh, chúng ta
đi sâu nghiên cứu về thực tiễn định tội danh tại tỉnh Quảng Nam trong
9


05 năm qua (Từ 2012 - 2016).
2.2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

tại tỉnh Quảng Nam từ năm 2012 - 2016
2.2.1. Khái quát tình hình tội phạm nói chung và tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2012 đến
năm 2016
Trước khi nghiên cứu về thực tiễn định tội danh tội lừa đảo
chiếm doạt tài sản tại tỉnh Quảng Nam, chúng ta nghiên cứu và nắm
bắt khái quát về tình hình tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng nam 05 năm qua (từ
năm 2012 đến năm 2016).
Bảng 2.1. Cơ cấu tội phạm do Toà án đã xét xử từ năm 2012 đến
năm 2016 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Stt

1
2
3
4
5

Nhóm
tội xâm
phạm
Tổng
TMSK
XPSH
MT
TTXH
Khác

Năm

2012
Vụ Bị cáo
412 653
102 204
207 318
25
40
65
85
13
15

Năm
2013
Vụ Bị cáo
349 481
85
115
170 240
30
45
60
75
4
6

Năm
2014
Vụ Bị cáo
405 555

90
135
195 262
33
46
75
95
12
17

Năm
Năm
2015
2016
Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo
374 568 370 503
81
144
77
120
182 270 180 241
29
50
35
47
73
90
70
85
9

14
8
10

(Nguồn: số liệu thống kê, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam).
Bảng 2.2. Tỷ lệ phần trăm các loại tội phạm đã xét xử
từ năm 2012 đến năm 2016
Nhóm
tội xâm
Stt
phạm
1 TMSK
2 XPSH
3
MT
4 TTXH
5
Khác

Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo
%
%
%
%
%

%
%
%
%
%
24,8 31.2 24,4 23,9 22,2 24,3 21,6 25,3 20,8 23,9
50,2 48,7 48,7 49,9 48,1 47,2 48,6 47,5 48,6 47,9
6,0
6,1
8,6
9,3
8,1
8,3
7,8
8,8
9,4
9,3
15,8 13,0 17,1 15,6 18,5 17,1 19,5 15,8 18,9 16,8
3,2
2,3
1,1
1,2
2,9
3,0
2,4
2,4
2,1
1,9

(Nguồn: số liệu thống kê, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam).

Bảng 2.3. Cơ cấu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và nhóm tội phạm
10


xâm phạm sở hữu (do Tòa án đã xét xử) trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam từ năm 2012 đến năm 2016
Stt
1
2
3
4
5

Nhóm tội xâm
phạm
Tổng
LĐCĐTS
Cướp giật TS
Trộm cắp TS
Cướp TS
Khác

Năm 2012
Vụ
207
23
27
130
12
15


Bị cáo
318
33
36
202
30
17

Năm 2013
Vụ
170
26
20
110
8
6

Bị cáo
240
34
25
161
13
7

Năm 2014
Vụ
195
30

24
124
10
7

Năm 2015

Bị cáo
262
38
31
170
14
9

Vụ
182
30
22
115
9
6

Năm 2016

Bị cáo
270
39
32
175

16
8

Vụ
180
31
19
112
10
8

Bị cáo
241
37
27
154
14
9

(Nguồn: số liệu thống kê, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam).
Bảng 2.4. Tỷ lệ phần trăm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và nhóm
tội phạm xâm phạm sở hữu (do Tòa án đã xét xử) trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam từ năm 2012 đến năm 2016
Stt

Nhóm tội xâm
phạm

1
2

3
4
5

LĐCĐTS
Cướp giật TS
Trộm cắp TS
Cướp TS
Khác

Năm
2012
Vụ
Bị cáo
%
%
11,1
10,3
13,0
11,3
62,8
63,5
5,8
9,4
7,2
5,3

Năm
2013
Vụ

Bị cáo
%
%
15,2
14,2
11,7
10,4
64,7
67,0
4,7
5,4
3,5
2,9

Năm
2014
Vụ
Bị cáo
%
%
15,3
14,5
12,3
11,8
63,5
64,8
5,1
5,3
3,6
3,4


Năm
2015
Vụ
Bị cáo
%
%
16,4
14,4
12,1
11,8
63,1
64,8
4,9
5,9
3,2
3,0

Năm
2016
Vụ
Bị cáo
%
%
17,2
15,3
10,5
11,2
62,2
63,9

5,5
5,8
4,4
3,7

(Nguồn: số liệu thống kê, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam)
Bảng 2.5. Cơ cấu và tỷ lệ về giới tính (nữ) phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong tổng số tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ
năm 2012 đến năm 2016
Năm
2012
2013
2014
2015
2016

Tổng số bị
cáo phạm
tội

Tổng số bị
cáo nữ
phạm tội

653
481
555
568
503
Tỷ lệ trung bình


43
31
35
41
35

Tỷ lệ
%
6,6
6,4
6,3
7,2
6,9
6,7

Số bị cáo
phạm tội
XPSH

Số bị cáo
nữ phạm
tội XPSH

318
240
262
270
241


14
14
13
15
12

Tỷ lệ
%
4,4
5,8
5,0
5,5
5,0
5,1

Số bị cáo
phạm tội

CĐTS
33
34
38
39
37

Số bị cáo
nữ phạm
tội LĐ
CĐTS
3

3
5
3
6

Tỷ lệ
%
9,0
8,8
13,1
7,7
16,2
11

(Nguồn: số liệu thống kê, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam).
Từ Bảng 2.5 ở trên ta thấy tỷ lệ trung bình về giới tính nữ
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chiếm 11%, trong khi đó tỷ lệ bị
cáo nữ phạm tội trong nhóm tội xâm phạm sở hữu chỉ là 5,1% và tỷ
lệ số bị cáo nữ phạm tội chung trong tất cả các loại tội phạm là 6,7%.
11


Như vậy, tỷ lệ nữ phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam trong 05 năm 2012 - 2016 là cao hơn cả so với
trong cùng nhóm tội và so với tình hình tội phạm chung trên địa bàn
tỉnh.
Bảng 2.6. Cơ cấu và tỷ lệ % bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản theo các mức hình phạt (CTTP cơ bản và CTTP tăng nặng) quy
định tại Điều 139 BLHS năm 1999
Năm

2012
2013
2014
2015
2016

Tổng số bị
cáo
33
34
38
39
37
Tỷ lệ%

CTTP cơ bản
Khoản 1
27
24
29
34
29
79%

Cấu thành tội phạm tăng nặng
Khoản 2
Khoản 3
Khoản 4
5
1

0
7
2
1
5
3
1
4
1
0
6
2
0
14,9%
5%
1,1%

(Nguồn: số liệu thống kê, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam)
2.2.2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo cấu thành cơ bản
Cấu thành cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định
tại Điều 139 BLHS năm 1999 có nhiều tình tiết là yếu tố định tội,
làm ranh giới phân biệt giữa hành vi phạm tội với hành vi chỉ bị xử
lý hành chính. Vì vậy, cần chú ý các tình tiết là yếu tố định tội sau
đây:
Thứ nhất: trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới hai
triệu động nhưng gây hậu quả nghiêm trọng.
Thứ hai: trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới
hai triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt.
Thứ ba: trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới

hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm
2.2.3. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo cấu thành tăng nặng
CHƢƠNG 3
12


MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TỘI
LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG NAM
3.1. Một số bất cập hạn chế ảnh hƣởng đến hiệu quả áp
dụng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở tỉnh Quảng Nam
3.1.1. Một số bất cập của Bộ luật hình sự về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản:
3.1.2.1. Bộ luật hình sự hiện hành chưa hình sự hóa trách
nhiệm hình sự của pháp nhân (pháp nhân lừa đảo chiếm đoạt tại
sản)
3.1.2.2. Các dấu hiệu định tội, định khung của tội lừa đảo còn
thiếu tính minh bạch, gây khó khăn cho quá trình thực thi pháp luật
3.1.2.3. Các quy định của BLHS về thu hồi tài sản bị chiếm
đoạt chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra
3.1.2. Những bất cập xuất phát từ hoạt động của các cơ
quan bảo vệ pháp luật
Trong quá trình tiến hành tố tụng, chủ thể tiến hành tố tụng đã
có lúc thiếu trách nhiệm, chủ quan, sai lầm trong việc điều tra, truy
tố, xét xử.
Nguyên nhân do trình độ, năng lực nhận thức của cán bộ các
cơ quan tư pháp về pháp luật, nhất là những tội phạm có mặt khách

quan tương đối giống nhau như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc do chủ quan, duy ý chí,
lợi ích vật chất dẫn đến việc áp dụng pháp luật hình sự không đúng
quy định, chủ trương, chính sách. Có rất nhiều quan điểm khi đánh
giá về một hành vi, nảy sinh những vướng mắc trong xử lý các vụ
phạm tội giữa các cơ quan thi hành pháp luật. Việc vận dụng quy
định về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ... trong BLHS khi truy tố,
13


xét xử các vụ án còn thiếu chính xác. Đặc biệt trong quá trình xét xử
việc quyết định hình phạt không tương xứng với hành vi phạm tội,
việc áp dụng án treo còn nhiều, không đạt mục đích giáo dục, răn đe,
phòng ngừa tội phạm. Việc áp dụng BLTTHS trong quá trình điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự còn nhiều thiếu sót nhất là
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp nghiệp vụ điều
tra... Những thiếu sót này đã làm ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả điều
tra, truy tố, xét xử và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Một mặt khác, do trình độ lập pháp của ta chưa cao. Các văn
bản pháp luật khi ban hành chưa thực hiện được ngay mà còn phải
chờ hướng dẫn nên người dân và ngay cả bản thân người công tác
làm tư pháp không nắm được tinh thần, quy định của pháp luật. Các
văn bản pháp luật và văn bản hướng dẫn thường chậm, không có tính
ổn định lâu dài do không có sự dự báo chính xác tình hình tội phạm.
Thực tế yêu cầu phổ biến pháp luật rộng rãi trong nhân dân ngày
càng cao, trong khi đó công tác giáo dục pháp luật chưa thực sự được
quan tâm đúng mức. Do thiếu hiểu biết pháp luật mà người dân dễ
dẫn đến vi phạm pháp luật. Như vậy, ý thức pháp luật kém cũng là
một trong những nguyên nhân dẫn đến phạm tội.

Mặt khác đất nước bước vào công cuộc đổi mới trong điều
kiện cơ chế quản lý chưa thật đồng bộ, chính sách kinh tế - xã hội
còn nhiều sơ hở, thiếu sót. Hệ thống pháp luật của chúng ta tuy đã có
nhiều về số lượng, thay đổi về chất lượng nhưng chưa đáp ứng được
yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm của xã hội, thiếu tính ổn
định, đồng bộ. Trước ngưỡng cửa gia nhập kinh tế thế giới, chúng ta
cần phải có hệ thống pháp luật đầy đủ để điều chỉnh mọi mặt của đời
sống xã hội, phục vụ cho quản lý kinh tế và quản lý xã hội.
Hệ thống văn bản pháp quy về lĩnh vực quản lý nhà nước còn
chậm ban hành, làm cho các ngành, các cơ quan hành chính lúng
14


túng trong công tác quản lý.
Mặt khác, do kinh nghiệm lập pháp của ta còn có phần hạn
chế, năng lực dự báo và nắm bắt tình hình tiến triển của các nhà làm
luật còn yếu. Công tác thống kê của các cơ quan tư pháp không
thống nhất, các số liệu thống kê báo cáo chưa chính xác, từ đó dẫn
đến tình trạng đánh giá không đúng tình hình tội phạm, các biện pháp
phòng chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không đạt hiệu quả cao.
Bởi vậy, tuy có nhiều văn bản pháp luật được xây dựng nhưng
vẫn còn bất hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu, gây ảnh hưởng
không nhỏ tới quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành
tố tụng.
3.1.3. Những bất cập xuất phát từ việc tuyên truyền, giáo
dục pháp luật
Có thể nói công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật có ý
nghĩa rất lớn trong việc phòng chống tội phạm nói chung và tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Những hạn chế trong việc tuyên
truyền, giáo dục ý thức pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp đến việc vi

phạm pháp luật của một số người. Con người luôn có nhu cầu, nhưng
đồng thời cũng có ý thức về nhu cầu và cách thức để thỏa mãn nhu
cầu. Nên nếu những biện pháp tuyên truyền, giáo dục kém hiệu quả
dẫn đến con người có ý thức sai lệch về cách thức để thỏa mãn nhu
cầu, đây chính là nguyên nhân trực tiếp của hành vi phạm tội. Đối
với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn có thể xuất phát từ những
nguyên nhân tiềm ẩn trong con người phạm tội, đó là do sự tham
lam, ích kỷ nên chiếm đoạt tài sản của người khác. Tuy nhiên tâm lý
tiêu cực, vụ lợi, sự tham lam, tính ích kỷ, khát vọng làm giàu cũng
như sự coi thường pháp luật không phải bẩm sinh có sẵn trong con
người, vì vậy cần phải quan tâm tới vấn đề giáo dục con người trong
xã hội, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng quyền sở hữu
của người khác, nâng cao ý thức làm chủ bản thân trước những tác
15


động của ngoại cảnh.
Do vậy các biện pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc ngăn ngừa tội phạm.
Ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, kẻ phạm tội dùng thủ đoạn
gian dối, đưa ra các thông tin không đúng để người khác tin đó là sự
thật, nếu người bị lừa dối tin vào các thông tin đó sẽ giao tài sản và
người phạm tội chiếm đoạt được tài sản đó. Ngược lại nếu người bị
lừa dối không tin vào các thông tin giả đó thì kẻ phạm tội không
những không chiếm đoạt được tài sản mà còn có thể bị tố giác. Như
vậy kẻ lừa đảo có chiếm được tài sản hay không còn phụ thuộc vào
nhận thức của người bị lừa dối trước những thông tin giả. Do đó một
số nguyên nhân của tội phạm này lại xuất phát từ chính tâm lý, nhận
thức của người bị hại
Mặt khác do lòng tham, tính hám lợi của người bị hại dễ bị lóa

mắt trước các lợi ích vật chất, kẻ lừa dối chỉ cần đưa ra những lợi ích
hấp dẫn sẽ dễ dàng dụ dỗ được họ để chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra có
nhiều lý do khác nữa mà người bị hại không tố giác tội phạm như:
ngại phiền hà, mất thời gian, không tin có thể thu hồi lại được tài sản,
sợ trả thù... cũng là điều kiện để cho tội phạm này phát triển.
3.2. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự và nâng
cao hiệu quả áp dụng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam.
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
BLHS năm l999 bắt đầu có hiệu lực pháp luật vào ngày
01/7/1999, và được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Đây là cơ sở pháp lý
cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, như tác giả
đã phân tích ở trên, các quy định của Bộ luật hình sự về hành vi
phạm tội này cần phải được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng, là một loại tội có tính
truyền thống nên các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
16


sản ít thay đổi. Tuy vậy, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mặc
dù bản chất pháp lý của hành vi không thay đổi, vẫn là dùng thủ đoạn
gian dối để chiếm đoạt tài sản nhưng các hình thức và thủ đoạn đã có
sự thay đổi cần phải có sự nghiên cứu điều chỉnh lại các dấu hiệu
pháp lý để đáp ứng với tình hình tội phạm mới. Cụ thể:
3.2.1.1. Nghiên cứu quy định trách nhiệm hình sự của pháp
nhân (pháp nhân kinh tế) có hành vi lừa đảo.
Ở Việt Nam vấn đề TNHS của tổ chức, pháp nhân chưa được
quy định trong luật hình sự. Qua nghiên cứu các công trình đã được
công bố, thực tiễn tình hình kinh tế xã hội và thực trạng hệ thống
pháp luật nước ta và tham khảo pháp luật của nhiều nước cũng như

các công ước quốc tế về vấn đề này, chúng tôi thấy, trong nền kinh tế
thị trường hiện nay, với sự tham gia bình đẳng của các thành phần
kinh tế. Pháp luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh thương mại ngày
càng thông thoáng tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát
triển. Cùng với những lợi ích đó, chúng ta cũng phải đối mặt với
nhiều hiện tượng tiêu cực được coi là mặt trái của kinh tế thị trường
như các hành vi vi phạm quy định về độc quyền, cạnh tranh không
lành mạnh, buôn lậu, lừa đảo chiếm đoạt thuế, lừa đảo xuất khẩu lao
động.... gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng, thậm chí đặc biệt
nghiêm trọng cho xã hội. Những hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng đó không phải do một hoặc những cá nhân nào đó, mà
chủ yếu là do tập thế (hội đồng quản trị) các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế khác nhau thuộc mọi thành phần gây ra.
Vì vậy, rõ ràng, trong những trường hợp này, việc xử lý vi
phạm bằng pháp luật dân sự, pháp luật hành chính đối với tổ chức và
chỉ truy cứu TNHS một số cá nhân điều hành nhân danh, thay mặt và
vì lợi ích tổ chức là chưa đủ để đạt được mục đích răn đe, phòng
ngừa ngăn chặn tái phạm, vi phạm pháp luật; không công bằng trong
việc xử lý đối với các cá nhân bị truy cứu TNHS.
17


Ngoài ra, việc không truy cứu TNHS đối với pháp nhân ảnh
hưởng rất lớn đến đến hiệu quả của việc xử lý vi phạm pháp luật, đến
việc giải quyết việc bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả vật chất
cũng như tinh thần do tội phạm gây ra đối với tổ chức, cá nhân.
Cùng một hành vi nguy hiểm cho xã hội như nhau, nhưng nếu
hành vi đó do cá nhân thực hiện thì có thể bị truy cứu TNHS còn pháp
nhân thì chỉ có thể bị xử phạt hành chính, mà không phải chịu TNHS.
Đó chính là sự thiếu thống nhất, sự bất bình đẳng trong pháp luật nước

ta nói chung, trong pháp luật hình sự nói riêng. Ngoài ra, hiện nay, quá
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong đó có hội nhập về pháp
luật, tư pháp đang diễn ra mạnh mẽ dẫn đến đòi hỏi sự tương thích
giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước. Trong khi pháp luật
của rất nhiều quốc gia trên thế giới quy định và áp dụng trách nhiệm
hình sự đối với tổ chức, pháp nhân phạm tội thì Việt Nam cũng cần
tiếp thu và vận dụng một cách phù hợp vấn đề này.
Những phân tích trên, cùng với xu thế quy định TNHS của tổ
chức, pháp nhân ngày càng phổ biến trên thế giới cho thấy quy định
TNHS của tổ chức, pháp nhân là một nhu cầu cấp thiết, không thể trì
hoãn trong BLHS năm 2015 ở thời gian đến, nhằm đáp ứng các mục
đích sau đây của thực tiễn lập pháp cũng như áp dụng pháp luật:
- Ngăn ngừa vi phạm pháp luật nghiêm trọng ngày càng phổ
biến của tổ chức, pháp nhân;
- Đảm bảo xử lý hiệu quả, công bằng, bình đẳng đối với công
dân, tổ chức trước pháp luật;
- Đảm bảo tính hệ thống trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
3.2.1.2. Sửa đổi, bổ sung quy định tịch thu tài sản nhằm thu
hồi triệt để tài sản do lừa đảo (do phạm tội) mà có
Theo chúng tôi, nếu không thay đổi quan niệm về các biện
pháp tịch thu, thu hồi tài sản do phạm tội mà có thì các vụ lừa đảo có
giá trị đặc biệt lớn vẫn xảy ra. Do đó, điều cần làm là phải thay đổi tư
18


duy về các biện pháp thu hồi tài sản trong BLHS. Đó có thể: (1) Là
việc cho phép các cơ quan tố tụng xem xét tịch thu tài sản đối với
người thân của các đối tượng này: khi mà người thân không thể
chứng minh tài sản đó lấy từ đâu ra, nếu người thân tự giác nộp lại
tài sản thì có thể xem xét đến trách nhiệm hình sự của người phạm

tội; (2) Cân nhắc đến việc cho phép quy đổi hình phạt tiền thành hình
phạt tù theo tỷ lệ thích hợp để buộc người bị áp dụng hình phạt tiền
phải thực thi việc nộp phạt; (3) Quy định chế định về giảm nhẹ hình
phạt: trong khoảng thời gian nhất định mà người bị kết án khắc phục
ít nhất 80% giá trị tài sản đã chiếm đoạt.
3.2.1.3. Phân biệt rõ hơn trong Bộ luật hình sự giữa hành vi
lừa đảo chiếm đoạt tài sản và hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản
Là một điều tra viên trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, tác giả thấy
rằng có không ít trường hợp đã không thống nhất giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Như đã
phân tích ở trên thì để phân biệt hai tội này thì chỉ có thể dựa vào mặt
khách quan của tội phạm, phải xác định được mục đích chiếm đoạt
tài sản có trước hay sau khi giao kết hợp đồng. Do đó, cần xác định
cụ thể hơn trong BLHS dấu hiệu này để các cơ quan tố tụng xử lý
một cách thống nhất.
Do đó việc nghiên cứu, phân tích đánh giá một cách toàn diện
và chi tiết các yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo
Điều 139 BLHS năm 1999 tạo cơ sở quan trọng trong việc áp dụng
pháp luật xử lý đúng người, đúng tội và đưa ra chế tài xác đáng. Đây
cũng là căn cứ để phân biệt giữa các hành vi phạm tội có những dấu
hiệu giống nhau trong quá trình xét xử nhằm không ngừng nâng cao
hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản.
3.2.1.4. Cần có sự giải thích trong các văn bản pháp luật ranh
19


giới giữa tội lừa đảo với các tội phạm khác mà người phạm tội sử
dụng thủ đoạn gian dối để phạm tội

Như đã phân tích ở trên, dấu hiệu đặc trưng nổi bật của tội
phạm này là bằng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Song
trong thực tế, nhận thức thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản
không phải trường hợp nào cũng rõ ràng và thống nhất. Vì trong thực
tiễn xét xử còn nhiều trường hợp cũng có hành vi là thủ đoạn gian
dối, cũng có hành vi chiếm đoạt, nhưng những hành vi này đã được
BLHS quy định thành tội phạm độc lập thì cũng không bị truy cứu về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị truy cứu về tội phạm tương ứng
như hành vi gian dối trong cân, đo, đong, đếm, tính gian, đánh tráo
loại hàng…để gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi lừa dối khách
hàng quy định tại Điều 162 BLHS; hành vi làm hàng giả, buôn bán
hàng giả để đánh lừa người tiêu dùng là hành vi phạm tôi làm hàng
giả, buôn bán hàng giả quy định tại các điều 156, 157 và 158 BLHS;
Vì vậy cần phải có sự giải thích trong các văn bản pháp luật để thuận
tiện trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
3.2.1.5 Hoàn thiện các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo trong
điều kiện hội nhập quốc tế và trong thời kỳ bùng nổ kỹ thuật số
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành xu
hướng chủ đạo và trong thời kỳ bùng nổ kỹ thuật số, tính chất pháp
lý truyền thống của tội lừa đảo (lừa dối) để chiếm đoạt trực tiếp tài
sản đã có sự thay đổi. Thực tiễn đã phát sinh các hình thức như:
- Lừa đảo qua mạng internet như
- Lừa đảo trong hoạt động tín dụng, ngân hang
- Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hình thức làm hồ sơ
khống chiếm tiền hoàn thuế giá trị gia tăng.

20


3.2.2. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động

nghiệp vụ của các cơ quan tố tụng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
về xử lý tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
3.2.2.1. Nâng cao hiệu quả các biện pháp phòng ngừa nghiệp
vụ để chủ động phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, vấn đề
quan trọng là phải nắm chắc tình hình các loại người có khả năng và
điều kiện phạm tội, mà bọn tội phạm có thể hoạt động. Phải xác định
những người cần thiết phải đưa vào diện quản lý, như những người
đang có những biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, để từ đó tiến hành các biện pháp trinh sát. Cộng đồng
quan tâm quản lý giáo dục người phạm tội sẽ có tác dụng tích cực
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm.
Cần phải tập trung thực hiện tốt quy định về quản lý đối tượng
hình sự tại cộng đồng dân cư.
Áp dụng tốt thành quả khoa học kỹ thuật trong công tác phòng
ngừa, đấu tranh đối với tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cơ quan
Công an cần nâng cao chất lượng tiếp nhận thông tin từ đường dây
nóng để mọi người dân có thể cung cấp thông tin khi có tội phạm xảy
ra. Đồng thời phải có nhiều hình thức mới để thu nhận thông tin của
nhân dân. Nghiên cứu triển khai trung tâm tiếp nhận xử lý tin có thể
kết nối rộng và xử lý nhanh khi có tội phạm xảy ra.
Công tác thống kê tại cả ba cơ quan: Công an, Tòa án và Viện
kiểm sát cần được chấn chỉnh, chú trọng. Thời điểm làm thống kê
phải giống nhau. Các tiêu chí, nội dung thống kê cần giống nhau để
dễ đối chiếu, kiểm tra. Ngoài công tác thống kê, cả ba ngành cần
quan tâm đến việc dự báo tình hình tội phạm trong thời gian sắp tới
một cách chính xác. Tránh tình trạng lặp lại các báo cáo thống kê cũ,
số liệu không thống nhất.
3.2.2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ
pháp luật Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ
21



pháp luật trước hết phải nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ của
các cơ quan tư pháp nhằm phát hiện tội phạm nhanh chóng, xử lý kịp
thời, đúng pháp luật. cần phải thực hiện rà soát đội ngũ cán bộ để lên
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng thích hợp. nếu phát hiện có
trường hợp lạm quyền, gây phiền hà, sách nhiễu cho dân thì cần xử
lý nghiêm minh, không khoan nhượng với các biểu hiện tiêu cực,
quan liêu, vô trách nhiệm. Ngoài ra cần tổ chức tập huấn, học những
chuyên đề về chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức pháp lý
cho cán bộ tư pháp. Cùng với các biện pháp trên cần tăng cường hoạt
động của các cơ quan tư pháp, phải đảm bảo điều kiện vật chất cần
thiết nhất định cho các cơ quan tư pháp, đồng thời phải quan tâm tới
đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, nhân viên tư pháp.
Phải hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp
luật ở từng cấp, bảo đảm sự hoạt động đồng bộ, kịp thời trong kiểm
tra, kiểm soát, điều tra, truy tố và xét xử tội phạm. Cụ thể như sau:
- Nâng cao vai trò của Công an
Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ cho
lực lượng điều tra các cấp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là tội phạm
công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia. Cán bộ công an phải không
ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức, có thái độ đúng mực và thực sự
có trách nhiệm, không gây phiền hà cho nhân dân khi tiếp nhận tin
báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
- Nâng cao vai trò của Viện kiểm sát
Ngành Kiểm sát cần phải phối hợp với Cơ quan điều tra các
cấp ngay từ khâu tiếp nhận tin báo tố giác về tội phạm và kiến nghị
khởi tố, lập hòm thư tiếp nhận, cung cấp thông tin nhận được kịp thời
cho cơ quan điều tra và phối hợp với cơ quan điều tra trong việc điều

tra các vụ án chưa rõ thủ phạm ngay từ khâu đầu như khám nghiệm
hiện trường, tìm hiểu lời khai các nhân chứng, người bị hại…đề ra
22


các phương hướng điều tra, mục tiêu cần xác minh làm rõ để nâng
cao kết quả điều tra đối với các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Nâng cao vai trò của Tòa án
Tòa án cần phối hợp chặt chẽ với Công an, Viện kiểm sát làm
tốt công tác thi hành án phạt tù. Đảm bảo mọi bản án có hiệu lực
pháp luật đều được thi hành kịp thời, hạn chế thấp nhất số bị án còn
ngoài xã hội. Quá trình xem xét cho hoãn thi hành án, tạm đình chỉ
thi hành án và xét giảm án, đặc xá phải chặt chẽ, chính xác, không để
tình trạng tiêu cực xảy ra. Qua đó, phán quyết của Tòa án nhân danh
Nhà nước mới có giá trị thực tế, góp phần răn đe, phòng chống tội
phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu khái quát lịch sử lập pháp hình sự về tội lừa
đảo cũng như phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo trong
BLHS hiện hành, phân tích thực trạng định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, luận văn đã làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn để từ đó tìm ra một số giải
pháp nhằm hoàn thiện các quy định của BLHS về tội lừa đảo và một
số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS Việt
Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn nghiên cứu. Từ đó
đi tới một số kết luận sau:
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có
xu hướng gia tăng và diễn ra phức tạp. Tuy chiếm tỷ lệ không lớn
trong tổng số tội phạm nhưng nó gây ra hậu quả đáng kể cho xã hội.
Tội phạm hoạt động với thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin

sai sự thật, có thể bằng lời nói, bài viết, hành động khiến cho người
có tài sản hoặc người có trách nhiệm trông giữ tài sản vì tin nhầm,
tưởng giả là thật, tưởng kẻ gian là người ngay, tự nguyện giao tài sản
cho người phạm tội. Hậu quả gây ra cho xã hội ngày càng nghiêm
23


×